Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.42 KB, 41 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>CHIẾC LƯỢC NGÀ</b>
<i>(Nguyễn Quang Sáng)</i>
Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ, giữa Tháp Mười mà
xung quanh nước đã lên đầy, nói cho đúng đây là cái trạm của đường dây giao thông, nhà
nhỏ nhưng người lại đông. Chưa đến chuyến đi, chúng tơi cịn phải đợi. Ban ngày, chúng tơi
chẳng biết đi đâu, hết nằm lại ngồi, có lúc thấy cuồng chân, thật tù túng, nhưng lại có cái thú
bù lại là thọc cần câu ra khỏi nhà để câu cá. Ngày câu cá đã đủ ăn rồi, đêm không ai muốn
câu nữa. Trong lúc nhàn rỗi ấy, chúng tôi thường hay kể chuyện. Và tôi nghe câu chuyện
này của một đồng chí già kể lại. Ơng vốn là người hay kể chuyện - nhiều nhất là chuyện tiếu
lâm, có cả tiếu lâm kháng chiến nữa, chuyện nào cũng làm cho chúng tơi cười lăn, cười bị.
Trước khi kể, bao giờ ơng cũng cười mỉm, mặt trở nên hóm hỉnh, đúng là ông lão có duyên
già. Nhưng hôm ấy, ông đâm ra khác thường. Ông già kể nhưng vẫn ngồi im, đầu hơi cúi
xuống, trầm lặng, mặt ngước nhìn ra mênh mơng. Chắc là một chuyện cảm động, chúng tơi
đốn như vậy và khơng đùa nữa. Bên ngồi, một cơn gió ù thổi tới. Cái trạm này - một ngôi
nhà cất chen vào giữa một chòm cây giữa khu rừng tràm thưa, mỗi khi có một cơn gió, sóng
nối nhau đập vào tàn cây, nhà lại rung lên và lắc lư như một con thuyền đang chơi vơi giữa
biển. Sóng đập đều đều vào các chịm cây. Đàn cị đứng ngủ khơng yên, một vài con vỗ
cánh bay chấp chới. Sóng gió như nhắc nhở ơng điều gì, ơng nghiêng tai lắng nghe. Khi cơn
gió thổi qua, mặt nước trở lại yên lặng, ơng mới ngẩng lên và nói. Ơng nói với chúng tơi mà
như nói với cả trời nước vậy, ơng khơng nhìn vào chúng tơi mà nhìn ra biển nước, chân trời
và các vì sao.
- Chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, mà mỗi lần nhớ lại, tơi cứ bàng hồng
như vừa thấy một giấc mơ - ông mở đầu với giọng trầm đục: - Hôm đó, tôi đi từ trạm N. G.
đến L. A. Khi chiếc xuồng máy đi tơm vừa xơ ra bến thì chúng tôi ai cũng muốn biết
người lái ấy là ai. Không phải tị mị mà cần phải biết. Bởi vì trước khi đi, người trạm
trưởng có báo cáo với chúng tơi đó là một đoạn đường dài, một đoạn đi xuồng máy, một
đoạn đi bộ, đi xuồng dễ gặp trực thăng soi, anh em phải bình tĩnh, khơng được nhốn nháo,
khơng được tự động mà phải tuyệt đối tuân theo sự điều khiển của người lái. Nói như vậy có
nghĩa là sinh mạng mình phải hồn tồn phó thác cho người cầm lái ấy, có phải khơng các
Trước đó, tơi có được nghe tiếng đồn trạm này có một cơ giao liên rất thơng minh.
Một hơm, cơ dẫn một đồn khách sắp sửa qua sơng, cơ để khách dừng lại ngồi ruộng xa.
Cơ và một anh giao liên nữa tiến trước dọn đường. Đến vườn cây bờ sơng, cơ thấy mình đã
lọt vào ổ phục kích của địch. Nhưng cô không bối rối. Cô vừa gọi người bạn của mình vừa
nói, cơ cố ý nói lớn cho bọn địch nghe: "Tình hình n, khơng có gì, anh trở lại dẫn khách
đi, cịn tơi sang sơng lắc xuồng đem qua". Trong câu nói ấy có ám hiệu. Anh giao liên liền
quay lại, êm ái đưa khách bọc qua ngả khác, vượt sơng cách đó độ một vài cây số. Cịn cơ
ta, trước khi qua sơng cơ cịn gài lại hai trái lựu đạn. Cô qua sông, thế là thốt. Cịn đám biệt
kích kia, bọn nó tưởng thật, định hốt cả một đoàn khách, nên chẳng dám rục rịch, mà cứ
chờ. Chờ mãi, bọn nó biết, nó chửi rủa nhau, trong lúc lục tục kéo về lớ quớ thế nào lại vấp
cả hai quả lựu đạn gài, rụng hết mấy mạng. Qua chuyện đó, người ta thêm thắt rằng cơ giao
liên ấy có cái mũi rất thính, cơ dùng mũi để nghe mùi địch và có thể phân biệt được thằng
nào là Mỹ, thằng nào là Ngụy nữa.
- Ở trạm này có mấy cháu nữ vậy hở chú?
- Dạ một chị là chị nuôi với cháu nữa là hai.
Vậy là cô nữ giao liên này rồi, tơi cảm thấy mừng. Nghe giọng cơ nói, tơi đốn cơ bé
độ mười tám hai mươi là cùng. Tơi cảm thấy mến, muốn hỏi thêm nhưng thấy cô đang lom
khom quấn dây vào bánh trớn nên lại thôi. Quấn dây vào bánh trớn xong, cô đứng thẳng
người, quay lại nói với xuồng sau :
- Tơi đi trước nhé !
Mấy anh giao liên xuồng sau nhao lên :
- Thôi chị Hai đi trước đi.
- Chị út đi mạnh giỏi nhá ! Người gọi chị Hai, người gọi chị út, chẳng biết cô thật thứ mấy.
Cô đáp lại mấy câu láu lỉnh, gọi mấy chú giao liên là em rồi quay lại chúng tôi, hạ
giọng hết sức lễ phép :
- Các bác, các chú, các anh có gì quan trọng nên để trong túi áo, hoặc để trong một
cái gói riêng. Lỡ gặp trực thăng bắn hoặc gặp biệt kích thì đồ qúy không bị mất, bị cháy.
Cô báo cho chúng tơi những điều khơng may có thể xảy ra nhưng giọng nói lại dịu
dàng - dễ thương nữa - khác hẳn với giọng nói căng thẳng của ơng trạm trưởng, nên tơi thấy
khơng lo lắm. Nói xong, cơ khom lưng, giật máy. Xuồng rung lên theo tiếng máy nổ giòn,
từ từ tách ra khỏi vòm cây rậm, rồi rào rào lướt tới. Gió thổi mát cả người, mát đến từng
chân tóc. Nghe cơ dặn, anh em khách lúi húi mở bịng. Cịn tơi, tơi có cái gì qúy ngồi giấy
tờ, tiền ăn đường đã để sẵn trong túi? Tôi chợt nhớ đến cây lược nhỏ. Tơi liền mở bịng, mị
lấy cây lược, cho vào túi nhái đựng giấy tờ, bỏ vào túi ngực, rồi cài kim tây lại thật cẩn thận.
Các bạn ! Mỗi lần nhìn thấy cây lược ngà nhỏ ấy là mỗi lần tôi băn khoăn và ngậm
ngùi. Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay,
nhưng chưa bao giờ, tôi bị xúc động như lần ấy. Trong những ngày hồ bình vừa lập lại, tơi
cùng về thăm q với một người bạn. Nhà chúng tôi ở cạnh nhau gần vàm kinh nhỏ đổ ra
sông Cửu Long. Chúng tôi cùng thoát ly đi kháng chiến, đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị
chiếm. Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh - và cũng là đứa con duy nhất của anh, chưa đầy
một tuổi. Anh thứ sáu và cũng tên Sáu. Suốt mấy năm kháng chiến, chị Sáu có đến thăm anh
mấy lần. Lần nào anh cũng bảo chị đưa con đến. Nhưng cái cảnh đi thăm chồng ở chiến
trường miền Đông không đơn giản. Chị không dám đưa con qua rừng. Nghe chị nói có lý anh
khơng trách được. Anh chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ thôi. Đến lúc được về, cái tình người
cha cứ nơn nao trong người anh. Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang
vai, mặc quần đen, áo bơng đỏ đang chơi nhà chịi dưới bóng cây xồi trước sân nhà, đốn
biết là con, khơng thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xơ chiếc xuồng tạt
ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to:
- Thu ! Con.
Vừa lúc ấy, tôi đã đến gần anh. Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con
anh sẽ chạy xơ vào lịng anh, sẽ ơm chặt lấy cổ anh. Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay
đón chờ cơ. Nghe gọi, con bé giật mình, trịn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Cịn anh, anh
khơng ghìm nổi xúc động. Mỗi lần bị xúc động, vết thẹo dài bên má phải lại đỏ ửng lên,
giần giật, trông rất dễ sợ. Với vẻ xúc động ấy và hai tay vẫn đưa về phía trước, anh chầm
chậm bước tới, giọng lặp bặp run run :
Con bé thấy lạ q, nó chớp mắt nhìn tơi như muốn hỏi đó là ai, mặt nó bỗng tái đi,
rồi vụt chạy và kêu thét lên: " Má! Má". Cịn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, rồi
đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương, và hai tay bng xuống như bị gãy.
Vì đường xa, chúng tơi ở nhà được có ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đó, con bé
khơng kịp nhận ra anh là cha. Đêm nó khơng cho anh ngủ với chị. Con bé tính khí thật
khơng vừa, nó tuột xuống giường, đứng dưới đất chồm lên, nắm tay anh kéo ra. Kéo khơng
được, nó kê miệng cắn. Cho đến ngày đi, tay anh vẫn còn hằn sâu những dấu răng của con.
Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy
ra. Anh mong được nghe một tiếng "ba" của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi.
Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:
- Thì má cứ kêu đi.
Mẹ nó đâm nổi giận, quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trỏng:
- Vơ ăn cơm!
Anh Sáu vẫn ngồi im, giả vờ khơng nghe, chờ nó gọi "ba vơ ăn cơm". Con bé cứ
đứng trong bếp nói vọng ra:
- Cơm chín rồi! - Anh cũng khơng quay lại. Con bé bực quá, quay lại mẹ và bảo:
Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi khơng
khóc được, nên anh phải cười vậy thơi. Bữa sau, đang nấu cơm thì mẹ nó chạy đi mua thức
ăn. Mẹ nó dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó khơng nói khơng rằng, cứ lui cui
dưới bếp. Nghe nồi cơm sơi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua - nồi cơm hơi to, nhắm không
thể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó mới nhìn lên anh Sáu. Tơi nghĩ thầm, con
bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó phải gọi ba thơi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên:
- Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! - Nó cũng lại nói trỏng.
Tơi lên tiếng mở đường cho nó:
- Cháu phải gọi: "Ba chắt nước giùm con", phải nói như vậy.
Nó như khơng để ý đến câu nói của tơi, nó lại kêu lên:
- Cơm sơi rồi, nhão bây giờ!
Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Tôi dọa nó:
- Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cháu cũng bị địn. Sao cháu khơng gọi ba cháu.
Cháu nói một tiếng "ba" khơng được sao?
Lúc đó nồi cơm sơi lên sùng sục. Nó hơi sợ, nó nhìn xuống, vẻ nghĩ ngợi, nhắc
khơng nổi, nó lại nhìn lên. Tiếng cơm sơi như thúc giục nó. Nó nhăn nhó muốn khóc. Nó
nhìn nồi cơm, rồi lại nhìn lên chúng tơi. Thấy nó lnh qnh tơi vừa tội nghiệp vừa buồn
cười, nghĩ chắc thế nào cũng chịu thua. Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá
nước, miệng lầm bầm điều gì khơng rõ - Con bé đáo để thật.
Trong bữa cơm đó, anh Sáu gắp một miếng trứng cá to vàng để vào cái chén nó. Nó
liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm.
- Sao mày cứng đầu q vậy, hả?
mở lịi tói(1) cố làm cho dây lịi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sơng.
Nó sang qua nhà ngoại, mét với ngoại và khóc ở bên ấy - chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy
nó cũng khơng về. Ngày mai anh Sáu phải đi, đó là đêm cuối cùng của hai anh chị, chị cũng
không muốn bắt nó về.
Sáng hơm sau, bà con bên nội, bên ngoại đến rất đơng- Cả con bé cũng theo ngoại nó
về. Anh Sáu phải lo tiếp khách, anh như không chú ý đến con nữa. Cịn chị Sáu thì lo chuẩn
bị đồ đạc cho chồng, chị lo xếp từng chiếc áo, gói ghém đồ đạc vụn vặt vào cái túi nhỏ, chị
cứ lúi húi bên chiếc ba lô. Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và
cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó khơng
bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương
mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao
giờ chớp, đơi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó khơng ngơ ngác, khơng lạ lùng, nó nhìn
với vẻ nghĩ ngợi sâu xa.
Đến lúc chia tay, mang ba lô trên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, anh Sáu mới đưa
mắt nhìn con, thấy nó đứng trong góc nhà.
Chắc anh cũng muốn ơm con, hơn con, nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên lại bỏ
chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn với đơi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tơi thấy đơi
mắt mênh mơng của con bé bỗng xôn xao.
- Thôi! Ba đi nghe con! - Anh Sáu khe khẽ nói.
Chúng tơi, mọi người - kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng n đó thơi. Nhưng thật
lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc khơng ai ngờ
- Ba... a... a... ba!
Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người, nghe
thật xót xa. Đó là tiếng " Ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng " Ba" như vỡ
tung ra từ lịng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và
dang hai tay ơm chặt lấy cổ ba nó.
Nó vừa ơm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:
- Ba! Khơng cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!
Ba nó bế nó lên - nó hơn ba nó cùng khắp. Nó hơn tóc, hơn cổ, hơn vai và hơn cả vết
thẹo dài bên má của ba nó nữa.
Trong lúc đó, ngoại nó cho tơi biết, đêm qua, bà đã tìm hiểu được vì sao nó khơng
chịu nhận ba nó. Bà hỏi :
- Ba con, sao con không nhận ?
- Không phải - đang nằm mà nó cũng giẫy lên.
- Sao con biết là không phải ? Ba con đi lâu, con quên rồi chứ gì!
- Ba khơng giống cái hình ba chụp với má.
- Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi.
- Cũng không phải già, mặt ba con khơng có cái thẹo trên mặt như vậy.
Trong lúc đó, nó vẫn ơm chặt lấy ba nó. Khơng ghìm được xúc động và khơng muốn
- Ba đi rồi ba về với con.
- Không! - Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay khơng thể
giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đơi vai nhỏ bé của nó run run.
Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người khơng cầm được nước mắt, cịn tơi bỗng
thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim tơi. Tơi bỗng nảy ra ý nghĩ, muốn bảo anh ở
lại vài hơm. Nhưng thật khó, chúng tơi chưa biết mình sẽ đi tập kết hay ở lại. Chúng tôi cần
về đúng ngày, nhận lệnh để kịp chuẩn bị. Thế là đã đến lúc phải đi rồi, mọi người phải xúm
lại vỗ về nó, mẹ nó bảo :
- Thu! Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về.
Bà ngoại nó vừa vuốt tóc nó vừa dỗ :
- Cháu của ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một cây lược.
Con bé lại ôm chầm ba nó một lần nữa và mếu máo:
- Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba! - Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa
từ từ tuột xuống.
Sau đó hai chúng tơi trở lại miền Đơng. Chúng tơi là cán bộ đồn thể, chúng tơi
khơng đi tập kết. Từ năm năm mươi tư đến năm mươi tám, năm mươi chín và những năm
khó khăn, các bạn đã biết rồi. Về công việc và đời sống ở rừng, tơi có thể kể cho đến sáng,
có đêm bị biệt kích vây bắt, nhưng thơi, đó là chuyện khác. Tơi xin trở lại mối tình cha con
của bạn tơi. Những đêm rừng, nằm trên võng, mắt chỉ thấy tấm ny lơng nóc, lúc nhớ con,
anh cứ ân hận sao mình lại đánh con. Nỗi khổ tâm đó cứ giày vị anh - một hơm hai đứa
đang rì rầm kể, anh bỗng ngồi bật dậy:
- Phải rồi ! Ơở rừng này, người ta thỉnh thoảng có bắn voi, mình phải làm một cây
lược bằng ngà cho con bé mới được.
Và anh ao ước có một khúc ngà, một khúc ngà voi. Thật may mắn, sau đó khơng lâu,
vì thiếu thức ăn, anh em nghĩ đến chuyện đi săn, đi săn bằng tên thuốc chớ khơng phải bằng
súng. Lúc đó rừng hãy cịn phải giữ im lặng. Thật ra thì anh em khơng đi săn voi, nhưng
tình cờ lại gặp nó. Anh em định thả nó, nhưng anh Sáu quyết định bắn.
Tơi hãy cịn nhớ buổi chiều hơm đó - buổi chiều sau một ngày mưa rừng, giọt mưa
còn đọng trên lá rừng sáng lấp lánh. Đang ngồi làm việc dưới tấm ny lơng nóc, tơi bỗng
nghe tiếng kêu. Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm
khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.
tám, năm đó ta chưa võ trang - trong một trận càn lớn của quân Mỹ- ngụy, anh Sáu bị hy sinh.
Anh bị viên đạn của máy bay Mỹ bắn vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, không cịn đủ sức
trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là khơng thể chết được, anh đưa tay vào túi,
móc cây lược, đưa cho tơi và nhìn tơi một hồi lâu. Tơi khơng đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ
biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.
- Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu.
Tơi cúi xuống gần anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi.
Các bạn ạ ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật thì cũng đã
đành một lẽ, cịn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh khơng thể đắp cao lên
được, - tìm thấy mồ mả, chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, - cho nên ngôi mộ của anh là
ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Tôi lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh
chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ.
Sống như thế và chết như thế, hỏi vậy làm sao mà chịu được? Chúng ta buộc phải
Sau khi có căn cứ khá an tồn, người nhà tơi có đến thăm. Tôi định gởi cây lược ngà
về cho cháu Thu. Nhưng chị Sáu và cháu Thu khơng cịn ở làng nữa. Qua những lần tố
cộng, những trận càn, những trận đốt làng dồn dân của bọn Mỹ, khơng có mấy năm mà làng
nước tan tác đi nhiều lắm. Mỗi người đi mỗi nơi chẳng ai được tin ai. Người nhà tơi bảo có
lúc nghe chị Sáu chạy lên Sài Gịn, có lúc lại nghe chị Sáu lại quay về Đồng Tháp, vì thế mà
tơi giữ mãi cây lược của cháu.
Tơi cầm cây lược nhìn ngắm, lịng thấy bùi ngùi.
Trong lúc đó tiếng máy vẫn nổ giịn, và tơi lại muốn nhìn rõ cơ giao liên - người đang
giữ sinh mạng của mình. Đêm khơng tối, cũng khơng sáng, nền trời tràn qua nhiều lớp mây
mỏng, rải rác một vài chịm sao. Trời sáng mập mờ - Tơi chỉ nhìn thấy được dáng người của
cô giao liên, gương mặt như hơi trịn và một đơi mắt, đơi mắt của người con gái thật khó tả.
Chẳng hiểu cớ sao, từ ánh mắt ấy, tôi dần dần thấy một người quen, quen lắm. Tơi cố nhớ,
nhớ khơng ra, tơi thấy mình lẩn thẩn.
Bỗng có tiếng kêu thất thanh :
- Máy bay !
- Máy bay!
Xuồng liền chịng chành, như có người định lao xuống, người nhốn nháo và nhiều
tiếng lao nhao lên :
- Tấp vào !
- Đâu ?
- Đèn nó ở phía sau kìa !
Cơ giao liên cho máy nổ nhỏ dần, quay lại sau một lúc rồi bảo :
- Không phải đâu, sao trên trời đó mà.
Sau mấy ngày đi bộ, được ngồi trên chiếc xuồng máy thật là thích thú. Nhưng nghĩ
đến máy bay, tôi lại thấy phiền. Tiếng máy đuôi tôm nổ to quá như át cả tiếng máy bay.
May mà gặp cơ giao liên bình tĩnh, cơ mà rối chắc có người đã nhảy rồi, xuồng chắc cũng
chìm mất. Tơi cố khơng nghĩ gì khác, tập trung lắng nghe tiếng máy bay.
Xuồng bắt đầu vào một quãng kinh trống, hai bên bờ khơng có một ngơi nhà, xa xa
một chòm tre, một lùm cây, hai bên là cánh đồng hoang. Tơi sốt ruột muốn cho xuồng lao
nhanh hơn. Hình như hiểu tâm trạng tôi, cô cho máy nổ to. Sóng trước mũi xuồng trào lên
kéo thành những đợt sóng dài, làm run rẩy đám cỏ hai bên bờ, vỗ bập bềnh các giề lục bình
và các đám nghể mọc hoang.
Trong lúc mọi người đang yên tâm, đang thích thú ngồi trên chiếc xuồng lao nhanh
thì cơ giao liên tắt máy báo tin:
- Máy bay !
Cơ vừa nói vừa tấp sát lại bụi tre. Chiếc xuồng sau cũng tấp lại. Rõ ràng là có tiếng
máy bay, tiếng cánh quạt "lạch bạch" của đám trực thăng Mỹ. Tôi chẳng biết cái lỗ mũi của
cơ thính đến cỡ nào, cịn cái tai của cơ rõ là thính thật, tiếng máy bay lẫn trong tiếng máy
đi tơm, thật khó nghe.
Xuồng chịng chành, có người chới với muốn té:
- Nó cịn xa lắm ! - Cô trấn tĩnh chúng tôi - Các bác, các chú bước lên phân tán
mỏng, tìm núp vào chỗ kín. Nếu nó có soi tới các bác, các chú nhớ đừng động đậy - Trong
Tơi vừa bước lên thì cơ bảo :
- Bác cứ ở đây đi. Xuồng ít người khơng sao !
Nếu một người nào khác bảo như vậy, tôi chắc không nghe. Trước thái độ của cô,
ngồi cùng một chiếc xuồng với cô, tôi thấy vững tin hơn ngồi trong công sự.
Đám trực thăng Mỹ từ đầu kinh soi lần lần tới, tiếng động cơ của nó rầm rộ như hàng
chục chiếc tàu thủy đang chạy. Aánh sáng ngọn đèn soi của nó một lúc một gần. Bọn Mỹ, bọn
ngụy đó thường đi ba chiếc, một chiếc tìm người, tìm mục tiêu, cịn hai chiếc soi đèn thì bắn.
- Lấy lá cây che kín, đừng động đậy nhé ! - Cơ lại nhắc tơi.
Đó là lần đầu tiên tơi bị trực thăng soi, khi ngọn đèn của nó soi qua - cái thứ ánh sáng
chói chang và tiếng cánh quạt đập trên đầu, tơi thấy xuồng mình rõ qúa, tơi thấy cái be dài,
thấy những lỗ trống của ba lô dưới lớp lá ngụy trang, thấy cỏ quặn lên như trong một cơn
lốc, tôi nghĩ : "Thôi chết rồi !" Tôi rút vai, thu mình cho nhỏ lại. Như đốn được tâm trạng
của tơi, cơ lại nhắc :
- Nó khơng thấy rõ mình như mình thấy mình đâu !
Lần này, lời cơ nói với tơi khơng hiệu quả nữa. Phút chốc tơi lại muốn lao xuống
nước. Nhưng tôi kịp trấn tĩnh.
Rồi cái ánh sáng ma qủy ấy qua với tiếng động cơ rầm rộ mỗi lúc một xa. Đêm lại
mờ dần đi. Tơi vẫn ngồi im vì cịn lo nó quay trở lại. Cơ giao liên nói như an ủi tơi :
mò mẫm đi từng bước, cứ thế mà đi. Gần đến bờ sông, giao liên cho chúng tôi dừng lại, phái
Hai trinh sát đi khoảng hai mươi phút thì đụng biệt kích. Lần này bọn nó khơng nằm
phục trong đám vườn dọc bờ kinh, nó chồm ra ngồi ruộng. Súng nổ tới tấp. Đạn rít veo véo
qua đầu chúng tơi.
- Nằm xuống ? - Cô giao liên ra lệnh - Anh Tư dẫn khách đi, tôi ở lại.
Chẳng hiểu sao, lúc ấy tôi muốn kéo cô cùng đi. Qua giọng phân công của cô, tơi
đốn cơ là nhóm trưởng. Vừa nghe tiếng cơ, nhìn lại cô đã vụt chạy đâu rồi. Đạn đan thành
lưới rít qua đầu chúng tơi, rơi "chéo chéo" trên mặt ruộng, khiến chúng tôi phải nằm dán
người vào bờ mẫu khơng sao ngóc đầu lên được.
Trong lúc đó, phía bên trái bỗng có nhiều tiếng "cacbin" nổ. Lập tức đường đạn bay
về hướng đó. Tơi đốn biết, cơ giao liên đang dẫn đường đạn bay về mình.
- Chạy ! - Anh Tư, người giao liên ra lệnh. Đoàn khách chúng tôi liền vọt lên. Tôi
không phải là người dạn súng cho lắm, nhưng lúc đó, tơi khơng thấy lo cho mình nữa, tơi cứ
nghĩ đến cơ giao liên. Đồn khách chúng tôi - không hàng ngũ, chạy bừa qua ruộng lúa, đâm
thẳng ra ven cây, rồi vượt qua sông.
Tiếng súng mỗi lúc một dữ dội. Tôi cố gắng lắng nghe tiếng "cacbin" của cơ, nhưng
khơng tài nào nghe được, lịng cứ xốn xang.
Nhờ có tiếng súng biệt kích mà chúng tôi đến rặng cây làng rất sớm. Anh em bên kia
trạm - trạm L.A, cũng vừa đến, không phải chờ lâu.
Đoàn tập hợp lại trong một đám dừa bị chất độc hóa học, tàu lá lơ thơ, trống trải.
Đồn khách cịn đủ mặt, có một vài người bị mất dép, có người qua sơng bị trơi ba lơ. Cịn
tơi, già mà hãy cịn cứng, tơi chả mất một món gì.
Ai cũng mệt mỏi, anh em giao liên cho chúng tôi nằm nghỉ đến sáng. Có người
khơng cần phải mắc võng, cũng chẳng trải nilơng, nằm vật xuống đất, lấy bịng làm gối,
ngáy pho pho. Cịn tơi, vì nhiều nỗi, nên cứ lơ mơ. Tôi đang trên đường về tỉnh nhà. Làng
nước đâu có cịn như xưa nữa. Người ta bị dời nhà, bị dồn vào các trại tập trung, rồi người
ta lại phá ra, cả vườn tược cũng thay đổi. Tơi nghe nói vậy, nhưng khơng thể hình dung ra
được. Tôi cứ nhớ lại cảnh cũ. Nhớ những lần trở về, nhớ cảnh chia tay của cha con anh Sáu
mà cây lược tơi hãy cịn giữ đây. Trong khi nghĩ miên man, đôi lúc tôi chợt nhớ đến anh em
ở lại chặn bọn biệt kích. Nhất là cơ giao liên. Chẳng hiểu cô bé và anh em giao liên ra sao.
Mệt q rồi tơi cũng thiếp đi...
Nghe đâu đây có tiếng chân đi, tiếng người nói, tiếng cười đùa. Tơi chợt tỉnh dậy,
thấy trời đã đâm mây ngang, màn đêm như vén dần ra cánh đồng. Tơi thấy một nhóm người,
chẳng nghe nói họ nói gì, nhưng biết là họ đang kể lại những chuyện sơi nổi. Và tơi nhìn
thấy cô giao liên, quần áo cô bùn đất bê bết và đẫm ướt. Thế là họ về kịp rồi.
Tôi vừa đến họ cũng vừa chia tay ra. Bây giờ tôi mới nhìn rõ cơ. Cơ vừa chặn địch,
vừa bước ra khỏi chỗ nguy hiểm mà mặt cứ phơi phới. Mặc dù nước da cô bị rám nắng, tôi
trông cô không quá hai mươi tuổi. Con gái hai mươi tuổi không thể có cặp mắt trong sáng
như thế, và cơ mới ngây thơ làm sao, cơ vẫn cịn đeo bơng tịn ten, cơ đi dần về phía tơi, tơi
bỗng muốn tỏ lịng mến phục của tơi đối với cơ, cả lịng cám ơn nữa. Nhưng chẳng lẽ lại nói
như vậy, tơi mỉm cười chào cô và làm quen:
- Này cháu. Bác lo cho cháu quá! Cháu thứ mấy?
- Dạ, cháu thứ hai.
- Dạ không! - Cô giao liên chặn câu nói của tơi lại- Cháu vừa thứ hai vừa thứ út vì
cháu là con một mà!
- Cháu là người ở làng nào mà sao bác thấy quen quen.
Nghe đến tên làng, tôi bỗng giật mình. Nhìn đơi mắt cơ bé, ngực tơi bỗng phập
phồng, và như có linh tính, tơi liền hỏi lại, hỏi dồn dập:
- Có phải Cù Lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Châu Sa không vậy cháu?
- Dạ phải.
- Cháu tên gì?
- Cháu tên Thu.
- Thu à? - Tôi lặp lại và kinh ngạc.
Tôi lặp bặp hỏi tiếp:
- Có phải ba cháu là Sáu, má cháu là Bình phải khơng?
Cơ bé kinh ngạc đến nỗi khơng nói được nữa, nó mở trịn mắt nhìn khắp người tơi.
