TẠP CHÍ
MỤC LỤC
NGHỀ CÁ
SƠNG CỬU LONG
Trang
Số 17 - Tháng 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Giấy phép xuất bản
số 47/GP-BTTTT
cấp ngày 8/2/2013
Xuất bản hàng quý
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP:
Tổng biên tập:
TS. NGUYỄN VĂN SÁNG
Phó tổng biên tập:
TS. PHAN THANH LÂM
Thư ký tịa soạn:
ThS. HỒNG THỊ THỦY TIÊN
CÁC ỦY VIÊN:
* PGS. TS. NGUYỄN QUANG HUY
* PGS. TS. VÕ NAM SƠN
* TS. NGUYỄN THANH TÙNG
* TS. LÊ HỒNG PHƯỚC
* TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH
* TS. LA XUÂN THẢO
* TS. NGUYỄN VĂN NGUYỆN
* TS. VŨ ANH TUẤN
* TS. NGUYỄN NHỨT
Trình bày:
ThS. Hồng Thị Thủy Tiên
Tịa Soạn:
Viện Nghiên Cứu Ni Trồng
Thủy Sản II
116 Nguyễn Đình Chiểu, Q.1, TP.HCM
ĐT: 028 3829 9592 - Fax: 028 3822 6807
Email: ria2@ mard.gov.vn
In tại: Công ty In Liên Tường
240/59-61-63 Nguyễn Văn Lng
Quận 6, TP. HCM
Các thơng số di truyền tính trạng tăng trưởng
và tỷ lệ sống trên cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) thế hệ chọn giống thứ 6 tại Đồng bằng
sông Cửu Long.
3-12
Genetic parameters for growth and survival rate
of the 6th generation of nile tilapia in the Mekong
delta.
LÊ TRUNG ĐỈNH, TRẦN HỮU PHÚC,
NGUYỄN VĂN MINH, TRỊNH QUỐC TRỌNG,
PHẠM ĐĂNG KHOA, VÕ THỊ HỒNG THẮM
Ảnh hưởng của ánh sáng đèn LED (light emitting
diode) đến hormone IGF-I mRNA (insulin-like
growth factor messenger RNA) và sinh sản ở cá
chép (Cyprinus carpio).
13-22
Effect of light emiting diode (LED) wavelength on
hormone IGF-I mRNA (insulin-like growth factor
messenger RNA) and reproduction in common
carp (Cyprinus carpio).
NGUYỄN THỊ ĐANG VÀ KATSUHISA UCHIDA
Chất lượng nước vùng nuôi tôm nước lợ trọng
điểm ở Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn
2015-2019.
23-34
Water quality of the main brackish water shrimp
farming areas in the Mekong delta from 2015 to
2019.
NGUYỄN THANH TRÚC, LÊ HỒNG PHƯỚC,
THỚI NGỌC BẢO, ĐẶNG NGỌC THÙY,
TRẦN MINH THIỆN, ĐẶNG THỊ NGỌC HÂN,
LÂM QUỐC HUY
Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng
loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong –
Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám.
Environmental condition during the period of
mass fish mortality in November 2016 in Van
Phong bay - Khanh Hoa province under remote
sensing light.
TỐNG PHƯỚC HOÀNG SƠN, NGUYỄN THANH TÙNG
35-44
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Nghiên cứu hồn thiện công nghệ chế biến đồ
hộp nghêu (Meretrix lyrata) hun khói ngâm dầu.
45-57
Study on improving technological regime for oilsoaked smoked clam (Meretrix lyrata).
Current fishing status and development of
milkfish (Chanos chanos) culture in the south east
coastal of Vietnam.
NGUYỄN THỊ MỸ DUNG, NGUYỄN PHÚ HÒA,
NGUYỄN VĂN TRAI
2
70-81
Assessment on the current status of Pangasiidae
family in the lower Mekong river from 2017 to
2019.
NGUYỄN QUỐC CƯỜNG, ĐINH THỊ MẾN,
PHẠM DUY HẢI, NGUYỄN ĐỨC MINH,
NGUYỄN VĂN NGUYỆN
Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng
sữa (Chanos chanos) ở vùng biển Đông Nam
Việt Nam.
Đánh giá hiện trạng các loài cá thuộc họ
Pangasiidae khu vực hạ lưu sông Mekong giai
đoạn 2017-2019.
ĐINH TRANG ĐIỂM, NGUYỄN NGUYỄN DU,
TRẦN THÚY VY VÀ HUỲNH HOÀNG HUY
58-69
Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và
cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn
sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017 – 2019.
The diversity and abundance of larvae and
juvenile fish of Pangasiidae family at upstream of
the Tien and Hau rivers during the periods of 2017
– 2019.
TRẦN THÚY VY, NGUYỄN NGUYỄN DU,
ĐINH TRANG ĐIỂM VÀ HUỲNH HỒNG HUY
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
82-92
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
CÁC THÔNG SỐ DI TRUYỀN TÍNH TRẠNG TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ
LỆ SỐNG TRÊN CÁ RÔ PHI VẰN (Oreochromis niloticus) THẾ HỆ
CHỌN GIỐNG THỨ 6 TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Lê Trung Đỉnh1*, Trần Hữu Phúc1, Nguyễn Văn Minh2, Trịnh Quốc Trọng3,
Phạm Đăng Khoa1, Võ Thị Hồng Thắm1
TĨM TẮT
Nghiên cứu này trình bày kết quả ước tính các thơng số di truyền tính trạng tăng trưởng và tỷ lệ
sống trên cá rô phi vằn dịng GIFT thế hệ thứ 6 tại Đồng bằng sơng Cửu Long. Số liệu phân tích
dựa trên số lượng 6.200 cá thể cá đánh dấu từ 124 gia đình, khối lượng trung bình của cá khi đánh
dấu là 11,6 g, chiều dài tổng trung bình cá đạt 8,3 cm; chiều dài chuẩn trung bình đạt 6,6 cm và
chiều cao thân trung bình đạt 2,7 cm. Sau thời gian 6 tháng ni thu hoạch được 3.974 cá thể, khối
lượng trung bình khi thu hoạch đạt 610,6 g, tốc độ tăng trưởng trung bình tuyệt đối là 2,5 g/ngày.
Các thơng số di truyền được ước tính bằng phần mềm ASReml 4.1. Kết quả hệ số di truyền (h2) đối
với tính trạng tăng trưởng về khối lượng ở mức cao là 0,47. Ảnh hưởng của môi trường ương nuôi
riêng rẽ (c2 = 0,07) chiếm 8% phương sai kiểu hình. Hệ số di truyền của tính trạng tỉ lệ sống tại thời
điểm thu hoạch ở mức thấp là 0,15. Tương quan di truyền giữa tính trạng khối lượng thu hoạch và
tỉ lệ sống là 0,14, điều này cho phép nhận định việc chọn lọc đồng thời hai tính trạng tăng trưởng
và tỉ lệ sống là khả thi.
Từ khóa: Thơng số di truyền, khối lượng thân, tỷ lệ sống, rơ phi vằn, dịng GIFT.
I. MỞ ĐẦU
Cá rô phi là tên gọi chung của một số lồi
cá thuộc họ Cichlidae, được chia làm ba nhóm
chính là Tilapia, Sarotherodon và Oreochromis
dựa trên tập tính sinh sản và ni giữ con
(Beveridge và McAndrew, 2000). Trong đó, cá
rơ phi vằn (Oreochromis niloticus) được nuôi
phổ biến nhiều nơi trên thế giới. Trên cá rơ phi
vằn đã có một số chương trình chọn giống, tập
trung vào tính trạng tăng trưởng. Phương pháp
chọn lọc có thể là chọn lọc cá thể (Hulata và
ctv.,1986) hoặc chọn lọc gia đình (Bentsen và
ctv., 2012, Ponzoni và ctv., 2011). Chọn lọc cá
thể trên cá rô phi được báo cáo là không đạt hiệu
quả (Hulata và ctv., 1986). Điều này cho thấy
sự cần thiết phải áp dụng phương pháp chọn lọc
gia đình trên cá rơ phi (Gjedrem và ctv., 2012).
Cho đến nay, trong số các chương trình chọn
giống trên cá rơ phi thì Dự án GIFT (Genetic
Improvement of Farmed Tilapia) là được biết
đến nhiều hơn cả và đạt được những kết quả
đáng chú ý (Bentsen và ctv., 2012; Gjedrem và
ctv., 2012; Ponzoni và ctv., 2012; Pullin và ctv.,
1999), dự án GIFT được thực hiện trong 10 năm
(1988 – 1997). Cuối năm 2000, Trung tâm Nghề
cá Thế giới (WorldFish Center, WFC) tiếp nhận
GIFT thế hệ thứ 6 và tiếp tục chọn giống. Năm
Viện Nghiện cứu Nuôi trồng Thủy sản II
Trường Đại học Nha Trang
3
Worldfish Center
* Email:
1
2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
3
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
2006, Viện Nghiên cứu Ni trồng Thủy sản II
tiếp nhận 50 gia đình GIFT thế hệ thứ 10 được
chuyển từ WFC đến để bắt đầu chương trình
chọn giống cá GIFT tại Đồng bằng sông Cửu
Long. Đến năm 2017, việc chọn giống đã thực
hiện qua 5 thế hệ, kết quả nâng cao tốc độ tăng
trưởng qua các thế hệ từ 15-20% (Trinh Quoc
Trong và ctv., 2013) và tiếp tục sản xuất các gia
đình thế hệ thứ 61.
Hệ số di truyền (ký hiệu là h2) được định
nghĩa là tỉ số giữa phương sai của giá trị di
truyền cộng gộp và phương sai kiểu hình của
tính trạng chọn lọc. Nếu hệ số di truyền cao
ngụ ý kiểu hình được đo đạc dự đốn tốt cho
kiểu gen của tính trạng chọn lọc và ngược lại
(Falconer và Mackay, 1996). Tương quan di
truyền (genetic correlation, ký hiệu là rg) cho
biết mối tương quan kiểu gen của hai tính trạng
quan tâm. Tương quan di truyền thuận (rg >
0) ngụ ý nếu chọn lọc một tính trạng thì tính
trạng cịn lại sẽ được cải thiện theo hướng tích
cực, tức là tính trạng thứ hai có thể được chọn
lọc một cách gián tiếp thơng qua chọn lọc trực
tiếp tính trạng đầu tiên. Tương quan di truyền
nghịch (rg <0) ngụ ý chọn lọc một tính trạng thì
sẽ làm suy giảm tính trạng cịn lại (Falconer và
Mackay, 1996). Mục tiêu của nghiên cứu này
nhằm đánh giá sự khác biệt về tăng trưởng và tỷ
lệ sống giữa các gia đình; và ước tính các thơng
số di truyền của tính trạng tăng trưởng và tính
trạng tỷ lệ sống của cá rơ phi dịng GIFT thế
hệ thứ 6 tại Đồng bằng sơng Cửu Long (G16
theo cách tính của Trung tâm Nghề cá thế giới
(WorldFish)).
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Cá thí nghiệm thuộc 124 gia đình thế hệ thứ
6. Cá bợt 10 ngày tuổi của mỗi gia đình được
1 Thế hệ thứ 16 theo cách tính của Trung tâm Nghề cá
Thế giới (WorldFish).
