*************Cách làm bài nghị luận chính trị*************
-Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
-Trình bài vấn đề nghị luận.
-Niêu ví dụ thực tế.
-Rút bài học nhận thức, hành động thực tế.
Câu 1: Quan điểm của Đảng ta trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc
1/ Tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm
nòng cốt. Kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến của các binh đồn chủ
lực
- Vị trí:
Đây là quan điểm cơ bản xun suốt thể hiện tính nhân dân sâu sắc. Khẳng định, đây là cuộc chiến
tranh của nhân dân và vì nhân dân. Là điều kiện để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong cuộc
chiến tranh.
- Nội dung:
+ Trong điều kiện mới ta vẫn phải “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”, Đảng ta không chỉ dựa
vào lực lượng vũ trang mà phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn
dân đánh giặc…
+ Động viên tồn dân đánh giặc, trong đó lấy Bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa phương
làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc trên chiến trường cả nước. Đánh bằng mọi thứ vũ khí có trong tay,
bằng những cách độc đáo, sáng tạo…
+ Tiến hành chiến tranh tồn dân đó là truyền thống của ơng cha ta, dân tộc ta từ ngàn xưa. Ngày
nay, chúng ta phải kế thừa và phát huy truyền thống ấy lên một trình độ mới phù hợp với điều kiện mới,
thực hiện chiến tranh tồn dân đánh thắng cuộc tiến cơng xâm lược của địch.
- Biện pháp thực hiện:
+ Tăng cường giáo dục quốc phòng cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nói chung và sinh
viên nói riêng.
+ Không ngừng chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, đặc biệt là chất
lượng chính trị.
+ Khơng ngừng nghiên cứu nghệ thuật qn sự, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây ở trên thế
giới để phát triển nghệ thuật quân lên một tầm cao mới. Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng
thủ vững chắc
2/ Tiến hành chiến tranh toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại
giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng, lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường
là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh
- Vị trí:
Quan điểm trên có vai trị quan trọng, vừa mang tính chỉ đạo và hướng dẫn hành động cụ thể để dành
thắng lợi trong chiến tranh.
- Nội dung:
+ Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất, tinh thần của quốc gia
nhưng chiến tranh của ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ, cách mạng. Để phát huy đến mức
cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại chiến tranh tổng lực của địch trên tất cả các mặt trận: qn sự,
chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hố và tư tưởng.
+ Tất cả các mặt trận đấu tranh phải kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và tạo điều kiện cho
đấu tranh quân sự dành thắng lợi trên chiến trường và cùng với đấu tranh quân sự tạo nên sức mạnh tổng
hợp lớn giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh.
+ Truyền thống và kinh nghiệm của cuộc chiến tranh giải phóng và giữ nước trong lịch sử ông cha ta
cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng, chứng tỏ nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện, đấu
tranh với địch trên nhiều mặt nhưng chủ yếu đã đánh địch và thắng địch trên mặt trận quân sự, nhờ đó
mà nhân dân ta đã giành được thắng lợi, giành và giữ nền độc lập dân tộc. Tình hình thế giới ngày nay
diễn biến phức tạp và có những thay đổi sâu sắc, đất nước đứng trước những thuận lợi mới và những
thách thức mới địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn cùng nỗ lực phấn đấu làm thất bại âm mưu và các
mục tiêu chiến lược của địch, dành thắng lợi toàn diện cho chiến tranh.
- Biện pháp:
+ Đảng phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng, tạo thế và lực cho từng mặt trận đấu tranh tạo
nên sức mạnh, trước mắt đấu tranh làm thất bại chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của địch. Động viên
sức mạnh của toàn dân tiến hành trên các mặt trận khi kẻ thù phát động chiến tranh xâm lược
+ Phải vận dụng sáng tạo nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp trên từng mặt; đồng thời
có nghệ thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ các mặt trận đấu tranh trong từng giai đoạn cũng như quá trình
phát triển của chiến tranh. Song phải luôn quán triệt lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên
chiến trường là yếu tố quyết định để kết thúc chiến tranh
3/ Chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực để đủ sức đánh được lâu dài, ra sức
thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi càng sớm càng tốt
Chúng ta phải chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực đủ sức đánh được lâu dài, ra
sức tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, chủ động đối phó và giành thắng lợi trong thời gian cần thiết. Trên cơ
sở đó, chúng ta dồn sức để rút ngắn thời gian của chiến tranh, giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Ta kiên
quyết ngăn chặn địch không cho chúng mở rộng để thu hẹp không gian của chiến tranh. Kiên quyết
không cho địch thực hiện được mục đích của chúng là “đánh nhanh, giải quyết nhanh” theo học thuyết
“không - bộ - biển”. Mặt khác cũng phải chuẩn bị sẵn sàng để thắng địch trong điều kiện chiến tranh mở
rộng.
4/ Kết hợp kháng chiến với xây dựng, vừa kháng chiến vừa xây dựng, ra sức sản xuất thực hành
tiết kiệm giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta càng đánh càng mạnh
Đây là một kinh nghiệm đồng thời là truyền thống chống giặc ngoại xâm trước kia cũng như cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Trong chiến tranh ta phải vừa kháng chiến, vừa duy trì và đẩy
mạnh sản xuất bảo đảm nhu cầu vật chất, kĩ thuật cho chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Ta phải
thực hành tiết kiệm trong xây dựng và trong chiến tranh, lấy của địch đánh địch, giữ gìn và bồi dưỡng
lực lượng ta, không ngừng tăng thêm tiềm lực của chiến tranh, càng đánh càng mạnh.