Trong lúc đó, anh em giao liên trạm L.A. kêu khách chuẩn bị lên đường. Nhưng rồi chẳng
để ý cũng chẳng muốn nghe, tôi quay lại và bảo:
- Chờ tôi một chút.
Tôi quay lại cơ bé. Cả hai người vẫn cịn ngạc nhiên. Cơ bé vẫn trịn mắt nhìn tơi,
đúng, đúng, đúng là đôi mắt của con cháu. Tôi thầm nghĩ, và bảo:
- Có phải khơng cháu?
- Dạ... Sao bác biết?
Tơi cố nén xúc động nhưng cũng lặp bặp nhắc lại:
- Bác là bác Ba đây này. Cháu có cịn nhớ lúc ba cháu đi, ba cháu có hứa mua cho
cháu cây lược không?
Cô cháu khe khẽ gật đầu: "Dạ nhớ, dạ nhớ".
Các bạn ạ! Trong kháng chiến có những cuộc gặp gỡ thật tình cờ! Tơi vừa nhìn cháu,
vừa móc túi lấy ra cây lược.
- Ba cháu gởi cho cháu cây lược ngà này đây. Cây lược này do ba cháu làm.
Đơi mắt của cháu lại to trịn hơn, mặt xúc động đến thẫn thờ. Cháu đưa tay nhận lấy
cây lược. Cây lược như đánh thức kỷ niệm ngày chia tay, ngực cháu phập phồng. Thấy cháu
nhìn ngắm cây lược, tim tơi bỗng nhói đau. Tơi biết cháu đang bàng hồng trước hạnh phúc
bất ngờ, tơi khơng muốn làm gì xao động đến hạnh phúc của cháu, tôi thấy cần phải nói dối:
- Ba cháu vẫn khoẻ, ba cháu khơng về được, nên gởi cho bác.
Cháu Thu liền chớp mắt nhìn tôi, môi mấp máy run run:
- Chắc là bác lầm, cây lược này không phải của ba cháu.
Tôi đâm ra thất vọng, hoang mang nữa, tôi hỏi lại:
- Ba cháu tên Sáu, má cháu tên Bình phải khơng?
- Nếu cháu khơng lầm thì chắc bác sợ cháu buồn nên bác nói giấu cháu. Cháu biết ba
cháu đã chết rồi.- Cháu chớp mắt, hai giọt lệ ứa ra, vỡ tràn qua đôi mắt - Cháu chịu đựng
được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi, sau đó thì cháu xin má cháu
đi giao liên...
Cháu cịn muốn nói gì nữa, nhưng giọng bị tắt nghẹn, đầu cúi nhìn xuống, mái tóc
khẽ run run. Cịn tơi, tơi lỡ nói dối, nên chẳng biết nói thế nào nữa, đành im lặng.
Trong khi đó, anh em trong đồn táo tác gọi tơi, giục tơi đi. Khơng thể nán được nữa,
Nỗi mững gặp gỡ bất ngờ khiến tôi chưa biết bàng hồng thì lại phải chia tay. Nhìn
cháu tơi bỗng buột miệng nói :
- Thơi, ba đi nghe con !
Tơi khơng nghe cháu đáp lại, chỉ thấy đôi môi tái nhợt của cháu mấp máy.
Đi một qng xa nhìn lại, tơi thấy cháu cố đi theo tôi một đoạn đường. Cháu dừng lại
trên bờ mẫu, những đợt sóng lúa xanh nhỏ nối nhau rập rờn như chạy đến vỗ về cháu. Sau
lưng cháu là đám dừa bị chất độc hóa học mà tàu lá chỉ cịn những cọng khơ như những chiếc
xương cá khổng lồ treo lủng lẳng, đọt non vừa mới đâm lên, xa trông như một rừng gươm.
<b>LÀNG</b>
<i>(Kim Lân)</i>
Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn ơng Hai thu thủ que đóm cháy lập lịe trong
chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, và bà Hai ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu
lạc, lầm bầm tính tốn những tiền cua, tiền bún, tiền chuối, tiền kẹo… thì ơng Hai vùng dậy,
sang bên bác Thứ nói chuyện. Khơng hiểu sao cứ đến lúc ấy ông Hai lại thấy buồn. Nằm
nghe tiếng súng dội trong đêm tối và nhất là cái tiếng rì rầm tính tốn tiền nong của mụ vợ,
tự nhiên ông sinh ra nghĩ ngợi vẩn vơ, nó bực dọc làm sao ấy. Mà ơng, thì khơng thích nghĩ
ngợi như thế một tý nào. ông vốn là người hay làm, ở quê ông làm suốt ngày, không mấy
lúc chịu ngơi chân ngơi tay. Không đi cày đi cuốc, không gánh phân tát nước thì ơng cũng
phải bày vẽ ra cơng việc gì để làm: đan rổ, đan rá hay chữa cái chuồng gà, cạp lại tấm liếp.
Từ ngày tản cư lên đây, suốt ngày mấy bố con nhong nhóng ngồi ăn, tối đến lại nghe những
tiếng rì rầm tính tốn ấy, ruột gan ơng cứ nóng lên như lửa đốt. ông phải đi chơi cho khuây
khỏa. Lần nào cũng như lần nào, cứ vừa nhô đầu qua cái mái lá bên gian bác Thứ là ông lão
hỏi ngay: “Thế nào, hơm nay có gì khơng bác?” Khơng đợi trả lời, ông lão nói luôn:
- Này Đácgiăngliơ nó lại về Pháp đấy nhé. Hừ, chơi vào! Còn là đi đi về về! Hoặc:
- Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc
đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn Độc lập
và Thống nhất thơi, khơng thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này khơng được Độc
lập thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình lại khơng Thống nhất,
Độc lập được hở bác? Rồi ơng nói đến chuyện tản cư, chuyện Tây khủng bố, chuyện Việt
gian, chuyện thổ phỉ… những chuyện ông lượm được hồi trưa, ở ngồi điếm. Cả chuyện
chính trị, qn sự nữa. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta
chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả. Ông lão kéo dài
một bên ria mép ra, tủm tỉm:
- Cũng là học lỏm cả thôi đấy bác ạ… Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà… Và
cuối cùng, khi câu chuyện tin tức hàng ngày đã nhạt rồi, thì ông xoay đến chuyện cái làng
của ông. ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt
ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ơng khoe làng ơng có cái phịng thơng
tin tun truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chịi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều
chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh.
Đường trong làng tồn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối
xóm, bùn khơng dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt
thượng hạng, khơng có lấy một hạt thóc đất. Ơng Hai vẫn có tính khoe làng như thế xưa
nay. Hồi còn đế quốc Pháp, mỗi bận đi đâu xa, khoe làng ông chỉ khoe cái sinh phần của
viên tổng đốc làng ơng. Ơng có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm: “Chết!
Chết, tơi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tơi. Có lăm
lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo cịn hơn cái lăng cụ thiếu Hà
Đơng nhiều cơ mà!” Mỗi bận có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông
lão cũng phải dắt ra xem lăng cho kỳ được. ông mê man giảng giải cho họ: cái tượng đá này
là ơng Hồng Thạch Cơng đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải. Cái
ông đắp bằng xi măng lù lù ở giữa hồ bát giác kia là là… lấy kiểu tận xa lắm, đâu như tận
Ơng lão vừa nói vừa nhìn vào cái bộ mặt lì xì của người bà con họ bên ngoại giãn ra
vì kinh ngạc ấy mà ơng lão hả hê cả lịng. Ơng thấy cái lăng tẩm ấy một phần như có ơng.
Nhưng từ ngày khởi nghĩa thì người ta khơng cịn thấy ơng đả động gì đến cái lăng ấy nữa.
Ơng đã bảo ơng thù nó cơ mà. Cái lăng ấy nó làm khổ ơng, nó cịn làm khổ bao nhiêu người
làng này nữa. Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho
nó. Có người ốm, có người chết, có người làm mấy tháng trời không được đồng công nào.
Cái chân ơng đi khập khễnh bây giờ cũng vì cái lăng ấy. Ông bị một chồng gạch đổ vào bại
một bên hông. Bây giờ khoe làng, ông lão lại khoe khác. Ông khoe những ngày khởi nghĩa
dồn dập ở làng, mà ơng gia nhập phong trào từ thời kỳ cịn bóng tối. Những buổi tập quân
sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai. Mỗi lần hô động tác,
anh huấn luyện viên lại phải đệm tiếng ạ… thườn thượt đằng sau: “Nghiêm ạ!… Nghỉ ạ!…
Vác súng lên vai ạ!…”. Nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ơng thì
làm cơng trình khơng để đâu hết. Ơng lão kể rành rọt từng cái một. Cái thì đắp ở đầu xóm
Ba Khu, cái thì xây ở Ngõ Mái, cái thì xẻ thơng từ đầu phố trên đến tận đầu phố dưới. Cửa
mạch nhà nào cũng đục, có thể đi suốt làng khơng phải ra đến đường cái. Cũng có khi ông
lão lại ngậm ngùi kể lại những chuyện ngày xửa ngày xưa nào không biết, ông bị bọn hương
lý trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò
vào đến tận đất Sài Gịn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại
được trở về quê hương bản quán. Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên
tận bẹn trên chiếc chõng tre nhà bác Thứ mà nói liên miên hết cái đường xóm kia tốt, cái
giếng xóm kia trong với những chuyện đẩu chuyện đâu về cái làng của ông lão, làm như bác
Thứ cũng quen biết và bận tâm đến những thứ ấy lắm. Thực ra ông lão chỉ nói cho sướng
miệng và đỡ nhớ cái làng của ơng chứ cũng chẳng chú ý gì đến người nghe có thích nghe
lắm khơng. Đơi khi thấy mình mải nói q, mà bác Thứ hình như lơ đễnh những đâu đâu,
ơng lão lại nhắc:
-Cậu vẫn nghe đấy chứ? Thì bác Thứ giật mình, trả lời vội vàng:
-Có! Có! Tơi vẫn nghe đây, ông kể nốt đi… Thế là ông lão lại kể. Nhưng cũng có
nhiều bận đang ngồi nói mải mê như vậy bỗng dưng ông ngắc lại, mặt ông thần ra, ông nghĩ
ngợi một lúc lâu rồi thủ thỉ:
-Chuyến này bước chân ra đi… Năm năm, ba năm hay mươi mười lăm năm, khơng
biết có cịn về được đến làng đến nước nữa không đây. ông lão im lặng, thở dài:
-Nó chết một cái nhà tơi neo người q, phải đi, chứ những như một mình tơi, thì tơi
ở lại làng với anh em cơ đấy. Quê cha đất tổ một lúc rứt ruột bỏ đi làm gì mà khơng đau xót
hả bác?…
*
Thực tình ơng Hai khơng muốn tản cư lên trên này một tí nào. Trong làng cịn có một
số anh em ở lại, họ quây quần với nhau khoảng chừng năm, sáu nóc nhà giữa làng. Ngày
ngày cùng anh em đi đào đường đắp ụ, công việc bề bộn, ơng chẳng cịn kịp nghĩ gì đến vợ
con, nhà cửa nữa. Năm bảy lần bà Hai nhắn về thúc phải lên ngay, ông chỉ nhăn mặt kêu:
“Công việc đang như lửa đốt thế này đã lên thế nào được”. Hơm bà Hai về đón, ơng lão lại
toan khơng đi. Ông nghĩ: mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ. Ơng cha cụ kỵ
mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải
cái lúc hữu sự như thế này mình lại đâm đầu bỏ đi cịn ra thế nào nữa. Cơng việc là cơng
việc chung chứ của riêng mình ai? ơng lão bảo vợ:
Nhưng bà Hai khóc lóc, bà năn nỉ bắt ông phải đi, bà bảo:
-Thế ông định bỏ mẹ con tơi chết đói à? Ơng phải lên trơng nom chúng nó cho tơi
xoay xỏa chứ. Rồi bà khẩn khoản nói với mọi người, khẩn khoản với đồng chí thơn đội
trưởng, mọi người đồng ý để ông Hai đi, ông Hai đành phải nghe theo. Ơng buồn khổ lắm,
Những ngày đầu ở trên này cơng việc khơng có, trong người ơng lão lúc nào cũng
bực bội. Ơng ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm. Xin được miếng đất sau nhà, ông
hậm hụi cuốc xới suốt ngày, vừa được mấy luống rau cải, bén chân thì đàn gà nhà chủ ra vặt
trụi tiệt. Ơng lão cáu lắm. Không thể cáu được với ai ông quay ra cáu với vợ con. Hơi một
tý là gắt, hơi một tý là chửi, lắm khi chuyện chẳng đâu vào đâu, ông cũng khơi ra cho to để
gây sự. “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! ơng thì giết hết,
ơng thì giết hết!”. Mỗi lần ông lão bước chân ra khỏi cái gian nhà tối thấp bề bộn những bồ,
bị, nồi, niêu, và những dây quần áo ẩm sì ấy là mặt ơng lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh hẳn lên. Sao
mà ông lão sợ cái gian nhà ấy thế! Nhất là những buổi trưa im ắng, oi ả, có tiếng mụ chủ
nhà nói nheo nhéo ở bên ngồi, thì ơng lão khơng sao chịu được. Ơng lão phải đi cho nó
khuất. Ơng Hai chưa thấy người đàn bà nào tham lam, tinh quái như mụ ta. Người thì gầy
đét như thanh củi khơ. Cái miệng mỏng lèo lèo, nói cứ liến đi, mà chúa thần là gian. Khơng
vào nhà thì thơi, động vào nhà là nhịm.
Mụ nhịm xó này một tí, nhịm xó kia một tí, rồi lục. Mụ giơ lọ tương lên ngắm rồi
đặt xuống, mụ mở thạp gạo ra xem, lại đậy vào, mụ lục bồ moi chiếc áo ra ướm thử vào
người, rồi ném trả. Hình như trong ý mụ, mụ nghĩ: chúng mày ở nhà tao, thì những thứ của
chúng mày cũng như của tao. Đồ ăn thức đựng của mụ, mụ cất kỹ đi. Con dao, cái chậu, bó
củi của người ta mụ dùng tự nhiên, hồ cất đi, mụ lại lơi ra. Khơng tìm thấy thì mụ nói móc,
nói máy như chính mụ bị người ta hà hiếp. Đến cả cái ăn, cái uống mụ cũng rây phần vào.
Có cái nồi nước giải mua để tăng gia một tí, mụ cũng lấy hết. Trong nhà động có thức gì mụ
đã biết rồi. Khơng một hơm nào bà Hai ở quán về mụ không sấn đến vạch thúng ra xem.
-Ái chà! Nhà này có mớ cá ngon gớm, chiều tớ phải xin một bát mấy được. Thế là
-Con cứ xuống mà xin, tội gì. Có cái gì ăn giấu, mà mụ biết thì mụ đánh hơi. Mụ
đứng giữa nhà, hếch cái mũi lên hít hít:
-Có cái gì mà thơm gớm, y như mùi bánh rán ấy anh em ạ. Mẹ kiếp nhà này nó giấu.