4
ương trong các giai các giai riêng rẽ có kích
thước 1,5×2,0×1,0 m đặt trong một ao có diện
tích 2.000 m2. Thời gian ương cho đến khi cá
đạt kích cỡ đánh dấu PIT (Passive Integrated
Transponder) có khối lượng 11,6 g ± 5,1 g. Thời
gian ương dao động từ 33 đến 69 ngày tùy theo
từng gia đình. Mỗi gia đình đánh dấu 50 cá thể,
cá sau khi đánh dấu được ni cùng mợt ao diện
tích 2.000 m2, độ sâu 1,5 m.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Ni vỗ cá bố mẹ
Cá bố mẹ dịng GIFT (thế hệ G5) được
ni vỗ riêng theo giới tính trong các giai có
kích thước 5×10×1 m, đặt trong ao 2.000 m2,
độ sâu 1,5 m. Mật độ nuôi vỗ trong giai là
10 con/m2 đối với cá cái và 5 con/m2 đối với
cá đực. Cá bố mẹ được cho ăn bằng thức ăn
công nghiệp (30% protein, 5% lipid), bổ sung
thêm dầu mực (3%). Lượng cho ăn chiếm 3 –
5% khối lượng thân, cho cá ăn 2 lần/ngày lúc
07:00 và 16:00 giờ. Ao nuôi vỗ được duy trì
oxy hịa tan đạt 5 mg/L bằng cách sục khí liên
tục trong giai. Ao ni cũng được thay nước
định kỳ (7 ngày/lần) nhằm kích thích cá nhanh
thành thục và giữ môi trường trong sạch tránh
thức ăn thừa làm ô nhiễm môi trường nước
trong ao.
2.2.2. Ghép phối sinh sản
Mỗi cá đực được ghép cặp sinh sản với 2
cá cái để tạo ra các gia đình cùng cha khác mẹ
hoặc các gia đình cùng cha cùng mẹ. Giai sinh
sản có kích thước 1,5×2,0×1,0 m đặt trong ao
2.000 m2.
2.2.3. Thu trứng và ấp trứng
Sau 4 ngày ghép cặp, kiểm tra giai sinh
sản và thu trứng hoặc cá bột. Tiến hành bắt
từng cá cái kiểm tra, nếu thấy trong miệng cá
có ngậm trứng tiến hành thu trứng. Trứng sau
khi thu được ấp riêng rẽ theo gia đình trong
các bình ấp thể tích 1 lít có nước chảy liên
tục. Nhiệt đợ nước ấp trứng dao động 28 300C. Dùng muỗng (thìa) hoặc xi phơng loại
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
bỏ trứng hư, trứng không thụ tinh và đếm số
lượng trứng cho mỗi gia đình. Cá bột mới
nở được chuyển sang các khay kích thước
20×30×10 cm có nước chảy liên tục. Khi
nỗn hồng đã tiêu biến tồn bộ và cá bột bắt
đầu tìm kiếm thức ăn bên ngoài, cho cá ăn
thỏa mãn 4 lần/ngày bằng thức ăn mịn (40%
protein, 8% lipid) đến khi cá đạt 10 ngày tuổi.
2.2.4. Ương nuôi cá bột đến kích cỡ đánh
dấu
Cá bợt 10 ngày tuổi của mỗi gia đình được
chủn xuống các giai ương riêng rẽ có kích
thước 1,5×2,0×1,0 m đặt trong một ao có diện
tích 2.000 m2. Số lượng cá bột của mỗi gia đình
cho mỗi giai ương là 300 con. Cá được cho ăn
thỏa mãn, 3 lần/ngày, sử dụng thức ăn dạng
mảnh (40% protein) trong 15 ngày ương đầu
tiên, sau đó chuyển sang thức ăn viên cỡ 1 mm
(30% protein). Ao ương được thay nước 2 lần/
tháng, mỗi lần thay khoảng 30% lượng nước
trong ao. Các yếu tố môi trường của ao nuôi
được theo dõi thường xuyên và kiểm tra bao
gồm hàm lượng oxy hòa tan, pH và nhiệt độ.
2.2.5. Đánh dấu
Cá được đánh dấu cá bằng dấu PIT (Passive
Integrated Transponder) cho phép xác định đến
từng cá thể. Khi đánh dấu, dùng dao mổ rạch
một vết nhỏ trên cơ bụng và dùng tay đẩy dấu
vào xoang bụng. Vết rạch có kích thước rất nhỏ
và mau lành, giúp cá hồi phục nhanh và tỉ lệ
mất dấu thấp. Đối với mỗi gia đình, chọn 50 cá
giống để đánh dấu. Những gia đình cịn ít hơn
50 cá thể sẽ được đánh dấu toàn bộ. Sau khi
đánh dấu cá được giữ trong giai 3×5×1 m trong
7 ngày trước khi được thả ni tăng trưởng.
Cá giữ trong giai nhằm mục đích kiểm sốt số
lượng cá rơi mất dấu.
2.2.6. Ni đánh giá tính trạng và thu
thập số liệu
Tổng số 6.200 cá thể cá đã đánh dấu thuộc
124 gia đình được thả ni trong cùng mợt ao
diện tích 2.000 m2, đợ sâu 1,5 m, mật độ nuôi là
3 con/m2. Thời gian nuôi tăng trưởng là 6 tháng.
Cá được cho ăn bằng thức ăn viên công nghiệp
(30% protein, 5% lipid), ngày 2 lần vào lúc
07:00 giờ sáng và 16:00 giờ chiều. Khẩu phần
ăn là 3% khối lượng thân/ngày. Kích cỡ viên
thức ăn là 1,5 mm (trong tháng đầu tiên), 2,0
mm (từ tháng thứ hai) và 3,0 mm (từ tháng thứ
ba đến khi thu hoạch) theo từng giai đoạn phát
triển của cá. Mực nước trong ao được duy trì ở
mức 1,5 m, ao ni được định kỳ thay nước 2
lần/tháng, mỗi lần thay 30% thể tích nước ao.
Thường xun kiểm tra các chỉ tiêu mơi trường
ao ni (pH, nhiệt độ, nồng độ oxy hịa tan) và
theo dõi tình hình bệnh của cá để có biện pháp
xử lý kịp thời.
Đàn cá được thu thập số liệu về chiều dài
tổng và chiều cao thân bằng thước đo có độ
chính xác đến cm. Khối lượng tại thời điểm gắn
dấu và thời điểm thu hoạch sau 6 tháng nuôi
được xác định bằng cân điện tử với độ chính xác
đến 0,1 g. Cá được xác định giới tính vào thời
điểm thu hoạch. Số liệu được lưu trữ và quản lý
bằng phần mềm Microsoft Excel® 2016.
2.3. Tính tốn các thơng số di truyền cho
tính trạng tăng trưởng và tỷ lệ sống
Tất cả các mơ hình tốn được ước tính bằng
phần mềm ASReml phiên bản 4.1 (Gilmour và
ctv., 2015). Các phương sai thành phần bao gồm
là phương sai di truyền cộng gộp (additive
genetic variance),
là phương sai ảnh hưởng
môi trường ương nuôi riêng rẽ (environmental
effects common to full-sibs),
là phương sai
của số dư, và
là phương sai kiểu hình.
2.3.1. Ước tính hệ số di truyền tính trạng
tăng trưởng
Phương trình tuyến tính cá thể hỗn hợp (Mơ
hình 1) để ước tính các phương sai thành phần
(từ đó tính các thơng số di truyền) của tính trạng
khối lượng thu hoạch là:
Khối lượngijk = µ + giới tínhi + β1×tuổiij +
β2×(tuổi)ij2 + cá thểj + cá mẹk + eijk (Mơ hình 1).
trong đó, Khối lượngijk là khối lượng thu
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
5
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
hoạch của cá thể j, µ là giá trị trung bình khối
lượng thu hoạch của quần thể, giới tínhi là ảnh
hưởng cố định của giới tính i (đực hoặc cái), là
hệ số hồi quy của hiệp biến ‘tuổi’, ‘tuổi’ là ảnh
hưởng cố định của tuổi (ngày) lên khối lượng
thu hoạch của từng cá thể, là hệ số hồi quy bậc
hai của hiệp biến ‘(tuổi)2’, (tuổi)2 là ảnh hưởng
cố định bậc hai của tuổi (ngày), cá thểj là ảnh
hưởng di truyền cộng gộp của cá thể j, cá mẹk là
ảnh hưởng của môi trường chung lên các cá con
của cùng một cá mẹ k, và eijk là ảnh hưởng của
số dư. Kết quả chạy mơ hình 1 sẽ cho kết quả
các phương sai thành phần bao gồm
,
và
cho tính trạng tăng trưởng.
Hệ số di truyền (h2) được tính theo
cơng thức
,
Hệ số di truyền được tính theo
cơng thức
,
trong đó
Ước tính tương quan di truyền giữa tính
trạng tăng trưởng và tỉ lệ sống
Các phương sai thành phần (variance
component) và hiệp phương sai (co-variance
component) của các tính trạng tăng trưởng và
tỉ lệ sống được ước tính từ các mơ hình 2 biến
số (bivariate model). Tương quan (genetic
correlation, viết tắt là rg) giữa khối lượng thu
hoạch và tỉ lệ sống được ước tính từ mơ hình 2
biến số, với các biến như mơ tả trong Mơ hình 1
và 2. Tổng qt thì rg được tính theo cơng thức
trong đó
2.3.2. Ước tính hệ số di truyền tính trạng
tỷ lệ sống
Đối với tính trạng tỉ lệ sống (cá thể ‘sống’ được
mã hóa bằng 1, ‘chết’ được mã hóa bằng 0), phương
trình tuyến tính cá thể hỗn hợp (Mơ hình 2) là:
Tỉ l sngij = à + 1ìkhi lng ỏnh duij
+ cỏ thểj + eij (Mơ hình 2).
trong đó Tỉ lệ sốngij là tỉ lệ sống tại thời điểm
thu hoạch của cá thể j (cá thể còn sống khi thu
hoạch được mã hóa là 1, cá thể khơng hiện diện
khi thu hoạch được xem là đã chết và được mã
hóa là 0), β1 là hệ số hồi quy của hiệp biến ‘khối
lượng đánh dấu’, khối lượng đánh dấuij là ảnh
hưởng cố định của khối lượng cá thể j tại thời
điểm đánh dấu, cá thểj là ảnh hưởng di truyền
cộng gộp của cá thể, và eij là ảnh hưởng của số
dư. Kết quả chạy mơ hình 2 sẽ cho kết quả các
phương sai thành phần bao gồm
cho
tính trạng tỷ lệ sống. Do mơ hình 2 khơng bao
gồm cá mẹ là ảnh hưởng của môi trường chung
lên các cá con của cùng một cá mẹ nên không
tách được phương sai thành phần
.
6
là hiệp phương sai của ảnh
trong đó
hưởng di truyền cợng gợp của 2 tính trạng ‘khối
lượng thu hoạch’ và ‘tỉ lệ sống’,
là phương sai
ảnh hưởng di truyền cợng gợp của tính trạng khối
lượng thu hoạch và
là phương sai ảnh hưởng
di truyền cộng gộp của tính trạng tỉ lệ sống.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nuôi vỗ, ghép phối sản xuất
gia đình, ương riêng rẽ và đánh dấu
Cá bố mẹ G5 được chọn và nuôi vỗ từ tháng
11/2014 với tổng số lượng là 405 cá thể trong
đó có 290 cá cái và 115 cá đực, điều này phản
ánh được số lượng cá đực và cá cái chọn lọc
theo phương thức ghép phối 1 cá bố với 2 cá
mẹ (nested mating design) để tạo ra các gia đình
cùng cha mẹ và các gia đình cùng cha khác mẹ.
Kết quả ghép cặp đã thu được 124 gia đình, trong
đó 74 gia đình củng cha cùng mẹ và 50 gia đình
cùng cha khác mẹ. Với cách thức ghép phối này
cho phép ước tính các phương sai thành phần,
từ đó ước tính các thơng số di truyền như hệ số
di truyền và tương quan di truyền.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 1: Thống kê số lượng, khối lượng (trung bình ± độ lệch chuẩn) và thành thục của cá bố mẹ
rô phi vằn G5 trước và sau khi nuôi vỗ.