5/ Kết hợp đấu tranh quân sự với bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội, trấn
áp kịp thời mọi âm mưu và hành động phá hoại gây bạo loạn
Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước
ta. Nếu chiến tranh xảy ra, địch sẽ tăng cường đánh phá ta bằng nhiều biện pháp. Vì vậy, đi đôi với đấu
tranh quân sự trên chiến trường, ta phải kịp thời trấn áp mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch ở
hậu phương, bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phương,
giữ vững sự chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng
6/ Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tranh
thủ sự giúp đỡ quốc tế, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới
- Cuộc chiến tranh xâm lược của địch là tàn bạo và vô nhân đạo, sẽ bị nhân dân tiến bộ trên thế giới
phản đối.
- Đoàn kết mở rộng quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân u chuộng hồ bình trên thế giới, kể
cả nhân dân nước có quân xâm lược
Tài liệu tham khảo
Nắm vững quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong tình hình mới
“...Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố khó lường. Đối với nước
ta, sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được những thành
tựu quan trọng: chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được giữ vững; nội lực, tiềm năng của đất nước lớn và cịn
có thể phát huy mạnh hơn; uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN tiếp tục được củng cố, tăng cường. Đó là những thuận lợi rất cơ bản, tạo cơ sở vững
chắc để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, nước ta cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách
thức khơng nhỏ, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm 2007 đem lại; đồng thời, cũng phải thường
xuyên đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hịa bình” rất nguy hiểm, thâm độc của các thế
lực thù địch, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và cơng cuộc đổi mới theo định
hướng XHCN.
Tình hình trên đặt ra những u cầu mới, địi hỏi phải tiếp tục quán triệt và nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm
chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội X, Nghị
quyết Trung ương 8 (Khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; để trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc đạt hiệu quả thiết thực.
Theo tư duy mới của Đảng ta, mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH
đất nước và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính
trị và mơi trường hịa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta về bảo vệ
Tổ quốc là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH, lấy việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ và tự bảo vệ trong mọi hoạt
động, mọi lúc mọi nơi, trong đó tự bảo vệ là phương thức hữu hiệu nhất để bảo vệ Tổ quốc.
Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh
tổng hợp của khối đại đồn kết tồn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó, sức mạnh trong nước với sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế,
đối ngoại và các lĩnh vực khác là nhân tố quyết định. Đó cịn là sức mạnh của nền QPTD và nền an ninh nhân dân không
ngừng được củng cố, tăng cường ngay từ trong thời bình, bảo đảm đủ sức ngăn ngừa chiến tranh, giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược có sử
dụng vũ khí cơng nghệ cao của địch.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới địi hỏi phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh
tồn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; trong đó, phải xây dựng QĐND cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc...”.
Đại hội XI của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
TCCS - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)
đã phân tích, dự báo bối cảnh quốc tế và chỉ rõ: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có
những biến đổi to lớn và sâu sắc. Cương lĩnh cũng nhấn mạnh: Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời
đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh
tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Điều đó ảnh hướng lớn đến việc bảo vệ quốc phòng an ninh của nước
ta...
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã tiếp tục phân tích
dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới, trong đó nhấn mạnh “Trên thế giới: Hịa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng,
xung đột tơn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt;
các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn
thơng, sinh học, mơi trường... cịn tiếp tục gia tăng”(1); “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam
Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo
ngày càng gay gắt”(2); “Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đất
nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước… Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn,
đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào”(3).
Báo cáo chính trị không chỉ khẳng định sự tồn tại đan xen giữa nguy cơ và thách thức, có cái là nguy cơ, nhưng có cái lại là
thách thức, đang hiện hữu, đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên đất nước ta, mà còn chỉ rõ hơn mức độ của những nguy
cơ, thách thức đang đặt ra đối với nước ta, trong đó nhấn mạnh: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm
mưu “diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính
trị
ở
nước
ta”(4).
Nghiên cứu các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cho thấy, tư duy mới về xây dựng và củng cố nền
quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay được Đảng ta tiếp tục phát triển và được thể hiện trên
một
số
nội
dung
cụ
thể
sau
đây:
Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trước hết ở quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa hai mặt tự nhiên
- lịch sử và chính trị - xã hội trong bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững hịa bình, ổn định chính trị,
bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá
của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta... Báo cáo chính trị cịn nhấn mạnh đến việc giữ vững
chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời... sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính tồn
cầu...
Vì vậy, chúng ta phải hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, khơn khéo, khơng bị kích động, bị xúi giục gây xung đột vũ trang, chiến
tranh; giải quyết mọi vấn đề bằng những biện pháp hịa bình, trên cơ sở những ngun tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và
nguyên tắc ứng xử của khu vực là yêu cầu cao trong xử lý các mối quan hệ quốc tế và khu vực hiện nay.
Vấn đề hội nhập quốc tế trong các Văn kiện Đại hội XI của Đảng cho thấy, lần này chúng ta không chỉ đề cập đến hội nhập
kinh tế quốc tế, mà còn đề cập đến vấn đề chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, khơng chỉ về kinh tế, mà còn các vấn đề
về giáo dục đào tạo, khoa học, công nghệ và cả việc “Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phịng,
an
ninh”(5).
Với việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta sẽ có điều kiện tranh thủ những mặt thuận lợi của quá trình hội
nhập quốc tế để tiến hành xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Và xét về góc độ quốc phịng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc thì quá trình hội nhập
cũng đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức mới. Trong môi trường thông tin rộng lớn, với sự phát triển như vũ
bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao, nhất là mạng in-tơ-nét, đã xuất
hiện khái niệm “biên giới mềm”, “biên giới thơng tin”. Theo đó, quan niệm về “an ninh tồn diện” và vấn đề “bảo vệ an ninh
chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội” phải được đặt ra. Vấn đề kiểm soát, phát hiện, ngăn
chặn những cuộc xâm nhập, “tấn cơng mềm” từ bên ngồi bằng các thủ đoạn thơng tin trên các mặt kinh tế, chính trị, tư
tưởng,
văn
hóa
được
đặt
ra
một
cách
gay
gắt
hơn.
Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc khơng chỉ thể hiện ở việc giữ cho “trong ấm”, thông qua việc chăm lo phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật
tự,
an
tồn
xã
hội;
mà
cịn
phải
giữ
cho
“ngồi
êm”.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định vấn đề tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh, tiếp tục phát triển quan điểm của Đại hội X của Đảng, Đại hội XI khẳng định
phải xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Điều đó chứng tỏ, hơn lúc nào hết,
trong cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay, vấn đề lịng dân có vai trị cực kỳ quan trọng. Xây dựng thế trận lòng
dân là yêu cầu bức thiết, là nội dung cơ bản của việc xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới. Đây là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, là việc nâng lên một
tầm cao mới truyền thống, kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, được Đảng ta thể hiện trong tư duy mới về
sức
mạnh
và
lực
lượng
bảo
vệ
Tổ
quốc
trong
giai
đoạn
mới.
Kiên trì quan điểm xây dựng nền quốc phịng tồn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân trong mối quan hệ với sự ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011) tiếp tục khẳng định quan điểm hết sức cơ bản là: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh
tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đơi với tăng cường sức mạnh quốc
phịng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”(6).
Tư duy mới của Đảng ta về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh phải được thể hiện trong từng chiến lược, kế
hoạch, chính sách phát triển, coi sự ổn định và phát triển về mọi mặt của đất nước là nền tảng để tăng cường sức mạnh
quốc phịng - an ninh. Theo đó, tiềm lực và thế trận của nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân sẽ được dựa trên
một cơ sở hết sức vững chắc - sức mạnh tổng hợp của đất nước, cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, cả sức
mạnh tiềm tàng với sức mạnh hiện hữu, sức mạnh của cả truyền thống, hiện tại và tương lai. Đó là sự bảo đảm cho nền
quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố và phát triển vững chắc.
Tư duy mới của Đảng ta về xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trong giai đoạn hiện nay còn thể hiện ở
việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi
ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí cơng nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển, đảo,
vùng trời, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm cơng nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia...
Trong điều kiện mới, để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa với nội dung đã có sự phát triển
mới, rộng lớn hơn, tồn diện hơn thì việc bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng - an ninh địi hỏi một hệ thống kiến thức tồn
diện hơn. Phải trang bị cho mọi người cả kiến thức về quốc phòng và kiến thức về an ninh; sự hiểu biết về hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch cả bằng phương thức vũ trang, cả bằng phương thức phi vũ trang, nhất là phòng, chống âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ bình” và cả q trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong; cả an ninh truyền thống và
an ninh phi truyền thống. Kiến thức về quốc phòng - an ninh phải trở thành kiến thức thường trực trong mỗi tổ chức, mỗi con
người hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, Báo cáo chính trị đã nhấn mạnh: “Trong nội bộ,
những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”(7).
Để đấu tranh phịng, chống q trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong đòi hỏi một trong những biện pháp rất cơ
bản là phải nâng cao khả năng tự bảo vệ. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, khơng chỉ
hồn tồn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về “một cuộc cách mạng chỉ thực sự có giá trị khi nó biết tự
bảo vệ”, mà cịn rất phù hợp với thực tiễn của cuộc cách mạng ở nước ta hiện nay, khi mà chúng ta vừa phải sẵn sàng
chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí cơng
nghệ cao của kẻ thù nếu chúng liều lĩnh phát động chống nước ta, vừa đang phải hằng ngày, hằng giờ đấu tranh phòng,
chống “diễn biến hịa bình” và q trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong do tác động của “diễn biến hịa bình” và
sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, cộng với những “ung nhọt” nảy sinh trong quá trình xây dựng đất nước
trong
thời
kỳ
quá
độ
lên
chủ
nghĩa
xã
hội.
Chỉ có nâng cao khả năng tự bảo vệ của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, của mỗi người, tăng cường sức đề kháng, khả năng
“tự miễn dịch” trước tác động của chiến lược “diễn biến hịa bình”, của q trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong
và sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế mới hy vọng đem lại cho chúng ta một sức mạnh
mới, sức mạnh bên trong để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội
chủ
nghĩa.
Để thực sự là lực lượng nòng cốt trong tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), tiếp tục khẳng định
phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn mới, trong đó nhấn mạnh: Xây dựng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng,
Nhà
nước
và
nhân
dân,
được
nhân
dân
tin
yêu.
Phải xây dựng Quân đội nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao. Đây là yêu cầu mới đòi hỏi phải
giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng với chất lượng trong nâng cao sức chiến đấu của Quân đội phù hợp với tình hình
mới. Xây dựng lực lượng Cơng an nhân dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các
cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Theo đó, phải chăm lo nâng cao phẩm chất cách
mạng, trình độ chính trị, chun mơn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh
thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Đồng thời, phải đẩy
mạnh phát triển cơng nghiệp quốc phịng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ
trang từng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải qn, phịng khơng, khơng qn, lực lượng an ninh,
tình
báo,
cảnh
sát
cơ
động.
Để bảo đảm cho lực lượng vũ trang luôn luôn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Đảng,
Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống, phải thường xuyên
bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh. Phải hồn thiện các chiến lược quốc phịng, an ninh và hệ thống cơ
chế, chính sách về quốc phịng, an ninh trong điều kiện mới; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các
quy
chế
phối
hợp
qn
đội,
cơng
an
và
các
tổ
chức
chính
trị
xã
hội.
Trong những điều kiện đó, địi hỏi chúng ta phải tiếp tục vận dụng những thành quả tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc, về xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân trong 25 năm đổi mới, đồng thời tiếp tục nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung đã được bổ sung,
phát triển mới trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng và từng bước cụ thể hóa cho phù hợp với tình hình thực tiễn./.