Cứ lâu lâu, mụ lại vay tiền. Lúc mua trầu vỏ, lúc mua diêm thuốc, mớ rau, con cá… Có địi
thì mụ chủng chẳng:
-Tớ trừ vào tiền thuê nhà đấy. Mụ cười rất nhạt:
-Nói đùa đấy chứ, mai tớ cuốc mẻ sắn tớ bán tớ khắc trả. Và mụ tiếp ln:
-Này, nói thì bảo là tham, cái nhà ông Hai này, với bác Thứ bên kia ở, thật tớ đếch
được cái gì, ở xóm dưới, cánh hàng xáo họ ở, họ ni lợn được vơ khối là “khuẩn”. Nói
thật, tớ cho ở nhờ chỉ chủ có mỗi cái “khuẩn” thơi…
cụi làm. Vợ nói, có tức lắm thì cũng chỉ đỏ mặt lên văng tục văng giác mấy câu rồi thơi.
Ơng Hai ghét mụ chủ lắm. Ơng khơng muốn ở chung ở chạ với những người như thế. Năm
lần bảy lượt ông bảo vợ dọn nhà đi nơi khác. Nhưng bà Hai cứ lần chần. Bà bảo:
-Biết rằng đâu hơn đâu, hay là lại quá tội. Trong làng ngoài phố nhà nào cũng ba bốn
bếp tản cư cả. Có được chỗ chui ra chui vào như thế này là may mắn lắm rồi cịn gì nữa.
Ơng lão đành phải dùi dắng chờ vậy.
*
Buổi trưa hôm ấy ông Hai ở nhà một mình. Con bé lớn gánh hàng ra quán cho mẹ
chưa thấy về. Hai đứa bé thì ơng cắt chúng nó ra vườn trông mấy luống rau mới cấy lại
chẳng gà vặt hết. Ơng Hai hì hục vỡ một vạt đất rậm, ngồi bờ suối từ sáng đến giờ, ơng
-Ở ngồi ấy làm gì mà lâu thế mày?
Khơng để đứa con kịp trả lời, ông lão nhỏm dậy vơ lấy cái nón:
-Ở nhà trơng em nhá! Đừng có đi đâu đấy. ông lão giơ tay chỉ lên nhà trên:
-Nó thì rút ruột ra, biết chửa! Dứt lời ơng bước vội ra ngồi. Trời xanh lồng lộng, có
những tảng mây sáng chói, lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại. Họ rạt cả vào các khoảnh
bóng cây tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợn lên, oi ả. Ông Hai đi nghênh ngang
giữa đường vắng, cái đầu cung cúc lao về phía trước. Hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Gặp ai
quen ơng Hai cũng níu lại cười cười:
-Nắng này là bỏ mẹ chúng nó! Có người bỡ ngỡ hỏi lại: “Chúng nó nào?”. Thì ơng
lão bật cười, giơ tay trỏ về phía tiếng súng:
-Tây ấy chứ cịn chúng nó nào nữa. Ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù. Dứt lời, ông
Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối
cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai
bốt Thao ngay giữa chợ. “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Lại cịn bao nhiêu tin
đột kích nữa, chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian; chỗ kia phá đổ được một xe
tăng và một xe díp. “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy,
hơm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không
bước sớm”. Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! Ông lão náo nức bước ra khỏi phịng
thơng tin, rẽ vào qn dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Ở đây, những tốp người
tản cư mới ở dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa sù sì, cành lá rườm rà
ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Ơng lão ngồi vào
một cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, ơng chóp chép
cái miệng ngẫm nghĩ: bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tiếng quạt, tiếng
thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của cánh đi phá đường về râm ran một góc
đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp
lống như một khúc sơng. Có mấy bóng cị trắng bay dật dờ…
-Các ơng các bà ở đâu ta lên đấy ạ? Ông Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một
người đàn bà mau miệng trả lời:
-Thưa ông chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây vất vả quá!
-Ở Gia Lâm lên ạ? Lúa má dưới ta thế nào, liệu có cấy được khơng bác?
-Chả cấy thì lấy gì mà ăn. Cấy tất ông ạ. Chân ruộng dưới chúng cháu cịn tốt hơn
trên này nhiều.
-Thì vưỡn! Lúa dưới ta vưỡn tốt nhiều chứ.
Ơng lão rít một hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu:
-Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… Hay đáo để.
-Này bác có biết mấy hơm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế không?
Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào:
-Nó rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu nó khủng bố ơng ạ.
Ơng Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi:
-Nó… Nó vào chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? Người đàn bà ẵm
con cong môi lên đỏng đảnh:
-Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây cịn giết gì nữa.
Cổ ơng lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở
được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ơng cất tiếng hỏi, giọng lạc
hẳn đi:
-Liệu có thật khơng hở bác? Hay là chỉ lại…
-Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông
ạ. Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hơ. Thằng chánh Bệu thì khn cả tủ
chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam nhơng, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngồi tỉnh mà lại.
Có người hỏi:
-Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…
-Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
-Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xơn xao của đám
người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn
bà cho con bú:
-Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn
thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ơng Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ơng thống nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà,
ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hơm nay có vẻ khác, len lén đưa nhau ra
đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ơng lão cứ tràn ra…
Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi
đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… ơng lão nắm chặt hai tay lại và rít lên:
-Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán
nước để nhục nhã thế này! Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình nói khơng được
đúng lắm.
Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Ông kiểm điểm từng người trong óc.
Khơng mà, họ tồn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng. Quyết tâm một
sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy!… Nhưng sao lại nẩy
ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng khơng sai rồi. Khơng
có lửa thì sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực
nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai
người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn
-Này thày nó ạ.
Ơng Hai nằm rũ ra trên giường khơng nói gì.
-Thày nó ngủ rồi à?
-Gì? Ơng lão khẽ nhúc nhích:
-Tơi thấy người ta đồn…
Ơng lão gắt lên:
-Biết rồi!
Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc
vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ
nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà.
-Thế nhưng người ta đồn trên này người ta không chứa những người chợ Dầu nữa
thầy nó ạ.
đều im lặng… Một vài tiếng chó nhúc nhắc sủa phía xa, và có tiếng trẻ khóc văng vẳng
trong tiếng gió. Ơng Hai vẫn trằn trọc khơng sao ngủ được. Ơng hết trở mình bên này lại trở
-Thày nó ngủ rồi ư? Dậy tơi bảo cái này đã.
Ơng Hai bật ngóc đầu dậy, giơ tay trỏ lên nhà trên, ơng sít hai hàm răng lại mà
nghiến:
-Im! Khổ lắm! Nó mà nghe thấy lại khơng ra cái gì bây giờ. Ơng lão lại ngả mình
nằm xuống, khơng nhúc nhích.
*
Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngồi, cả đến bên bác Thứ ơng
cũng khơng dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà
nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình bên ngồi ra sao? Một đám đơng xúm lại ông cũng
để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như
người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”.
Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhơng… là ơng lủi ra một góc nhà,
nín thít. Thơi lại chuyện ấy rồi! Nhưng cịn cái này nữa mà ơng sợ, có lẽ cịn ghê hơn cả
những tiếng kia nhiều. ấy là mụ chủ nhà. Từ ngày xảy ra chuyện ấy, hình như mụ ta lấy điều
làm cho vợ chồng ông khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích. Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng
về, mụ kéo lê cái nạo cỏ quèn quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhịm vào nói những câu bóng gió
xa xơi, như khía vào thịt ơng lão. Thơi thì bây giờ thế nào mà chả phải chịu. Có được chỗ
chui ra chui vào là may lắm rồi. Mỗi lần mụ nói, ông lão chỉ cười gượng làm như không biết
chuyện gì. Ông thì muốn lặng đi như thế, nhưng mụ chủ nhà có để cho ơng n đâu. Sáng
hơm nay lúc bà Hai sắp sửa quang gánh ra hàng thì mụ chủ nhà không biết đi đâu về, mụ
-Bà lão chưa đi hàng cơ à? Muộn mấy?…
-Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này!
-Vâng bà để mặc em… à bà Hai này!… Mụ chạy sát vào bực cửa, thân mật:
-Trên này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây
đấy, ông bà đã biết chưa nhỉ? … Nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu
khỏi vùng này không cho ở nữa.
Mụ chủ chép miệng, giọng ngọt xớt:
-Em cứ khó nghĩ quá… ông bà cũng là người làm ăn tử tế cả. Nhưng mà có lệnh biết
làm thế nào. Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy… Này, ở với nhau đang vui vẻ, ông bà
dọn đi, em lại cứ nhớ đáo để đấy nhớ.
Bà Hai cúi mặt xuống rân rấn nước mắt, bà nói:
-Vâng… thơi thì dân làng đã chả cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi khác
chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ chồng chúng tôi vài
ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là đi đâu…
nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?… Thật là tuyệt
đường sinh sống! Mà khơng gì cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao
Thượng… đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính
sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng cịn mặt mũi nào đi đến đâu.
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” cái câu nói của người đàn bà tản cư hơm trước lại
dội lên trong tâm trí ơng. Hay là quay về làng ?… Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ơng lão
phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ
Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ
ơng. Ơng khơng thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à? Khơng thể
được! Làng thì u thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Ơng lão ơm thằng con út
lên lịng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
-Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
-Là con thầy mấy lỵ con u.
-Thế nhà con ở đâu?
-Nhà ta ở làng chợ Dầu.
-Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
-Có. Ơng lão ơm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
-À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
-Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh mn năm! Nước mắt ơng lão giàn ra, chảy rịng rịng trên
hai má. Ơng nói thủ thỉ:
-Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn
khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ơng lão lại thủ thỉ với con như vậy. Ơng nói như để ngỏ
lịng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Anh em đồng chí biết cho bố con ơng.
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ơng. Cái lịng bố con ơng là như thế đấy, có bao
Khoảng ba giờ chiều hơm ấy, có một người đàn ơng đến chơi nhà ông Hai. Hắn cũng
là người chợ Dầu. Hai người thì thầm ở góc nhà một lúc lâu rồi thấy ơng Hai đóng khăn áo
chỉnh tề tất tả theo hắn đi. ông vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà. Ông Hai đi mãi đến xẩm
tối mới về. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai
trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy… Vừa đến ngõ ông lão đã lên tiếng:
-Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào. Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra, ông lão vội
rút cái gói bọc lá chuối khơ cho con bé lớn:
-Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi đứa một cái. Dứt lời ông lão lại lật đật đi
thẳng sang bên gian bác Thứ. Chưa đến bực cửa, ông lão đã bô bô:
Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lại lật đật bỏ lên nhà trên.
-Tây nó đốt nhà tơi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải
chính… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết, chẳng có
gì sất. Tồn là sai sự mục đích cả!
Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải kể cho người
khác biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người. Ai cũng mừng cho
ông lão. Đến ngay cả mụ chủ nhà là người ông lão yên trí, nghe tin này thế nào mặt mụ
cũng sa sầm xuống mà nói tức nói xóc, thì trái lại, mụ lại tỏ vẻ rất vui sướng. Mụ giương
tròn cả hai mắt lên mà reo:
-A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thơi,
bây giờ thì ơng bà lại cứ ở tự nhiên chả ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết là bao nhiêu. Mụ
cười khì khì:
-Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn… mà ăn mừng đấy! ông Hai gật gật:
-Được, được, chuyến này rồi phải nuôi chứ…
Tối hôm ấy ông Hai lại sang bên gian bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre vén quần
lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ơng. Ơng kể lại hơm Tây vào khủng bố. Chúng
nó có bao thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những
đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao; rành rọt tỉ mỉ như chính ơng lão
vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật…
<b>NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI</b>
<i><b>Lê Minh Kh</b></i>
Chúng tơi có ba người. Ba cơ gái. Chúng tơi ở trong một cái hang dưới chân cao
điểm. Con đường qua trước hang, kéo lên đồi, đi đến đâu đó, xa! Ðường bị đánh lở loét,
màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường khơng có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước
khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc
thành ơ tơ méo mó, han gỉ nằm trong đất.
Việc của chúng tơi là ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất phải
lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Người ta gọi chúng tơi là tổ
trinh sát mặt đường. Cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng. Do đó, cơng
việc cũng chẳng đơn giản. Chúng tơi bị bom vùi ln. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy
hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng trắng lố trên khn mặt nhem nhuốc. Những lúc
đó, chúng tơi gọi nhau là “những con quỉ mắt đen”.
Đơn vị chăm chúng tôi ra trị. Có gì lại bảo "Ðể cho bọn trinh sát, chúng nó ở trên đó vắng".
Ðiều đó cũng dễ hiểu thôi. Ðơn vị thường ra đường vào lúc mặt trời lặn. Và làm việc
có khi suốt đêm.
Cịn chúng tơi thì chạy trên cao điểm cả ban ngày. Mà ban ngày chạy trên cao điểm
Bây giờ là buổi trưa. Im ắng lạ. Tôi ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Tôi mê
hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa lời ra mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn và ngớ
ngẩn đến tơi cũng ngạc nhiên, đơi khi bị ra mà cười một mình.
Tơi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tơi là một cơ gái khá. Hai bím tóc
dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như cái đài hoa loa kèn. Cịn mắt tơi thì các
anh lái xe bảo: “Cơ có cái nhìn sao mà xa xăm!”.
Xa đến đâu mặc kệ, nhưng tơi thích ngắm mắt tơi trong gương. Nó dài dài, màu nâu,
hay nheo lại như chói nắng.
Tơi khơng nói cho ai điều đó. Nhưng các anh qua đường này hay thăm hỏi tôi một
cách trân trọng, thân mến.
- Mày hát hay, người cũng tạm, lại phá bom như quỷ! - Bạn bè tơi giải thích. Tất
Bên ngoài vẫn im ắng. Từ mười giờ sáng đến giờ, máy bay không bay qua cao điểm.
Bom chỉ bỏ ở mạn trong, nghe âm âm. Chính cái âm thanh trầm trầm có vẻ thanh mảnh ấy
bay đến, sự im lặng ở đây lại căng chùng, như báo hiệu một cái gì dữ dội. Nắng rất gắt. Gió
khơ. Nhưng trong hang mắt.
Nho đang thêu gối. Mỗi đứa một ý thích riêng. Nho thêu. Cịn chị Thao thì chép bài
hát vào quyển sổ nhỏ để trên đùi. Hai người đang nói chuyện bình thường, tơi khơng nghe
từ đầu. Tơi bỗng chú ý lắng tai:
- Bao giờ thì xong nhỉ! - Nho hỏi.
- Cái gì xong? - Chị Thao khơng ngẩng lên, nhưng giọng thì tỏ vẻ ngạc nhiên.
Nho ngáp. Rồi im. Tơi biết nó nói gì rồi. Nó sẽ bảo: xong chiến tranh, nó sẽ xin vào
một nhà máy thủy điện lớn. Nó làm thợ hàn, sẽ trở thành cầu thủ bóng chuyền của nhà máy.