Tỉ lệ
Số lượng
thành thục thành thục
(con)
(%)
Giới
tính
Số lượng
cá ni vỗ
(con)
Khối lượng
trước ni vỗ
(g)
Khối lượng
sau ni vỗ
(g)
Cá cái
290
322,9 ± 67,3
423,9 ± 174,6
258
89
736 – 1.145
Cá đực
115
424,1 ± 100,5 602,1 ± 127,1
115
100
-
Sau 2 tháng nuôi vỗ, khối lượng trung bình
cá bố mẹ chọn lọc tăng lên đáng kể: khối lượng
trung bình cá đực tăng trung bình 178 g (424
– 602 g), cá cái tăng 101 g (322 – 423 g). Số
lượng cá cái thành thục đạt sau nuôi vỗ là 89%
(49% cá cái được đánh giá đạt mức độ ‘sẵn sàng
đẻ’ và 40% cá cái có buồng trứng phát triển đến
giai đoạn III) và số cá cái ‘chưa sẵn sàng đẻ’ là
32/290 (11%).
Trong thời gian 36 ngày ghép cặp cho sinh
sản (từ 5/0/2015 đến 10/02/2015), tổng cộng có
124 gia đình thuộc thế hệ G6 được sản xuất thành
cơng. Việc sinh sản gia đình đồng loạt trong
thời gian ngắn có ý nghĩa quan trọng, vì nó giúp
giảm sự khác biệt về tuổi giữa các gia đình, từ
đó giảm ảnh hưởng của môi trường ương nuôi
riêng rẽ (c2) và tăng độ chính xác của các thơng
số di truyền cũng như hiệu quả chọn lọc. Số
lượng gia đình sinh sản trong 6 đợt thu trứng
dao động từ 13 – 27 gia đình/đợt thu và trung
bình số lượng trứng cho mỗi cá cái tại các đợt
thu từ 736 – 1.145 trứng/cá cái. Các chỉ tiêu sinh
sản như tỉ lệ thụ tinh (87,5%), tỉ lệ nở (90,6%)
và tỉ lệ sống cá bột 10 ngày tuổi (89,5%) đều
đạt cao. Sau thời gian ương từ 33 đến 69 ngày
tùy theo thời gian sinh sản của từng gia đình
khác nhau, cá giống đạt đến kích cỡ đánh dấu và
đạt 100% tỷ lệ sống tính theo gia đình (124 gia
đình). Kết quả sinh sản trong nghiên cứu này
Số lượng
trứng/cá cái
cũng tương tự với kết quả sinh sản của cá rơ
phi vằn dịng GIFT thế hệ G2 tại Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản II (Trịnh Quốc Trọng
và ctv., 2013) và đảm bảo đủ cá bột, cá giống
đáp ứng cho yêu cầu của chọn giống. Trên cá
rô phi vằn dịng GIFT theo quy trình GIFT đề
nghị trong mỗi gia đình chọn tối thiểu 20 đến 30
con trong một tính trạng (Ponzoni và ctv., 2009,
Trinh Quoc Trong và ctv., 2013).
Cá giống đạt khối lượng trung bình khi
đánh dấu là 11,6 g, chiều dài tổng trung bình
cá giống đạt 8,3 cm; chiều dài chuẩn trung bình
là 6,6 cm và chiều cao thân trung bình đạt 2,7
cm tương đương kích cỡ cá đánh dấu của Trung
tâm Nghề cá Thế giới (Bentsen và ctv., 2012,
Thodesen và ctv., 2013; Thodesen và ctv., 2011;
Trịnh Quốc Trọng và ctv., 2013). Ngày tuổi của
cá giống khi đánh dấu dao động trong từ 51 đến
78 ngày.
Sau thời gian 6 tháng nuôi (từ 4/4/2015 đến
4/10/2015) tiến hành thu hoạch đàn cá nuôi tăng
trưởng G6. Kết quả thu hoạch được 3.974 cá
thể. Tỉ lệ sống tại thời điểm thu hoạch là 64,1%.
Kết quả này tương đồng với các thế hệ trước và
tương ứng với chương trình chọn giống GIFT
(Bentsen và ctv., 2012) và ProGift tại Trung
Quốc. Tỷ lệ sống trung bình của các gia đình
là 62,75%, gia đình có tỷ lệ sống cao nhất đạt
86%, gia đình có tỷ lệ sống thấp nhất 16%.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
7
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 1: Tỷ lệ sống trung bình của các gia đình tại thời điểm thu hoạch (GĐ = Gia đình).
Khối lượng trung bình tại thời điểm thu
hoạch đạt 610,6 g trong đó có 2.067 cá đực (tỉ
lệ 52%) và 1.907 cá cái (tỉ lệ 48%), tương ứng
tốc đợ tăng trưởng trung bình tuyệt đối 2,5 g/
ngày.
Tại thời điểm thu hoạch đàn cá, chiều dài
tổng trung bình đạt 30,00 ± 1,01 cm, chiều dài
chuẩn trung bình đạt 23,9 ± 0,9 cm, chiều cao
thân trung bình đạt 10,85 ± 0,33 cm, bề dày thân
trung bình đạt 4,71 ± 0,14 cm (Bảng 2).
Bảng 2. Kết quả thống kê mô tả các chỉ tiêu tăng trưởng và tỷ lệ sống khi thu hoạch.
Các chỉ tiêu
Chiều dài tổng (cm)
Chiều dài chuẩn (cm)
Chiều dài tổng cá đực (cm)
Chiều dài tổng cá cái (cm)
Tỷ lệ sống trung bình của các gia đình (%)
Trung bình khối lượng thu hoạch (g)
Trung bình
30,00
23,93
30,61
28,58
62,75
610,6
Với kết quả này cho thấy khả năng tăng
trưởng về chiều dài tổng, chiều dài chuẩn, chiều
cao thân và dày thân của quần đàn cá rô phi vằn
G6 đạt mức cao.
Hệ số biến thiên (22,6%) cũng cho phép
nhận định quần thể cá rơ phi vằn G6 có tính biến
dị khá về tăng trưởng, và là điều kiện thuận lợi
cho chọn lọc.
3.2. Hệ số di truyền tính trạng khối lượng
và tỉ lệ sống thế hệ G6
8
Độ lệch chuẩn
1,01
0,93
1,02
1,03
13,78
138,0
Hệ số biến thiên
0,03
0,03
0,03
0,04
0,21
0,22
3.2.1. Khối lượng khi thu hoạch
Các phương sai thành phần và thông số di
truyền của khối lượng thu hoạch trên cá rô phi
vằn G6 được trình bày trong (Bảng 3). Hệ số di
truyền (h2) và ảnh hưởng của môi trường ương
nuôi riêng rẽ (c2) đều khác biệt có ý nghĩa so với
zero. Hệ số di truyền (h2) ở G6 ở mức cao (0, 47
± 0,13). Ảnh hưởng của môi trường ương nuôi
riêng rẽ (c2 = 0,07 ± 0,04) (Bảng 3).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 3. Hệ số di truyền của tính trạng khối lượng và tỷ lệ sống.
c2
h2
rg
0,14 ± 0,10
Khối lượng
thu hoạch
5143,2
709,0
4978,8
10831,0
0,07 ± 0,04
0,47 ± 0,13
Tỷ lệ sống
0,036
-
0,200
0,236
-
0,15 ± 0,03
Ảnh hưởng của ‘giới tính’ có ý nghĩa thống
kê (P<0,001) lên khối lượng thu hoạch. Giới
tính phản ánh đặc điểm sinh học của lồi, đó là
cá rơ phi đực lớn nhanh và đạt kích cỡ lớn hơn
cá rô phi cái cái (Beveridge và ctv., 2000; ElSayed và ctv., 2006).
Trên các loài thủy sản, hệ số di truyền của
tính trạng tăng trưởng (thường được ghi nhận
bằng khối lượng thu hoạch) dao động trong
khoảng 0,10 đến 0,50 (Gjedrem, 2005). Đối với
quần thể cá rô phi vằn G6, hệ số di truyền của
khối lượng thu hoạch đạt mức cao (0,47 ± 0,13),
kết quả này cao hơn kết quả thế hệ G5 (h2 = 0,29)
của Trịnh Quốc Trọng và ctv., (2014); cao hơn
so với nghiên cứu của Luan (2000) (h2 = 0,19);
dao động h2 = 0,2 – 0,4 như Tave và Smitherman
(1980), h2 = 0,04 - 0,1 (Gall và Bakar, 2002); h2
= 0,2 (Rutten và ctv., 2005) hay h2=0,26 (Khaw
và ctv., (2008); h2 = 0,3 – 0,34 (Ponzoni và ctv.,
2005); h2 = 0,13- 0,2 (Thodesen và ctv., 2011).
Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu này vẫn thấp
hơn nghiên cứu của Bolivar và Newkirk (2002),
với h2 = 0,55 – 0,56. Kết quả này cũng cao hơn
so với trên các đối tượng cá rô phi khác như
cá rô phi (Oreochromis shiranus), h2 = 0,21 0,25 với nghiên cứu của Maluwa (2016), cá
rô phi xanh (O. Aureus) theo nghiên cứu của
Bondari và ctv., (1983), h2 = 0,2 – 0,38. Tại
Việt Nam, chương trình chọn giống cá rơ phi đỏ
(Oreochromis spp.) theo tính trạng tăng trưởng
cũng có hệ số di truyền qua 4 thế hệ chọn lọc
nằm ở mức khá (h2 = 0,22 – 0,29) (Trịnh Quốc
Trọng và ctv., 2017), thấp hơn so với kết quả
của nghiên cứu này (h2 = 0,47).
Ảnh hưởng của môi trường ương ni riêng
rẽ (c2) cho tính trạng khối lượng thu hoạch trên
quần thể cá rô phi vằn G6 là thấp (0,07 ± 0,04)
và nằm gần ngưỡng dưới trong khoảng được
báo cáo cho cá rô phi (0,08 – 0,21) (Bentsen và
ctv., 2012), nên khơng ảnh hưởng đến ước tính
của h2. Trong những thế hệ chọn giống kế tiếp,
ảnh hưởng của c2 cần được giảm thiểu đến mức
tối thiểu bằng cách giảm thời gian sản xuất các
gia đình và giảm kích cỡ đánh dấu (tức là, giảm
thời gian ương gia đình riêng rẽ), nhằm tách ảnh
hưởng di truyền ra khỏi các ảnh hưởng khơng di
truyền, làm tăng độ chính xác của chọn lọc.
3.2.2. Tỉ lệ sống tại thời điểm thu hoạch
Hệ số di truyền của tính trạng tỉ lệ sống
tại thời điểm thu hoạch ở mức trung bình 0,15
± 0,03 là thấp (Bảng 3), tuy nhiên đây là tính
trạng quan trọng nên cần được quan tâm và
chọn trong chương trình chọn giống cá rơ phi
vằn dịng GIFT tại Đồng bằng sơng Cửu Long.
Kết quả thu được tương đồng với chọn giống cá
rơ phi vằn dịng GIFT 0,14 ± 0,34 (Ponzoni và
ctv., 2011) nhưng thấp hơn so với các nghiên
cứu trước đây trên cá rô phi.
3.3. Tương quan di truyền giữa các tính
trạng khối lượng và tỉ lệ sống
Tương quan di truyền giữa tính trạng khối
lượng thu hoạch và tỉ lệ sống là 0,14 ± 0,10.
Tương quan này thấp hơn so với kết quả của
chương trình chọn giống cá rơ phi đỏ tại Trung
Quốc (Thodesen và ctv., 2011) nhưng cao hơn
so với cá rô phi GIFT tại Trung tâm nghề cá Thế
giới 0,065 ± 0,026 (Gjedrem, T., 2005) và thấp
hơn tương quan giữa tính trạng tăng trưởng và
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
9
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
kháng bệnh gan thận mũ trên cá tra 0,26 ± 0,11
(Trịnh Quốc Trọng và ctv., 2016), tương đương
với các chương trình chọn giống trên các loài
thủy sản khác (Gjedrem, T., 2005). Tuy nhiên,
đây là tương quan thuận giữa hai tính trạng khối
lượng và tỷ lệ sống khơng cao, cho thấy có thể
cải thiện hai tính trạng tăng trưởng và tỷ lệ sống
đồng thời, hoặc khi cải thiện tính trạng tăng
trưởng thì khơng ảnh hưởng tiêu cực đến tính
trạng tỷ lệ sống và ngược lại. Như vậy khi chọn
một trong hai tính trạng khối lượng và tỷ lệ sống
cần cần nghiên cứu thêm về tỷ trọng kinh tế.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận
Tại thời điểm thu hoạch đàn cá đạt tỷ lệ
sống là 64,1%, khối lượng trung bình đạt 610,6
± 138,0 g, tương ứng tốc độ tăng trưởng 2,5 g/
ngày.
