MỤC LỤC
TẠP CHÍ
NGHỀ CÁ
SƠNG CỬU LONG
Số 11 - Tháng 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Giấy phép xuất bản
số 47/GP-BTTTT
cấp ngày 8/2/2013
Xuất bản hàng quý
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP:
Tổng biên tập:
TS. NGUYỄN VĂN SÁNG
Phó tổng biên tập:
TS. PHAN THANH LÂM
Thư ký tịa soạn:
ThS. HỒNG THỊ THỦY TIÊN
CÁC ỦY VIÊN:
* TS. LÊ HỒNG PHƯỚC
* TS. LA XUÂN THẢO
* ThS. NGUYỄN ĐINH HÙNG
* TS. NGUYỄN VĂN NGUYỆN
* TS. VŨ ANH TUẤN
* TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH
* TS. ĐINH THỊ THỦY
* TS. NGUYỄN NHỨT
Trình bày:
Nguyễn Hữu Khiêm
Tịa Soạn:
Viện Nghiên Cứu Ni Trồng
Thủy Sản II
116 Nguyễn Đình Chiểu,
Q.1, TP.HCM
ĐT: 028 3829 9592
Fax: 028 3822 6807
Email: ria2@ mard.gov.vn
In tại: Công ty In Liên Tường
240/59-61-63 Nguyễn Văn Luông
Quận 6, TP. HCM
Nghiên cứu mô phỏng tối ưu tỉ lệ ghép phối,
hiệu quả chọn lọc và cận huyết giữa các
quần thể cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) chọn giống.
Trang
3-9
Using simulation to optimise mating
proportion, selection response and inbreeding
coefficiency between multiple recent tra catfish
(Pangasianodon hypophthalmus) year-classes.
NGUYỄN VĂN SÁNG, TRỊNH QUỐC TRỌNG,
NGUYỄN THANH VŨ
Tình hình sử dụng kháng sinh trong ni 10-23
tơm sú và tôm chân trắng ở Việt Nam.
Current status of antibiotic usage in black
tiger shrimp and white leg shrimp farming in
Vietnam.
LÊ HỒNG PHƯỚC, NGUYỄN DIỄM THƯ,
HỨA NGỌC PHÚC, PHẠM THỊ YẾN
Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất 24-31
lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu
(Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre.
Study on the changes of environment and
pathogens in white clam (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) in Ben Tre province.
NGUYỄN THANH HÀ, NGÔ THỊ NGỌC THỦY,
TỪ THANH DUNG, HUỲNH NGUYỄN DUY
Ảnh hưởng của β-glucan đối với tăng trưởng 32-42
và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm thẻ
chân trắng (Litopenaeus vannamei).
Effects of β-glucan on growth performance
and feed utilization of white leg shrimp
(Litopenaeus vannamei).
PHẠM DUY HẢI, VÕ ĐẠI KHANG,
TRẦN VĂN KHANH, LÊ HỒNG,
NGUYỄN VĂN NGUYỆN
Tối ưu hố điều kiện lên men khơ đậu nành 43-58
và đánh giá hình thái học mô ruột khi sử
dụng khô đậu nành để thay thế bột cá ở
thức ăn tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei).
Optimizing fermentation conditions for
soybean meal and the changes in intestine
morphology as soybean meal is substituted
for fish meal in white leg shrimp (Litopenaeus
vannamei) diet.
NGUYỄN THÀNH TRUNG, NGUYỄN VĂN NGUYỆN,
TRẦN VĂN KHANH, LÊ HOÀNG, ĐINH THỊ MẾN,
NGUYỄN THỊ THU HIỀN, TRẦN THỊ HỒNG NGỌC,
LÊ THỊ NGỌC BÍCH, VÕ THỊ CẨM TIÊN,
NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Nghiên cứu sản xuất thức ăn hỗn hợp tạo 59-66
cua lột (Scylla paramamosain) thương phẩm.
Study on formulated feed for commercial
soft shell mud crab production (Scylla paramamosain).
LÊ HOÀNG, NGUYỄN THÀNH TRUNG,
TRẦN THỊ LỆ TRINH, NGUYỄN VĂN NGUYỆN
Ảnh hưởng của soy protein concentrate 67-76
(SPC) tới enzyme tiêu hóa của cá cam Nhật
Bản (Seriola quinqueradiata Temminck &
Schlegel, 1845).
Effect of soy protein concentrate (SPC) on digestive enzymes of yellowtail (Seriola quinqueradiata Temminck & Schlegel, 1845).
LA XUÂN THẢO
Ứng dụng cơng nghệ tuần hồn để ni 77-86
cá chình bơng (Anguilla marmorata Quoy &
Gaimard, 1824).
Xây dựng mơ hình ni thương phẩm tơm 87-100
càng xanh tồn đực tại thành phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Tây Ninh.
Establishment of culture model for all-male
giant freshwater prawn (Macrobrachium
rosenbergii) in Ho Chi Minh city and Tay Ninh
province.
NGUYỄN ĐỨC MINH, ĐỖ THỊ PHƯỢNG,
TRẦN NGỌC ANH TUẤN
Đánh giá hiện trạng nguồn lợi thủy sản và 101-111
đề xuất phân khu chức năng sử dụng và bảo
vệ đa dạng sinh học cá vùng đất ngập nước
hồ Trị An.
Existing fisheries resources, exploitation and
protection of fish biodiversity by setting up
functional wetland habitats of Tri An reservoir.
NGUYỄN NGUYỄN DU
Application of a recirculating aquaculture system for marble eel (Anguilla marmorata Quoy
& Gaimard, 1824) culture.
NGUYỄN NHỨT, NGUYỄN HỒNG QN,
NGUYỄN ĐÌNH HÙNG
2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
NGHIÊN CỨU MÔ PHỎNG TỐI ƯU TỈ LỆ GHÉP PHỐI, HIỆU QUẢ
CHỌN LỌC VÀ CẬN HUYẾT GIỮA CÁC QUẦN THỂ CÁ TRA
(Pangasianodon hypophthalmus) CHỌN GIỐNG
Nguyễn Văn Sáng1*, Trịnh Quốc Trọng1, Nguyễn Thanh Vũ1
TÓM TẮT
Trên cá tra, chương trình chọn giống với các quần thể ban đầu (G0-2001 và G0-2002 và G0-2003 có
số lượng gia đình lần lượt là 75, 79 và 101) được sản xuất từ cá bố mẹ thuộc 4 trại sản xuất giống ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Chọn giống đã được tiến hành qua 3 thế hệ. Mục tiêu của báo cáo là xác
định tỉ lệ tối ưu ghép phối nội bộ và ghép phối chéo 3 quần thể (year-class) cá tra bố mẹ G2-2002,
G2-2003 và G3-2001 để thành lập một quần thể chọn giống duy nhất G3 cho chọn giống dài hạn
theo tính trạng tăng trưởng, ngồi ra cũng xác định tỉ lệ tối ưu ghép phối của quần thể G3 và quần
thể mới thành thục G3-2002. Khi tỉ lệ đóng góp của quần thể G3-2001 dao động từ 38,5 đến 50%
thì khối lượng, EBV và tỉ lệ cận huyết của quần thể tích hợp G3 khơng khác biệt lớn. Khi tỉ lệ đóng
góp của quần thể G3-2001 là 40% thì tỉ lệ cận huyết là thấp nhất (0,041 – 0,043). Quần thể đã được
chọn lọc qua nhiều thế hệ hơn thì nên có tỉ lệ đóng góp lớn hơn. Khuyến cáo sử dụng tỉ lệ đóng góp
G3-2001 (40%), G2-2002 (35%) và G2-2003 (25%) cho việc tích hợp tạo quần thể G3, nhằm đảm
bảo sự đóng góp các quần thể khơng q chênh lệch. Khi tích hợp quần thể G3-2002 vào G3 thì tỉ lệ
đóng góp khơng tạo nên khác biệt lớn. Khuyến cáo tỉ lệ tích hợp của G3-2002 là 5 – 10%.
Từ khóa: cá tra, mơ phỏng, khối lượng, EBV, tỉ lệ cận huyết.
I. GIỚI THIỆU
Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là
lồi cá ni nước ngọt quan trọng. Tính đến hết
năm 2017, diện tích ni cá tra đạt 6.078 hécta
với sản lượng 1,26 triệu tấn, và kim ngạch xuất
khẩu (tới 142 quốc gia và vùng lãnh thổ) đạt
1,78 tỷ đơ la Mỹ (VASEP, 2018). Chương trình
chọn giống cá tra đã được thực hiện từ năm 2001
với 3 quần thể chọn lọc song song (Van Sang và
ctv., 2007). Tính đến năm 2014, việc chọc lọc
đã được thực hiện qua 2–3 thế hệ. Việc duy trì
nhiều quần thể chọn lọc gây ra nhiều khó khăn
cho cơng tác quản lý và chi phí thực hiện. Việc
hợp nhất các quần thể hiện tại là cần thiết nếu
đảm bảo được các mục tiêu của chương trình
chọn giống như duy trì hệ số cận huyết, tích lũy
di truyền để phục vụ cho chọn lọc dài hạn. Do
đó, mục tiêu của báo cáo là xác định tỉ lệ tối
1
*
ưu ghép phối nội bộ và ghép phối chéo giữa các
quần thể cá tra bố mẹ G2-2002, G2-2003 và G32001 bằng nghiên cứu mô phỏng sử dụng phần
mềm QMSim (Sargolzaei và Schenkel, 2013) để
thành lập một quần thể chọn giống duy nhất (G3)
theo tính trạng tăng trưởng. Ngồi ra nghiên cứu
cũng xác định tỉ lệ tối ưu ghép phối của quần thể
G3 và quần thể mới thành thục G3-2002.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Các quần thể chọn giống thực tế
Các quần thể ban đầu G0-2001, G0-2002 và
G0-2003 với số lượng gia đình lần lượt là 75, 79
và 101 được sản xuất từ cá bố mẹ thuộc 4 trại sản
xuất giống ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đối với
quần thể 2001, đã chọn giống qua 3 thế hệ bao
gồm G1-2001, G2-2001 và G3-2001. Quần thể
2002 cũng đã được chọn lọc qua 3 thế hệ tương
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
3
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ứng là G1-2002, G2-2002 và G3-2002. Riêng
quần thể 2003, do được thành lập muộn nhất nên
mới chỉ chọn lọc qua 2 thế hệ G1-2003 và G22003. Nghiên cứu này có 2 bước. Bước 1, tích
hợp 3 quần thể G3-2001, G2-2002 và G2-2003
thành 1 quần thể chọn giống G3 duy nhất. Bước
2, tích hợp quần thể G3-2002 vào quần thể G3.
2.2. Phần mềm QMSim
Mô phỏng được thực hiện bằng phần mềm
QMSim (Sargolzaei và Schenkel, 2013). QMSim
là một phần mềm chuyên biệt để mô phỏng các
quần thể động vật từ mức độ di truyền đến mức
độ phân tử và chức năng mô phỏng các quần thể
ban đầu (historical populations). Mức độ phân
tử bao gồm khả năng định hình các nhiễm sắc
thể với QTL (Quantitative Trait Loci) và bản đồ
của các chỉ thị (marker maps). Tuy nhiên trong
nghiên cứu này thì QMSim chỉ được dùng để mô
phỏng các quần thể bao gồm các cá thể được sắp
xếp theo cấu trúc định sẵn, trong đó từng cá thể
có kiểu hình và giá trị chọn giống.