Chiến tranh nhân dân trong thời đại mới
Như chúng ta đã biết, đất nước Việt Nam ta có tổng diện tích là 330 990km2 và một vùng biển rộng
hơn 1 triệu km2. Đất nước ta hình dạng trài dài theo chiều bắc nam và hẹp theo chiều đông tây, nước ta
nằm ở cửa ngõ của khu vực ĐNA nối liền giữa ĐNA hải đảo với lục địa ĐBA và ở phía Đơng của nước
ta là vùng biển Đơng rộng lớn kiểm sốt các tuyến đường hàng hải quan trọng nối liền Ấn Độ Dương
với Thái Bình Dương. Thêm vào đó nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng về
chủng loại và chữ lượng cả ở trên đất liền và trong lịng biển.
Chính vì nước ta có vị chí địa chiến lược quan trọng và nguồn tài nguyên phong phú, nên trải tư khi
lập quốc tới nay nước ta luôn năm trong tầm ngắm của các thế lực ngoại bang và các tập đồn lợi ích
tồn cầu, hơn nữa trong bối cảnh nước ta đang hội nhập sâu vào với cộng đồng quốc tế vai trị và uy tín
chính trị trong ASEAN của nước ta ngày càng cao, thì sự nhịm ngó của các thế lực thù đích càng trơ
thành nguy cơ cao đe dọa nền hịa bình và an ninh quốc gia của nước ta. Xét ở khía cạnh nào đó ngày
nay tại khu vực ĐNA, các cường quốc thế giới luôn xác định nước nào nắm được NC trong tay là có
được cả ĐNA.
Trong 24 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta đã tiến hành công cuộc cải cách và mở cửa
nền kinh tế, và đã thu được những thắng lợi nhất định về kinh tế xã hội. Tuy nhiên các thế lực chống
cộng và các phần tử bất mãn xã hội chưa bao giờ từ bỏ âm mưu gây bất ổn chính trị tiến tới lật đổ chế
độ XHCN ở nước ta. Từ tất cả các yếu tố nguy cơ đó dẫn đến việc nước ta phải luôn luôn cảnh giác sẵn
sàng cho các tình huống xấu nhất có thể sẩy ra đối với đất nước ta.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong tất cả các cuộc chiến
tranh chống xâm lược của các thế lực ngoại bang thì đất nước ta ln ở vào thế yếu hơn địch vê tiềm
lực kinh tế chính trị khoa học kỹ thuật và trang thiết bị vũ khí. Trong bố cảnh nước ta hiện nay và trong
tương lai gần nếu lại sây ra chiến tranh chống xâm lược thì như truyền thống nước ta vẫn ở thế yếu hơn
quân địch về mọi mặt vậy làm thế nào để dành được chiến thắng? không lẽ quân địch tấn cơng thì ta
đầu hàng cầu hỏi này khó nhưng khơng phải là khơng có câu trả lời. Mở rộng vấn đề ra 1 chút ở hầu
hết các nước trên thế giới việc chống lại kẻ thù xâm lược là của quân đội, vị vậy trong các cuộc chiến
tranh xâm lược sẩy ra trong thơi gian gần đây như cuộc tấn công của Nato vào Nam Tư năm 1999 hay
cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Irac năm 2003, đều là các cuộc chiến tranh mà bên tấn công ở thế
mạnh hơn và có xử dụng các loại vũ khí cơng nghễ cao tấn cơng chính xác cao và hâu qua thì như
chúng ta đã biết bên bị tấn công đều thất bại. Trong số hàng loạt nguyên nhân thất bại của Nam Tư và
Irac, thì có 1 ngun nhân cơ bản dẫn đến thất bại đó là sứ mệnh bảo vệ sự độc lập được giao phó
hồn tồn cho qn đội, khơng có được sự phối hợp của các lưc lượng khác và cuộc chiến tranh xẩy ra
thuần túy trên mặt trận qn sự mà khơng có các mặt trân khác như ngoại giao, kinh tế phối hợp. Nói
tóm lại là ở Nam Tư và Irac đã khơng có 1 cuộc chiến tranh nhân dân chống lại kẻ thù xâm lược.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay và trong tương lại gân, nếu 1 cuộc chiến tranh chống xâm lược nổ
ra thì nhiệm vũ chống lại kẻ thù xâm lược sẽ là của tồn dân mà nịng cốt là Qn Đội nhân dân. Hay
nói một cách khác thì đó là 1 cuộc chiến tranh nhân dân bao vệ tổ quốc, vậy chiến tranh nhân dân là gì?
Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh chống lại kẻ thù xâm lược được tiến hành bởi toàn bộ nhân
dân, trong đó các lưc lượng vũ trang nhân dân la nịng cốt có sự phố hợp của tồn dân. Chiến tranh
nhân dân được tiến hành trên toàn bộ lãnh thổ nước ta và trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội
khoa học kỹ thuật nhăm đảm bảo cho thăng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh là nhân dân ta được
sống trong tự do hịa bình và giữ được sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Câu 2: Những giải pháp phòng chống chiến lược “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ ở
Việt Nam hiện nay.
2.4.1 Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
Giữ vững sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày càng vững mạnh về mọi mặt.
Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trên các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế là giải pháp hữu hiệu để giữ vững và thúc
đẩy yếu tố bên trong của đất nước luôn ổn định.
2.4.2 Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nắm chắc mọi
diễn biến không để bị động, bất ngờ.
Giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội để mọi người dân Việt Nam, mọi tổ chức chính trị, xã hội
đều nhận thức sâu sắc âm mưu thủ đoạn trong chiến lược “DBHB” của kẻ thù chống phá cách
mạng Việt Nam.