Nó sẽ đập thật giỏi. Và viết đâu sẽ được người ta tuyển vào đội bóng chuyền miền bắc.
Cịn chị Thao thì muốn làm y sĩ. Chồng chị sẽ là một anh bộ đội đeo quân hàm đại
uý, hay đi xa và có râu quai nón. Chị khơng thích sống cạnh chồng hàng ngày, vì như thế,
tình u sẽ chóng vơ vị.
Tơi cũng hay nói những dự định của tôi. Ước muốn nhiều. Nhưng tôi vẫn chưa rõ
mình sẽ chọn cái gì là chủ yếu. Trở thành kỹ sư kiến trúc? Rất hay! Thuyết minh trong rạp
chiếu bóng của thiếu nhi, lái xe gấu ở cảng, hay là hát trong đội đồng ca trên một công
trường xây dựng...! Tất cả, đều là hạnh phúc. Tôi sẽ hăng say và sáng tạo, như những ngày
này, trên cao điểm của chúng tôi, nơi ra đời những ước mơ và khao khát.
Nhưng mà, những cái đó dành cho sau này. Sau chiến tranh. Khi con đường chúng tôi
Cái gối trên tay Nho nhỏ nhắn, màu trắng. Nho thêu những bông hoa cẩu thả và lòe
loẹt. Những đường viền to như dây thừng. Có ai chê, Nho phớt tỉnh, tay cứ đưa trên mũi
kim như khơng có gì xảy ra. Khi người ta chê lắm, Nho mím mơi, rứt chỉ bằng hai hàm răng
đều đặn, giọng cao vút lên:
- A, cho nó nổi!
Nho hơi đặc biệt. Vừa thuần hậu, vui vẻ, vừa lì bướng. Hai cái đó khơng mâu thuẫn
mà bổ sung cho nhau, khiến Nho có một đặc tính khá hiếm hơi. Nho sống với tôi từ ngày
mới lên cao điểm này. Dạo đó, cái gì cũng buồn cười. Tơi ngạc nhiên khi người ta bảo tôi đi
gánh đất.
- Thanh niên xung phong như thế này à? Gánh đất? ( Tôi không tưởng tượng thế.
Thanh niên xung phong phải vác súng kia, đi rầm rộ dưới những cánh rừng không trăng sao.
Nói với nhau phải mạnh và gọn như những câu khẩu hiệu...).
Nhưng cũng đi gánh đất. Rồi quen dần.
Nhiều bữa cơm khơng có canh, bọn con gái lấy nước uống chan vào cơm. Chan công
khai và khổ sở đến nỗi bọn con trai phải kêu lên vì thương. Nghe tiếng bom đầu tiên, có đứa
chết giấc, nằm dán xuống đất.
Tôi đến đơn vị sau Nho. Hôm đó, tơi ngơ ngác đặt cái ba lơ lên khúc cây ở sau doanh
trại. Nho ở dưới suối lên. Tóc ướt. Nước đọng từng giọt trong trên trán và trên mũi. Nước
suối chắc là nhiều lắm. Có thể bơi... - tôi nghĩ. Nho đứng lại, một giây thôi, rồi lừ lừ lại gần
tơi, tay vặn cái khăn mặt ướt. Nó hất đầu một cái rồi lướt đôi mắt khinh mạn nhìn từ đỉnh
đầu xuống đơi giày đầy bùn tơi đang ra sức cọ xát vào nhau.
- Ðơn vị nào bổ sung đến? Q đâu? Tên gì?
Khơng cọ xát đơi giày nữa, tôi đứng theo tư thế nghiêm. Những buổi tập qn sự ở
trường, tơi có học võ. Tơi chống tay vào sườn, giữ tư thế thủ và suy tính: có nên nện cho nó
một quả khơng? Nện vào đâu trước tiên? Nếu nó nện lại, tơi sẽ bấm huyệt nhẹ một cái.
Huyệt tay.
Nhưng Nho đã xoay người, đút tay vào túi quần, hất hàm:
- Vào ban chỉ huy! - Và bước đi trước tôi.
Tất nhiên chúng tôi chú ý nhiều đến nhau từ đó. Dần quen và thân nhau lúc nào
khơng biết. Hai đứa đều trịn mười bảy tuổi. Ðứa cũ lên mặt với đứa mới một tí, chả có gì
đáng để bụng. Tơi đâm thích Nho. Cái tính của nó thật tuyệt. Bọn con trai rất kiềng, nhưng
cũng rất dễ trêu.
Cũng như tơi, Nho thích sống tự do. Hai đứa bảo nhau: “Từ giờ đến già chỉ yêu thôi
chứ khơng thèm lấy chồng. Lấy chồng khổ lắm. Tã lót, chăn màn, mùn cưa, nước mắm... thì
giờ đâu mà đi chơi nữa. Yêu, anh ta sẽ mang đi xem chiếu bóng, dỗ dành một tí khí giận
dỗi, đọc sách tha hồ...”
Nho có một anh kỹ sư ở nhà máy cơ khí. Anh ta chăm viết thư và hay viết những cái
thư dài, đọc đến mỏi mắt. “Ở Hà Nội, dù sao cũng khá thì giờ hơn ở tiền phương...”. Anh ta
thanh minh. Nho có một cái ảnh lúc lên hai tuổi, anh ta giữ. Nho mặc quần yếm đen, đội mũ
vải rộng vành, cầm một nắm hoa dại, đứng dưới mấy gốc cải già. Ðã nhiều thư anh ta gửi
Nho, tôi được xem. Anh ta viết: “Anh bây giờ khoẻ mạnh. Thích đá bóng và có hai cánh tay
vạm vỡ. Anh nhìn ảnh em năm em lên hai tuổi và khơng thể nào hình dung nổi em lúc này.
Anh chỉ nghĩ: em đây, bé nhỏ, cầm hoa trên tay. Anh sẽ bế em đi chơi, mua kẹo cho em và
hỏi: “Cháu muốn đi đâu nữa, chú sẽ bế đi...”.
Ý nghĩ của anh kỹ sư thật khôi hài. Nhưng chúng tôi không cười khi đọc thư.
Nghiêm trang, chúng tơi nhìn về hướng Bắc. Ở đó có Hà Nội. Chúng tơi xa đã lâu. Chúng
tôi nhớ thành phố xanh. Chúng tôi quý sự yên tĩnh như kỷ niệm. Ở đây là nơi mà tuổi trẻ
chúng tôi đang lớn lên, nhưng không lúc nào chúng tơi khơng nhớ tới Hà Nội.
Ở Hà Nội, tơi có căn phịng bé, gác hai. Căn nhà của tơi cổ và sâu trong ngõ, có
nhiều cây xanh. Những cây ấy cũng qua bao năm tháng rồi, dây tầm gửi leo đầy. Ban đêm
tơi ngồi lên thành cửa sổ, nhìn ra những mái nhà nhấp nhô, đen thẫm và hát. Tôi hát say sưa,
ầm ĩ. Ở bên cạnh có ơng bác sĩ, một người khó ngủ, phải bật đèn lên, lịch sự gõ vào tường
ba cái. Một tháng phải có hai mươi đêm như vậy. Tôi ngồi chờ giấc ngủ trở lại với ông bác
sĩ và hả hê biện hộ cho mình: “Chỉ có mình mới biết được cái bao la và trong lành của đêm
thành phố. Ơng bác sĩ tìm đâu ra được cái này trong những giấc mơ khó khăn kia?...”. Và
cũng vì hát say sưa nên có lần tôi suýt lộn nhào từ cửa sổ xuống đất. Khi lập cập níu tay vào
cánh cửa rồi, tơi mới chống vàng nhìn xuống cái khoảng sâu thăm thẳm dưới đất. Ở đó có
một vịi nước nhỏ chảy suốt đêm vào bể. Tiếng nước xoắn vào nhau, tạo cho tôi cái cảm
giác nước sắp tràn tới thành cửa sổ. Tơi nhích lên, bỏ hai chân vào trong một cách thận
trọng. Hát tiếp, nhưng hát nhỏ hơn và lắng nghe tiếng gõ ở tường.
bày bữa bãi lên bàn, lên giường, mặc dù những thứ đó chẳng cần thiết gì cho việc sắp làm
của tôi. Tôi cứ loanh quanh trong đám giấy má đó, mãi khơng làm được gì và không thể nào
sắp xếp cho gọn được. Bứt rứt đến phát khóc, tơi gào mẹ thật to. Mẹ bỏ máy khâu, chạy vào,
vừa cằn nhằn, vừa để cái nào ra cái nấy cho tôi. Bà nguyền rủa, không cương quyết lắm:
“Con gái gì cái của mày. Lấy chồng rồi mà no địn... No địn...!”. Vì thế nên ngay lúc ở nhà
tôi đã thề là không lấy chồng...
- Thế nào, chuẩn bị thơi chứ?
- Cái gì? - Tơi giật mình. Từ nãy đến giờ tôi vẫn hát. Hát và nghĩ vớ vẩn.
Nho cuộn tròn cái gối, cất nhanh vào túi. Chị Thao nhìn ra cửa hang. Quả thật, máy
- Sắp đấy! - Nho quay lưng lại chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu. Chị Thao móc
bánh bích quy trong túi, thong thả nhai. Những khi biết rằng cái sắp tới sẽ không êm ả thì
chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực. Nhưng thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét,
áo lót của chị cái nào, cũng thêu chỉ màu. Chị lại hay tỉa đơi lơng mày của mình, tỉa nhỏ như
cái tăm. Nhưng trong công việc, ai cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo.
Những cái xảy ra hàng ngày: máy bay rít, bom nổ. Nổ trên cao điểm, cách cái hang
này khoảng 300 mét. Ðất dưới chân chúng tôi rung. Mấy cái khăn mặt mắc ở dây cũng rung.
Tất cả, cứ như lên cơn sốt. Khói lên, và cửa hang bị che lấp. Không thấy mây và bầu trời
đâu nữa.
Chị Thao cầm cái thước trên tay tôi, nuốt nốt miếng bánh bích quy ngon lành:
- Ðịnh ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi cũng đủ.
Kéo tay áo Nho, vác xẻng lên vai và đi ra cửa.
Tôi không cãi chị. Quyền hạn phân công là ở chị. Thời gian bắt đầu căng lên. Trí não
tơi cũng khơng thua. Những gì đã qua, những gì sắp tới... khơng đáng kể nữa. Có gì lý thú
đâu, nếu các bạn tôi không quay về? Ðiện thoại réo. Ðại đội trưởng hỏi tình hình. Tơi nói
như gắt vào máy:
- Trinh sát chưa về!
Khơng hiểu vì sao mình gắt nữa. Lại một đợt bom. Khói vào hang. Tơi ho sặc sụa và
tức ngực. Cao điểm bây giờ thật vắng. Chỉ có Nho và chị Thao. Và bom. Và tôi ngồi dậy.
Nửa tiếng đồng hồ sau, chị Thao chui vào hang. Bình thản, mệt lả và cáu kỉnh, chị
khơng nhìn tơi:
Rồi ngồi xuống, uống nước trong bi đông. Nước nhỏ từ cằm xuống ao, liên tiếp như
những giọt mưa. Tôi quay điện về đơn vị. Ðại đội trưởng bảo?
- Thế à, cảm ơn các bạn!
Ðại đội trưởng rất hay dùng những từ tế nhị như “cảm ơn”, “xin lỗi”, “chúc may
mắn”. Anh trẻ, người gầy, hay đau khớp, hay làm ca dao cho báo tường. Nhà đâu như cuối
phố Lò Ðúc.
Nho vừa tắm ở suối lên. Khúc suối đó cũng hay có bom nổ chậm. Cứ quần áo ướt, Nho
ngồi, địi ăn kẹo. Tơi móc trong túi, may cịn hai cái kẹo chanh, dính đầy cát, chảy nước:
- Bốn quả nổ chậm, ít thơi.
Nho chống tay về đằng sau, ngả hẳn người ra. Cái cổ tròn và những chiếc cúc áo nhỏ
nhắn. Tơi muốn bế nó lên tay. Trơng nó nhẹ, mát mẻ như một khe kem trắng. Ðại đội
- Hay lắm, cảm ơn các bạn! - Ðại đội trưởng lại cảm ơn - Cả đơn vị đang làm đường
cho một trung đoàn tên lửa qua rừng. Ði từ sáng không ngủ. Tôi cũng đi bây giờ. Các bạn cố
gắng nhé.
Thế là tối lại ra đường luôn. Thường xuyên...
Tôi, một quả bom trên đồi. Nho hai quả dưới lòng đường. Chị Thao, một quả dưới
chân cái hầm Ba-ri-e cũ.
Vắng lặng đến phát sợ. Cây cịn lại xơ xác. Ðất nóng. Khói đen vật vờ từng cụm
trong khơng trung, che đi những gì từ xa. Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tơi khơng?
Chắc có, các anh ấy có những cái ống nhịm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt. Tơi đến gần
quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tơi khơng sợ nữa. Tơi sẽ khơng
đi khom. Các anh ấy khơng thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hồng mà bước tới.
Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Ðầu này có vẽ
hai vịng trịn màu vàng...
Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Ðất rắn. Những hịn sỏi theo tay tơi bay ra
hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa
vào da thịt tôi. Tơi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm q chậm. Nhanh lên một tí!
Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành.
Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng.
Chị Thao thổi cịi. Như thế là đã hai mươi phút qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn
xuống cái lỗ đã đào, châm ngịi. Dây mìn dài, cong mềm. Tơi khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn
Hồi cịi thứ hai của chị Thao. Tơi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Khơng có
gió. Tim tơi cũng đập khơng rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động
chung quanh là chiếc kim đồng hồ. Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh
cửu. Còn đằng kia, lửa đang chui bên trong cái dây mìn, chui vào ruột quả bom…
Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kỳ quái, đến váng óc. Ngực tơi nhói, mắt cay, mãi
mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi
âm thầm trong những bụi cây. Mảnh bom xé khơng khí, lao và rít vơ hình trên đầu.
Tơi phủi áo, căng mắt nhìn qua khói và chạy theo chị Thao. Muốn xuống chờ Nho để đi
về hang, chị Thao phải qua chỗ tôi. Chị cười, răng trắng, vết sẹo bóng lên, mảnh dù bay trên
lưng, chị lao lên trước tơi. Gió cố tình giật mảnh dù trên lưng chị, nhưng không giật nổi.
Chị Thao vấp ngã, tôi đỡ chị. Nhưng chị vùng ra, mắt mở to, mờ trắng đi như khơng
cịn sự sống. Sao vậy? Tôi không hiểu. Chị kéo luôn tay tôi, sà xuống mô đất. Vâng, một mô
đất nhỏ, hơi dài, phủ đầy thuốc bom màu xám.
- Nho, bị thương ở chỗ nào? Bị ở đâu, em?