Hệ số di truyền (h2) khối lượng khi thu
hoạch đạt mức cao 0,47, cho phép nhận định
chọn lọc nhằm cải thiện tính trạng này sẽ có kết
quả cao tương ứng.
Hệ số di truyền (h2) của tính trạng tỉ lệ sống
tại thời điểm thu hoạch ở mức thấp 0,15 ± 0,03,
nhưng cần xem xét chọn lọc nhằm cải thiện tính
trạng này trong một chương trình chọn giống
dài hạn.
Ảnh hưởng của mơi trường ương ni riêng
rẽ (c2) cho tính trạng khối lượng thu hoạch trên
quần thể cá rô phi vằn G6 là thấp (c2 = 0,07).
Tương quan di truyền giữa tính trạng khối
lượng thu hoạch và tỉ lệ sống là 0,14 ± 0,10, cho
phép nhận định chọn lọc tính trạng này khơng
ảnh hưởng tiêu cực đến tính trạng kia.
4.2. Đề xuất
Tiếp tục chương trình chọn giống trên cá rơ
phi vằn nhằm cải thiện hai tính trạng khối lượng
và tỉ lệ sống.
Chương trình chọn giống cá rơ phi vằn cần
quan tâm thêm tính trạng chịu mặn nhằm có
chọn giống chịu mặn phục vụ ni vùng nước
lợ trong điều kiện biến đổi khí hậu và xâm
10
nhập mặn diễn ra nhanh như hiện nay và trong
tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Trịnh Quốc Trọng, Trần Hữu Phúc, Phạm Đăng Khoa,
Lao Thanh Tùng, Nguyễn Công Minh, Lê Trung
Đỉnh, 2013. Quần thể ban đầu cho chọn giống cá
rô phi đỏ tại Đồng bằng sông Cửu Long. Tuyển
tập Hội Nghị khoa học Trẻ ngành Thủy sản lần thứ
IV thành phố Hồ Chí Minh ngày 06 – 07/6/2013.
Trường Đại học Nơng Lâm Tp. HCM. Trang 308
– 316.
Trịnh Quốc Trọng, Trần Hữu Phúc, Phạm Đăng Khoa,
Lao Thanh Tùng, Nguyễn Công Minh, Lê Trung
Đỉnh, 2011. Chọn giống cá rô phi đỏ (Oreochromis
sp) tại Đồng bằng sông Cửu Long: Những kết quả
bước đầu;Tuyển tập Nghề cá sông Cửu Long. Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh. Trang:
66 – 75.
Trịnh Quốc Trọng, Nguyễn Văn Sáng, Trần Hữu Phúc,
Phạm Đăng Khoa, Lao Thanh Tùng, Lê Trung
Đỉnh, Nguyễn Công Minh, 2017. Báo cáo tổng kết
đề tài ‘Ứng dụng di truyền phân tử, di truyền số
lượng phục vụ chọn giống nâng cao sinh trưởng cá
rô phi đỏ (Oreochromis spp.) 2013-2016’. Chương
trình cơng nghệ sinh học, Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản II.
Trịnh Quốc Trọng, Nguyễn Huỳnh Duy, Nguyễn
Thanh Vũ, Lê Hồng Phước, Nguyễn Thị Hiền, Ngô
Hồng ngân, Trần Hữu Phúc, Nguyễn Thị Đang,
Nguyễn Thế Vương, Phạm Đăng Khoa, Lê Trung
Đỉnh, 2016. Tương quan di truyền giữa tính trạng
kháng bệnh gan thân mủ và tăng trưởng trên cá
tra (Pangasianodon hypophthalmus): ý nghĩa cho
chọn giống dài hạn. Tạp chí Nghề cá sông Cửu
Long số 08-tháng 9/2016. Trang 19-31.
Trịnh Quốc Trọng, Lê Trung Đỉnh, Phạm Đăng Khoa,
2014. Tăng trưởng và tỷ lệ sống ở kích cỡ đánh
dấu của cá rơ phi vằn (Oreochromis niloticus) dịng
GIFT thế hệ 15. Tạp chí nghề cá sông Cửu Long.
Tài liệu tiếng Anh
Azhar, H., Nguyen, N.H., Ponzoni, R.W., Suhba,
H., 2008. Evaluation of three red tilapia strains
(Oreochromis spp) for growth performance and
survival in earthen ponds. In Proceedings of 8th
International Symposium on Tilapia in Aquaculture,
12-14 October 2008 in Egypt, Volume 1 ,119–211.
Bentsen, H.B., Gjerde, B., Eknath, A.E., de Vera,
M.S.P., Velasco, R.R., Danting, J.C., Dionisio,
E.E., Longalong, F.M., Reyes, R.A., Abella, T.A.,
Tayamen, M.M., Ponzoni, R.W., 2017. Genetic
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
improvement of farmed tilapias: Response to five
generations of selection for increased body weight
at harvest in Oreochromis niloticus and the further
impact of the project. Aquaculture 468, Part 1, 206217.
Beveridge, M.C.M., and McAndrew, B.J., 2000.
Tilapias: Biology and Exploitation, Fish and
Fisheries Series 25, Kluwer Academic Publishers,
the Netherlands, pp. 505.
Bolivar & Newkirk, 2002. Response to selection for
body weight in Nile tilapia using a single trait
animal model. Aquaculture 204, 371-381.
Bondari, K., Sheppard, D.C., 1987. Soldier fly,
Hermetia illucens L., larvae as feed for channel
catfish, Ictalurus punctatus (Rafinesque), and
blue tilapia, Oreochromis aureus (Steindachner).
Aquaculture Research 18, 209 – 220.
Falconer, D. S., & Mackay, T. F., 1996. Introduction to
Quantitative Genetics. Fourth edi. Harlow, Essex.
England: Longman Group Ltd.
Gall, G.A., Bakar, Y., 2002. Application of mixedmodel techniques to fish breed improvement:
analysis of breeding-value selection to increase 98day body weight in tilapia. Aquaculture. 212, 93113.
Gilmour, A. R., Gogel, B. J., Cullis, B. R., Welham, S.
J., and Thompson, R., 2015. ASReml User Guide
Release 4.1
Structural Specification, VSN International Ltd, Hemel
Hempstead, HP1 1ES, UK www.vsni.co.uk.
Gjedrem, T., & Thodesen, J., 2005. Selection.
In Selection and breeding programs in
aquaculture (pp. 89-111). Springer, Dordrecht.
Gjedrem, T., Gjøen, H.M., Gjerde, B., 1991. Genetic
origin of Norwegian farmed Atlantic salmon.
Aquaculture. 98, 41-50.
Hulata, G., Wohlfarth, G.W., Halevy, A., 1986.
Mass selection for growth rate in the Nile tilapia
(Oreochromis niloticus). Aquaculture. 57, 177-184.
McAndrew, B., Roubal, F.R., Roberts, R.J., Bullock,
A.M., McEwen, I., 1988. The genetics and
histology of red, blond and associated colour
variants in Oreochromis niloticus. Genetica. 76,
127-137.
Khaw, H.L., Ponzoni, R.W., Danting, M.J.C.,
2008. Estimation of genetic change in the GIFT
strain of Nile tilapia (Oreochromis niloticus) by
comparing contemporary progeny produced by
males born in 1991 or in 2003. Aquaculture 275,
64-69.
Luan, T.D., 2010. Genetic studies of Nile tilapia
(Oreochromis niloticus) for farming in Northern
Vietnam: growth, survival and cold tolerance
in different farm environments. PhD thesis,
Norwegian University of life Sciences.
Maluwa, A.O., Gjerde, B., Ponzoni, R.W., 2006.
Genetic parameters and genotype by environment
interaction for body weight of Oreochromis
shiranus. Aquaculture 259, 47-55.
Trinh Quoc Trong, Han A. Mulder, Johan A. M. van
Arendonk. Han Komen, 2013. Heritability and
genotype by environment interaction estimates
for harvest weight, growth rate, and shape of
Nile tilapia (Oreochromis niloticus) grown in
river cage and VAC in Vietnam. Aquaculture,
384,119-127.
Ponzoni, R.W., Hamzah, A,. Tan, S., Kamaruzzaman,
N,. 2005. Genetic parameters and response to
selection for live weight in the GIFT strain of
Nile Tilapia. Aquaculture 247, 203-210.
Rezk, M. A., Ponzoni, R. W., Hooi LingKhaw,
Kamel, E., Dawood, T., John, G., 2009. Selective
breeding for increased body weight in a synthetic
breed of Egyptian Nile tilapia, Oreochromis
niloticus: Response to selection and genetic
parameters. Aquaculture, Volume 293, 3–4, 187
– 194.
Rutten, M.J.M., Bovenhuis, H., Komen, H.,
2005. Modeling fillet traits based on body
measurements in three Nile tilapia strains
(Oreochromis niloticus L.) Aquaculture 231 (14), 113-122.
Tave, D., and Smitherman, R.O., 1980. Predicted
response to selection for early growth in Tilapia
nilotica. Trans. Am. Fish. Soc 109, 439-445.
Thodesen, J., Rye, M., Wang, Y.-X., Yang, K.S., Bentsen, H.B., Gjedrem, T., 2011. Genetic
improvement of tilapias in China: Genetic
parameters and selection responses in growth
of Nile tilapia (Oreochromis niloticus) after six
generations of multi-trait selection for growth
and fillet yield. Aquaculture, 322–323, 51-64.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
11
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
GENETIC PARAMETERS FOR GROWTH AND SURVIVAL RATE OF
THE 6th GENERATION OF NILE TILAPIA IN THE MEKONG DELTA
Le Trung Dinh1*, Tran Huu Phuc1, Nguyen Van Minh2, Trinh Quoc Trong3,
Pham Dang Khoa1, Vo Thi Hong Tham1
ABSTRACT
This study presents the estimated results of genetic parameters for growth and survival rate traits
of the 6th selective generation of Nile tilapia in the Mekong Delta. The data was based on the
number of 6,200 tagged fish from 124 families, the average tagging weight, total length, standard
length and body height of fingerling of 11.6 g, 8.3 cm, 6.6 cm and 2.7 cm respectively. After six
months of rearing, 3,974 individuals were harvested and the average of harvest weight was 610.6
g/fish. The average of growth rate is 2.5 g/day. The genetic parameters were estimated in ASReml
ver.4.1 software. The heritability (h2) for the growth trait as harvest body weight is high, 0.47. The
common environment effect to full-sibs (c2 = 0.07) is accounted for 8% of the phenotype variance.
Heritability of harvest survival was low, 0.15. Genetic correlation between harvest body weight and
survival is 0.14. This allows to select both traits, growth and survival rate at the same time feasibly.
Keywords: Genetic parameters, body weight, survival, Nile Tilapia, GIFT.
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng
Người phản biện: TS. Nguyễn Minh Thành
Ngày nhận bài: 15/7/2020
Ngày nhận bài: 15/7/2020
Ngày thông qua phản biện: 30/7/2020
Ngày thông qua phản biện: 28/7/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
Research Institute for Aquaculture No.2.