Đấu tranh phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác cách mạng trong nội bộ nhân dân,
sinh viên trước âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược “DBHB” của kẻ thù chống phá
nước ta hiện nay.
Mỗi người dân Việt Nam phải có tri thức, có bản lĩnh chính trị, có phương pháp xem xét, phát
hiện và báo cáo kịp thời thủ đoạn chống phá của kẻ thù cho cơ quan có chức năng xử lí, khơng
để bất ngờ.
2.4.3 Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc cho toàn dân.
- Đối với nước ta, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng,
tồn dân và tồn qn.
Phải ln nêu cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội và các thành quả cách mạng do chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mĩ và các thế lực
thù địch tấn công quyết liệt vào độc lập chủ quyền của các quốc gia, dân tộc đặc biệt là các
nước xã hội chủ nghĩa trong đó có nước ta.
Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc phải mang tính tồn diện nhưng tập trung vào:
+ Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù chống phá nước ta
+ Giáo dục quan điểm điểm, đường lối của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.
+ Giáo dục tinh thần xả thân vì Tổ quốc, quyết tử để Tổ quốc quyết sinh
+ Hình thức giáo dục phải đa dạng, phù hợp với tùy từng đối tượng
2.4.4 Xây dựng cơ sở chính trị, xã hội vững mạnh về mọi mặt
Xây dựng cơ sở chính trị- xã hội vững mạnh sẽ bảo đảm cho chế độ xã hội luôn ổn định, phát
triển. Do vậy, phải luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh, theo
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay là đồn kết các dân tộc, tơn giáo, giai cấp,
tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng, mọi miền đất
nước, đoàn kết trong Đảng và ngồi Đảng, người đang cơng tác và người đã nghỉ hưu, người
trong nước và người đang sinh sống ở nước ngoài
Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng viên, năng lực
lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp, nhất là cơ sở.
Duy trì nghiêm kỷ luật của Đảng ở các cấp, xử lí kịp thời những đảng viên, tổ chức Đảng có
khuyết điểm, khen thưởng kịp thời những đảng viên, tổ chức Đảng và quần chúng thực hiện tốt
đường lối, chủ trương Điều lệ Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước
2.4.5 Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương vững mạnh
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên phải rộng khắp ở tất cả các làng bản, xã
phường, thị trấn, các cơ quan, tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bảo đảm triển khai thế trận phòng thủ ở các địa phương, cơ sở.
Phải chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng nhưng lấy chất
lượng là chính.
2.4.6 Xây dựng, luyện tập các phương án, các tình huống chống “DBHB”, bạo loạn lật đổ
của địch.
Mỗi thủ đoạn, hình thức, biện pháp mà kẻ thù sử dụng trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật
đổ cần có phương thức xử lí cụ thể, hiệu quả.
Khi mỗi tình huống bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và của cả
hệ thống chính trị, xử lí theo nguyên tắc nhanh gọn – kiên quyết – linh hoạt – đúng đối tượng –
không để lan rộng, kéo dài.
Xây dựng đầy đủ, luyện tập các phương án sát với diễn biến từng địa phương, từng đơn vị,
từng cấp, từng ngành
Hoạt động xử lí bạo loạn lật đổ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính
quyền, các ngành tham mưu, quân đội và công an.
2.4.7 Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chăm lo nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động.
- Đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là
để tạo ra cơ sở vật chất, phát triển lực lượng sản xuất và từng bước hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, đồng thời là điều kiện để tăng năng suất lao động của xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động để tạo nên sức mạnh của thế trận
“lòng dân”.
* Tóm lại:
- Những biện pháp trên đây có mối quan hệ chặt chẽ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất
nhằm đấu tranh ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ
của kẻ thù sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay. Do đó, trong q trình tổ
chức thực hiện nhiệm vụ này khơng nên coi nhẹ hoặc tuyệt đối hố một giải pháp nào
- Đối với sinh viên - thế hệ tương lai của đất nước:
Phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, cống hiến cho đất nước
Phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng
Phát hiện, góp phần đấu tranh, ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong
chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ
Tài liệu tham khảo
Phịng chống “diễn biến hồ bình” trong sinh viên – nhận thức và giải pháp
08:56 | 25/03/2005
Sinh viên là lực lượng trẻ, tiên phong, đang phát triển mạnh mẽ về thể chất và tinh thần, giàu ước mơ
hoài bão, có mong muốn vươn lên nắm băt các tri thức nhân loại để trong thời gian dài tự hoàn
thiện mình về mọi mặt.
Họ xuất thân từ các giai tầng khác nhau của mọi miền đất nước, với mức thu nhập của gia đình rất khác
nhau, tập trung về các trung tãm kinh tế, các thành phố và thị xã để sống và học tập. Tuy nhiên, họ
lại vừa mới tốt nghiệp phổ thông, vừa ra khỏi sự quản lý, kèm cặp chặt chẽ của thầy cô giáo ở nhà
trường và bố mẹ, về sống chung trong ký túc xá hoặc trọ học trong các gia đình xung quanh các
trường đại học và cao đẳng. Nghĩa là, họ vừa mới có cuộc sống tự lập, tự quản và tập thể. Họ rất
nhanh nhạy trong việc tiếp thu các thông tin mới trong khoa học, cũng như những luồng tư tưởng
mới trong xã hội, song khả năng phân tích và chọn lọc lại chưa cao.
Về chính trị, sinh viên cịn ít được bồi dưỡng; do đó phần lớn họ ít hay nhiều cịn mơ hồ về chính trị,
lập trường tư tưởng còn chưa vững vàng, nên dễ dao động, dễ bị lơi kéo.
Về văn hố, sinh viên cịn đang trong giai đoạn tìm kiếm tri thức để tự khẳng định mình, nếu khơng có
sự định hướng họ dễ bị lệch lạc.
Về khoa học, hàng ngày sinh viên được tiếp thu tinh hoa nhân loại trên nhiều lĩnh vực: khối kiến thức
khoa học đại cương, kiến thức chuyên sâu (khối kiến thức nghề nghiệp) trong trường đại học, cao
đẳng và trên các hệ thống truyền thơng, trên Internet... Ngồi ra, nhiều sinh viên cịn học thêm
ngoại ngữ, vi tính, đi làm gia sư...
Về tổ chức, trong trường đại học sinh viên chịu sự quản lý của lớp, của khoa và của nhà trường (trực
tiếp là phịng cơng tác sinh viên). Ngồi ra, sinh viên còn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức
đảng, tổ chức Đồn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên.
Sinh viên là lực lượng tiêu biểu của tuổi trẻ, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật quan trọng trong
tương lai của đất nước. Họ sẽ đóng góp sức lực, trí tuệ và tài năng của mình cho sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Sinh viên là đối tượng trong các trung tâm giao lưu của xã hội, của các trường đại học, cao đẳng trong
và ngoài nước được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin mới, thông qua các hệ thống truyền thông;
đây là điều kiện thuận lợi cho sinh viên học tập, nghiên cứu khoa học và hội nhập quốc tế.
Với đặc điểm và vai trò của sinh viên như đã nêu trên, sinh viên là đối tượng mà các thế lực thù địch
thực hiện ''diễn biến hồ bình'' (“DBHB”), nhằm mục tiêu chống phá cách mạng trong hiện tại và
tương lai.
Ngày nay, với âm mưu thủ đoạn “DBHB” chúng đã len lỏi vào các ký túc xá sinh viên, giảng đường,
đến các hội thảo khoa học... lôi kéo, kích động, nhằm tạo ra sự bất ổn về chính trị tư tưởng, làm cơ
sở cho những vụ gây rối trật tự an ninh trong đời sống sinh viên và trong xã hội. Nhưng với sự
nhanh nhạy và bản lĩnh vững vàng của mình, nhiều sinh viên đã phát hiện và đấu tranh trực diện
đối với việc tuyên truyền, kích động của chúng một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, khơng ít sinh viên
cịn mơ hồ về chính trị; thiếu kinh nghiệm... sẽ bị các thế lực thù địch lôi kéo và băng hoại bằng
“DBHB”.
Những âm mưu và thủ đoạn thực hiện “DBHB” trong sinh viên trong những năm vừa qua là:
- “DBHB” của địch thâm nhập vào tổ chức Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội sinh viên
nhằm phá vỡ các tổ chức này.
- Đưa các ấn phẩm văn hoá đồi trụy, phản động vào trong sinh viên.
- Lợi dụng tín ngưỡng, mê tín dị đoan trong sinh viên để thực hiện “DBHB”
- “DBHB” của địch đối với sinh viên thơng qua các chương trình học bổng.
- “DBHB” của địch cịn thơng qua các hội thảo quốc tế.
Những hoạt động nhằm thực hiện âm mưu “DBHB” đối với sinh viên trong thời gian qua trên lĩnh vực
chính trị tư tưởng là thường xuyên liên tục và bằng nhiều phương pháp tuyên truyền, xuyên tạc,
mua chuộc, lôi kéo sinh viên vào con đường lầm lạc chống Đảng, chống lại nhân dân Việt Nam.
Từ thực tiễn hoạt động chống phá về chính trị, tư tưởng đối với sinh viên của các thế lực thù địch vừa
qua; để phòng chống âm mưu “DBHB” trong sinh viên, các trường đại học, cao đẳng cần thực hiện
tốt các giải pháp sau:
Một là, nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội sinh viên trong các nhà
trường.
Tổ chức Đồn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng phải xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có trình độ chun mơn cao,
có phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, giản dị, có ý chí vươn lên trong cuộc sống cũng như
trong học tập, nghiên cứu khoa học, có uy tín và tích cực trong cơng tác Đồn, cơng tác Hội và gần
gũi với quần chúng.
Nội dung hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên phải phong phú, thiết thực, sinh
động... mục tiêu là giáo dục cho sinh viên sống và làm việc theo pháp luật, theo bản sắc văn hoá
đân tộc; làm cho sinh viên thấm nhuần quan điểm: Đảng, đất nước, dân tộc có quan hệ chặt chẽ với
chế độ XHCN; từ đó họ phải kiên định với con đướng CNXH mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vạch ra.
Bằng nhiều hình thức, thướng xuyên giáo dục chính trị tư tưởng để sinh viên tự xác định cho mình về
vị trí, vai trị và nhiệm vụ của mình.
Ban Giám hiệu các trường đại học, cao đẳng cần tạo mọi điều kiện về vật chất và tinh thần cho tổ chức
Đoàn và Hội Sinh viên của trường hoạt động.
Hai là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho sinh viên.
Hiện nay, các mơn học: Chính trị Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam là những mơn học bắt buộc trong chương trình đào tạo của bậc đại học và cao đẳng. Thời
lượng của các môn học này đã hợp lý, song điều quan trọng là phương pháp giảng dạy các mơn học
đó sao cho có hiệu quả. Theo chúng tơi, cần giảng ngắn gọn, súc tích về lý luận, tăng cường thời
lượng thảo luận, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên trao đổi để nhận thức tri thức khoa học cả về
lý luận và thực tiễn.
Giáo dục nâng cao nhân sinh quan, thế giới quan và đạo đức cộng sản: các giá trị truyền thống dân tộc,
lý tưởng, niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN cho sinh viênl đồng thời phê phán những
quan điểm, tư tưởng sai trái, lệch lạc và làm rõ âm mưu thủ đoạn “DBHB” của các thế lực thù địch
để sinh viên có biện pháp phịng ngừa.