Chị nghẹn ngào, không nước mắt. Tơi moi đất bế Nho đặt lên đùi mình. Máu túa ra
từ cánh tay Nho, túa ra, ngấm vào đất. Nó khơng giống cái que kem trắng của tơi khi nãy
nữa. Da xanh đi, mắt nhắm nghiền, quần áo đầy bụi. Quả bom tung lên và nổ trên không.
Hầm nó nấp bị sập.
Thế đấy!
Tơi rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than. Bông băng trắng. Vết thương
không sâu lắm, vào phần mềm. Nhưng vì bom nổ gần, Nho bị chống. Tơi tiêm cho Nho.
- Gọi điện về đơn vị nhé!
Chị Thao lại gần khi Nho đã nằm tinh tươm, sạch sẽ trên chiếc giường ghép bằng
những thanh gỗ to.
- Không chết đâu. Đơn vị đang làm đường kia mà. Việc gì phải khiến cho nhiều
người lo lắng. Ơ, cái bà này! Sao bà cứ cuống quýt lên vậy?
- Thường thế, người ngoài cảm thấy đau hơn người bị thương mà.
Chị Thao quay mặt ra cửa hang, lại uống nước trong bi đông. Nho gác một cánh tay
lên mắt. Nó cũng biết bây giờ khơng nên uống nước. Tơi pha sữa cho nó trong cái ca sắt.
- Cho nhiều đường vào. Pha đặc! - Chị Thao bảo.
Uống sữa xong, Nho ngủ. Máy bay trinh sát vẫn nạo vét sự yên lặng của núi rừng.
Chị thao dựa vào tường, hai tay qng sau gáy, khơng nhìn tơi.
- Hát đi, Phương Ðịnh, mày thích bài gì nhất, hát đi!
Tơi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt
trận. Tơi thích dân ca quan hộ mềm mại, dịu dàng. Thích “Ca-chiu-sa” của Hồng qn Liên
Xơ. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc cịn xanh xanh...”. Ðó là dân ca Ý trữ
tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm. Thích nhiều. Nhưng tơi khơng muốn hát lúc này. Tôi
đâm cáu với chị Thao, mặc dù, tôi hiểu, những tình cảm gì đang quay cuồng trong chị. Chị
cứ đưa mắt nhìn Nho, lấy tay sửa cái cổ áo, cái ve áo và tóc nó. Chị khơng khóc đó thơi, chị
không ưa cả nước mắt. Nước mắt đứa nào chảy trong khi cần phải cứng cỏi của nhau này là
Có một đám mây kéo ngồi cửa hang. Một đám nữa. Rồi một đám nữa bay qua ngày
càng nhanh. Bầu trời mở rộng trước cửa hang đen đi. Cơn giơng đến. Cát bay mù. Gió quật
lên, quật xuống những cành cây khô cháy. Lá bay loạn xạ. Ðột ngột như một biến đổi bất
thường trong tim con người vậy. Ở rừng mùa này thường như thế. Mưa. Nhưng mưa đá. Lúc
đầu tơi khơng biết. Nhưng rồi có tiếng lanh canh gõ trên nóc hang. Có cái gì vơ cùng sắc xé
khơng khí ra từng mảnh vụn. Gió. Và tôi thấy đau, ướt ở má.
- Mưa đá! Cha mẹ ơi! Mưa đá!
Tôi chạy vào, bỏ trên bàn tay đang xòe ra của Nho mấy viên đá nhỏ. Lại chạy ra, vui
thích cuống cuồng.
Năm tơi học hết lớp mười, cũng có mưa đá. Ðang đêm, đá đập vào tường, đá cũng
kêu lanh canh. Tôi mở tung cửa, chạy ra hành lang, rồi chạy đến đập cửa từng phịng, hét
tống lên như một con dở người:
- Trời ơi, dậy mau! Mưa đá!
Và rên rỉ một mình:
- Chỉ có những kẻ ngốc mới nằm n trên giường lúc này thơi.
Ơng bác sĩ khơng ngốc tí nào, nhưng ơng ta trịnh trọng tun bố:
- Nếu cơ cịn làm ồn, chúng tơi buộc phải có biện pháp...
Cịn bà giáo ở bên cạnh thì thở dài, thở dài đến nào ruột:
- Mẹ ơi, không cho con người ta ngủ nữa sao...?
Chỉ có anh cơng nhân lái xe dưới nhà là thức trọn cùng tôi cái đêm kỳ diệu đó. Sau
này anh đi bộ đội, thành dũng sĩ diệt xe cơ giới. Anh ta viết thư cho tôi, hay nhắc đến những
Ở đây, trên cao điểm đầy bom này cũng có mưa đá. Nhưng niềm vui con trẻ của tôi
lại nở tung ra, say sưa, tràn đầy. Chẳng ai có thì giờ mà gắt tơi. Chị Thao đang lúi húi hốt
cái gì dưới đất. Chắc là đá. Cịn Nho thì nhổm dậy, mơi hé mở:
- Nào, mày cho tao mấy viên nữa.
Nhưng tạnh mất rồi. Tạnh rất nhanh như khi mưa đến. Sao chóng thế? Tơi bỗng thẫn
thờ, tiếc khơng nói nổi. Rõ ràng tơi khơng tiếc những viên đá. Mưa xong thì tạnh thơi. Mà
tơi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời
thành phố. Phải, có thể những cái đó... Hoặc là cây, hoặc là cái vòm tròn của nhà hát, hoặc
bà bán kem đẩy cái xe chở đầy thùng kem, trẻ con háo hức bâu xung quanh. Con đường
nhựa ban đêm, sau cơn mưa mùa hạ rộng ra, dài ra, lấp lống ánh đèn, trơng như một con
sơng nước đen. Những ngọn điện trên quảng trường lung linh như những ngơi sao trong câu
chuyện cổ tích nói về những xứ sở thần tiên. Hoa trong công viên. Những quả bóng sút vơ
tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố. Tiếng rao của bà bán xơi sáng có cải mủng đội
trên đầu...
Chao ơi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thiệt xa... Rồi bỗng chốc, sau
một cơn mưa đá, chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí tơi.
và kẹo chanh. Thường chúng tơi khơng biết ai ném xuống vì xe phải qua trọng điểm thật
nhanh. Nhưng chúng tôi truyền nhau:
- Có đồn xe ở Hà Nội vào!
Ở Hà Nội mới có những thứ đó.
Những thứ đó, ở Hà Nội, chúng tôi không để ý đến. Ở đây, chúng tôi cảm thấy hạnh
phúc khi cầm một tờ giấy thơm mỏng, bỏ vào phong bì, gửi những người cịn ở trước chúng
- Nằm xuống! - Chị Thao thét.
Như bị một quả tống bất ngờ vào bụng, tôi co người lại rồi mới nằm dài ra. Bom!
Hình như nó rơi lộp bộp rồi mới nổ. Mặt đất như một người khổng lồ đang rùng mình.
Cứ như có đến hàng ngàn cái máy bay nhào lộn trên đầu. Tôi lết vào hang. Chị Thao
lết vào hang. “Mẹ kiếp, không để cho người ta thở nữa chắc...” - Chị lầu bầu. Mảnh dẻ, cân
đối, tóc xõa trên vai, cái sẹo chìm trong bóng tối, chị đứng, một tay vịn lên cái dây phơi
khăn mặt. Giá có giọng nói tốt, chị đi đóng kịch thì hơn. Dáng chị lên sân khấu cũng coi
được. Nhưng phải cái giọng thì chua đến chối tai. Chị tự nhận như thế.
- Ðể máy điện thoại lại gần dây! - Nho ra hiệu.
Tôi bưng máy lại cho Nho, cầm thước và đi ra với chị Thao.
Chạy nhiều nên vết thương ở đùi tôi bắt đầu đau. Miễn là đừng khập khiễng. Chị
Thao rất cương quyết. Tất nhiên chị chẳng ngại lên cao điểm một mình.
Rất nhiều hố bom. Chúng tơi đo đất và hô lên, cộng nhẩm. Chị Thao ghi vào cuốn sổ
trực. Khơng có bom nổ chậm, nhưng khá nhiều đất. Tổng cộng đến hơn hai nghìn khối.
Bỗng, như có cái gì thúc mạnh vào lưng, chị Thao xơ tới, ghì tơi vào ngực chị và xồi xuống
đất. Chớp nhống, một núi đất khổng lồ ập xuống chúng tơi. Những tảng đất ướt lẫn với đất
vụn khô đào từ đáy hố bom. Nóng. Có cái gì ghì đầu tơi xuống. Tôi ngoi ra, chân đạp xuống
lấy đà, ngoi lên, ngoi... Thở, cát vào mũi. Lắc đầu. Ðất rơi rào rào. Chung quanh tơi là một
màu xám như chì, nặng nề, cuồn cuộn khói.
Khơng thấy chị Thao đâu. “Chị Thao!” - Tôi ráng sức gào lên. Nhưng cổ tắc nghẹn.
Ðất vào đặc cả miệng. Mẹ kiếp! Tôi khạc nhổ ra một cục đất. Tay tơi chạm vào tóc chị
Nho nhăn mặt như em bé:
- Lại thế rồi?
Chị Thao cười một cách lạ lùng và dần trấn tĩnh:
- Xúi quẩy tí. Nhưng khơng việc gì đâu.
Xúi quẩy gì. Trong người chị có chín vết thương lớn nhỏ rồi. Người Nho năm. Tơi
cịn ít hơn, bốn vết. Có một vết ở bụng khá nặng, bị giam vào quân y ba tháng. Cịn bị vùi
thế này là thường...
Tơi nhìn các bạn tôi. Chị Thao xanh lắm. Chị mệt rồi. Nho bưng lại cho chị một ca
nước, đưa ngón tay út bé tạo gẩy những mẩu đất trong tóc chị ra và đột nhiên triết lý:
- Chuyện, cao điểm mà lị!
Tôi quay máy điện thoại. Chị Thao vội vàng lại bên tơi:
- Nói rõ tất cả, nhưng bảo rằng trên này vẫn vững.
Không phải đại đội trưởng ở máy mà là liên lạc đại đội - Một anh chàng hiếu khách,
lịch sự, không hút thuốc lá và không ưa con gái.
- Ðại đội trưởng đi đâu?
- Ðang chỉ huy ngoài hiện trường, tên lửa gần qua. Nhưng sắp chiều rồi nhỉ. Ai cũng
không ngủ được. Thế các cậu?
- Cũng khá mệt. Ðất hơn hai nghìn khối. Cịn từ giờ đến tối nữa. Bọn mình vẫn đứng
- Nếu gay quá, bắn súng cấp cứu ngay, nghe chưa? Ðơn vị lúc nào cũng để tâm hết
vào các cậu ở trên đó đấy. Xung kích sẽ lên sớm...
Buổi chiều, chị Thao và tôi phải chạy lên cao điểm ba lần nữa. Phá tám quả bom.
Cịn đất thì lên đến ba nghìn hai trăm khối. Lần nào tôi cũng bày chuyện để chị Thao ở nhà.
Nhưng chị láu lắm, khó mà lừa được chị. Chị chạy, thở cứ dồn dập cả lên. Gân xanh chạy
từng dòng nho nhỏ trên thái dương và hai bàn tay chị. Tơi lo chị gục q. Cịn Nho thì cau
mày, mỗi lần chúng tơi về hang, lại đi ra, miệng nhắc đi nhắc lại:
- Chị Thao, chị Thao!
Lần cuối cùng chúng tơi đi như bị về hang. Chị Thao đỡ tôi nằm xuống. Tôi cố mở
hai mi mắt đã nhắm lại, dính như keo và chẳng biết mình muốn cái gì bây giờ.
- Em buồn ngủ! - Tôi nghe tiếng tôi thoảng qua. Rồi cái mát mẻ của hang đá tràn
ngập trong giấc ngủ của tôi rất nhanh.
Ðồi xung kích của đơn vị ở chỗ làm đường trong rừng ra, chắc chưa kịp ăn cơm đã
chạy lên cao điểm... Tiếng họ lơ mơ như từ đâu đưa lại. Họ hỏi cái gì đó, chị Thao trả lời.
Họ trêu Nho. Nho cáu, cười. Ai nữa hát nho nhỏ...
Có một vài sợi tóc của ai chạm vào má tơi. Những tiếng thở ở phía trên, ấm, bao trùm
lấy tơi. Tơi có cảm giác như nằm gọn trong vịng tay của mẹ.
- Dân Hà Nội đấy!
Tôi nhận ra tiếng của liên lạc đại đội và tỉnh hẳn. Cậu ta cũng là dân Hà Nội. Bố là
công nhân điện. Mẹ là công nhân may mặc. Ở nhà, cậu ta hay trốn học và hay bị điểm hai.
- Này, nếu đi chơi với người yêu, thế nào cậu cũng bắt cơ ta cắt tóc, mặc com-plê và
đi ủng đen chứ gì?
Cậu ta lúng túng, gãi đầu, mặt đỏ nhừ:
Hai tay chống đằng sau. Tơi bật dậy, đau ở đùi, nhói lên. Ðau đầu và các khớp xương.
Nhưng cũng dậy được. Liên lạc đại đội đỡ tơi:
- Ðiên hả, mệt thì ngủ đi.
- Ra đường đây.
- Ra đường! - Cậu cười, môi mỏng, răng rất đều và hai cái lông mày to - Không đi
đâu hết. Trước hết là ngủ.
- Vớ vẩn, ngủ với nghiếc!
Tôi lầu bầu và đi ra cửa hang, sờ soạng như một người mù. Khơng phải chỉ có tơi
“điên” mà Nho cũng đã biến đi đâu mất. Chị thao cịn “điên” hơn, tơi nghe tiếng chị cười rất
to trên cao điểm.
Tôi thấy Nho trong một tốp bộ đội công binh. Nho cho tôi biết là đã sắp nửa đêm, xe
gần chạy. Trong khi tôi ngủ, bom nổ trên cao điểm mấy lần nữa. Nhưng ổn hết, vì có đội
xung kích.
Cao điểm vẳng xuống tiếng máy ủi đất, tiếng cuốc và tiếng nói cười. Ðơi lúc mìn nổ.
Nổ to hơn tiếng bom. Những ngôi sao trên đầu tôi lay động. Những ngôi sao rất xa, trong
- Này, các cô gái Hà Nội ơi! Nhớ mẹ quá hầy!
- Hình như anh Thắng ở đồn Quang Trung.
Nho thì thầm. Băng ở cánh tay nó trắng. Im lặng, mặt trịn, sống mũi thẳng, nó đứng
sát bên tơi, lại nhẹ nhàng và mát mẻ như một que kem trắng.