Nha Trang University
3
Worldfish Center
* Email:
1
2
12
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ẢNH HƯỞNG CỦA ÁNH SÁNG ĐÈN LED (LIGHT EMITTING DIODE)
ĐẾN HORMONE IGF-I mRNA (INSULIN-LIKE GROWTH FACTOR
MESSENGER RNA) VÀ SINH SẢN Ở CÁ CHÉP (Cyprinus carpio)
Nguyễn Thị Đang1* và Katsuhisa Uchida2
TĨM TẮT
Hiện nay cơng cụ Light Emitting Diode (LED) đang được ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy
sản và đã chứng minh mang lại hiệu quả cao trong tăng năng suất vật nuôi. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi khảo sát ảnh hưởng của đèn LED với các bước sóng là trắng, xanh da trời, xanh lá và
đỏ đến nồng độ hormone IGF-I mRNA (Insulin-like Growth Factor messenger RNA) và sinh sản
của cá chép. Cá chép có khối lượng trung bình 92 ± 4,3 g được ni trong bể kính trong phịng thí
nghiệm, bể được che tối kín bằng hộp giấy màu đen có nắp đậy. Cá được nuôi với mật độ 8 con/bể
trong thời gian 10 tuần, cho ăn bằng thức ăn viên công nghiệp 34% đạm, khẩu phần ăn là 2%/trọng
lượng thân, cho ăn 2 lần/ ngày vào lúc 9:00 và 17:00. Cá chép được nuôi dưới ánh sáng đèn LED ở
các bước sóng 446 nm (trắng), 468 nm (xanh da trời), 537 nm (xanh lá) và 630 nm (đỏ) với mật độ
chiếu sáng là 5,0 µm/s/m2. Khoảng cách ánh sáng đến bề mặt nước là 50 cm. Thời gian chiếu sáng là
12 giờ/ngày (07 giờ mở đèn và 19 giờ tắt đèn). Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ IGF-I mRNA
(insulin-like growth factor messenger RNA) cao hơn ở ánh sáng màu xanh da trời và trắng so với
màu đỏ. Chỉ số tuyến sinh dục (GSI) của cá chép cái nuôi dưới ánh sáng màu xanh da trời tăng cao
có ý nghĩa so với ánh sáng trắng, xanh lá và đỏ. Hình ảnh mơ học cũng chỉ ra tỷ lệ phát triển noãn
bào ở tế bào trứng cao nhất dưới ánh sáng màu xanh da trời và có tỷ lệ thấp dưới ánh sáng trắng,
xanh lá và đỏ. Cá chép cái phơi dưới ánh sáng màu xanh da trời có nồng độ estradiol -17β trong
máu cao hơn có ý nghĩa khi so sánh với các ánh sáng trắng, xanh lá và đỏ. Kết quả nghiên cứu cho
thấy rằng ánh sáng LED màu xanh da trời kích thích phát triển của tuyến sinh dục và cải thiện chất
lượng trứng ở cá chép (Cyprinus carpio).
Từ khóa: Light emitting diode (LED), Cyprinus carpio, cá chép.
I. GIỚI THIỆU
Cá chép (Cyprinus carpio) sống trong môi
trường nước ngọt, là lồi nội địa và có từ lâu
đời. Cá thường thích sống theo bầy đàn tập trung
những nơi nước cạn như sông, suối và nơi nhiều
rau cỏ rậm rạp. Cá có thể chịu đựng trong điều
kiện hàm lượng oxy thấp, nhiệt độ thích hợp
cho cá tăng trưởng tốt từ 23-300C và khoảng pH
tối ưu của cá từ 7,5-8,0 (Heydarnejad, 2012).
Sản lượng cá chép trên thế giới chủ yếu từ nuôi
trồng chiếm (97,3%) đạt 3,4% (4,4 triệu tấn
năm 2016) (Karnai và Naukowe, 2018). Trung
Quốc là quốc gia đứng đầu thế giới về sản lượng
ni cá chép, trong đó Việt Nam cũng là một
trong 10 nước có sản lượng cao ni cá chép đạt
khoảng 400.000 tấn năm 2015 (Weimin, 2017).
Cá chép là lồi cá nước ngọt tương đối quan
trọng và ni phổ biến ở Việt Nam vì lý do ni
cá chép không cần đầu tư nhiều vốn, dễ nuôi
trong quy mô nhỏ, đặc biệt những nơi phong phú
các loại phụ phẩm về nông nghiệp như vùng núi
cao. Hơn nữa, thịt cá chép thơm ngon cung cấp
Viện Nghiện cứu Nuôi trồng Thủy sản II
Trường đại học Miyazaki, Nhật Bản
*Email:
1
2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
13
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
nguồn đạm cao cho con người. Nghiên cứu chỉ
ra ánh sáng là yếu tố môi trường quan trọng bao
gồm chất lượng, mật độ cũng như thời gian chiếu
sáng tất cả đều có ảnh hưởng mạnh đến chức
năng sinh lý như tăng trưởng và phát triển tuyến
sinh dục của cá (Boeuf, 1999; Björnsson, 1997;
Imsland và ctv., 2007; Tucker và ctv., 2006).
Cá có khả năng phát hiện mật độ và phổ ánh
sáng thông qua mắt, da và não (Bayarri và ctv.,
2002; Vera và ctv., 2010). Ở cá xương, ánh sáng
có ảnh hưởng đến tuyến yên tại đây kích thích
sản xuất follicle stimulating hormone (FSH) và
luteinizing hormone (LH) có ảnh hưởng tuyến
sinh dục phát triển (Davie và ctv., 2007). Ngày
nay, công cụ đèn LEDs được áp dụng cho nhiều
lĩnh vực cây trồng, động vật và thủy sản. Trong
ni trồng thủy sản một bước sóng ánh sáng rõ
ràng sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng, miễn dịch
và sinh sản của cá trong mơi trường thí nghiệm
và vùng ni (Shin và ctv., 2013; Takahashi và
ctv., 2016; Zheng và ctv., 2016). Hơn nữa, đèn
LEDs cịn có nhiều lợi thế để sử dụng trong trang
trại nuôi thủy sản như là giá thấp, độ nóng vừa
phải và độ bền cao (Migaud và ctv., 2007). Một
vài nghiên cứu chỉ ra kết quả thú vị khi sử dụng
đèn LED trong nuôi trồng thủy sản như đạt tăng
trưởng cao ở cá chẽm khi nuôi dưới ánh sáng
màu xanh da trời có bước sóng 435-500 nm
(Villamizar và ctv., 2009a). Trên cá bơn, cá rô phi
và cá chép koi giảm stress, cải thiện miễn dịch
và tốc độ tăng trưởng dưới ánh sáng LED màu
xanh lá (Bairwa và ctv., 2017b; Shin và ctv.,
2011; Volpato và ctv., 2011). Nghiên cứu cũng
cho thấy ánh sáng LED màu xanh lá cải thiện
sự phát triển tuyến sinh dục trên cá chép koi và
cá ba đuôi (gold fish) (Bairwa và ctv., 2017b;
Choi và ctv., 2015; Shin và ctv., 2013). Nghiên
cứu của chúng tôi được thực hiện để đánh giá
ảnh hưởng của bước sóng ánh sáng khác nhau
đèn LEDs với màu xanh da trời, màu xanh lá,
màu đỏ và màu trắng đến tốc độ tăng trưởng và
sinh sản ở cá chép (Cyprinus carpio).
14
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu thí nghiệm
Cá chép (Cyprinus carpio) được cung cấp
từ Trung tâm giống, trường đại học Miyazaki,
Nhật Bản. Cá chép giống có khối lượng trung
bình ban đầu là 92 ± 4,3 g và chiều dài là 19
±0,6 cm. Cá được nuôi dưỡng trong bể xi măng
ngoài trời cho ổn định sức khỏe trước khi thực
hiện thí nghiệm.
Nguồn nước
Cá được ni bằng nguồn nước máy sử
dụng cho sinh hoạt. Nước được sục khí 1 ngày
trước khi cấp vào bể ni cá để hạn chế khí độc.
2.2. Thiết kế thí nghiệm
Cá được ni thuần dưỡng 10 ngày cho
quen mơi trường trước khi bắt đầu thí nghiệm.
Bể kính được đặt trong thùng xốp màu đen để
hạn chế ảnh hưởng của ánh sáng bên ngồi. Thí
nghiệm thực hiện trong thời gian 10 tuần trong
bể kính có dung tích 60 lít có gắn hệ thống lọc
nước xả tràn. Mật độ thả nuôi là 8 con/ bể, cá
được cho ăn 2 lần trong ngày (sáng 9:00, chiều
17:00) bằng thức ăn viên công nghiệp độ đạm
34% với khẩu phần thức ăn là 2 % trọng lượng
thân. Nhóm cá thí nghiệm được thiết kế gắn đèn
LED với màu sắc và bước sóng khác nhau như
màu xanh lá (468 nm), màu xanh da trời (537
nm), màu đỏ (630 nm) và màu trắng (446 nm).
Đèn LED được lắp đặt với khoảng cách 50 cm
đến mặt nước và mật độ ánh sáng được đo bằng
máy đo cầm tay Sekonic spectromaster model
C-7000. Chu kỳ chiếu sáng của thí nghiệm là
12 giờ sáng và 12 giờ tối (đèn được mở lúc 7
giờ sáng và tắt lúc 19 giờ). Yếu tố môi trường
được theo dõi trong suốt thời gian thí nghiệm,
nhiệt độ đo hàng ngày, pH và oxy đo hàng tuần.
Nước được thay 50% mỗi ngày trong 10 tuần
thí nghiệm.
Phương pháp thu mẫu và phân tích
Mẫu được thu tại thời điểm bắt đầu và kết
thúc thí nghiệm, trước khi thu mẫu cá được
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
gây mê trong dung dịch 2-phenoxyethanol (0,5
ml/L, Sigma, St. Louis, MO). Cá được cân khối
lượng, đo chiều dài, sau đó mổ cá cho thu buồng
trứng ở cá cái.
Chỉ số Gonadosomatic index (GSI) = [trọng
lượng buồng trứng (g)]/[trọng lượng cá (g)] x
100
Nồng độ hormone IGF-I (insulin-like
growth factor-I) được xác định bằng phương
pháp real time PCR. Phản ứng được tiến hành
với tổng dung dịch là 10µl trong đó chứa đựng
2,5 ng of cDNA với 0,5µl cho mỗi 2µM cặp mồi
xi và mồi nghịch với nhiệt độ từ 60οC đến
95οC.
Kỹ thuật cắt mô buồng trứng: Buồng trứng
được cố định trong 10% formaldehyde. Mẫu
mô được làm khô bằng cồn có nồng độ từ 70
đến 100%. Xylene được sử dụng cho làm sạch
mơ. Sau đó mơ được nhúng trong paraffin 64οC.
Tiêu bản cắt 5 µm sau đó đem nhuộm bằng
haematoxyline, eosin và được kiểm tra bằng
kính hiển vi quang phổ với độ phóng đại x10
(Nikon, Japan).
Nỗn bào được quan sát các giai đoạn phát
triển theo tác giả (Wallace và Selman, 1981),
gồm 5 giai đoạn.
Giai đoạn 1 (GĐ1): noãn bào có nhân lớn
và hình cầu khơng đều.
Giai đoạn 2 (GĐ 2): xuất hiện túi nỗn
hồng chiếm hai hoặc ba phần trong ngoại vi tế
bào chất.
Giai đoạn 3 (GĐ3): noãn bào chứa đầy túi
nỗn hồng. Xuất hiện các lớp nang và tế bào
khác nhau.
Giai đoạn 4 (GĐ4): xuất hiện các nỗn
hồng ở trung tâm của nỗn bào
Giai đoạn 5 (GĐ5): tế bào tích tụ các nỗn
hồng và các túi nỗn hoàng ở ngoại vi của tế
bào chất.
Để xác định mật độ phát triển khác nhau
của buồng trứng, 6 tiêu bản mô học được chọn
ngẫu nhiên từ buồng trứng cho mỗi cá cái và 10
hình ảnh được chụp từ kính hiển vi quang học
cho mỗi tiêu bản.
Thu mẫu máu cá: Mẫu máu cá được lấy
từ tĩnh mạch đuôi sử dụng xi lanh 2,5ml. Máu
được ly tâm ở nhiệt độ 4οC, 12000 rpm trong
thời gian 10 phút thu huyết tương trên bề mặt
và được bảo quản trong tủ đông âm 20οC đến
khi phân tích. Tiếp theo hỗn hợp gồm100μl mẫu
này và 500μl ethylene ether (tỷ lệ là 1:5). Dung
dịch được lắc mạnh trong 5 phút, sau đó ủ tại
nhiệt độ phịng cho 1 phút và đặt trên khối đá
khô trong 1 giờ trước khi thu phần dịch nổi trên
bề mặt.