Nếu chúng ta làm tốt công tác giáo dục cho sinh viên, thì kẻ thù dù có nham hiểm và thâm độc đến đâu
cũng thất bại trong âm mưu “DBHB” về mặt chính trị tư tưởng đối với sinh viên.
Ba là, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho sinh viên.
Chúng ta phải thừa nhận rằng, đời sống vật chất và tinh thần của sinh viên hiện nay vẫn còn nhiều thiếu
thốn; đây là kẽ hở để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “DBHB” trong sinh viên. Vì vậy,
nhiệm vụ của Ban Giám hiệu các trường đại học, cao đẳng càng nặng nề hơn trong việc chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần cho sinh viên. Những công việc cần làm ngay là:
- Cải tạo điều kiện sinh hoạt trong các ký túc xá, giảm tới mức tối thiểu việc đóng góp của sinh viên.
- Có chế độ chính sách đầy đủ hợp lý và tồn diện về học bổng, học phí, lệ phí.
- Tăng cường trang thiết bị phịng thí nghiệm: thư viện để thu hút sinh viên vào học tập và nghiên cứu
khoa học nhiều hơn nữa.
- Tăng cường cơ sở vật chất và tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao hợp lý và đúng định hướng
chính trị của Đảng và Nhà nước.
Bốn là, xây dựng lực lượng nòng cốt trong sinh viên.
Phòng chống âm mưu “DBHB” về chính trị tư tưởng đối với sinh viên có nhiều lực lượng tham gia, với
nhiều biện pháp, nhưng phải tạo điều kiện để họ tự chống âm mưu “DBHB” của các thế lực thù
địch là tốt nhất và hiệu quả cao nhất. Muốn làm được điều đó. chúng ta phải giáo dục cho mọi sinh
viên thấm nhuần tư tưởng đạo đức cách mạng, có tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê cao. Cần
xây dựng lực lượng nòng cốt trong sinh viên, họ là những sinh viên có bản lĩnh chính trị vững
vàng, năng động, tích cực, khách quan, gần gũi quần chúng, để trong bất kỳ tình huống nào ta cũng
nắm bắt được đối tượng, âm mưu và biện pháp “DBHB” của chúng, để đề ra biện pháp phòng
chống hiệu quả nhất.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với các trường đại học, cao đẳng.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của các mạng Việt Nam. Cuộc cách mạng
XHCN do Đảng lãnh đạo là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Đảng ta đã
khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, vì vậy, phòng chống “DBHB” trong giáo
dục và đào tạo cũng là nhiệm vụ cấp bách và hàng đầu. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm
tới giáo dục và đào tạo, vì nó tạo ra nguồn nhân lực cao cấp, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất
cao đáp ứng cho nhu cầu CNH, HĐH đất nước trong hiện tại và tương lai. Sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nườc là những định hướng, là cơ sở để các trường đại học, cao đẳng thực hiện
nhiệm vụ giáo dục-đào tạo đội ngũ cán bộ tương lai của đất nước có trình độ khoa học, nhanh
chóng khắc phục nguy cơ tụt hậu, đánh bại chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch đối với
nước ta.
Phòng chống “diễn biến hồ bình” bạo loạn lật đổ ở tây nguyên
Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng và Đăk Nơng. Có diện tích tự
nhiên 5447,4 nghìn ha, chiếm 17,5% diện tích cả nước, lớn gấp 1,4 lần diện tích các tỉnh đồng
bằng sơng Cửu Long. Tây Nguyên là khu vực rộng lớn có vị trí quan trọng về kinh tế và an ninh
quốc phòng đối với Việt Nam. Trong hàng chục năm nay, sự di cư ồ ạt của nhiều người, nhiều
cộng đồng dân tộc từ nhiều vùng miền khác nhau đến Tây Nguyên lập nghiệp đã làm cho dân
số và thành phần dân tộc của vùng thay đổi nhanh chóng. Theo thống kê mới nhất, trên mảnh
đất Tây Nguyên đang có 43 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó người Kinh chiếm
65,8%, tiếp đến là các dân tộc thiểu số khác như Ba Na, Ê Đê, Mnông, Gia Jai, Xơ Đăng, Giẻ
Triêng, Brâu . Vì thế, có thể nói Tây Nguyên là vùng đa màu sắc văn hoá tộc người, khá phong
phú, phức tạp về phương diện tín ngưỡng- tơn giáo và nhiều màu sắc nhất ở Việt Nam.
Trong lịch sử, Tây Nguyên là vùng đất hào hùng, giàu truyền thống cách mạng, đặc biệt là
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước đây. Sống trên mảnh đất hùng vĩ
bao đời, đồng bào các dân tộc ở đây đã chung sức, đồng lòng tạo dựng nên một nền văn hóa
hết sức phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc, với những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể
nổi tiếng và kho tàng văn học dân gian hết sức đặc sắc. Đồng bào các dân tộc Tây Ngun có
tinh thần đồn kết, cần cù, chịu khó và tương thân tương ái, yêu thương con người, thiên
nhiên, đất nước, chuộng hịa bình nhưng anh dũng bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm.
Tây Nguyên không chỉ là vùng có tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế, nơi ẩn chứa nhiều
nhân tố nội sinh cho sự phát triển văn hoá tinh thần, phát triển xã hội nói chung mà đây cũng
là vùng trọng điểm trong chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia. Với trên 580 km đường biên
giới với Lào và Campuchia, Tây Nguyên là địa bàn được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư,
xây dựng để cùng hoà nhập với tiến trình phát triển chung của đất nước, mặt khác, cũng vì lẽ
đó Tây Ngun trở thành vùng trọng yếu, nhạy cảm mà các thế lực đế quốc, phản động nhịm
ngó, rắp tâm thực hiện cài cắm xây dựng lực lượng, tạo dựng các "phong trào" nhằm chống
phá công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, chống phá chế độ .
Từ sau ngày miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
chủ trương, chính sách để đầu tư, xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội Tây Nguyên. Trên cơ sở
đó, các cấp bộ đảng, chính quyền địa phương đã phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị các
cấp để lãnh đạo, chỉ đạo và tạo dựng nhiều điều kiện cần thiết cho mọi người dân lao động,
mọi tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội ở Tây Ngun hồ nhập, thích nghi với lối sống
mới, chế độ mới. Đặc biệt từ ngày đổi mới đến nay, nhịp điệu cuộc sống, cách thức sản xuất,
làm ăn của nhiều nhóm cư dân, nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh trong vùng đã thực sự khởi
sắc, năng động, sáng tạo và làm ăn ngày càng có hiệu quả . Phần lớn đồng bào các dân tộc
thiểu số ở các buôn làng đã định canh, định cư, thực hiện thâm canh sản xuất hàng hoá. Rất
nhiều trang trại, nhiều vùng sản xuất tập trung cà-fê, cao su, dâu tằm, cây ăn quả, cây lương
thực . hình thành, phát triển đạt hiệu quả kinh tế hàng hoá cao. Nhiều phố mới, làng mới, nhiều
cơ sở hạ tầng được xây dựng, phát triển làm cho bộ mặt Tây Nguyên hiện nay liên tục được
thay da, đổi thịt theo dáng dấp của xã hội đang trong tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Nhờ đó đời sống vật chất và tinh thần của đa số tầng lớp dân cư ở Tây Nguyên được nâng lên
rõ rệt so với thời kỳ trước đổi mới
Tuy vậy, cũng cần nói thêm một thực tế khác, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác nhau, nhìn tổng thể sự phát triển của các tỉnh Tây Nguyên vẫn chưa hoàn toàn vững chắc,
nhiều vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội và đặc biệt là những vấn đề chính
trị - xã hội phức tạp, nhạy cảm vẫn đang tiềm ẩn sự "bùng nổ". Trong q trình thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khuyết
điểm. Kinh tế vùng sâu, vùng xa chậm phát triển, đời sống đồng bào dân tộc cịn nhiều khó
khăn, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội không đồng bộ, đội ngũ cán bộ dân tộc, đặc
biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý mặc dù được sự quan tâm đào tạo nhưng vẫn cịn thiếu và yếu.
Thiếu những cán bộ có năng lực tổ chức thực tiễn để lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế xã
hội vùng dân tộc thiểu số. Do trình độ hạn chế của đội ngũ cán bộ nên đường lối, nghị quyết,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chậm đi vào cuộc sống. Vì vậy, sự phát triển
kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, công
sức của nhân dân và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Nhiều vùng cịn khó khăn, nhất là
vùng sâu, vùng xa, tình trạng tranh chấp đất đai, diễn ra thường xun, làm cho cơng tác quản
lý hành chính gặp nhiều khó khăn, quan hệ dân tộc càng phức tạp. Mặt khác, quá trình phát
triển kinh tế thị trường làm cho sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhất là giữa
người kinh và người dân tộc thiểu số tại chổ càng lớn. Đó là những nguyên nhân xuất hiện tư
tưởng bài kinh, làm cho khối đoàn kết dân tộc bị tổn thương.
Trong lĩnh vực an ninh, trật tự - an toàn xã hội đã và đang nẩy sinh khá nhiều vấn đề nổi cộm,
bức xúc, trong đó tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định về Chính trị -xã hội, tác động tiêu
cực đến sự phát triển bền vững của vùng Tây Nguyên. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội,
cùng với những biến đổi trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, sự thay đổi của cơ sở hạ
tầng kéo theo những biến đổi của kiến trúc thượng tầng, trong đó có tín ngưỡng tơn giáo. Nhu
cầu tín ngưỡng, tơn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng có những thay đổi. Lợi dụng
tình hình đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyền đạo Tin Lành trái phép vào vùng các đồng
bào thiểu số ở Tây Nguyên. Âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để
lừa phỉnh, lôi kéo, mua chuộc, kích động, gây chia rẽ, ly khai hịng gây bạo loạn lật đổ, chống
phá cách mạng, đe dọa an ninh quốc gia, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ tổ quốc của nhân dân ta.
Trong những năm gần đây, các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin Lành tăng cường các hoạt
động truyền giáo, lơi kéo, phát triển tín đồ trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đạo Tin Lành đã
bành trướng rất nhanh trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, điều đáng
lưu ý ở đây là, cùng với hoạt động truyền bá đạo Tin Lành, thời gian qua đã có nhiều hoạt động
lợi dụng tơn giáo của các thế lực thù địch trong và ngoài nước chống phá Việt Nam. Núp bóng
cái gọi là “Tin Lành Đề Ga”, chúng âm mưu thành lập một “nhà nước Đề Ga tự trị”, chúng đã
cài cắm, phát triển các cơ sở, tổ chức các hoạt động biểu tình, bạo loạn. Các sự kiện diễn ra
vào tháng 02 năm 2001 và tháng 04 năm 2004 ở các tỉnh Tây Nguyên (tập trung là những sự
biến xảy ra ở 2 tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk) là một trong những loại tình huống chính trị-xã hội cụ
thể phản ánh tính chất phức tạp, nhạy cảm trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở
Tây Ngun đó cũng chính là q trình giải quyết các lực cản, tạo lập những tiền đề, động lực
cho sự phát triển bền vững ở các tỉnh Tây Nguyên thời kỳ tiếp theo.
Vì vậy, việc nhận diện "diễn biến hồ bình" trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, đi sâu
nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, những thủ đoạn, bản chất của chiến lược"diễn biến
hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đánh giá những kết quả, hạn chế
và rút ra bài học kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hịa bình” trên địa bàn
các tỉnh Tây Ngun là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và hết sức cần thiết.