- Chúng nó bảo tao phải vào quân y. Tưởng bở. Tiêm hàng ngày này, thuốc viên này,
cháo thịt nữa, phải ăn cho nhiều nhé... Eo ơi! Cứ y như một cô tiểu thư nhõng nhẽo nằm trên
giường ấy. Tưởng bở mà bắt được tao đi đấy. Ðến phát sợ lên được! - Nó “xì” một tiếng,
làm như là tơi đang chuẩn bị lơi nó lên xe qn y khơng bằng. Nó quay sang nói chuyện với
một anh công binh về hiện tượng sao băng khi thấy ở đầu cánh rừng có một giọt tinh tú rơi
dài xuống, mất đi nửa chừng.
Tôi khoanh tay trước ngực, đứng ra xa một tí, khơng nhìn anh bộ đội mà nhìn một
chiếc xe đang đi tới. Tơi lại điệu thế thôi. Nhưng bảo tôi không điệu sao được? Chẳng lẽ,
ngay lúc này đây, tôi lại chạy đến, nắm tay tất cả các chiến sĩ trên cao điểm này mà ồ lên
khóc vì một niềm vui, một niềm hạnh phúc trẻ trung đang trào dậy. Tôi yêu tất cả mọi
người, một tình u nồng nàn, khó nói mà có lẽ ai đã đứng trên cao điểm giữa những phút
này như tôi mới hiểu thấu...
Xe đi dăng hàng, thành khối trên đường, không ánh đèn. Lá nguỵ trang làm mỗi xe to
ra gấp đơi. Ðối với tơi, bao giờ những đồn xe ấy cũng vơ tận, khơng có sức mà đếm. Dài.
- Chắc đêm nay các anh ở Hà Nội sẽ vào!
tim là những người chiến sĩ. Tôi quàng tay lên vai Nho. Chúng tôi không nói gì với nhau.
Tơi siết chặt cái vai nhỏ nhắn và mềm mại của Nho dưới cánh tay mình. Nó đây, can đảm,
dịu hiền, ở cùng thành phố với tôi và cùng đứng với tôi đêm nay, trên cao điểm đầy bom
gần mặt trận. Chúng tôi hiểu nhau và cảm thấy hạnh phúc.
Năm 1971
<i> </i> <i> (Truyện ngắn Lê Minh Khuê. Nhà xuất bản Văn học 1994)</i>
Rời cầu cây số 4 một quãng, xe trèo lên núi. Mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các
thung lũng. Chỉ thấy thấp thống trong màu xanh bao la, ở phía trước, một vệt hình ba góc
màu vàng, chính là đoạn đường mình vừa đi qua. Đi một lúc lâu, ngửng lên, vẫn thấy cái vệt
ba góc đó. Đến bây giờ, người lái xe già mới cất tiếng nói:
- Con suối có thác trắng xoá ta vừa qua là trạm rừng. Một lúc nữa thì tới Sapa. Bác
khơng ghé thăm Sapa ư? Họa sĩ nào cũng đến Sapa! Ở đấy tha hồ mà vẽ. Tôi đi đường này
ba mươi hai năm. Trước Cách mạng tháng Tám, tôi chở lên chở về mãi nhiều họa sĩ như
bác. Họa sĩ Tô Ngọc Vân này, họa sĩ Hoàng Kiệt này…
Thật là đột ngột! Nhà hội họa có tuổi mỉm cười thay lời đáp. Lúc nãy, ở bến Lao Cai,
lúc xe sắp nổ máy, thấy hàng ghế thứ ba chật vì đơi vợ chồng Mèo trẻ mua vé không cùng
chuyến nhưng nhất định không rời nhau, bác lái xe mời ông lên ghế đầu, ngồi giữa bác và một
cơ gái. Ơng vừa n chỗ, bác lái xe ngắm nghía thế nào hỏi ngay: “Bác là họa sĩ à?” À, ra thế
- ông nghĩ thầm – bác từng quen nhiều họa sĩ. Cũng là một tay lái có máu nghệ thuật đây.
- Nực cười, lúc cịn trẻ, tơi cũng qua đường này nhiều lần chứ. Gíá vẽ, hộp màu, cuộn
Cơ gái nhếch mép cười, có vẻ rất bằng lịng về việc ơng được chuyển lên ngồi cạnh
cơ. Sau một đêm và một ngày đi tàu từ Hà Nội, cùng ngồi trong một ngăn toa cứ chật dần
lên, đến nơi lại khơng có cách nào khác đành gộp hành lý luồn vào một chiếc đòn gánh cùng
khênh đến khách sạn cách thị xã bốn cây, sau một đoạn đường như vậy, người ta coi nhau
như là bà con. Nhà họa sĩ có cái cảm giác lẫn lộn thường có ở tuổi già, nhanh chóng coi cơ
gái là con.
- Tuần lễ này, ở nhà, anh em định làm tiệc tiễn tơi về hưu. Tơi xin anh em hỗn bữa
tiệc đến cuối tuần sau. Đợi tôi đi chuyến “thực tế” này về đã. Đối với một nghệ sĩ, trong
cuộc đời có hai hồi thích nhất, đó là hồi mình cịn trẻ và hồi này của tơi. Mình có thể năng
nổ đi, vẽ, như thời thanh niên. Mình có thêm sự chín chắn hồi ấy mình chưa có. Khơng bi
quan, khơng ảo tưởng, tơi cho tơi cũng cịn được mười năm sống nữa. Phải vẽ được cái gì
suốt đời mình thích, cơ nhỉ?
Ơng dễ dàng cởi mở với cơ gái những lời tự tin mà, đã già, ông vẫn giữ một cách
khiêm tốn vơ lí, khơng bao giờ dám thổ lộ với bạn bè. Cịn cơ gái là kĩ sư vừ đỗ, đi nhận
việc ở Ti Nông nghiệp Lai Châu. Lần đầu ra khỏi Hà Nội, qua cuộc đời học trò chật hẹp,
bước vào cuộc sống bát ngát mới tinh, cái gì cũng làm cho cơ háo hức. Cơ cứ nhìn ra ngồi
cửa xe, mắt lặng lẽ mà say mê. Cơ là thanh niên trẻ ra trường có thể đi bất kì đâu, làm bất kì
gì, nhận bất kì lương hướng, tiếp đón thế nào, cơ thấy lịng cơ cũng nhẹ nhàng. Sự thật thì
cơ cũng có lần u, nhưng rồi xóa ngay vì biết mình lầm.
Hai ngày sống gần với nhau, với sự nhạy cảm riêng của người nghệ sĩ, nhà hội họa
già biết điều đó. Ơng nói như nói một điều hiển nhiên và không quan trọng:
- Đối với một người khao khát trời rộng, sự dứt bỏ một tình yêu nhiều khi lại nhẹ
- Hay đấy. Tôi cũng đi Lai Châu. Tôi sẽ đưa cô đến ti, giao cô tận tay ông trưởng ti,
nhờ ông ta hết sức giúp cô, xem qua chỗ ăn, chỗ nằm của cô như một ông bố thật sự, rồi tôi
quay về. Cô không lo đâu.
Như vậy đấy, bắt đầu sự thân thiết giữa cô gái và ơng già vui tính.
- Có. Tơi có nhận ra. Sa Pa bắt đầu với những rặng đào. Và với những đàn bị lang cổ
có đeo chuông ở các đồng cỏ trong lũng hai bên đường. Chỗ ấy là Tả Phình phải khơng bác?
- Nhà họa sĩ hỏi.
- Vâng. Bác khơng thích dừng lại Sa Pa ạ?
- Thích chứ, thích lắm. Thế nào tơi cũng về ở hẳn đấy. Tôi đã định thế. Nhưng bây
giờ chưa phải lúc.
- Bác sợ Sa Pa buồn chứ gì?
Nhà họa sĩ phá lên cười:
- Buồn thì ai mà chả sợ? Nó như con gián gậm nhấm người ta? Tốt hơn là tránh nó để
làm việc đời.
Những nét hớn hở trên mặt người lái xe chợt duỗi ra rồi bẵng đi một lúc, bác khơng
nói gì nữa. Cịn nhà họa sĩ và cơ gái cũng nín bật, vì cảnh trước mặt bỗng hiện lên đẹp một
cách kì lạ. Nắng bây giờ bắt đầu lèn tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thơng chỉ cao q
đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử
kính thỉnh thoảng nhơ cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua,
cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm
- Cái gì thế?
Bác lái xe xướng to:
- Cho xe nghỉ một lúc lấy nước. Luôn tiện bà con lót dạ. Nửa tiếng, các ơng, các bà nhé.
Trong lúc mọi người xơn xao vui vẻ phía sau lưng, bác lái xe quay sang nhà họa sĩ
nói vội vã:
- Tôi sắp giới thiệu với bác một trong những người cơ độc nhất thế gian. Thế nào bác
cũng thích vẻ hắn.
Khơng hiểu sao nói đến đây, bác lái xe lại liếc nhìn cơ gái. Cơ bất giác đỏ mặt lên!
- Một anh thanh niên hai mươi bảy tuổi! Đây là đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm
mét. Anh ta làm cơng tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Cách đây bốn năm, có hơm tơi cũng
đang đi thế này chợt thấy một khúc thân cây chắn ngang đường, phải hãm lại. Một anh
thanh niên ở đâu chạy đến, hè với tôi và khách đi xe đẩy khúc cây ra một bên cho xe đi. Hỏi
ở đây mà ai đẩy cây ra giữa đường thế này, anh chỉ đỏ mặt. Thì ra anh ta mới lên nhận việc,
sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người
quá, anh ta kiếm kế dừng xe lại để gặp chúng tơi, nhìn trơng và nói chuyện một lát. Kìa, anh
ta kia.
Những lời giới thiệu trước ấy làm nhà họa sĩ già xúc động mạnh khi nhìn thấy người
con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ. Ơng
khơng chú ý cơ con gái cũng víu chặt vào vai ơng, nửa vì tị mị, nửa vì để tự vệ chống lại
một cái gì đó. Người con trai đưa cho bác lái xe một gói nhỏ:
- Cái gì thế này? - Bác lái xe hỏi.
- Củ tam thất cháu vừa đào thấy. Cháu gửi bác gái ngâm rượu uống. Hôm nọ bác
chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy là gì?
Người con trai mừng quýnh cằm cuốn sách còn đang cười cười nhìn khắp khách đi
xe bây giờ đã xuống đất tất cả. Kẻ đang vươn vai, người ngồi bệt xuống ven đường giở thức
ăn mang theo ra. Bác lái xe dắt anh ta lại chỗ nhà hội họa và cô gái:
- Đây, tôi giới thiệu với anh một họa sĩ lão thành nhé. Và cô đây là kĩ sư nông
nghiệp. Anh đưa khách về nhà đi. Tuổi già cần nước chè, ở Lao Cai đi sớm quá. Anh hãy
đưa ra cái món chè pha nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà anh.
Anh thanh niên đỏ mặt, rõ ràng luống cuống:
- Vâng, mời bác và cô lên chơi. Nhà cháu kia. Lên cái bậc cấp kia, trên ấy có cái nhà
đấy. Nước sơi đã có sẵn, nhưng cháu về trước một tí. Bác và cơ lên ngay nhé.
Nói xong, anh chạy vụt đi, cũng tất tả như khi đến.
- Bác và cơ lên với anh ấy một tí. Thế nào bác cũng thích vẽ anh ta - Người lái xe lại nói.
Họa sĩ nghĩ thầm: “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa
kịp gấp chăn chẳng hạn.” Ông rất ngạc nhiên khi bước lên bậc thang bằng đất, thấy người
thanh niên đang hái hoa. Cịn cơ kĩ sư chỉ “ơ” lên một tiếng! Sau gần hai ngày, qua ngót bốn
trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, đứng trông mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng
kia, bỗng nhiên lại gặp hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong… ngay
lúc dưới kia là mùa hè, đột ngột và mừng rỡ, quên mất e lệ, cô chạy đến bên người con trai
đang cắt hoa. Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã
cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy.
- Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý. Cơ cứ cắt một
bó rõ to vào. Có thể cắt hết, nếu cơ thích. Tơi khơng biết kỷ niệm thế nào cho thật long
Người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều ta ít
nghĩ. Việc ấy làm bác già và cô gái cảm động và cuốn hút ngay. Cơ ơm bó hoa vào ngực,
bạo dạn nhìn thẳng vào mặt anh. Anh thanh niên bắt gặp cái nhìn đó, phủi vội giọt mồ hơi
trên sống mũi, mỉm cười, hạ giọng hỏi:
- Cũng đoàn viên, phỏng?
- Vâng - cơ gái sẽ nói.
đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn
thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngồi như chỉ chực
mình ra là ào ào xơ tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc, mà
gió thì giống những nhát chổi muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng
lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.
Anh thanh niên đang nói, dừng lại. Và tại sao họa sĩ cảm giác mình bối rối? Vì nhác
thấy người con gái nhỏ nhẻ, e lệ, đứng giữa các luống dơn, không cần hái hoa nữa, ơm
ngun bó hoa trong tay, lắng tai nghe? Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước
được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới
đủ là giá trị một chuyến đi dài.
- Anh nói nữa đi - Ơng giục.
- Báo cáo hết! - Người con trai vụt trở lại giọng vui vẻ. - Năm phút nữa là mười. Cịn
hai mươi phút thơi. Bác và cơ vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đấy.
Thì giờ ngắn ngủi cịn lại thúc giục cả chính người họa sĩ già. Ông theo liền anh
thanh niên vào trong nhà, đảo nhìn qua một lượt trước khi ngồi xuống ghế. Một căn nhà ba
Họa sĩ nhấp chén trà nóng ba ngày nay ơng mới lại gặp, khơng giấu vẻ thích thú, tự
rót lấy một chén nữa, nói ln:
- Ta thỏa thuận thế này. Chuyện dưới xuôi, mười ngày nữa trở lại đây, tôi sẽ kể anh
nghe. Tôi sẽ trở lại, danh dự đấy. Tôi cũng muốn biết cái yên lặng lúc một giờ sáng chon
von trên cao nó thế nào. Bây giờ có cả ba chúng ta đây, anh hãy kể chuyện anh đi. Sao
người ta bảo anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh “thèm” người lắm?
Anh thanh niên bật cười khanh khách:
- Các từ ấy đều là của bác lái xe. Khơng, khơng đúng đâu. Một mình thì anh bạn trên
trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu.
Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ.
Anh hạ giọng, nửa tâm sư, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều:
Anh xoay sang người con gái đang một mắt đọc cuốn sách, một mắt lắng nghe, chân
cô đung đưa khe khẽ, nói:
- Và cơ cũng thấy đấy, lúc nào tơi cũng có người trị chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà.
Mỗi người viết một vẻ.
- Quê anh ở đâu thế? - Họa sĩ hỏi.
- Quê cháu ở Lào Cai này thôi. Năm trước, cháu tưởng cháu được đi xa lắm cơ đấy,
hóa lại khơng. Cháu có ơng bố tuyệt lắm. Hai bố con cùng viết đơn xin ra lính đi mặt trận.