Nồng độ hormone estradiol-17β được xác
định bằng phương pháp ELISA theo hướng dẫn
của nhà sản xuất, công ty Cayman (Ann Arbor,
MI, USA).
III. KẾT QUẢ
3.1. Biểu hiện của gene IGF-I mRNA
Mức độ biểu hiện của IGF-I mRNA của cá
chép nuôi dưới ánh sáng đèn LED trong thời gian
10 tuần được trình bày ở Hình 1. Cá chép được
nuôi dưới mật độ chiếu sáng là 5,0 µm/s/m2. Kết
quả chỉ ra, nồng độ của IGF-I mRNA của cá dưới
các phổ ánh sáng LED màu xanh da trời và trắng
được cho thấy cao hơn so với nghiệm thức màu
đỏ, mức độ khác nhau này có ý nghĩa thống kê (P
< 0,05). Các nghiệm thức cịn lại khơng có sự sai
khác có ý nghĩa thống kê.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
15
trắng được cho thấy cao hơn so với nghiệm thức màu đỏ, mức độ khác nhau này có ý nghĩa thống
kê (P < 0,05). Các nghiệm thức cịn lại khơng có sự sai khác có ý nghĩa thống kê.
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
IGF-1 mRNA
6
*
igf-1/ef1a(x10^-2)
5
*
4
3
2
1
0
Trắng
Xanh lá
Đỏ
Xanh da trời
Hình 1: IGF-I-mRNA của cá chép nuôi dưới các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau trong thời gian
3.2.1.
Chỉ trung
số GSI
(Gonadal-somatic
index)
chép
cái
101:tuần,
bình
± SE
*: Khác
nhau
có
ý cá
nghĩa
thống
kêLED
(P<0,05).
Hình
IGF-I-mRNA
của
cá(n=8).
chép ni
dưới
cáccủa
phổ
ánh
sáng
đèn
khác nhau trong thời
Gonadosomatic index of female (%)
10 tuần,
trung
SE cái
(n=8).được
*: Khác
có
ý nghĩa
thống
kêcho
(P<0,05).
3.2. Phátgian
triển
sinh
dụcbình
ở cá ±chép
trìnhnhau
ở Hình
2. Kết
Chỉ tuyến
số GSI
(Gonadal-somatic
index) của
cábày
chép
cái sau
thờiquả
gian
10thấy,
tuầncácủa thí nghi
3.2.1. Chỉ số GSI (Gonadal-somatic index) cái được nuôi dưới ánh sáng màu xanh da trời
được trình bày ở Hình 2. Kết quả cho thấy, cá cái được nuôi dưới ánh sáng màu xanh da trời
của cá chép cái
có GSI cao hơn và có ý nghĩa thống kê (P<
3.2. Phát triển tuyến sinh dục ở cá chép cái
GSI
cao
hơn và có ý nghĩa
thống
0,05)
sáng
là xanh
Chỉ số
GSI
(Gonadal-somatic
index)
của kê
cá (P<
0,05)
soso
vớivới
cáccác
ánhánh
sáng
còncòn
lại làlạixanh
lá, đỏlá, đỏ và trắn
chép cái sau thời gian 10 tuần của thí nghiệm và trắng.
12
*
10
8
6
4
2
0
Ban đầu
Xanh da trời
Xanh lá
Đỏ
Trắng
Hình 2: GSI của cá chép ni dưới các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau trong thời gian 10 tuần,
trung
bìnhcủa
± SE
Khác
nhau
ý nghĩa
thốngđèn
kê (P<0,05).
Hình
2: GSI
cá(n=4).
chép *:
ni
dưới
cáccóphổ
ánh sáng
LED khác nhau trong thời gian 10
16
tuần, trung bình ± SE (n=4). *: Khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
3.2.2. Hình ảnh mô học buồng trứng của cá chép cái
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
3.2.2. Hình ảnh mô học buồng trứng của
cá chép cái
Kết quả theo dõi tiêu bản mơ học các giai
đoạn phát triển nỗn bào của buồng trứng ở cá
cái được thể hiện trong Hình 3. Quan sát cho
a
thấy, nhóm cá dưới ánh sáng màu xanh da trời
xuất hiện số đơng nỗn hồng phát triển ở trung
tâm của nỗn bào (GĐ4) so với các nhóm cá
còn lại (chủ yếu phát triển ở giai GĐ3, GĐ2 hay
GĐ1).
b
GĐ4
GĐ3
c
d
GĐ2
GĐ1
Hình 3: Hình ảnh mơ học của tế bào trứng cá chép nuôi dưới điều kiện ánh sáng đèn LED
trong thời gian 10
tuần;
a: màu
xanh
xanh
c: đỏ
và d: ni
trắngdưới
(n=30).
Hình
3: Hình
ảnh
mơ lá;
họcb:của
tế da
bàotrời;
trứng
cá chép
điềuGĐ1:
kiện nỗn
ánh sáng đèn LED
bào có nhân
hình10cầu
khơng
đều;xanh
GĐ2:lá;xuất
hiện da
túi trời;
nỗnc:hồng
hai(n=30).
hoặc baGĐ1: noãn bào
tronglớn
thờivàgian
tuần;
a: màu
b: xanh
đỏ vàchiếm
d: trắng
phần trong ngoại vi tế bào chất; GĐ3: nỗn bào chứa đầy túi nỗn hồng, xuất hiện các lớp
và hình
khơng
xuất hồng
hiện túiở nỗn
chiếm
hoặc ba phần trong
nang có
và nhân
tế bàolớn
khác
nhau;cầu
GĐ4:
xuấtđều;
hiệnGĐ2:
các nỗn
trunghồng
tâm của
nỗnhai
bào.
ngoại vi tế bào chất; GĐ3: nỗn bào chứa đầy túi nỗn hồng, xuất hiện các lớp nang và tế bào
Tỷ lệ phần trăm các giai đoạn phát triển của đạt 23%, cao hơn màu xanh lá (19%), màu đỏ
khác nhau; GĐ4: xuất hiện các nỗn hồng ở trung tâm của nỗn bào.
buồng trứng được thể hiện ở Hình 4. Nhóm cá (6%), màu trắng (10%). Ở thời điểm đầu thí
được ni dưới ánh sáng màu xanh da trời sau nghiệm, 100% số cá có buồng trứng phát triển
ở giaitriển
đoạncủa
1. buồng trứng được thể hiện ở Hình 4. Nhóm
10 tuần có buồng Tỷ
trứng
giaigiai
đoạnđoạn
4 phát
lệ phát
phầntriển
trămởcác
cá được nuôi dưới ánh sáng màu xanh da trời sau 10 tuần có buồng trứng phát triển ở giai đoạn 4
đạt 23%, cao hơn màu xanh lá (19%), màu đỏ (6%), màu trắng (10%). Ở thời điểm đầu thí nghiệm
100% số cá có buồng trứng phát triển ở giai đoạn 1.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
17
GĐ4
GĐ3
GĐ2
GĐ1
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
100%
90%
80%
70%
60%
Xanh da trời
23% 50%
8% 40%
11% 30%
58% 20%
10%
0%
Tỷ lệ phần trăm giai đoạn buồng trứng (%)
Tỷ lệ phần trăm giai đoạn buồng trứng (%)
100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Xanh lá
19%
11%
14%
56%
Đỏ
6%
7%
5%
82%
Trắng
10%
12%
8%
70%
Ban đầu
0%
0%
0%
100%
trờiđoạnXanh
Trắng
đầudưới điều kiện
Hình 4: Tỷ lệ phần trămXanh
các da
giai
phátlátriển củaĐỏbuồng trứng
cá chépBan
nuôi
GĐ4
23%
19%
6%
10%
0%
ánh sáng đèn LED màu xanh da trời, xanh lá, đỏ và trắng trong thời gian 10 tuần (n=60).
GĐ3
GĐ2
GĐ1
8%
11%
58%
11%
14%
56%
7%
5%
82%
12%
8%
70%
0%
0%
100%
3.3. Sự thay đổi nồng độ hormone estradiol-17β (E2) trong huyết tương ở cá chép cái
Hình 4: Tỷ lệ phần trăm các giai đoạn phát triển của buồng trứng cá chép ni dưới điều kiện ánh
Hình 4: Tỷ lệ phần trăm các giai đoạn phát triển của buồng trứng cá chép ni dưới điều kiện
Kếtsáng
quả đèn
thí nghiệm
thấy,
cá chép
cái ni
điều kiện
ánh
đèn(n=60).
LED màu xanh
LEDsáng
màucho
xanh
da trời,
vàdưới
trắng
giansáng
10
tuần
ánh
đèn
LED
màuxanh
xanhlá,dađỏtrời,
xanh trong
lá, đỏthời
và trắng
trong
thời gian 10 tuần (n=60).
da trời3.3.
có Sự
hàm
lượng
estradiol-17β
(E2)
trong huyết
tương
caocóhơn
với các
nhóm cịn (E2)
lại. Sự
xanh
da trời
hàmsolượng
estradiol-17β
thay
đổi nồng
độ hormone
estradiol-
trong
hơn so
17βbiệt
(E2)này
trong
huyết
tươngvềở mặt
cá chép
cáikê (P<0,05)
khác
là có
ý nghĩa
thống
vàhuyết
đượctương
chỉ racao
ở Hình
5.với các nhóm cịn
3.3.
Sự
thay
đổi
nồng
độ
hormone
estradiol-17β
(E2)
trong
huyết
cá chép cái
về mặtởthống
Kết quả thí nghiệm cho thấy, cá chép cái lại. Sự khác biệt này là có ý nghĩatương
nuôi dưới điều kiện ánh sáng đèn LED màu kê (P<0,05) và được chỉ ra ở Hình 5.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, cá chép cái nuôi dưới điều kiện ánh sáng đèn LED màu xan
da1600
trời có hàm lượng estradiol-17β
(E2) trong huyết tương cao hơn so với các nhóm cịn lại. S
*
khác biệt này là có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,05) và được chỉ ra ở Hình 5.
1400
1400
800
600
400
200
0
*
1600
1000
1200
Estradiol -17β(pg/ml)
Estradiol -17β(pg/ml)
1200
1000
800
600
Ban đầu
400
Xanh da trời
Xanh lá
Đỏ
Trắng
Hình 5: Nồng độ estradiol-17β
200 (E2) ở cá chép cái sau 10 tuần nuôi dưới điều kiện ánh sáng đèn
LED màu xanh da trời, xanh lá, đỏ và trắng, trung bình ± SE (n=4). *: Sự khác biệt có ý nghĩa
0
thống kê (P<0,05).
Ban đầu
18
Xanh da trời
Xanh lá
Đỏ
Trắng
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
IV. THẢO LUẬN
Nghiên cứu được thực hiện để khảo sát ảnh
hưởng của đèn LED với các phổ ánh sáng khác
nhau (trắng, xanh da trời, xanh lá và đỏ) lên tốc
độ tăng trưởng và sinh sản ở cá chép. Sau thời
gian 10 tuần nuôi, kết quả cho thấy nồng độ
IGF-I trong gan của cá chép ở nghiệm thức ánh
sáng màu xanh da trời và ánh sáng trắng đều cao
hơn ánh sáng màu đỏ và có ý nghĩa thống kê (P<
0,05). Các ánh sáng cịn lại khác nhau khơng
có ý nghĩa thống kê. Kết quả của nghiên cứu
này trùng hợp với kết quả của một số nghiên
cứu trước là ánh sáng màu xanh da trời làm tăng
nồng độ hormone tăng trưởng so với ánh sáng
màu đỏ. Theo nhận định của (Shin và ctv., 2012)
đèn LED màu xanh da trời và xanh lá làm tăng
nồng độ hormone tăng trưởng và melatonin, vì
vậy giúp làm tăng tốc độ tăng trưởng của cá hề
đuôi vàng (Yellowtail clownfish). Một nghiên
cứu tương tự trên ấu trùng cá chẽm châu Âu
cũng cho thấy nồng độ hormone IGF-I cao hơn
dưới điều kiện ánh sáng màu xanh da trời so
với ánh sáng đỏ và trắng (Villamizar và ctv.,
2009). Trong nghiên cứu của chúng tôi kết quả
bước đầu cho thấy nồng độ hormone IGF-I (loại
hormone có liên quan đến tăng trưởng) của cá
chép phơi dưới ánh sáng LED màu xanh da trời
và màu trắng đều cao hơn có ý nghĩa thống kê
so với màu đỏ.
Kết quả tìm hiểu ảnh hưởng của đèn LED
đến sinh sản của cá chép. Nghiên cứu đã kiểm
tra chỉ số GSI, mẫu mô học và đo nồng độ
hormone estradiol-17β (E2) của cá chép cái. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, nhóm cá
chép cái ni dưới ánh sáng màu xanh da trời có
chỉ số GSI cao hơn các nhóm cá còn lại. Nghiên
cứu trước cho thấy, chỉ số GSI là yếu tố quan
trọng để đánh giá phát triển tuyến sinh dục ở
cá, chỉ số này cao thể hiện tuyến sinh dục phát
triển ở mức tốt (Bairwa và ctv., 2017a). Quan
sát mơ học buồng trứng của nhóm cá chép chỉ
ra dưới ánh sáng màu xanh da trời có nỗn bào
phát triển ở giai đoạn cao hơn so với ở ánh sáng
màu xanh lá, đỏ và trắng. Nồng độ estradiol17β (E2) của cá chép cái trong điều kiện ánh
sáng màu xanh da trời tăng có ý nghĩa thống
kê (P < 0,05) so với nhóm cá cịn lại. Điều này
khẳng định tuyến sinh dục của cá chép cái nuôi
ở điều kiện ánh sáng màu xanh da trời phát triển
tốt hơn so với ở điều kiện ánh sáng xanh lá, đỏ
và trắng. Estradiol-17β là dạng của hormone
estrogen có hoạt lực mạnh nhất, chủ yếu được
sản xuất từ buồng trứng và có liên quan đến chu
kỳ sinh sản ở giống cái. Kết quả của nghiên cứu
này phù hợp với kết quả của một vài nghiên
cứu trước là ánh sáng có bước sóng ngắn (màu
xanh da trời và xanh lá) kích thích sinh sản sự
phát triển tuyến sinh dục ở cá (Bairwa và ctv.,
2017a; Choi và ctv., 2015; Shin và ctv., 2013).
Tuy nhiên chưa có nhiều thơng tin về cơ chế mà
ánh sáng có bước sóng ngắn có khả năng kích
thích phát triển buồng trứng. Theo nghiên cứu
của (Shin và ctv., 2013) ánh sáng có bước sóng
ngắn có thể chứa một sắc tố duy nhất với độ
nhạy quang phổ rộng, có thể liên quan đến sự
tải nạp chất kích thích thần kinh ngoại sinh ở cá.
Hơn nữa ánh sáng có bước sóng ngắn như ánh
sáng LED màu xanh da trời có thể truyền trong
mực nước sâu tạo ra mật độ ánh sáng trong nước
nhiều hơn, một nghiên cứu cho thấy mật độ ánh
sáng là yếu tố ảnh hưởng đến sinh lý của cá
(Myrberg và Fuiman, 2002). Ngược lại đối với
ánh sáng LED màu đỏ là loại ánh sáng có bước
sóng dài chỉ thâm nhập ở độ sâu thấp hơn nên
có thể ít ảnh hưởng đến sự phát triển tuyến sinh
dục của cá. Từ những nhận định trên cho thấy
việc nuôi cá chép dưới ánh sáng LED màu xanh
da trời kích thích sự phát triển tuyến sinh dục
của cá chép cái.
V. KẾT LUẬN
Thí nghiệm cho thấy, cá chép ni dưới
điều kiện ánh sáng có bước sóng ngắn đèn LED
màu xanh da trời, xanh lá, đỏ và trắng trong thời
gian 10 tuần, thời gian chiếu sáng là 12 giờ/
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
19
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ngày với mật độ chiếu sáng là 5,0 µm/s/m2. Kết
quả chỉ ra nồng độ IGF-I mRNA trong gan của
cá chép cao hơn dưới ánh sáng LED màu xanh
da trời và màu trắng so với màu đỏ.
Cá chép cái được phơi dưới ánh sáng LED
màu xanh da trời có ảnh hưởng đến sự phát triển
của tuyến sinh dục cụ thể khối lượng tuyến sinh
dục của cá chép cái tăng có ý nghĩa trong thời
gian nuôi (chỉ số GSI tăng cao ở nghiệm thức
màu xanh da trời so với màu xanh lá, đỏ và
trắng). Quan sát mẫu mô học của buồng trứng
thấy rõ tỷ lệ phần trăm noãn bào của tế bào trứng
phát triển cao hơn dưới ánh sáng màu xanh da
trời. Nồng độ hormone estradiol-17β trong máu
của cá cũng cao hơn ở nghiệm thức LED màu
xanh da trời so với các màu còn lại (trắng, xanh
lá và đỏ).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bairwa, M. K., Saharan, N., Rawat, K. D., Tiwari,
V. K., & Prasad, K. P., 2017a. Effect of LED
light spectra on reproductive performance of Koi
carp (Cyprinus carpio). Indian Journal of Animal
Research, 51(6), 1012-1018.
Bairwa, M. K., Saharan, N., Rawat, K. D., Tiwari, V.
K., & Prasad, K. P., 2017b. Effect of Light Spectra
on Growth Performance and Immune Response
of Koi Carp, Cyprinus carpio (Linnaeus, 1758).
Fishery Technology, 54(2), 100-106.
Bayarri, M., Madrid, J., & Sánchez‐Vázquez, F.,
2002. Influence of light intensity, spectrum
and orientation on sea bass plasma and ocular
melatonin. Journal of pineal research, 32(1), 3440.
Björnsson, B. T., 1997. The biology of salmon
growth hormone: from daylight to dominance.
Fish physiology and biochemistry, 17(1-6), 9-24.
Boeuf, G., & Le Bail, P.-Y., 1999. Does light have an
influence on fish growth? Aquaculture, 177(1-4),
129-152.
Choi, C. Y., Shin, H. S., Kim, N. N., Yang, S.-G., Kim,
B.-S., & Yu, Y. M., 2015. Time-related effects
of various LED light spectra on reproductive
hormones in the brain of the goldfish Carassius
auratus. Biological rhythm research, 46(5), 671682.
Davie, A., de Quero, C. M., Bromage, N.,
20
Treasurer, J., & Migaud, H., 2007. Inhibition
of sexual maturation in tank reared haddock
(Melanogrammus aeglefinus) through the use of
constant light photoperiods. Aquaculture, 270(14), 379-389.
Heydarnejad, M. S., 2012. Survival and growth
of common carp (Cyprinus carpio L.) exposed
to different water pH levels. Turkish Journal of
Veterinary and Animal Sciences, 36(3), 245-249.
Imsland, A., Foss, A., Koedijk, R., Folkvord, A.,
Stefansson, S., & Jonassen, T. (2007). Persistent
growth effects of temperature and photoperiod
in Atlantic cod Gadus morhua. Journal of Fish
Biology, 71(5), 1371-1382.
Karnai, L., & naukowe StowaRzySzenia
ekonomiStów, I. S. R., 2018. Outlooks and
perspectives of the common carp production.
Roczniki Naukowe SERiA, 20(1).
Migaud, H., Cowan, M., Taylor, J., & Ferguson, H.
W., 2007. The effect of spectral composition and
light intensity on melatonin, stress and retinal
damage in post-smolt Atlantic salmon, Salmo
salar. Aquaculture, 270(1-4), 390-404.
Myrberg, A., & Fuiman, L. A., 2002. The sensory
world of coral reef fishes. Coral reef fishes:
dynamics and diversity in a complex ecosystem.
Academic, San Diego, 123-148.
Navarro, R. D., de Sousa, S. C., Bizarro, Y. W. S.,
da Silva, R. F., & Navarro, F. K. S. P., 2015.
Effects of photoperiod on somatic growth and
gonadal development in male nile tilapia. Acta
Scientiarum. Technology, 37(4), 381-385.
Ruchin, A., 2002. Growth and feeding intensity
of young carp Cyprinus carpio under different
constant
and
variable
monochromatic
illuminations. J Ichthyol, 42, 191-199.
Shin, H. S., Kim, N. N., Choi, Y. J., Habibi, H. R.,
Kim, J. W., & Choi, C. Y., 2013. Light-emitting
diode spectral sensitivity relationship with
reproductive parameters and ovarian maturation
in yellowtail damselfish, Chrysiptera parasema.
Journal of Photochemistry and Photobiology B:
Biology, 127, 108-113.
Shin, H. S., Lee, J., & Choi, C. Y., 2011. Effects
of LED light spectra on oxidative stress and
the protective role of melatonin in relation to
the daily rhythm of the yellowtail clownfish,
Amphiprion clarkii. Comparative Biochemistry
and Physiology Part A: Molecular & Integrative
Physiology, 160(2), 221-228.
Shin, H. S., Lee, J., & Choi, C. Y., 2012. Effects of
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
LED light spectra on the growth of the yellowtail
clownfish Amphiprion clarkii. Fisheries science,
78(3), 549-556.
Takahashi, A., Kasagi, S., Murakami, N., Furufuji,
S., Kikuchi, S., Mizusawa, K., & Andoh, T.,
2016. Chronic effects of light irradiated from
LED on the growth performance and endocrine
properties of barfin flounder Verasper moseri.
General and comparative endocrinology, 232,
101-108.
Tucker, B. J., Booth, M. A., Allan, G. L., Booth, D.,
& Fielder, D. S., 2006. Effects of photoperiod
and feeding frequency on performance of newly
weaned Australian snapper Pagrus auratus.
Aquaculture, 258(1-4), 514-520.
Vera, L., Davie, A., Taylor, J., & Migaud, H.,
2010. Differential light intensity and spectral
sensitivities of Atlantic salmon, European sea
bass and Atlantic cod pineal glands ex vivo.
General and comparative endocrinology, 165(1),
25-33.
Villamizar, N., García-Alcazar, A., & SánchezVázquez, F., 2009. Effect of light spectrum
and photoperiod on the growth, development
and survival of European sea bass
(Dicentrarchuslabrax) larvae. Aquaculture,
292(1-2), 80-86.
Villamizar, N., García-Alcazar, A., & SánchezVázquez, F. J., 2009. Effect of light spectrum
and photoperiod on the growth. Dña. Natalia
Villamizar Villamizar, 292, 67.
Volpato, G. L., & Barreto, R., 2001. Environmental
blue light prevents stress in the fish Nile tilapia.
Brazilian Journal of Medical and Biological
Research, 34(8), 1041-1045.
Wallace, R. A., & Selman, K., 1981. Cellular and
dynamic aspects of oocyte growth in teleosts.
American Zoologist, 21(2), 325-343.
Weimin, M., 2017. Aquaculture production and
trade trends: carp, tilapia and shrimp. Paper
presented at the FMM/RAS/298: Strengthening
Capacities, Policies and National Action Plans on
Prudent and Responsible Use of Antimicrobials
in Fisheries Final Workshop in Cooperation with
AVA Singapore and INFOFISH.
Zheng, J.-L., Yuan, S.-S., Li, W.-Y., & Wu, C.-W.,
2016. Positive and negative innate immune
responses in zebrafish under light emitting
diodes conditions. Fish & shellfish immunology,
56, 382-387.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
21
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
EFFECT OF LIGHT EMITING DIODE (LED) WAVELENGTH ON
HORMONE IGF-I mRNA (INSULIN-LIKE GROWTH FACTOR
MESSENGER RNA) AND REPRODUCTION IN
COMMON CARP (Cyprinus carpio)
Nguyen Thi Dang1* and Katsuhisa Uchida 2
ABSTRACT
Light Emitting Diode (LED) light sources are being used to improve the efficiency of aquaculture
production. In this study, we investigated effects of various LED wavelength (white, blue, green
and red) on concentration of IGF-I mRNA hormone and reproduction of common carp (Cyprinus
carpio) with average individual weight of 92 ± 4.3g. Fishes were reared in flow-through water tanks,
covered by black box in the laboratory for 10 weeks and stocked at a density of 8 fish per tank. The
fish were fed with a commercial feed diet (containing 34.0% crude protein) and twice daily (09:00
h and 17:00 h) with 2 % of body weight per day. The experimental groups were exposed to white
(446 nm), blue (peak at 468 nm), green (537 nm) and red (630 nm) light. The LED lights were
positioned 50 cm above the water surface and the irradiance at the water surface was maintained
at approximately 5.0 µm/s/m2. The photoperiod was a 12h light-dark cycle, with 7:00 light-on
and 19:00 light-off. The results showed that hepatic IGF-I mRNA hormone levels under the blue
and white light were significantly greater than that under red light condition. Moreover, gonadosomatic index (GSI) of female was significantly higher in the blue LED treated group than that in
other experimental groups. Histological observation of ovary tissue indicated that the proportion
of early vitellogenic stage oocyte was highest in the blue treated group while the percentage of
pre-vitellogenic stage oocyte was still high in the white and red LED treated groups. Estradiol
-17β concentration in female blood also was significantly higher under the blue LED condition
compared to those in the others groups. These results suggest that the blue light promotes gonadal
development and the improvement of egg quality in common carp.
Keywords: Light Emitting Diode (LED), Cyprinus carpio, common carp
1
Người phản biện: TS. Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh
Người phản biện: PGS. TS. Đỗ Thị Thanh Hương
Ngày nhận bài: 04/7/2020
Ngày nhận bài: 04/7/2019
Ngày thông qua phản biện: 28/7/2020
Ngày thông qua phản biện: 25/7/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
Research Institute for Aquaculture No.2
Phygiology Lab, Miyazaki university, Japan.
*Email:
2
22
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÙNG NUÔI TÔM NƯỚC LỢ TRỌNG ĐIỂM Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG GIAI ĐOẠN 2015-2019
Nguyễn Thanh Trúc1, Lê Hồng Phước1, Thới Ngọc Bảo1, Đặng Ngọc Thùy1,
Trần Minh Thiện1, Đặng Thị Ngọc Hân1, Lâm Q́c Huy2
TĨM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá diễn biến chất lượng nước vùng nuôi tôm nước lợ ở
Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2015-2019. Mẫu được thu ở 20 vị trí thuộc các tỉnh Cà Mau,
Bạc Liêu, Trà Vinh và Bến Tre trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 với các thông số nhiệt
độ, pH, độ mặn, độ kiềm, DO (Dissolved Oxygen), TAN, NO2--N, PO43--P, TSS (Total suspended
solids), Vibrio tổng số. Các thông số được quan trắc với tần suất 02 lần/tháng. Kết quả cho thấy đối
với nhiệt độ dao động từ 24-35oC, trung bình 29,9 ± 1,7oC, pH = 6,6 - 9,0 trung bình 7,6 ± 0,4, DO
từ 1-7 mg/L, trung bình 3,9 ± 1,2 và TSS trung bình 209 ± 406 mg/L. Các thông số chỉ thị ô nhiễm
dao động như sau: TAN 0,3 ± 0,5 mg/L, nitrit 0,062 ± 0,066 mg/L, phosphat 0,082 ± 0,158 mg/L.
Các thông số chỉ thị ô nhiễm dinh dưỡng và hữu cơ như TAN, NO2--N, PO43--P và Vibrio tổng số
thường xuyên cao hơn giới hạn cho phép tại Cà Mau và Bạc Liêu. Hầu hết các chất chỉ thị ô nhiễm
cao tập trung trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm.
Từ khố: quan trắc, chất lượng nước, tơm, ĐBSCL.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời gian qua, nghề nuôi thuỷ sản
nói chung và tơm ni nước lợ nói riêng của
vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
ngày càng phát triển. Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ này nghề nuôi tôm nước lợ đang đứng
trước những thách thức, mối nguy về ô nhiễm
môi trường, con giống, mầm bệnh, ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu…. Từ năm 2015, dưới sự
chỉ đạo của Tổng cục Thuỷ sản (TCTS) “Dự án
quan trắc môi trường phục vụ nuôi trồng thủy
sản giai đoạn 2015-2020” đã được triển khai
nhằm hạn chế dịch bệnh, bảo vệ môi trường
sinh thái, góp phần thiết thực đảm bảo an ninh
lương thực và thực phẩm, tăng kim ngạch xuất
khẩu. Dự án quan trắc này đã trở thành công cụ
hữu hiệu để quản lý mơi trường và dịch bệnh
của vùng ni, góp phần to lớn cho sự thành
công của nghề nuôi, giúp cho cơ quan quản lý
đưa ra những chỉ đạo sản xuất và quản lý ni
trồng thủy sản hiệu quả. Vì vậy, mục tiêu của
nghiên cứu này là nhằm đánh giá hiện trạng
chất lượng nước vùng nuôi tôm nước lợ trọng
điểm ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
giai đoạn 2015-2019.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Lựa chọn điểm quan trắc
Các điểm quan trắc vùng nuôi tôm nước lợ
tập trung được lựa chọn dựa trên tiêu chí: (1)
Phục vụ vùng ni tơm nước lợ tập trung thuộc
tỉnh các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre và Trà
Vinh, (2) Vùng nuôi đại diện cho địa phương
về diện tích và sản lượng, (3) Điểm quan trắc
thuộc các sơng hoặc kênh rạch cấp trực tiếp
vào vùng ni, có tính ổn định và đại diện cho
tồn vùng.
Viện Nghiện cứu Nuôi trồng Thủy sản II
* Email:
2
Khoa Nông nghiệp, Trường đại học Bạc Liêu
1
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
23
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 1: Vị trí các điểm thu mẫu.
Bảng 1. Các điểm quan trắc vùng nuôi cá tra tập trung.
Tỉnh
Bến Tre
Trà Vinh
Bạc Liêu
Cà Mau
Mã trạm
BT-1
BT-2
BT-3
BT-4
TV-1
TV-2
TV-3
BL-1
BL-2
BL-3
BL-4
Điểm quan trắc
Bến Thủ
Cống Bể
Cầu Ván
Rạch Rừng Giá
Mỹ Long Nam
Cửa Vĩnh Kim
Sơng Long Tồn
Kênh 30/4
Kênh Xáng
Cái Cùng
Kênh Chùa Phật
Tọa độ
N 10o06’15”, E 106040’40”
N 10o09’10”, E 106046’10”
N 9o53’25”, E 106036’04”
N 9o54’52”, E 106032’55”
N 9o43’48”, E 106°31’17”
N 9o38’03”, E 106°29’29”
N 9°38’03”, E 106°29’29”
N 9°12’09”, E 105°44’33”
N 9°17’53”, E 105°44’30”
N 9°08’31”, E 105°34’54”
N 9°10’51”, E 105°40’10”
BL-5
BL-6
BL-7
CM-1
CM-2
CM-3
CM-4
CM-5
CM-6
Kênh Gò Cát
Kênh Hộ Phòng
Kênh 9000
Ngã 3 Vàm Đầm
Sơng Đầm Dơi
Sơng Cái Đơi
Ngã 3 Vàm Đình
Hịa Mỹ - Cống Đá
Lương Thế Trân
N 9°06’13”, E 105°29’46”
N 9°02’01”, E 105°25’15”
N 9°31’06”, E 105°25’32”
N 8°51’31”, E 105°14’33”
N 8°59’27”, E 105°11’53”
N 8°54’29”, E 104°51’53”
N 8°54’54”, E 104°56’25”
N 8°59’15”, E 105°00’53”
N 9°08’16”, E 105°07’32”
2.2. Thời gian quan trắc
Từ năm 2015 chương trình quan trắc chất
lượng nước vùng nuôi tôm trọng điểm ở ĐBSCL
được Tổng cục Thuỷ sản phê duyệt hàng năm
nhằm phục vụ cho công tác quản lý và chỉ đạo
24
sản xuất theo hướng bền vững. Tuy nhiên thời
gian quan trắc của các năm không thống nhất và
liên tục do phụ thuộc nguồn kinh phí được cấp.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Từ tháng 4/2015 đến tháng 11/2015
Từ tháng 7/2016 đến tháng 11/2016
Từ tháng 1/2017 đến tháng 11/2017
Từ tháng 1/2018 đến tháng 11/2018
Từ tháng 1/2019 đến tháng 11/2019
2.3. Thông số và tần suất quan trắc
Các thông số quan trắc: Nhiệt độ, pH, độ
mặn, DO (Dissolved Oxygen), TAN (NH4+-N),
NO2--N, PO43--P, TSS (Total suspended solids),
Vibrio tổng số. Tần suất quan trắc là 2 tuần/lần.
2.4. Phương pháp thu mẫu
2.4.1. Thời điểm thu mẫu
Nhằm đánh giá chất lượng các nguồn nước
cấp cho khu vực nuôi tôm nước lợ, mẫu được
thu bằng bathomet ở tầng mặt cách mặt nước
0,5 mét, vào thời điểm nước lớn (2/3 nước lớn
đến đỉnh triều) trong vòng 3 ngày quanh kỳ triều
cường của mỗi đợt quan trắc.
2.4.2. Phương pháp thu mẫu, bảo quản mẫu
- TCVN 6663-1:2011 – Chất lượng nước –
Lấy mẫu – Phần 1: Hướng dẫn lập chương trình
lấy mẫu và kỹ thuật lấy mẫu;
- TCVN 6663-3:2016 – Chất lượng nước
– Lấy mẫu – Phần 3: Bảo quản và xử lý mẫu
nước;
- TCVN 6663-6:2018 - Chất lượng nước Lấy mẫu - Phần 6: Hướng dẫn lấy mẫu nước
sơng và suối.
2.5. Phương pháp phân tích
Bảng 2. Danh mục các phương pháp phân tích.
STT
1
2
3
4
5
Chỉ tiêu
Nhiệt độ
pH
Độ mặn
DO
Độ kiềm
Phương pháp
SMEWW 2550 B
TCVN 6492:2011
Khúc xạ kế
TCVN 7325:2016
TCVN 6636 – 1: 2000
6
TAN
SMEWW 4500- NH3 F
7
NO2 -N
SMEWW 4500- NO2 B
38
PO4 -P
SMEWW 4500- P E
9
Vibrio tổng số
SMEWW 9260 H
Ghi chú: SMEWW: Standard Methods for the Examination of Water and Wastewater
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
2.6. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2010
xử lý số liệu theo phương pháp thống kê mơ tả
để tính các giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá
trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn và vẽ đồ thị.
III. KẾT QUẢ
3.1. Nhiệt độ
Diễn biến nhiệt độ trung bình trong năm
2019 của các điểm quan trắc trung bình là 29,98
± 1,670C, dao động từ 26-350C. Trong đó nhiệt
độ trung bình ghi nhận tại Bạc Liêu là 30,9 ±
1,60C, Cà Mau là 29,1 ± 1,30C, Bến Tre là 30,5
± 1,60C và Trà Vinh là 30,4 ± 1,30C.
Trong giai đoạn 5 năm (2015-2019) ghi
nhận nhiệt độ bình quân năm 2019 cao hơn các
năm trước (Hình 2). Nhiệt độ trung bình trong
các kênh cấp thuộc các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre
và Trà Vinh năm 2019 cao hơn năm 2018 và
trung bình nhiều năm (TBNN) từ 0,7-1,10C.
Theo thơng báo tóm tắt khí hậu năm 2019 của
Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi
khí hậu, nhiệt độ trung bình năm năm 2019 tính
từ sớ liệu quan trắc ở 143 trạm đạt giá trị 250C,
cao hơn TBNN khoảng 1,60C. Với giá trị này,
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
25