QMSim được thiết kế để mô phỏng các
quần thể lớn, nhiều thế hệ, và có phả hệ phức
tạp. Quy trình mơ phỏng của QMSim có hai
bước chính. Đầu tiên, một quần thể ban đầu
được mô phỏng. Tiếp theo, cấu trúc các quần
thể của các thế hệ tiếp theo cho đến thế hệ hiện
tại được mơ phỏng. Trong q trình mơ phỏng
của các quần thể, QMSim cho phép nhiều tùy
chọn phục vụ cho chọn giống. Chương trình vận
hành khá hiệu quả về thời gian tính tốn và u
cầu về bộ nhớ trong của máy tính.
2.3. Mơ phỏng sử dụng QMSim
2.3.1. Mơ phỏng nhập 3 quần thể G32001, G2-2002 và G2-2003 thành một quần
thể G3 duy nhất
Trong nghiên cứu này, các quần thể cá tra
thành phần và quần thể tổng hợp (gộp chung)
được mô phỏng bằng phần mềm QMSim
(Sargolzaei và Schenkel, 2013). Tuy nhiên, các
thông số đầu vào như hệ số di truyền, phương
sai kiểu hình, số lượng cá thể chọn lọc, số lượng
cá con của từng cá mẹ/gia đình được ước tính
từ 4 quần thể chọn giống thực tế. Bốn quần thể
này là quần thể ban đầu G0 và 3 quần thể chọn
4
giống tiếp theo G2-2002, G2-2003 và G3-2001.
Tính trạng chọn lọc được mơ phỏng là
tăng trưởng và xác định bằng khối lượng thu
hoạch. Tính trạng tăng trưởng có hệ số di truyền
được đặt ở mức 0,42 và phương sai kiểu hình
là 66.906 g (số liệu thực tế dựa trên các thế hệ
chọn lọc từ 2001). Quần thể ban đầu được mô
phỏng qua 2 thế hệ với số lượng cá thể là 20.000
cá thể trong thế hệ đầu tiên (G0) và 17.432 trong
thế hệ tiếp theo (G1), với giả định là ghép phối
được tiến hành ngẫu nhiên. Ba quần thể thành
phần là G2-2002, G2-2003 và G3-2001 với chi
tiết như sau. Quần thể G3-2001 được chọn lọc
trước đó qua 3 thế hệ, có số lượng cá chọn lọc
(những cá thể có giá trị chọn giống cao nhất)
là 110 đực và 167 cá cái, số lượng cá con được
chọn để nuôi tăng trưởng là 63 (với giả định tỉ
lệ cá đực:cái = 1:1) cho mỗi gia đình. Quần thể
G2-2002 được chọn lọc trước đó qua 2 thế hệ,
bao gồm 108 cá đực và 183 cá cái chọn lọc, số
lượng cá con/gia đình là 52 (tỉ lệ đực:cái = 1:1).
Quần thể G2-2003 được chọn lọc trước đó qua
2 thế hệ, bao gồm 131 cá đực và 175 cá cái chọn
lọc, 60 cá con/gia đình (tỉ lệ đực:cái = 1:1). Giá
trị chọn giống được ước tính bằng BLUP (Best
Linear Unbiased Prediction). Ghép phối được
thực hiện dựa trên giá trị chọn giống (Estimated
Breeding Value, EBV) của từng cá thể, tức là,
cá thể đực có EBV cao được ghép phối với cá
thể cái cũng có EBV cao, và ngược lại. Phả hệ,
giá trị kiểu hình (=khối lượng thu hoạch), giá trị
chọn giống được ghi nhận và ước tính cho từng
thế hệ/quần thể.
Cho việc thành lập quần thể G3, số lượng
và tỉ lệ đóng góp của các quần thể được mơ
phỏng theo 14 phương án (Bảng 2). Số lượng
cá con là 75/gia đình, chọn lọc qua 5 thế hệ. Giá
trị chọn giống được ước tính bằng BLUP. Ghép
phối được thực hiện theo thứ tự EBV, tức là,
cá thể đực có EBV cao được ghép phối với cá
thể cái cũng có EBV cao theo thứ tự từ cao đến
thấp. Phả hệ, giá trị kiểu hình, giá trị chọn giống
được ghi nhận và ước tính cho từng thế hệ. Các
thơng số chung bao gồm hệ số di truyền là 0,42
và phương sai kiểu hình là 66.906 g. Tất cả các
phương án mơ phỏng được chạy 50 lần.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 1. Tỉ lệ đóng góp của 3 quần thể thành phần G2-2002, G2-2003 và G3-2001 cho quần thể
G3 theo 14 phương án khác nhau với số cá thể chọn lọc là 70 cá đực và 140 cá cái.
Tỉ lệ đóng góp (%)
Phương án
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
G3-2001
G2-2003
G2-2002
15,0
15,0
25,0
25,0
33,3
35,0
35,0
37,5
38,5
40,0
40,0
40,0
50,0
70,0
15,0
70,0
25,0
50,0
33,3
25,0
40,0
25,0
28,5
25,0
30,0
35,0
25,0
15,0
70,0
15,0
25,0
25,0
33,3
40,0
25,0
37,5
33,5
35,0
30,0
25,0
25,0
15,0
2.3.2. Mơ phỏng tích hợp quần thể G32002 vào quần thể G3
Tiếp theo, mơ phỏng việc tích hợp quần thể
G3-2002 vào quần thể G3. Các thông số đầu
vào tương tự như khi thành lập G3 từ 3 quần thể
G3-2001, G2-2002 và G2-2003 nêu trên. Hệ số
di truyền được đặt ở mức 0,45.
Bảng 2. Tỉ lệ đóng góp của hai quần thể G3
và G3-2002 cho quần thể mới.
Phương án
Tỉ lệ đóng góp (%)
G3
G3-2002
1
60
40
2
80
20
3
85
15
4
90
10
5
95
05
2.3.3. Chỉ tiêu so sánh
Mơ phỏng sử dụng QMSim được lặp lại 50
lần. Trong mỗi lần lặp lại, trung bình của giá trị
chọn giống được tính tốn cho từng quần thể. Sau
đó, trung bình của 50 lần lặp lại được tính cùng với
độ lệch chuẩn và sai số chuẩn cho từng phương án.
Chọn lọc dựa trên giá trị chọn giống do QMSim
cung cấp. Các kết quả so sánh bao gồm trung bình
giá trị kiểu hình, giá trị chọn giống, hiệu quả chọn
lọc và hệ số cận huyết sau 2 thề hệ chọn lọc được
sử dụng để so sánh hiệu quả của 6 phương án tích
hợp để thành lập quần thể G3.
III. KẾT QUẢ
3.1. Tích hợp 3 quần thể G3-2001, G22002 và G2-2003 tạo thành quần thể G3
Trung bình khối lượng, giá trị chọn giống
và hệ số cận huyết của 8 phương án tích hợp
3 quần thể G3-2001, G2-2002 và G2-2003 tạo
thành quần thể G3 được trình bày trong Bảng
3. Trung bình khối lượng và giá trị chọn giống
(EBV) tăng đều và khá nhanh khi tỉ lệ đóng góp
của G3-2001 tăng từ 15,0 đến 37,5%, và khá ổn
định khi đạt 40% (bất kể đóng góp của G2-2002
và G2-2003 có thay đổi chăng nữa). Khi tỉ lệ của
G3-2001 tiếp tục tăng thì khối lượng và EBV
có tăng so với các phương án trước đó, nhưng
tương đương giữa 2 tỉ lệ 50 và 70% (Bảng 3).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
5
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 3. Trung bình khối lượng, giá trị chọn giống và hệ số cận huyết của 14 phương án tích
hợp 3 quần thể G3-2001, G2-2002 và G2-2003 tạo thành quần thể G3.
Phương án
Tỉ lệ đóng góp (G32001 : G2-2002 :
G2-2003)
Khối lượng (g)
Giá trị chọn giống
(EBV) (g)
Hệ số cận huyết
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15,0 : 15,0 : 70,0
15,0 : 70,0 : 15,0
25,0 : 25,0 : 50,0
25,0 : 50,0 : 25,0
33,3 : 33,3 : 33,3
35,0 : 25,0 : 40,0
35,0 : 40,0 : 25,0
37,5 : 25,0 : 37,5
38,5 : 28,5 : 33,5
40,0 : 25,0 : 35,0
40,0 : 30,0 : 30,0
40,0 : 35,0 : 25,0
50,0 : 25,0 : 25,0
70,0 : 15,0 : 15,0
1006,0 ± 6,6
1003,8 ± 5,8
1038,2 ± 5,3
1032,4 ± 5,7
1062,3 ± 6,4
1070,5 ± 5,4
1059,0 ± 5,4
1068,9 ± 5,7
1062,7 ± 5,0
1073,8 ± 5,0
1067,3 ± 5,5
1079,4 ± 5,4
1096,6 ± 5,5
1107,6 ± 5,3
1004,6 ± 6,6
1002,4 ± 5,8
1036,7 ± 5,3
1030,8 ± 5,7
1060,7 ± 6,4
1068,9 ± 5,4
1057,3 ± 5,4
1067,0 ± 5,7
1060,9 ± 5,1
1072,2 ± 5,0
1065,6 ± 5,8
1077,7 ± 5,4
1094,8 ± 5,6
1105,7 ± 5,3
0,054 ± 0,003
0,052 ± 0,002
0,050 ± 0,002
0,050 ± 0,002
0,050 ± 0,002
0,049 ± 0,002
0,046 ± 0,002
0,045 ± 0,003
0,041 ± 0,002
0,041 ± 0,002
0,043 ± 0,002
0,042 ± 0,002
0,043 ± 0,002
0,038 ± 0,002
Giá trị = trung bình của 50 lượt chạy mô phỏng ± sai số chuẩn.
Ngược lại với xu hướng của khối lượng và
EBV, hệ số cận huyết có xu hướng giảm khá đều
đặn (0,54 – 0,45) khi tỉ lệ đóng góp của G3-2001
tăng (15,0 – 37,5). Khi tỉ lệ đóng góp của G32001 là từ 38,5% vào cao hơn thì hệ số cận huyết
trở nên ổn định (0,41 – 0,43), ngoại trừ có giảm
khi G3-2001 đóng góp 70% (0,38) (Bảng 3).
3.2. Tích hợp quần thể G3-2002 vào quần
thể G3
Đáng chú ý là khi tích hợp quần thể G3-2002
vào quần thể G3 thì trung bình khối lượng, EBV
và hệ số cận huyết (0,42) gần như ổn định sau 2
thế hệ chọn lọc (Bảng 4). Do quần thể G3 đã bao
gồm thế hệ bố mẹ (G2-2002) của G3-2002, nên
tỉ lệ ghép của G3-2002 không cần quá cao. Quần
thể G3 nên là đóng góp chính với tỉ lệ 90 – 95%.
Bảng 4. Trung bình khối lượng, giá trị chọn giống và hệ số cận huyết của 5 phương án tích hợp
quần thể G3-2002 vào G3.
Phương án
Tỉ lệ đóng góp
(G3 : G3-2002)
Khối lượng (g)
Giá trị chọn giống
(EBV) (g)
Hệ số cận huyết
1
2
3
4
5
60 : 40
80 : 20
85 : 15
90 : 10
95 : 05
790,0 ± 4,7
792,5 ± 5,2
785,0 ± 5,7
793,5 ± 5,1
788,8 ± 3,9
788,6 ± 4,7
791,3 ± 5,2
783,8 ± 5,7
792,1 ± 5,2
787,5 ± 3,9
0,047 ± 0,002
0,047 ± 0,002
0,047 ± 0,003
0,046 ± 0,002
0,045 ± 0,002
Giá trị = trung bình của 50 lượt chạy mơ phỏng ± sai số chuẩn.
6
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
IV. THẢO LUẬN
Phương pháp tiến tiến nhất để ước tính giá
trị chọn giống là BLUP (Best Linear Unbiased
Prediction) (Henderson, 1984). Phương pháp
BLUP sử dụng thơng tin của cá thể và họ hàng,
do đó gia tăng độ chính xác của EBV. Chọn lọc
dựa trên EBV (tức là chọn những cá thể có EBV
cao nhất trong quần thể) là phương pháp chuẩn
trong chọn giống hiện nay. Chọn lọc theo EBV
đem lại hiệu quả cao nhưng cũng gia tăng tỉ lệ
cận huyết, vì rằng có sự tương quan cao giữa
các EBV trong cùng một gia đình khiến cho
những cá thể chọn lọc xuất xứ từ một số ít gia
đình (Wray và Thompson, 1990). Trong nghiên
cứu này, vì các thơng số đầu vào (dựa trên kết
quả chọn lọc thực tế) là chọn lọc và ghép phối
đều dựa trên EBV nên khối lượng và EBV đều
tăng nhanh qua các thế hệ. Ngoài ra, do hệ số di
truyền đầu vào ở mức khá cao (0,42) nên EBV
cũng cao tương ứng, do EBV cá thể tăng khi hệ
số di truyền tăng (Henderson, 1984). Tuy nhiên,
tỉ lệ cận huyết cũng tăng nhanh (4,4 – 5,1%).
Tỉ lệ cận huyết này nằm trong mức được báo
cáo trong chương trình chọn giống cá hồi coho
(Oncorhynchus kisutch) tại Chilê (3 – 13%/thế
hệ) (Yáñez và ctv., 2014). Lưu ý rằng mức độ
này cao hơn so với mức khuyến cáo lý thuyết
1,0% (Bijma, 2000) trong chọn giống động vật.
Nhìn chung, khi tỉ lệ đóng góp của các quần
thể dao động quanh 33% (tức là mức độ đóng
góp của ba quần thể là tương đương nhau và
=1/3) thì khối lượng, EBV và tỉ lệ cận huyết
không khác nhau nhiều. Có thể nhận thấy xu
hướng là khi tỉ lệ đóng góp của quần thể G32001 (được chọn lọc qua nhiều thế hệ hơn, do
đó có phả hệ “sâu” hơn) cao nhất (40%) thì tỉ lệ
cận huyết là thấp nhất (0,041 – 0,044 hoặc 4,1
– 4,4%). Trong bất kỳ chương trình chọn giống
nào thì điều tối quan trọng là phải duy trì tỉ lệ
cận huyết ở mức chấp nhận được (Sonesson và
ctv., 2005), vì cận huyết có ảnh hưởng tiêu cực
trực tiếp đến các tính trạng tăng trưởng, sinh sản
và sức sống (Falconer và Mackay, 1996).
Điểm thú vị là khi tăng tỉ lệ đóng góp của
quần thể G3-2001 (lên đến 50% hoặc 70%,
phương án 13 và 14) thì khối lượng và EBV
tăng trong khi cận huyết lại giảm nhẹ (0,38 –
0,43) (Bảng 3). Một kết quả đáng lưu ý khác là
khi tăng tỉ lệ đóng góp của 2 quần thể đã chọn
lọc qua 2 thế hệ (G2-2002 và G2-2003) lên đến
70% (phương án 1 và 2) thì khối lượng và EBV
là thấp nhất, và thấp hơn hẳn so với phương án
quần thể đã chọn lọc qua 3 thế hệ G3-2001 có tỉ
lệ đóng góp 70% (Phương án 14) (Bảng 3). Xu
hướng tương tự cũng đúng cho hệ số cận huyết
(phương án 1 và 2 có hệ số cận huyết cao hơn
phương án 13 và 14), dĩ nhiên với chiều hướng
ngược lại (cận huyết cao thì khơng tốt) (Bảng
3). Điều này cho phép nhận định rằng quần thể
đã được chọn lọc qua nhiều thế hệ hơn thì nên
có tỉ lệ đóng góp lớn hơn. Nhận định này phù
hợp với đặc điểm chung của chọn giống là qua
nhiều thế hệ thì hiệu quả và độ chính xác của
chọn lọc sẽ gia tăng (Gjedrem, 2005).
Mơ phỏng một chương trình chọn giống là
một cơng việc phức tạp. Các thông số di truyền,
số lượng cá bố mẹ chọn lọc, số lượng cá con/
gia đình có thể (và thường) thay đổi qua từng
thế hệ, khác nhau giữa các quần thể (year-class).
Các thông số đầu vào trong phần mềm QMSim
bao gồm hệ số di truyền chung (cho tất cả các
quần thể và thế hệ), số lượng cá bố mẹ chọn lọc
của từng quần thể, số lượng cá con của từng gia
đình, phương pháp chọn lọc và ghép phối. Tất
cả các thông số này là cố định cho tất cả các
thế hệ (khơng có tùy chọn liệt kê riêng rẽ cho
từng thế hệ) của 3 quần thể G3-2001, G2-2002
và G2-2003. Do đó, kết quả của mơ phỏng nên
được kiểm chứng với số liệu thực tế của những
thế hệ chọn giống sau này.
V. KẾT LUẬN
Khi tỉ lệ đóng góp của quần thể G3-2001 dao
động từ 38,5 đến 50% thì khối lượng, EBV và
tỉ lệ cận huyết của quần thể tích hợp G3 khơng
khác biệt lớn. Khi tỉ lệ đóng góp của quần thể
G3-2001 là 40% thì tỉ lệ cận huyết là thấp nhất
(0,041 – 0,043). Quần thể đã được chọn lọc qua
nhiều thế hệ hơn thì nên có tỉ lệ đóng góp lớn
hơn. Khuyến cáo sử dụng tỉ lệ đóng góp G3-2001
(40%), G2-2002 (35%) và G2-2003 (25%) cho
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
7
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
việc tích hợp tạo quần thể G3, nhằm đảm bảo
sự đóng góp các quần thể khơng q chênh lệch.
Khi tích hợp quần thể G3-2002 vào G3 thì tỉ lệ
đóng góp khơng tạo nên khác biệt lớn. Khuyến
cáo tỉ lệ tích hợp của G3-2002 là 5 – 10%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Phạm Đình Khơi, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn
Sáng, Nguyễn Thanh Vũ, Nguyễn Quyết Tâm,
N.H.N., Lê Hồng Phước, Nguyễn Thị Hiền,
Nguyễn Diễm Thư, Hà Thị Ngọc Nga, 2010.
Bước đầu đánh giá một số thông số di truyền làm
cơ sở cho chọn giống kháng bệnh gan thận mủ.
Báo cáo tổng kết tóm tắt. 10 trang.
Nguyễn Văn Sáng, Phạm Văn Khánh, Phạm Đình
Khơi, Phan Thanh Lâm, Nguyễn Quyết Tâm,
Đặng Minh Phương, Nguyễn Thị Đang, Trần
Anh Dũng, Nguyễn Văn Ngô, 2010. Báo cáo
tổng kết đề tài ‘Đánh giá hiện trạng sản xuất
giống và xây dựng các giải pháp quản lý nhằm
nâng cao chất lượng giống cá tra ở Đồng bằng
sông Cửu Long’. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản II, 105 trang.
Trịnh Quốc Trọng, Nguyễn Thanh Vũ, Ngô Hồng
Ngân, Nguyễn Huỳnh Duy, Nguyễn Thị Đang,
Trần Hữu Phúc, Phạm Đăng Khoa, 2016. Chọn
giống cá tra kháng bệnh gan thận mủ. Báo cáo
tổng kết đề tài trọng điểm cấp Nhà nước thuộc
Chương trình KC06, Bộ Khoa học Cơng nghệ.
Tài liệu tiếng Anh
Bijma, P. (2000). Long-term Genetic Contributions.
Prediction of Rates of Inbreeding and Genetic
Gain in Selected Populations, Wageningen
University. PhD Dissertation.
8
Falconer, D. S. and T. F. C. Mackay (1996).
Introduction to quantitative genetics. Harlow,
Longman.
Gjedrem, T. (2005). Selection and breeding programs
in aquaculture, Springer.
Henderson, C. R. (1984). Applications of Linear
Models in Animal Breeding University of
Guelph, Guelph, Canada.
Sargolzaei, M. and F. Schenkel (2013). “QMSim
User’s Guide Version 1.10.” Centre for Genetic
Improvement of Livestock, Department of
Animal and Poultry Science, University of
Guelph, Guelph, Canada.
Sonesson, A. K., et al. (2005). Kinship, relationship
and inbreeding. Selection and breeding programs
in aquaculture. T. Gjedrem. P.O. Box 17, 3300
AA Dordrecht, The Netherlands, Springer: 364.
Van Sang, N., et al. (2007). “Selective breeding
for growth and fillet yield of river catfish
Pangasianodon hypophthalmus in the Mekong
Delta, Vietnam.” Aquaculture Asia 12(2): 26.
VASEP (2018). “VIETNAM ASSOCIATION OF
SEAFOOD EXPORTERS AND PRODUCERS
(VASEP).
/>seafood/51_12505/vietnam-pangasius-exportsin-2017-totaled-us178-billion.htm”.
Wray, N. R. and R. Thompson (1990). “Prediction
of rates of inbreeding in selected populations.”
Genetical Research 55(1): 41-54.
Yáñez, J. M., et al. (2014). “Inbreeding and effective
population size in a coho salmon (Oncorhynchus
kisutch) breeding nucleus in Chile.” Aquaculture
420–421, Supplement 1: S15-S19.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
USING SIMULATION TO OPTIMISE MATING PROPORTION,
SELECTION RESPONSE AND INBREEDING COEFFICIENCY
BETWEEN MULTIPLE RECENT TRA CATFISH (Pangasianodon
hypophthalmus) YEAR-CLASSES
Nguyen Van Sang1*, Trinh Quoc Trong1, Nguyen Thanh Vu1
ABSTRACT
On Tra catfish, selective breeding program initiated with three base populations (G0-2001, G0-2002
and G0-2003 with number of according families were 75, 79 and 101) which were produced from
brooders of four hatcheries in Mekong Delta. We have reached three generations of selection. The
aim of this study was to dertemine internal and external mating proportion (number of brooder
use in each year-class) between multiple recent year-classes (G2-2002, G2-2003 and G3-2001)
to establish a unique population and use this to merge with the most recent year-class (G3-2002)
which was yet enough maturation to participate the former. While mating percentage of year-class
G3-2001 ranged 38.5 – 50.0%, the differences between merge populations regarded the weight,
EBV and inbreeding coefficient were insignificant. Mating proportion of G3-2001 of 40% gave
lowest inbreeding values (0.041 – 0.043). Year-classes which undertaking longer selection should
be contributed more. Our results proposed mating porportions were followed by G3-2001 (40%),
G2-2002 (35%) và G2-2003 (25%). The percentage of G3-2002 was small (5 – 10%) for subsequent
nesting to merged population according to its minor contribution.
Keywords: Tra catfish, simulation, weight, EBV, inbreeding coefficent
Người phản biện: ThS. Trần Hữu Phúc
Ngày nhận bài: 20/6/2018
Ngày thông qua phản biện: 30/6/2018
Ngày duyệt đăng: 10/7/2018
1
*
Research Institute for Aquaculture No.2
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
9
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG NUÔI TÔM SÚ VÀ TÔM
CHÂN TRẮNG Ở VIỆT NAM
Lê Hồng Phước1*, Nguyễn Diễm Thư1, Hứa Ngọc Phúc2, Phạm Thị Yến3
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích đánh giá tình hình sử dụng kháng sinh trong
nuôi tôm sú và tôm chân trắng ở Việt Nam. Số hộ nuôi tôm được phỏng vấn ở cả 3 miền Bắc,
Trung và Nam lần lượt là 57, 60 và 90 nông hộ. Các thông tin trong phiếu điều tra chủ yếu liên
quan đến các loại kháng sinh sử dụng, liều lượng, tần suất sử dụng và hiệu quả phịng trị. Ở
miền Bắc, có 11 loại kháng sinh đã được hộ nuôi sử dụng trong nuôi tôm như oxytetracycline,
Osamet (sulfadimethoxine + ormetoprim), tetracycline, enrofloxacin, doxycycline, ciprofloxacin,
florfenicol, biosultrim (trimethoprim + sulfadimidine), Cloxit (chloramphenicol), erythromycin và
trifamet (sulfamethoxazole + trimethoprim + rifamycin). Trong đó oxytetracycline, tetracycline
và enrofloxacin là 3 loại kháng sinh được sử dụng nhiều nhất. Tại miền Trung, có 71,2% nơng hộ
cho biết có sử dụng kháng sinh trong vụ nuôi với hơn 10 loại kháng sinh đang được người ni sử
dụng trong phịng trị bệnh tơm. Oxytetracycline, ciprofloxacin, doxycycline là ba loại kháng sinh
được sử dụng nhiều trong phòng trị bệnh tơm tại miền Trung. Tại miền Nam, có 68,9% nơng hộ
cho biết có sử dụng kháng sinh trong vụ nuôi với hơn 15 loại kháng sinh đang được người ni sử
dụng trong phịng trị bệnh tơm. Oxytetracycline, doxycyline và enrofloxacin là ba loại kháng sinh
được sử dụng nhiều trong phịng trị bệnh tơm tại miền Nam. Về hiệu quả sử dụng kháng sinh, có
20-50% hộ ni cho biết sử dụng kháng sinh có hiệu quả, 30% cho biết khơng có hiệu quả và 20%
khơng biết được hiệu quả mang lại khi sử dụng kháng sinh. Các loại kháng sinh nhạy đối với Vibrio
parahaemolyticus là gentamicin, flofenicol, oxytetracycline, doxycycline và tetracycline.
Từ khóa: AHPND, tơm, kháng sinh.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 2010, trên tôm nuôi xuất hiện hội
chứng chết sớm (Early Mortality SyndromeEMS) hay còn gọi là bệnh hoại tử gan tụy cấp
tính (Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease
- AHPND) được ghi nhận tại Trung Quốc,
Malaysia và Thái Lan. Ở Trung Quốc EMS
xuất hiện đầu tiên năm 2009 nhưng chưa được
người nuôi chú ý đến. Đến năm 2011 bệnh trở
nên trầm trọng hơn ở những trang trại nuôi trên
5 năm và gần biển (Panakorn, 2012). Các trang
trại nuôi tôm ở Hainan, Guangdong, Fujian
và Guangxi bị thiệt hại trong 6 tháng đầu năm
2011 với khoảng 80%. Ở Malaysia, bệnh xuất
hiện lần đầu vào giữa năm 2010 tại 2 bang
Pahang và Joho sau đó lan rộng sang các vùng
khác. Sự bùng phát EMS đã làm giảm sản lượng
đáng kể của tôm thẻ chân trắng (khoảng 60%).
Năm 2013, ở Thái Lan, bệnh xuất hiện ở 2 tỉnh
phía đơng vịnh Thái Lan. Bệnh được ghi nhận
và gây thiệt hại nặng trên cả tôm sú và tôm thẻ
chân trắng. Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn
sau 15-40 ngày sau khi thả ni. Tơm bệnh có
dấu hiệu giảm ăn, khối gan tụy có nhiều biến
dạng bất thường như trương to và nhũn hoặc
teo nhỏ, màu sắc nhợt nhạt, dấu hiệu khác cũng
được ghi nhận bao gồm mềm vỏ, sậm màu. Tỷ
lệ tơm chết có thể lên đến 100% trong vài ngày
hoặc kéo dài hơn. Theo Lightner và ctv., (2013)
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính do vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus gây ra.
Trung tâm Quan trắc Môi trường & Bệnh Thủy sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản III
3
Viện nghiên cứu ni trồng Thủy sản I
*
E-mail:
1
2
10
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Hiện nay, thuốc và các loại kháng sinh được
sử dụng rất thường xuyên trong nuôi trồng thủy
sản ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu về
vấn đề này vẫn còn rất hạn chế. Theo báo cáo
của Mai Văn Tài và ctv., (2004), kháng sinh được
sử dụng trong nuôi trồng thủy sản chủ yếu thuộc
nhóm oxytetracycline bao gồm: Oxytetracycline,
tetracycline và doxycycline. Trong đó, có khoảng
32 loại kháng sinh được sử dụng trong các qui
trình nuôi tôm thịt, 39 loại được sử dụng trong
sản xuất tôm giống, 14 loại được sử dụng trong
ương nuôi các loại cá biển, 41 loại trong nuôi
cá lồng nước ngọt và 67 loại trong ni cá ao
nước ngọt. Ngồi ra, theo nghiên cứu về sự tồn
dư của 4 loại kháng sinh trimethprim (TMP),
sulfamethoxazole (SMX), norfloxacin (NFXC)
và oxolinic acid (OXLA) trong nước và trong
bùn ở các ao nuôi tôm thuộc bốn khu vực khác
nhau bao gồm Thái Bình, Nam Định, Cần Giờ
và Cà Mau cho thấy cả bốn loại kháng sinh này
đều được phát hiện trong các ao nuôi tôm với
nồng độ cao nhất là TMP = 1,04 ppm, SMX =
2,39 ppm, NFXC = 6,06 ppm và OXLA = 2,5
ppm và trong bùn với nồng độ cao nhất là TMP
= 734,61 ppm, SMX = 820,49 ppm, NFXC =
2.615,96 ppm và OXLA = 426,31 ppm. Trong
đó, khơng có sự khác biệt về sự hiện diện của
các loại kháng sinh này giữa các ao nuôi quảng
canh cải tiến và quảng canh nhưng lại có sự khác
biệt khá lớn giữa các vùng ni tơm được khảo
sát. Đối với loại kháng sinh NFXC, nồng độ cao
nhất được ghi nhận trong các ao nuôi quảng canh
ở Nam Định và trong bùn ở các ao quảng canh
ở Cần Giờ và Cà Mau (Le và Munekage, 2004).
Cũng theo thông tin từ nghiên cứu này, kháng
sinh và các loại hóa chất khác thường được sử
dụng trong tháng ni đầu tiên và được sử dụng
với hàm lượng cao khi tôm có triệu chứng bệnh.
Các loại kháng sinh thường ở dạng bột và được
trộn chung với thức ăn thương mại.
Trong năm 2016, thực hiện chỉ đạo của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn, Cục Thú
y đã chủ trì triển khai phịng, chống dịch bệnh
trên tơm (tại Sóc Trăng và Bạc Liêu) và trên cá
tra (tại Bến Tre, Đồng Tháp và An Giang) trong
đó có nội dung khảo sát trực tiếp tại các hộ ni
trồng thủy sản về tình hình sử dụng kháng sinh.
Kết quả điều tra tại 218 hộ nuôi thâm canh và bán
thâm canh tại 64/66 ấp của 12/12 xã phường/thị
trấn thuộc huyện Hịa Bình và Thành phố Bạc
Liêu cho thấy có 66,97% (146 cơ sở) hộ ni
sử dụng kháng sinh trong q trình ni, chỉ có
23,4% hộ khơng sử dụng kháng sinh trong q
trình ni, cịn lại 9,63% hộ khơng biết là mình
có sử dụng kháng sinh hay khơng. Trong số
những cơ sở sử dụng kháng sinh thì có 19,86%
hộ sử dụng thuốc kháng sinh trên người, 8,91%
hộ nuôi sử dụng đồng thời cả nhân y và Thú
y, 42,47% hộ khơng rõ là mình sử dụng thuốc
Thú y hay nhân y. Nếu loại bỏ các hộ sử dụng
kháng sinh nhưng khơng rõ nhân y hay Thú y
thì tỷ lệ hộ sử dụng thuốc nhân y là 34,52%, hộ
dùng cả Thú y và nhân y là 15,48%, số hộ chỉ
dùng thuốc thú y là 50%. Một số cơ sở nuôi đã
sử dụng chloramphenicol 250mg, doxycycline
100mg, tetracycline 500mg trong nhân y để
điều trị bệnh. Trong 146 hộ sử dụng kháng sinh,
có 61,64% hộ sử dụng kháng sinh để phịng
bệnh, 14,38% hộ sử dụng cả phịng và trị, chỉ
có 23,97% hộ chỉ sử dụng kháng sinh khi tơm
có dấu biệu bị bệnh. Mục tiêu của nghiên cứu
này nhằm xác định hiện trạng sử dụng thuốc
kháng sinh trong điều trị bệnh hoại tử gan tụy
cấp (AHPND) của các hộ nuôi tôm tại ba miền
Bắc, Trung, Nam qua điều tra nông hộ.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng, phạm vi và quy mơ điều tra
Điều tra trên mơ hình ni tơm thâm canh
và bán thâm canh trên phạm vi 7 tỉnh trong cả
3 miền Bắc và Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ và
Đồng bằng sông Cửu Long trên vùng thường
xảy ra dịch bệnh hoại tử gan tụy tôm nuôi.
+ Miền Bắc và Bắc Trung bộ: 57 hộ nuôi
được điều tra tại Hải Phịng và Nghệ An, trong
đó Hải Phịng 23 hộ, Nghệ An 34 hộ, các hộ
ni này đều có quy mơ nuôi thâm canh và bán
thâm canh.
+ Nam Trung bộ: 60 hộ nuôi tôm tại hai
tỉnh Quảng Nam và Ninh Thuận, mỗi tỉnh 30 hộ
nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
11
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
+ ĐBSCL: 90 ao/phiếu điều tra trên 3 tỉnh
Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu
2.2. Thơng tin điều tra
vấn có thể hỏi thơng tin về quản lý ao nuôi bằng
cách điện thoại để bổ sung vào phiếu điều tra.
2.4. Phương pháp kháng sinh đồ
Dựa vào phiếu điều tra theo biểu mẫu chuẩn
bị sẵn để thu thập các thơng tin, số liệu liên quan
đến tình hình bệnh tơm và việc sử dụng kháng sinh
trong vụ nuôi của các hộ nuôi tôm. Điều tra được
tiến hành qua việc sử dụng phiếu điều tra soạn sẵn
gồm đặc điểm ao nuôi và các kỹ thuật quản lý ao
và dịch bệnh và việc sử dụng thuốc kháng sinh.
2.3. Phương pháp điều tra
Kết hợp với Chi cục Nuôi trồng Thủy sản
(hoặc Thú Y) để nắm tình hình và diện tích ao
nuôi, xác định vùng dịch bệnh hoại tử gan tụy
hay xảy ra, điều tra trực tiếp bằng cách phỏng
vấn người nuôi. Trên cơ sở số lượng ao và vùng
nuôi tôm đã xác định, điều tra viên được phân
công đến vùng nuôi để phỏng vấn trực tiếp chủ
cơ sở nuôi hoặc người đại diện trả lời phỏng
vấn để ghi vào phiếu điều tra. Điều tra được
thực hiện trên những ao nuôi thường xảy ra dịch
bệnh. Sau khi phỏng vấn lần đầu, người phỏng
Thử nghiệm kháng sinh đồ trên V.
parahaemolyticus được thực hiện theo phương
pháp khuếch tán đĩa thạch (Ruangpan &
Tendencia, 2004). Trước hết, vi khuẩn được nuôi
cấy tăng sinh trên môi trường thạch Tryptic soy
agar (TSA) khoảng 18-24 giờ. Sau đó khuẩn lạc
của vi khuẩn được hòa tan vào nước muối 2%
cho đến khi đạt nồng độ 108 CFU/ml bằng cách
so sánh độ đục với ống 0,5 McFarland. Dịch
vi khuẩn này được trải lên đĩa thạch MuellerHinton Agar (MHA) với thể tích 1000 µl, để khơ
tự nhiên rồi đặt các đĩa kháng sinh lên, ủ 18-24
giờ ở 30°C. Kết quả được xác định bằng cách
đo đường kính vịng vơ khuẩn (mm), dựa theo
bảng chuẩn đường kính vịng vơ khuẩn xác định
loại kháng sinh nhạy, kháng trung bình và kháng.
Kết quả ghi nhận kháng hay nhạy với kháng sinh
được xác định bằng đo đường vô khuẩn theo
phương pháp của CLSI (2014) (Bảng 1).
Bảng 1. Giới hạn đường kính vùng ức chế các loại kháng sinh theo CLSI (2014)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
Tên kháng sinh
Hàm lượng
Ampicillin
Amoxicillin
Gentamicin
Kanamycin
Oxytetracycline
Tetracyline
Doxycycline
Ciprofloxacin
Bactrim
Norfloxacin
Florfenicol
Neomycin
Erythromycin
Rifampicin (Rifampin)
Streptomycin
Amoxicillin/Clavulanic
acid
Cefotaxime
Ceftiofur
Giới hạn đường kính vùng ức chế (mm)
10 µg
10 µg
10 µg
30 µg
30 µg
30 µg
30 µg
5 µg
1,25/23,7 µg
10 µg
30 µg
30 µg
30 µg
5 µg
10 µg
Nhạy
≥ 17
≥ 18
≥ 15
≥ 18
≥ 26
≥ 19
≥ 16
≥ 21
≥ 16
≥ 17
≥ 19
≥ 17
≥ 23
≥ 20
≥ 15
Trung bình
14-16
14-17
13-14
14-17
16-25
15-18
13-15
16-20
11-15
13-16
15-18
13-16
14-22
17-19
12-14
Kháng
≤ 13
≤ 13
≤ 12
≤ 13
≤ 15
≤ 14
≤ 12
≤ 15
≤ 10
≤ 12
≤ 14
≤ 12
≤ 13
≤ 16
≤ 11
20/10 µg
≥ 18
14-17
≤ 13
30 µg
30 µg
≥ 23
≥ 21
15-22
18-20
≤ 14
≤ 17
(Ghi chú: Ciprofloxacin tại thời điểm khảo sát chưa nằm trong danh mục cấm sử dụng)
12
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
2.5. Phương pháp phân tích số liệu
Dữ liệu được nhập trên Excel 2010 và phân
tích thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0 (SPSS
Inc., USA).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hiện trạng sử dụng kháng sinh trong
nuôi tôm tại miền Bắc và Bắc Trung bộ
Tại miền Bắc và Bắc Trung bộ, nghiên
cứu đã thu thập thơng tin từ 57 hộ ni trong
đó Hải Phịng 23 hộ (40,4%), Nghệ An 34 hộ
(59,6%). Có 56,1% nơng hộ cho biết có sử dụng
kháng sinh, trong đó 31,25% sử dụng kháng
sinh với mục đích trị bệnh đã và đang xảy ra
tại ao nuôi và 68,75% ao nuôi sử dụng kháng
sinh để phòng bệnh. Qua điều tra cho thấy có 11
loại kháng sinh đã được hộ ni sử dụng trong
nuôi tôm như oxytetracycline (33,0%), Osamet
(sulfadimethoxine + ormetoprim) (16,5%),
tetracycline (11,3%), enrofloxacin (9,3%),
doxycycline (8,2%), ciprofloxacin (8,2%),
florfenicol (7,2%), biosultrim (trimethoprim +
sulfadimidine) (2,1%), Cloxit (chloramphenicol)
(2,1%), erythromycin (1,0%) và trifamet
(sulfamethoxazole + trimethoprim + rifamycin)
(1,0%) (Hình 1). Ba loại kháng sinh được sử
dụng nhiều nhất trong phịng trị bệnh tơm ở
miền Bắc và Bắc Trung bộ là oxytetracycline,
Osamet (sulfadimethoxine + ormetoprim) và
tetracycline. Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của Mai Văn Tài và ctv., (2004) với
oxytetracycline và doxycycline là 2 loại kháng
sinh được sử dụng chủ yếu trong nuôi trồng
thủy sản. Điều đáng lưu ý là enrofloxacin là
loại kháng sinh đã bị cấm sử dụng nhưng cũng
đang được sử dụng khá nhiều. Ciprofloxaxin
vẫn được hạn chế sử dụng tại thời điểm điều
tra năm 2015, đến tháng 6/2016 thì kháng sinh
này cũng bị Bộ NN & PTNT cấm sử dụng trong
nuôi trồng thủy sản. Về hiệu quả sử dụng kháng
sinh có 18,8% nơng hộ đánh giá loại kháng sinh
họ đang sử dụng có hiệu quả, 81,3% nơng hộ
đánh giá kháng sinh khơng hiệu quả.
Hình 1. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại miền Bắc và Bắc Trung bộ
3.1.1. Tại Nghệ An
Có 70,6% nơng hộ sử dụng kháng sinh,
trong đó 16,7% sử dụng kháng sinh với mục
đích trị bệnh và 79,2% ao ni sử dụng kháng
sinh để phòng bệnh, 4,2% sử dụng kháng sinh
cho cả phòng và trị bệnh. Tám loại kháng
sinh được sử dụng là oxytetracycline (37,5%),
tetracycline (22,5%), enrofloxacin (12,5%),
doxycycline (10,0%), Osamet (sulfadimethoxine
+ ormetoprim) (5,0%), florfenicol (5,0%),
Biosultrim (trimethoprim + sulfadimidine)
(2,5%), và chloramphenicol (5,0%) (Hình 2).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
13
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 2. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại Nghệ An
3.1.2. Tại Hải Phịng
Có 34,8% nơng hộ sử dụng kháng sinh,
trong đó 75,0% sử dụng kháng sinh với mục
đích trị bệnh và 25,0% ao ni sử dụng kháng
sinh để phịng bệnh. Có 10 loại kháng sinh
được ghi nhận qua điều tra nông hộ với các
loại kháng sinh như oxytetracycline (28,9%),
osamet (26,3%), ciprofloxacin (15,8%),
doxycycline (7,9%), florfenicol (5,3%),
enrofloxacin (5,3%), tetracycline (2,6%),
biosultrim (2,6%), erythromycin (2,6%) và
trifamet (2,6%) (Hình 3)
Hình 3. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại Hải Phòng
3.2. Hiện trạng sử dụng kháng sinh trong
nuôi tôm tại Nam Trung bộ
Tại khu vực Nam Trung bộ đã thu thập
thông tin tại 60 ao nuôi tôm thương phẩm
(100% ao nuôi tôm thẻ) tại Quảng Nam và
Ninh Thuận. Có 71,2% nơng hộ cho biết có sử
dụng kháng sinh, trong đó 90% sử dụng kháng
14
sinh với mục đích phịng và trị bệnh và 10% ao
ni sử dụng kháng sinh để phòng bệnh. Hơn 10
loại kháng sinh được ghi nhận qua điều tra như
oxytetracycline (57,6%), ciprofloxacin (21,2%),
doxycycline (7,1%), osamet (sulfadimethoxine
+ ormetoprim) (5,1%), enrofloxacin (2,0%),
amoxicillin (2,0%), cefotaxime (1,0%), cotrim
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
(Sulfamethoxazol và Trimethoprim) (1,0%),
streptomycin (1,0%), cefotaxime (1,0%) và
kháng sinh không nhãn mác (1,0%) (Hình 4). Ba
loại kháng sinh được sử dụng nhiều trong phịng
trị bệnh tơm tại Nam Trung bộ là oxytetracycline
(57,6%), ciprofloxacin (21,2%), doxycycline
(7,1%). Cũng giống như ở khu vực Bắc và Bắc
Trung bộ, mặc dù enrofloxacin và ciprofloxacin
là loại kháng sinh đã bị cấm sử dụng nhưng cũng
đang được sử dụng tại miền Trung.
Hình 4. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại NamTrung bộ
Về hiệu quả sử dụng kháng sinh theo đánh
giá của nơng hộ có 47,6% đánh giá loại kháng
sinh họ đang sử dụng có hiệu quả, 52,4% nông
hộ đánh giá kháng sinh không hiệu quả.
3.2.1. Tại Quảng Nam
Có 86,2% nơng hộ cho biết có sử dụng
kháng sinh, trong đó 87,5% sử dụng kháng
sinh với mục đích phịng và trị bệnh và 12,5%
ao nuôi sử dụng kháng sinh để phòng bệnh.
Năm loại kháng sinh được ghi nhận qua điều
tra là oxytetracycline (64,7%), ciprofloxacin
(13,7%), doxycycline (13,7%), osamet (3,9%),
và enrofloxacin (3,9%) (Hình 5).
Hình 5. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại Quảng Nam
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
15
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
3.2.2. Tại Ninh Thuận
Có 56,7% nơng hộ cho biết có sử dụng
kháng sinh, trong đó 11,7% ao cho biết sử dụng
kháng sinh với mục đích phịng và trị bệnh.
Hơn 8 loại kháng sinh được ghi nhận qua điều
tra nông hộ tại Ninh Thuận là oxytetracycline
(50,0%), osamet (6,3%), amoxicillin (4,2%),
ciprofloxacin (29,2%), cefotaxime (2,1%),
cotrim (Sulfamethoxazol và Trimethoprim)
(2,1%), streptomycin (2,1%) và kháng sinh
không nhãn mác (2,1%) (Hình 6).
Hình 6. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại Ninh Thuận
3.3. Hiện trạng sử dụng kháng sinh trong
nuôi tôm tại ĐBSCL
Nghiên cứu đã thu thập thông tin 90 hộ
ni tơm thương phẩm tại Cà Mau, Sóc Trăng
và Bạc Liêu. Có 68,9% nơng hộ cho biết có sử
dụng kháng sinh, trong đó 62% sử dụng kháng
sinh với mục đích phịng trị bệnh và 38% ao
ni sử dụng kháng sinh để phòng bệnh. Hơn
15 loại kháng sinh được các nông hộ sử dụng
như oxytetracycline (31,7%), doxycycline
(Sylimax) (12,7%), enrofloxacin (7,9%),
ciprofloxacin (6,3%), flophenicol (6,3%),
gentamicin (6,3%), cortrim (4,8%), amoxicillin
(4,8%), erythomycin (3,2%), ampicillin (3,2%),
clarithromycin (1,6%), rovamycine (1,6%),
lincomycin (1,6%), tetracycline (1,6%),
cefotaxime (1,6%), HT 9000 (amoxicillin,
16
oxytetracycline, enrofloxacin, acid citric,
vitamin E) (1,6%) và kháng sinh không nhãn
mác (3,2%) (Hình 7). Ba loại kháng sinh được
sử dụng nhiều trong phịng trị bệnh tơm là
oxytetracycline (31,7%), doxycyline (12,7%)
và enrofloxacin (7,9%). Qua kết quả điều tra
cho thấy có trên dưới 15 loại kháng sinh được
người nuôi tôm sử dụng tại khu vực ĐBSCL.
Điều này cũng tương thích với các kết quả
điều tra về số lượng và chủng loại kháng sinh
dùng trong nuôi tôm của Hùynh Thị Tú và
ctv., (2006). Theo nhóm tác giả này thì có đến
19 loại kháng sinh dùng trong ni tơm ở Bạc
Liêu và Sóc Trăng. Theo Tai (2012), có đến
28 loại thuốc Thú y thủy sản có chứa kháng
sinh được sử dụng trong ni trồng thủy sản
ở Việt Nam.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 7. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại ĐBSCL
Về hiệu quả sử dụng kháng sinh theo đánh
giá của nông hộ, 51,4% nông hộ đánh giá loại
kháng sinh họ đang sử dụng có hiệu quả, 32,4%
nơng hộ đánh giá kháng sinh không hiệu quả và
16,2% nông hộ không rõ hoặc chưa rõ kháng
sinh đang sử dụng có hiệu quả hay khơng.
3.3.1. Tại Sóc Trăng
54,5% nơng hộ cho biết có sử dụng kháng
sinh, trong đó 50% sử dụng kháng sinh với mục
đích trị bệnh và 50% ao nuôi sử dụng kháng
sinh để phòng bệnh. Năm loại kháng sinh
được ghi nhận qua điều tra nông hộ với các
loại kháng sinh như oxytetracycline (56,3%),
enrofloxacin (12,5%), cotrim (sulfamethoxazol
và trimethoprim) (12,5%), ampiciline (12,5%)
và amoxicillin (6,3%) (Hình 8).
Hình 8. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại Sóc Trăng
3.3.2. Tại Cà Mau
88,9% nơng hộ cho biết có sử dụng kháng
sinh, trong đó 70,0% sử dụng kháng sinh với
mục đích trị bệnh đã và đang xảy ra tại ao nuôi
và 30% ao nuôi sử dụng kháng sinh để phòng
bệnh. Hơn 8 loại kháng sinh được ghi nhận qua
điều tra nông hộ với các loại kháng sinh như
oxytetracycline (29,6%), flophenicol (14,8%),
gentamicin (14,8%), enrofloxacin (7,4%),
doxycyline (7,4%), ciprofloxacin (7,4%),
Erythomycine (7,4%), Cotrim (Sulfamethoxazol
và Trimethoprim) (3,7%) và kháng sinh không
nhãn mác (7,4%) (Hình 9).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
17
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 9. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại Cà Mau
Về hiệu quả sử dụng kháng sinh có 41,7%
nơng hộ đánh giá loại kháng sinh họ đang sử
dụng có hiệu quả, 37,5% nông hộ đánh giá
kháng sinh không hiệu quả và 20,8% nông hộ
không rõ hoặc chưa rõ kháng sinh đang sử dụng
có hiệu quả hay khơng.
3.3.3. Tại Bạc Liêu
Có 73,3% nơng hộ cho biết có sử dụng
kháng sinh, trong đó 40,1% sử dụng kháng
sinh với mục đích trị bệnh đã và đang xảy ra
tại ao nuôi và 59,9% ao nuôi sử dụng kháng
sinh để phòng bệnh. 9 loại kháng sinh được
ghi nhận qua điều tra là doxycycline (33,3%),
oxytetracycline
(16,7%),
ciprofloxacin
(11,1%), amoxicillin (11,1%), clarithromycin
(5,6%), rovamycine (5,6%), lincomycin
(5,6%), tetracycline (5,6%) và cefotaxime
(5,6%) (Hình 10).
Hình 10. Tỷ lệ các loại kháng sinh sử dụng tại Bạc Liêu
18
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Về hiệu quả sử dụng kháng sinh có 66,7%
nơng hộ đánh giá loại kháng sinh họ đang sử
dụng có hiệu quả, 25,0% nơng hộ đánh giá
kháng sinh không hiệu quả và 8,3% nông hộ
khơng rõ hoặc chưa rõ kháng sinh đang sử dụng
có hiệu quả hay khơng.
Tình hình chung cho cả 3 miền Bắc và Bắc
Trung Bộ, Nam Trung bộ và ĐBSCL là hầu
hết các người ni đều có sử dụng kháng sinh
khơng được phép sử dụng (chủ yếu thuộc nhóm
Fluoroquinolone). Mặc dù kháng sinh thuộc
nhóm fluoroquinolone đã bị cấm sử dụng ở Mỹ
và Canada nhưng trước đây đã được báo cáo
sử dụng ở Trung Quốc, Thái Lan (Love và ctv.,
2011). Uddin và Kader (2006) điều tra tình
hình sử dụng kháng sinh ở các trại sản xuất
tôm giống ở Bangladesh năm 2002-2003
cho thấy chloramphenicol, erythromycin,
oxytetracycline và prefuran là các loại
kháng sinh có hiệu quả cao trong kiểm sốt
các bệnh do vi khuẩn. Có 40% trại sản xuất
giống sử dụng chloramphenicol, 25% trại sử
dụng erythromycin, 20% sử dụng prefuran
và 15% trại sản xuất sử dụng oxytetracycline
để ngừa tôm bố mẹ nhiễm khuẩn sau khi cắt
mắt để cho đẻ. Ở Ấn Độ các loại kháng sinh
thơng thường được sử dụng để phịng và trị
bệnh trong thủy sản gồm oxytetracycline.
Enrofloxacin, cephalexin, doxycycline (Mishra
và ctv., 2017). Ở Bangladesh, theo Chowdhury
và ctv., (2015) thì oxytetracycline là một trong
những kháng sinh có hiệu quả nhất trong kiểm
sốt bệnh thủy sản với 80-90% hiệu quả mang
lại từ chữa trị.
Các loại kháng sinh thường được sử dụng
trong nuôi trồng thủy sản để trị các bệnh
nhiễm khuẩn gồm oxytetracycline, florfenicol,
sarafloxacin và enrofloxacin (Roque và
ctv., 2001; Soto-Rodríguez và ctv., 2006).
Theo Holmstrưm và ctv., (2003), các nhóm
kháng sinh thường được sử dụng trong thủy
sản bao gồm chlortetracycline, quinolones,
ciprofloxacin, norfloxacin, oxilinic acid,
perfloxacin,
sulfamethazine,
gentamicin
và tiamulin. Oxytetracycline thuộc nhóm
tetracycline được sử dụng rộng rãi để điều
trị các bệnh nhiễm khuẩn như Vibriosis và
Furunculosis (Capone và ctv., 1996; Prescott
và ctv., 2000; Reed và ctv., 2006). Thơng tin
chính thức về việc sử dụng enrofloxacin trong
ni tơm chân trắng rất ít, tuy nhiên có nhiều
nghiên cứu về dược động học của kháng sinh
này trên tôm sú (Penaeus monodon), tôm he
Trung Quốc (Penaeus chinensis) (Intorre và
ctv., 2000; Tu và ctv., 2008; Wen và ctv., 2007;
Xu và ctv., 2006). Florfenicol là loại kháng sinh
có hiệu quả trong trị các bệnh do Pasteurella
piscicida, Aeromonas salmonicida, Vibrio
anguillarum và Edwardsiella tarda (Yanong
và Curtis, 2005).
3.4. Tình hình kháng kháng sinh của
Vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan
tụy cấp tính trên tơm ni nước lợ ở Việt Nam
Trong phạm vi của nghiên cứu này, kết
hợp với điều tra thu thập thơng tin về tình hình
sử dụng kháng sinh trong tôm nuôi nước lợ ở
Việt Nam là việc thu mẫu tôm, nước và bùn
ao nuôi ở cả 3 vùng miền Bắc và Bắc Trung
bộ, nam Trung bộ và ĐBSCL. Tổng cộng số
mẫu thu được ở Bắc và Bắc Trung Bộ là 121
(101 mẫu tôm, 10 mẫu nước và 10 mẫu bùn),
ở nam Trung Bộ là 90 mẫu (30 mẫu nước, 30
mẫu bùn và 30 mẫu tôm), ở ĐBSCL là 90 mẫu
(30 mẫu tôm, 30 mẫu nước và 30 mẫu bùn).
Tất cả các mẫu thu được phân lập và định danh
V. parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy
cấp tính trên tơm bằng test kít API20E kết hợp
với phản ứng PCR theo quy trình của Han
và ctv., (2015). Kết quả thu được 2 chủng V.
parahaemolyticus ở Bắc và Bắc Trung bộ, 7
chủng ở Nam Trung bộ và 47 chủng ở ĐBSCL.
Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ trên tất cả các
chủng vi khuẩn này đã tổng hợp được các loại
kháng sinh kháng hoặc nhạy ở 3 miền Bắc,
Trung và Nam (Bảng 2) làm cơ sở cho việc
cảnh báo cũng như chọn lựa đúng kháng sinh
trong trị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
19
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 2. Danh mục các kháng sinh nhạy và kháng đối với Vibrio parahaemolyticus
TT
Kháng sinh
Miền Bắc
Nhạy
Trung
gian
Miền Trung
Kháng
Nhạy
Trung
gian
Miền Nam
Kháng
Nhạy
Trung
gian
1
Ampicillin
X
2
Amoxicillin
3
Gentamicin
4
Kanamycin
5
Oxytetracycline
6
Tetracycline
X
7
Doxycycline
X
X
X
X
8
Ciprofloxacin
X
X
X
X
9
Bactrim
10
Norfloxacin
11
Florfenicol
12
Neomycin
X
X
13
Erythromycin
X
X
14
Rifampycin
15
Streptomycin
X
16
Cefotaxime
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Theo nghiên cứu của Costa và ctv., (2015),
Vibrio kháng kháng sinh nhóm β-lactam và
tetracycline trong mơi trường ni tơm. Ngồi
ra, việc phát hiện yếu tố kháng kháng sinh yếu
tố trung gian plasmid cảnh báo cho khả năng
chuyển theo truyền ngang của các gen kháng
kháng sinh trong vi khuẩn. Theo nghiên cứu
của Lai và ctv., (2015), dựa trên nồng độ ức
chế tối thiểu (MIC) cho thấy cả hai chủng V.
parahaemolyticus gây bệnh và không gây bệnh
đã kháng nhiều thuốc kháng sinh.
Trong nghiên cứu của He và ctv., (2016),
nhóm tác giả này phân lập được 400 chủng V.
parahaemolyticus từ các mẫu tôm mua từ các
chợ ở Shanghai năm 2013-2014. Kết quả kiểm
tra tính kháng kháng sinh cho thấy tỷ lệ kháng
với các loại kháng sinh lần lượt là ampicillin
(99%), streptomycin (45,25%), rifampicin
(38,25%) và spectinomycin (25,5 %). Tất cả
các khuẩn lạc đều nhạy với chloramphenicol và
tetracycline, 35/400 chủng đều nhạy với tất cả
10 loại kháng sinh thử nghiệm gồm ampicillin,
chloramphenicol, gentamicin, kanamycin,
20
Kháng
X
X
rifampicin,
spectinomycin,
streptomycin,
sulfamethoxazole-trimethoprim, tetracycline
và trimethoprim. Han và ctv., (2015) thử
khả năng kháng kháng sinh của 8 chủng V.
parahaemolyticus trong đó có 2 chủng phân lập
từ Mexico và 8 chủng từ Việt Nam. Kết quả cho
thấy 100% số chủng đề kháng với ampicillin,
100% nhạy với flofenicol và nalidixic acid. Các
chủng ở Việt Nam nhạy cảm với tetracycline và
oxytetracycline trong khi các chủng ở Mexico
đều kháng với 2 loại kháng sinh này.
IV. KẾT LUẬN
- Tại miền Bắc, có 11 loại kháng sinh đang
được người ni sử dụng trong phịng trị bệnh
tơm. Oxytetracycline (33,0%), osamet (16,5%),
tetracycline (11,3%) là ba loại kháng sinh được sử
dụng nhiều trong phịng trị bệnh tơm tại miền Bắc.
- Miền Trung có 71,2% nơng hộ có sử
dụng kháng sinh trong vụ nuôi với hơn 10 loại
kháng sinh đang được người ni sử dụng trong
phịng trị bệnh tơm. Oxytetracycline (57,6%),
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ciprofloxacin (21,2%), doxycycline (7,1%) là
ba loại kháng sinh được sử dụng nhiều trong
phòng trị bệnh tơm tại miền Trung.
- Tại miền Nam có 68,9% nông hộ sử
dụng kháng sinh trong vụ nuôi với hơn 15 loại
kháng sinh đang được người nuôi sử dụng trong
phịng trị bệnh tơm. oxytetracycline (31,7%),
doxycylin (12,7%) và enrofloxacin (7,9%) là
ba loại kháng sinh được sử dụng nhiều trong
phòng trị bệnh tơm tại miền Nam. Trong đó,
enrofloxacin là loại kháng sinh đã bị cấm sử
dụng tại thời điểm điều tra năm 2015.
- Trong số các loại kháng sinh được
phép hoặc hạn chế sử dụng thì Vibrio
parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy cấp
tính nhạy với các loại kháng sinh gentamicin,
florfenicol, oxytetracycline, doxycycline và
tetracycline.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Cục Thú Y, 2016. Báo cáo tham luận tại Hội nghị
Phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ tôm nước
lợ do Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn tổ
chức tại tỉnh Bạc Liêu ngày 14/09/2016.
Mai Văn Tài, 2004. Đánh giá hiện trạng các loại
thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học dùng trong
nuôi trồng thủy sản nhằm đề xuất các giải pháp
quản lý. Báo cáo tổng kết đề tài. Hà Nội, Viện
Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, Bộ Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn.
Huỳnh Thị Tú, Nguyễn Thanh Phương, Frédéric
Silvestre, Caroline Douny, Châu Tài Tảo, Guy
Maghuin-Rogister và Patrick Kestemont, 2006.
Khảo sát tình hình sử dụng thuốc-hóa chất trong
ni tơm và sự tồn lưu của enrofloxacin và
furazolidone trong tôm sú (Penaeus monodon).
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học, Trường Đại học
Cần Thơ: 70-78.
Tài liệu tiếng Anh
Capone, D. G., Weston, D. P., Miller, V. and
Shoemaker, C., 1996. Antibacterial residues in
marine sediments and invertebrates following
chemotherapy in aquaculture. Aquaculture
145(1-4): 55-75.
Chowdhury, A.A., Uddin, MdS, Vaumi, S. and Asif,
A.A., 2015. Aqua drugs and 37. chemicals used
in aquaculture of Zakigonj upazilla, Sylhet. Asian
Journal of Medical and Biological Research 1:
336-349.
Clinical and Laboratory Standards Institute, 2014.
Performance standards for antimicrobial
susceptibility testing, 24th informational
supplement. Approved standard M100-S24.
Clinical and Laboratory Standards Institute,
Wayne, PA, 226 pp.
Costa, R.A., Araújo, R.L., Souza, O.V., and Silva,
R.H., 2015. Antibiotic-Resistant Vibrios in
Farmed Shrimp. Biomed Research International:
505914.
He, Y., Jin, L., Sun, F., Hu, Q. and Chen, L., 2016.
Antibiotic and heavy-metal resistance of Vibrio
parahaemolyticus isolated from fresh shrimps
in Shanghai fish markets. China Environmental
Science and Pollution Research 23:15033–
15040.
Holmström, K., Gräslund, S., Wahlström, A.,
Poungshompoo, S., Bengtsson, B. E., & Kautsky,
N., 2003. Antibiotic use in shrimp farming and
implications for environmental impacts and
human health. International journal of food
science & technology 38(3): 255-266.
Intorre, L., Cecchini, S. and Bertini, S., 2000.
Pharmacokinetics of enrofloxacin in the seabass
(Dicentrarchus labrax). Aquaculture 182: 49–59.
Lai, H. C., Ng, T. H., Ando, M., Lee, C. T., Chen,
I. T., Chuang, J. C. and Takeyama, H., 2015.
Pathogenesis of acute hepatopancreatic necrosis
disease (AHPND) in shrimp. Fish & shellfish
immunology 47(2): 1006-1014.
Le, T. X. and Munekage, Y., 2004. Residues of
selected antibiotics in water and mud from
shrimp ponds in mangrove areas in Viet Nam.
Marine pollution bulletin, 49(11-12:, 922-929.
Lightner, D.V., Redman, C.R., Pantoja, B.L., Noble,
L.M., Nunan, Loc Tran, 2013. Documentation
of an Emerging Disease (Early Mortality
Syndrome) in SE Asia & Mexico. OIE Reference
Laboratory for Shrimp Diseases, Department of
Veterinary Science & Microbiology, School of
Animal and Comparative Biomedical Sciences.
Love, D.C., Rodman, S., Neff, R.A., Nachman,
K.E., 2011. Veterinary drug residues in seafood
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
21
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
inspected by the European Union, United
States, Canada, and Japan from 2000 to 2009.
Environmental Science and Technology 45 (17):
7232–7240.
Mishra, S.S., Das, R., Das, B.K., Choudhary, P.,
Rathod, R., 2017. Status of Aqua-medicines,
Drugs and Chemicals Use in India: A Survey
Report. Journal of Aquaculture and Fisheries 1:
1-15.
Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early
mortality syndrome in shrimp. Aqua Culture
Asia Pacific. 8 (1): 8-10.
Prescott J.F., Baggot J.D., Walter D.R., 2000.
Tetracyclines and Glycylcyclines. Antimicrobial
Teraphy in Veterinary Medicine (Giguére,
S.; Prescott, J.F.; Baggot, J.D.; Walker, R.D.;
Dowling, P.M. (Ed)), 231.
Reed L.A., Siewicki T.C., Shah A.C., 2006. The
biopharmaceutics and oral bioavailability of two
forms of oxytetracycline to the white shrimp,
Litopenaeus setiferus. Aquaculture 258: 223-245.
Roque, A., Molina-Aja, A., Bolan-Mejia, C. and
Gomez-Gil, B., 2001. In vitro susceptibility to
15 antibiotics of vibrios isolated from penaeid
shrimps in Northwestern Mexico. International
Journal of Antimicrobial Agents 17: 383-387.
Soto-Rodríguez, S.A., Simoes, N., Roque, A.,
and Gómez Gil, B., 2006. Pathogenicity and
colonization of Litopenaeus vannamei larvae by
luminescent vibrios. Aquaculture 258: 109-15.
22
Tai, M.V., 2012. Use of veterinary medicines
in Vietnamese aquaculture: current status.
In: Bondad-Reantaso, M.G., Arthur, J.R.,
Subasinghe, R.P., (Eds.), Improving Biosecurity
Through Prudent and Responsible Use
of Veterinary Medicines in Aquatic Food
Production, pp. 91–98.
Tu, T.H., Silvestre, F., Bernard, A., Douny, C.,
Phuong, T.N., Tao, T.C., Maghuin-Rogiste,
G., and Kestemont, P., 2008. Oxidative stress
response of black tiger shrimp (Penaeus
monodon) to enrofloxacin and to culture system.
Aquaculture. 285: 244-248.
Uddin, S.A. and Kader, M.A., 2006. The Use of
Antibiotic in Shrimp Hatcheries in Bangladesh.
Journal of Fisheries and Aquatic Science 1: 64-67.
Wen, F., Shuai, Z., Kai, Z. and Si-cheng. L., 2007.
Pharmacokinetics and tissue distribution of
enrofloxacin and its metabolite ciprofloxacin
in Scylla serrata following oral gavage at two
salinities. Aquaculture 272: 180–187.
Xu, W., Xiaobin, Z., Xinting, W., Liping, D.
and Gan, Z., 2006. Residues of enrofloxacin.
furazolidone and their metabolites in Nile tilapia
(Oreochromis niloticus). Aquaculture 254: 1–8.
Yanong, P. R. and Curtis, W.E., 2005. Pharmacokinetic
studies of Florfenicol in Koi Carp and threespot
gourami Trichogaster trichopterus after oral
and intramuscular treatment. Journal of Aquatic
Health 17: 129-137.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
CURRENT STATUS OF ANTIBIOTIC USAGE IN BLACK TIGER
SHRIMP AND WHITE LEG SHRIMP FARMING IN VIETNAM
Le Hong Phuoc1*, Nguyen Diem Thu2, Hua Ngoc Phuc2, Pham Thi Yen3
ABSTRACT
This study was conducted to evaluate the current status of antibiotic usage in farming of black
tiger shrimp and white-leg shrimp in Vietnam. Number of shrimp farmers interviewed in the
Northern, Central and Southern Vietnam were 57, 60 and 90, respectively. The information in the
questionnaire was mainly related to the antibiotics used, the dosage, the usage frequency and the
treatment effectiveness. In the North, 11 types of antibiotics were used in shrimp farming such as
oxytetracycline, Osamet (sulfadimethoxine + ormetoprim), tetracycline, enrofloxacin, doxycycline,
ciprofloxacin, florfenicol, biosultrim (trimethoprim + sulfadimidine), chloroform (chloramphenicol)
erythromycin and trifamate (sulfamethoxazole + trimethoprim + rifamycin). Oxytetracycline,
tetracycline and enrofloxacin were the most commonly used antibiotics in this region. In the Central
region, 71.2% of shrimp farmers reported of using antibiotics in the shrimp crop with more than
ten types of antibiotics being used in treating of shrimp diseases. Oxytetracycline, ciprofloxacin
and doxycycline were the most commonly used antibiotics in treating shrimp diseases in the central
region. In the South, 68.9% of shrimp farmers reported of using antibiotics in the shrimp crop with
more than 15 antibiotics being used in shrimp disease treatment. Oxytetracycline, doxycyline and
enrofloxacin were the three antibiotics commonly used in preventing and treating of shrimp diseases.
In relation to the effectiveness of antibiotics, 20-50% of households confirmed the effectiveness of
antibiotics, 30% reported no effect and 20% could not give the answer. Vibrio parahaemolyticus
causing AHPND disease was sensitive to gentamicin, florfenicol, oxytetracycline, doxycycline, and
tetracycline.
Keywords: AHPND, shrimp, antibiotic
Người phản biện: TS. Lý Thị Thanh Loan
Ngày nhận bài: 12/6/2018
Ngày thông qua phản biện: 29/6/2018
Ngày duyệt đăng: 10/7/2018
Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemics, Research Institute for Aquaculture No.2.
Research Institute for Aquaculture No.3
3
Research Institute for Aquaculture No.1
*
Email:
1
2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
23
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ YẾU TỐ CHẤT LƯỢNG NƯỚC
VÀ XÁC ĐỊNH MẦM BỆNH TRÊN NGHÊU
(Meretrix lyrata Sowerby, 1851) Ở TỈNH BẾN TRE
Nguyễn Thanh Hà1*, Ngô Thị Ngọc Thủy1, Từ Thanh Dung2 và Huỳnh Nguyễn Duy3
TÓM TẮT
Nghiên cứu đã xác định sự biến đổi của một số yếu tố chất lượng nước và sự hiện diện của một
số mầm bệnh trên nghêu Meretrix lyrata ở Bến Tre trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 10 năm
2016. Kết quả quan sát những dấu hiệu bất thường của nghêu trong mùa dịch bệnh cho thấy chúng
thường có vỏ bị tổn thương, thịt không đầy vỏ (nghêu gầy), ngậm cát trong xoang cơ thể, màng
áo xuất hiện những đốm/mảng trắng và tuyến tiêu hóa chuyển màu vàng. Chất lượng nước tại bãi
ni: pH, NO2, NH3, H2S khơng có khác biệt giữa mùa mưa và mùa khô nhưng sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê được xác định ở yếu tố nhiệt độ và độ mặn (P<0,05). Mật độ vi khuẩn Vibrio tổng số
trong nước dao động từ 0,33 - 4,2.103 cfu/ml trong đó 4 loài Vibrio parahaemolyticus, V. vulnificus,
V. alginolyticus và V. cholerae chiếm ưu thế. Sự hiện diện của Copepod bên trong xoang cơ thể và
Barnacle (hà) bám bên ngoài vỏ nghêu cũng được phát hiện với tỷ lệ nhiễm thấp, lần lượt là 2,92%
và 0,83%. Ngoài ra, nghiên cứu này đã xác định được ký sinh trùng nội ký sinh trên nghêu nuôi tại
Bến Tre là Perkinsus sp. với tỉ lệ 35% và cường độ nhiễm 1,62 – 1.283,22 bào tử/g thịt. Biểu hiện
mô học đặc trưng của nghêu bệnh là cấu trúc của mô mang, ống gan tụy và chân nghêu biến đổi có
hiện diện của ký sinh trùng Perkinsus sp., và sinh vật giớng Rickettsia.
Từ khố: ký sinh trùng, Perkinsus,vibrio, nghêu Bến Tre, Meretrix lyrata
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghêu Meretrix lyrata phân bố chủ yếu ở
vùng biển ấm Tây Thái Bình Dương từ biển
Đài Loan đến Việt Nam. Ở Việt Nam chúng
phân bố chủ yếu ở khu vực Tây Nam Bộ như:
Cần Giờ (Tp.HCM), Gị Cơng (Tiền Giang),
Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú (Bến Tre),
Vĩnh Châu (Sóc Trăng), Vĩnh Lợi (Bạc Liêu),
Ngọc Hiển (Cà Mau) và Cầu Ngang, Duyên
Hải (Trà Vinh) (Nguyễn Chính, 1996). Nghêu
là đối tượng ni phổ biến ở khu vực ven biển
các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và là nguồn
thực phẩm được nhiều người ưa chuộng. Hiện
nay, nghêu là lồi hải sản có giá trị kinh tế cao,
được tiêu thụ rộng rãi trong nước và có giá trị
xuất khẩu. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây nghề nuôi nghêu gặp trở ngại lớn do hiện
tượng nghêu chết bất thường trên diện rộng
làm ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập của
người ni.
Bên cạnh đó, tác nhân vi khuẩn, ký sinh trùng,
virus, rickettsia…cũng được các nhà nghiên cứu
đề cập đến và được xem là nguyên nhân gây
chết cho nhuyễn thể trong một số trường hợp
(Sindermann, 1990). Ký sinh trùng Perkinsus
sp. (P. marinus, P.olseni, P. honshuensis, P.
chesapeaki, P. qugwadi, P. mediterraneus) đã
được tìm thấy và xác định là nguyên nhân gây
chết cho nhiều đối tượng nhuyễn thể khác nhau
trong đó có nghêu (OIE, 2009). Vi khuẩn nội
bào Ricketsia là tác nhân gây bệnh đã được tìm
thấy trên các lồi nghêu ni khác như nghêu
Mercenaria mercenaria (Fries and Grant, 1991)
và nghêu Meretrix lusoria (Wen et al., 1994).
Trên thế giới, nghiên cứu về các tác nhân gây
bệnh đã được tiến hành trên nhiều đối tượng nhuyễn
Phân viện Nghiên cứu Thủy sản Nam sông Hậu, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần Thơ
3
Chi cục Chăn nuôi và Thú Y tỉnh Bến Tre
*
Email:
1
2
24
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
thể như hàu, vẹm, trai, điệp. Ở nước ta, nghiên cứu
về bệnh trên các đối tượng thân mềm chưa nhiều.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã có báo cáo
của một số tác giả về tác nhân gây bệnh trên nghêu
nuôi như đã phát hiện ký sinh trùng Perkinsus sp.
trên nghêu lụa (Paphia undulata) ở Kiên Giang và
Bà Rịa - Vũng Tàu (Ngô Thị Thu Thảo, 2008). Ngô
Thị Ngọc Thủy và ctv., 2013 đã tìm thấy Perkinsus
olseni trên nghêu Bến Tre ni tại Cần Giờ, thành
phố Hồ Chí Minh và xác định đây là tác nhân gây
chết nghêu trong điều kiện nhiệt độ, độ mặn mơi
trường cao. Vì vậy nghiên cứu được thực hiện
nhằm xác định một số tác nhân gây bệnh trên nghêu
ở tỉnh Bến Tre, từ đó có cơ sở dữ liệu phục vụ cho
việc quy hoạch đối tượng nuôi và những biện pháp
quản lý dịch bệnh một cách hiệu quả.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liêu nghiên cứu
Hóa chất: nước muối sinh lý 0,85%, nước
cất, cồn tuyệt đối, cồn 700, xylen, kháng sinh
Streptomycin Penecillin, Nystatin, Eosine,
Haematoxylin, bộ hóa chất nhuộm Gram, dung
dịch H2O2, que thử oxidase, parafin, glucose, bộ
kít API 20NE (BIOMÉRIEUX).
Môi trường: Thiosulfate Citrate Bile Salts
Sucrose Agar (TCBS, Merk), CHROMagar™
Vibrio – Merk và Ray Fluid Thioglycollate
Medium (RFTM, France).
2.2. Vị trí khảo sát và thu mẫu
Nghêu M. lyrata được thu tại Bến Tre từ
tháng 2 đến tháng 12 năm 2016. Mẫu nghêu thu
gồm những cá thể khỏe và có dấu hiệu bị chết/
bệnh. Số lượng mẫu thu 30 - 40 con/ mẫu.
Hình 1: Sơ đồ các vị trí thu mẫu
2.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp phân lập và định danh vi
khuẩn: Mẫu nghêu sau khi được tách đôi, dùng
que cấy tiệt trùng lấy một ít mẫu cấy lên mơi
trường đặc trưng ChromeAgar (ChromeAgar,
Merk) và Thiosulfate citrate bile salt agar
(TCBS, Merk). Đĩa cấy được ủ 24 giờ ở 28oC.
Các chủng vi khuẩn được tách thuần và giữ ở
- 80oC. Vi khuẩn sau khi được tách ròng tiến
hành kiểm tra chỉ tiêu về hình thái, sinh lý và
sinh hố như catalase, oxidase, phản ứng lên men
hiếu khí, yếm khí, sinh H2S, O/F… Hình dạng
kích thước và tính rịng của vi khuẩn được xác
định bằng phương pháp nhuộm Gram (Barrow
and Feltham, 1993). Tính di động của vi khuẩn
được quan sát bằng cách nhỏ một giọt nước cất
lên lame, trải đều lên lame một ít vi khuẩn, đậy
bằng lamella và quan sát bằng kính hiển vi ở vật
kính 40X. Vi khuẩn được định danh theo phương
pháp của Barrow và Feltham (1999) kết hợp với
sử dụng bộ kit API 20 NE (BioMérieux, Pháp).
Phương pháp mơ học: Lấy tồn bộ phần
thịt cố định trong dung dịch Davidson nhuyễn
thể (tỉ lệ formol:thịt nghêu là 1:10) trong 24
giờ. Tiến hành rửa và xử lý mẫu. Mẫu được xử
lý qua 3 giai đoạn (loại nước, làm trong và tẩm
paraffin), được đúc khối, cắt lát với độ dày từ
3 - 5µm rồi nhuộm theo phương pháp Mayer’s
Haematoxylin & Eosin. Tiêu bản được quan
sát dưới kính hiển vi lần lượt ở độ phóng đại
10X, 20X, 40X, 100X và chụp hình tiêu bản
đặc trưng.
Phương pháp nuôi cấy ký sinh trùng
(Perkisus sp.): Nghêu được nuôi cấy riêng
biệt từng cá thể trong môi trường Ray Fluid
thioglycollate medium (RFTM) có bổ sung
Penicilin G (500 IU/mL), Streptomycin (500
µg/mL) và Nystatin (500 IU/mL). Mẫu ni
cấy được giữ ở nhiệt độ phòng (25-28oC) trong
điều kiện tối, yếm khí, trong thời gian từ 5-7
ngày (Almeida et al., 1999). Sau thời gian nuôi
cấy, bào tử Perkinsus sp. được phân lập bằng
cách ly tâm 4.500 rpm trong 10 phút, loại bỏ
môi trường RFTM. Phần thịt nghêu được phân
hủy bằng NaOH 2M ở 60oC trong 2-3 giờ. Sau
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
25