Kết quả: bố cháu thắng cháu một - không. Nhân dịp Tết, một đoàn các chú lái máy bay lên
thăm cơ quan cháu ở Sa Pa. Khơng có cháu ở đấy. Các chú lại cử một chú lên tận đây. Chú
ấy nói: nhờ cháu có góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy, không
quân ta hạ đựơc bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Đối với cháu, thật là đột ngột,
không ngờ lại là như thế. Chú lái máy bay có nhắc đến bố cháu, ơm cháu mà lắc “Thế là
một - hịa nhé!”. Chưa hịa đâu bác ạ. Nhưng từ hơm ấy cháu sống thật hạnh phúc. Ơ, bác vẽ
cháu đấy ư? Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác
đáng cho bác vẽ hơn.
Phải, người họa sĩ già vừa nói chuyện, tay vừa bất giác hí hốy vào cuốn sổ tì lên đầu
gối. Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong
cuộc hành trình vĩ đại là cuộc đời. Ơng thấy ngịi bút của ơng bất lực trên từng chặng đường
đi nhỏ của ơng, nhưng nó như là một quả tim nữa của ơng, hay chính là quả tim cũ được “đề
cao” lên, do đó mà ông khao khát, mà ông yêu thêm cuộc sống. Thế nhưng, đối với chính
nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan. Làm một bức chân dung,
phác họa như ông làm đây, hay rồi vẽ dầu, làm thế nào làm hiện lên được mẫu người ấy?
Cho người xem hiểu được anh ta, mà không phải hiểu như một ngôi sao xa? Và làm thế nào
đặt được chính tấm lịng của nhà họa sĩ vào giữa bức trnh đó? Chao ơi, bắt gặp một con
người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hồn thành được sáng tác cịn
là một chặng đường dài. Mặc dù vậy, ông đã chấp nhận sự thử thách.
Để khỏi vô lễ, người con trai vẫn ngồi n cho ơng vẽ, nhưng cho là mình khơng
xứng với thử thách ấy, anh vẫn nói:
- Khơng, bác đừng mất công vẽ cháu! Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau
dưới Sa Pa ! Ngày này sang ngày khác ông ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách ong
Trong cái lặng im của Sa Pa , dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ
nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ
như vậy cho đất nước.
trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người. Những điều suy nghĩ đúng đắn bao
giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn mà
chưa rõ hay chưa được đúng. Ví dụ như quan niệm về cái đất Sa Pa mà ông quyết định sẽ chỉ
đến để nghỉ ngơi giai đoạn cuối trong đời, mà ơng u nhưng vẫn cịn tránh.
Những băn khoăn ấy làm cho nhà hội họa không nhận xét được gì ở cơ con gái ngồi
trước mặt đằng kia. Những điều cô cùng nghe, cộng với những điều cô khám phá thấy trên
hai trang sách hay đang đọc dở của người con trai làm cơ bàng hồng. Có phải cái ánh sáng
trong quyển sách rọi sang, làm cho cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp
của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, và về con đường
cô đang đi tới? Có phải cái cảm giác bàng hồng, đáng lẽ cô phải biết khi cô yêu, bây giờ cô
mới biết, giúp cơ đánh giá đúng hơn mối tình nhạt nhẽo mà cô đã bỏ, và yên tâm hơn về
quyết định của mình? Một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lịng cơ gái. Khơng phải chỉ
vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác
- Trời ơi, chỉ cịn có năm phút!
Chính là anh thanh niên giật mình nói to, giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ. Anh chạy ra
nhà phía sau, rồi trờ vào liền, tay cầm một cái làn. Nhà họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy. Cô gái
cũng đứng lên, đặt lại chiếc ghế, thong thả đi đến chỗ bác già.
- Ơ! Cơ cịn qn chiếc mùi soa đây này!
Anh thanh niên vừa vào, kêu lên. Để người con gái khỏi trở lại bàn, anh lấy chiếc
khăn tay còn vo trịn cặp giữa cuốn sách tới trả cho cơ gái. Cô kĩ sư mặt đỏ ửng, nhận lại
chiếc khăn và quay vội đi.
- Chào anh. - Đến bậu cửa, bỗng nhà họa sĩ già quay lại chụp lấy tay người thanh
niên lắc mạnh. - Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tơi ở với anh ít hơm được chứ?
Đến lượt cơ gái từ biệt. Cơ chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng, như người ta
cho nhau cái gì chứ khơng phải là cái bắt tay. Cơ nhìn thẳng vào mắt anh - những người con
gái sắp xa ta, biết khơng bao giờ gặp ta nữa, hay nhìn ta như vậy.
- Chào anh.
Lần đầu, chính là anh thanh niên quay mặt đi. Anh ấn cái làn vào tay bác già và nói
- Cái này để ăn trưa cho bác, cho cơ và bác lái xe. Cháu có bao nhiêu là trứng, ăn
không xuể. Cháu không tiễn bác và cơ ra xe được, vì gần tới giờ “ốp” rồi. Thôi chào bác,
chào cô. Bác sẽ trở lại nhé.
- Thanh niên bây giờ lạ thật! Các anh chị cứ như con bướm. Mà đã mười một giờ,
đến giờ “ốp” đâu? Tại sao anh ta không tiễn mình đến tận xe nhỉ?
Cơ gái liếc nhìn bác già một cái rất nhanh, tự nhiên hồi hộp, nhưng vẫn im lặng.
<i>Lào Cai tháng sáu, Hà Nội tháng bảy - 1970</i>
<b>BẾN QUÊ</b>
<i>Nguyễn Minh Châu</i>
tóc đen óng mượt đã khiến cho anh một thời được tiếng là một “Đông Gioăng”? Cho nên
trước đây trong cơ quan so với mấy anh em cùng tuổi, anh được tiếng là một người lâu già.
Chải đầu cho chồng xong, Liên đỡ anh ngồi dậy, cúi xuống dưới gầm tủ lấy thêm
mấy chiếc gối đem kê sau lưng anh.
Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt - cái giống hoa ngay
khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. Hẳn có lẽ vì đã sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho
nên mấy bông hoa cuối cùng cịn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Ừ cũng chả phải, Nhĩ vừa
ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ, chính vì thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu
rồi, cái nóng hầm hập ở trong phòng cùng với thứ ánh sángloa lóa vừa nhìn đã thấy chói cả
mắt ở ngồi bờ sông Hồng không biết đã rút đi đâu từ bao giờ.
Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một
màu đỏ nhạt, mặt sơng như rộng thêm ra. Vịm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm
Nhĩ khó nhọc nâng một cánh tay lên khẽ ẩy cái bát miến trên tay Liên ra. Anh ngửa
mặt như một đứa trẻ để cho thằng Tuấn cầm chiếc khăn bông tẩm nước ấm khẽ lau miệng,
cằm và hai bên má cho mình.
Anh khơng dám nhìn vào mặt con. Trong khi lại nghiêng mặt ra ngoài cửa sổ, anh
ngạc nhiên nhận thấy những cánh hoa bằng lăng càng thẵm màu hơn - một màu tím thẵm
như bóng tối…
Chờ khi đứa con trai đã bưng thau nước xuống nhà dưới, anh hỏi Liên:
- Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì khơng?
Liên giả vờ khơng nghe câu chồng vừa hỏi. Trước mặt chị hiện ra một cái bờ đất lở
dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng
đất đổ ịa vào giấc ngủ.
- Hơm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?
Liên vẫn không đáp và biết chồng đang nghĩ gì. Chị đưa những ngón tay gầy guộc âu
yếm vuốt ve bên vai chồng:
- Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho
anh được.
Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá.
- Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh.
- Có hề sao đâu… Miễn là anh sống, ln ln có mặt anh, tiếng nói của anh trong
gian nhà này…
Ngừng một lát, Liên nói tiếp:
- Đi Thành phố Hồ Chí Minh thì chắc chẳng được nhưng anh có thể chống gậy đi
trong nhà. Hoặc tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một bậc…
hoặc giá anh lại khỏe hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc.
- Ừ, tưởng gì… nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang…
Liên đặt bàn tay vào sau phiến lưng đã có nhiều mảng da thịt vừa chai cứng vừa lở
loét của Nhĩ:
- Em đỡ anh nằm xuống nhé?
- Khoan. Em cần ra chợ hay đi đâu thì cứ đi. Khi nào mỏi anh sẽ gọi con.
Một lát sau Nhĩ còn nghe tiếng vợ đi lại dọn dẹp và dặn dị con điều gì đó. Liên hãm
nước thuốc ở cái siêu đất ra chiếc bát chiết yêu, Nhĩ đoán thế, nghe tiếng nước rót ra lẫn mùi
thuốc bắc bay vào nhà. Rồi Liên xuống thang, vẫn cái tiếng bước chân rón rén quen thuộc
suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm.
Chờ Liên xuống tầng dưới rồi Nhĩ mới lên tiếng:
- Tuấn, Tuấn à!
Anh con trai đánh trần ngồi tựa vào bức tường đầu cầu thang, tay nhặt rau muống,
mắt cúi xuống một cuốn sách truyện dịch. Nghe bố gọi, Tuấn chạy vào trong tay vẫn cầm
- Bố mỏi rồi. Con đỡ bố nằm xuống nhé!
- Chưa… - đến lúc này Nhĩ mới ngắm kĩ đứa con trai. Nó là đứa thứ hai, gần một
năm nay vắng nhà, đi học tận trong một thành phố phía nam và vừa mới trở về đêm qua.
Anh thấy càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giống anh.
Người cha sắp từ giã cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng
túng. Anh ngước nhìn ra ngồi cửa sổ một lần nữa rồi quay vào bất chợt hỏi:
- Đã bao giờ Tuấn… sang bên kia chưa hả?
- Sang đâu hả bố?
- Bên kia sông ấy!
Anh con trai đáp bằng vẻ hờ hững:
- Chưa…
Nhĩ tập trung hết sức cịn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời mình:
- Bây giờ con sang bên kia sơng hộ bố…
- Để làm gì ạ?
- Chẳng để làm gì cả. - Nhĩ có vẻ ngượng nghịu vì cái điều anh sắp nói ra q ư kì
quặc - Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ
chân ở đâu đó một lát, rồi về…
Anh con trai cười:
- Bố đang sai con làm cái việc gì lạ thế?
- Hay là thế này nhé. - Nhĩ vẫn không hề thay đổi ý kiến - Con cầm đi mấy đồng bạc
xem bên ấy có hàng qn người ta bán bánh trái gì, con mua cho bố.
Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết
dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngồi phiến nệm nằm, anh tưởng
như mình vừa bay được nửa vịng trái đất - trong một chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ
La-tinh hai năm trước đây. Anh mệt lử. Và đau nhức . Ngồi lại nghỉ một chặng và chỉ muốn
có ai đỡ cho để nằm xuống.
Nghe tiếng chân giậm thình thịch đều đặn ở bên kia tường. Nhĩ cúi xuống thở hổn
hển để lấy lại sức rồi cất tiếng gọi yếu ớt: “Huệ ơi!”.
Từ phịng bên kia một cơ bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu
thu một đoạn dây sau lưng chạy sang. Cơ bé bên nhà hàng xóm đã quen với cơng việc này.
Nó lễ phép hỏi Nhĩ: “Bác cần nằm xuống phải không ạ?”. Nhĩ đáp trong hơi thở gấp gáp:
“Ừ, ừ… chào cháu!”. Cô bé nhảy lên phản, vừa mị vào người Nhĩ đã vội vã nhảy xuống, nó
chạy ra đầu cầu thang cầm đoạn dây khẽ phất xuống bên dưới và gọi toáng lên:
- Vân ơi, Tam ơi, Hùng ơi!
Một lát sau khơng phải chỉ có ba đứa mà cả một lũ trẻ ở tầng dưới lần lượt chạy lên:
- Chúng cháu chào bác ạ!
- Chào bác Nhĩ ạ!
Vây bọc bởi đám trẻ con đứng lố nhố chung quanh. Nhĩ nhận thấy hồn cảnh của
mình thật buồn cười, y như một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự
thích thú được chúng chăm sóc và chơi với.
Cả bọn trẻ xúm vào, và rất nương nhẹ, giúp anh đi nốt nửa vòng trái đất - từ mép tấm
nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm chục phân.
Chúng giúp anh đặt một bàn tay lên bậu cửa sổ, kê cao thêm dưới mông anh bằng cả
một chiếc chăn gập lại rồi sau đó mới bê cái chồng gối đặt sau lưng.
Chẳng biết thế nào mà sáng nay tất cả những ngón tay của chúng đều chua lịm mùi
nước dừa, nhưng khơng sao, vì thế anh càng u lũ trẻ trong ngơi nhà mình.
Ngay lúc ấy, cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trước tiên khi được ngồi sát ngay sau khuôn
cửa sổ là một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại
một chuyến giữa hai bờ ở khúc sông Hồng này vừa mới bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi
bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước.
Sát bên bờ của dải đất lở dốc đứng bên này, một đám đông khách đợi đị đứng nhìn
sang. Người đi bộ, người dắt xe đạp. Một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện
hoặc xổ tóc ra bắt chấy. Nhĩ nhìn mãi đám khách nhưng vẫn khơng tìm thấy cái mũ cói rộng
vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo đâu cả.
Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường.
Thằng bé vẫn cắp cuốn sách bên nách đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè
phố. Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được.
Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một cách
buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vịng
vèo hoặc chùng chình, vả lại, nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sơng đâu? Họa chăng
chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có
lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ,
và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau
đớn, lời lẽ khơng bao giờ giải thích hết.
thành một người đàn bà thị thành. Tuy vậy, cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên
kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời
xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sao nhiều ngày tháng bơn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm
thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Con đị đã sang q nửa sơng, ngồi đây Nhĩ đã có thể nhìn thấy rõ từng mảnh vá trên
lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ.
Giữa lúc Nhĩ đang nhìn thấy trong tưởng tượng chính mình trong tấm áo màu xanh
trứng sáo và chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước
chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa - chợt nghe sau lưng có tiếng ho. Nhĩ quay lại.
Ơng cụ giáo Khuyến tựa trên chiếc gậy song đang đứng bên phản. Đã thành lệ, buổi sáng
nào ơng cụ già hàng xóm đi xếp hàng mua báo về cũng ghé vào hỏi thăm sức khỏe của Nhĩ.
- Cụ ạ - Nhĩ bắt đầu ra hiệu về phía đầu tấm nệm nằm của mình – cháu Huệ có gửi lại
chìa khóa cho cụ.
- Hơm nay ơng Nhĩ có vẻ khỏe ra nhỉ?
- Dạ, con cũng thấy như hôm qua…
Chợt ông cụ già hàng xóm hốt hoảng q! Ơng cụ giáo Khuyến chợt nhận thấy mặt
mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau
khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu
chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng cịn sót lại để đu
mình nhơ người ra ngồi, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngồi cửa sổ khốt khốt y như
đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.
Ngay lúc bấy giờ, chiếc đò ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên