MỤC LỤC
TẠP CHÍ
NGHỀ CÁ
SƠNG CỬU LONG
Số 09 - Tháng 02/ 2017
___________
VIỆN NGHIÊN CỨU
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Giấy phép xuất bản
số 47/GP-BTTTT
cấp ngày 8/2/2013
Xuất bản hàng quý
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP:
Tổng biên tập:
TS. NGUYỄN VĂN SÁNG
Phó tổng biên tập:
TS. PHAN THANH LÂM
Thư ký tịa soạn:
ThS. HỒNG THỊ THỦY TIÊN
CÁC ỦY VIÊN:
* TS. LÊ HỒNG PHƯỚC
* TS. TRỊNH QUỐC TRỌNG
* ThS. NGUYỄN ĐINH HÙNG
* TS. NGUYỄN VĂN NGUYỆN
* TS. VŨ ANH TUẤN
* TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH
* TS. ĐẶNG TỐ VÂN CẦM
* ThS. NGUYỄN NHỨT
* ThS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG THẢO
Trình bày:
Nguyễn Hữu Khiêm
Tịa Soạn:
Viện Nghiên Cứu Ni Trồng
Thủy Sản II
116 Nguyễn Đình Chiểu,
Q.1, TP.HCM
ĐT: 08 3829 9592
Fax: 08 3822 6807
Email: ria2@ mard.gov.vn
In tại: Công ty In Liên Tường
240/59-61-63 Nguyễn Văn Luông
Quận 6, TP. HCM
Ảnh hưởng của 17α - methyltestosteron
lên chất lượng màu sắc của cá bảy màu (Poecilia
reticulata)
The effect of 17α - methyltesteosteron on the color
quality of guppies (Poecilia reticulata)
3-9
NGUYỄN THỊ KIM LIÊN, VŨ CẨM LƯƠNG
Sinh sản nhân tạo cá lăng vàng (Hemibagrus 10 - 18
nemurus Valenciennes, 1839) tại Đồng Tháp
Induced spawning of nemurus catfish
(Hemibagrus nemurus Valenciennes, 1839) in
Dong Thap province
NGUYỄN THỊ LONG CHÂU , MAI ĐÌNH BẢNG
Thực nghiệm ni thâm canh tơm sú (Penaeus 19 - 25
monodon) kết hợp cá nâu (Scatophagus argus) ở
các mật độ khác nhau
The intensive farming practice of black tiger shrimp
(Penaeus monodon) integrated with spotted scat
(Scatophagus argus) at different densities
HOÀNG THỊ THANH NGA, LÝ VĂN KHÁNH
Nghiên cứu vi khuẩn khơng thuộc nhóm vibrio 26 - 42
có khả năng kết hợp với vibrio parahaemolyticus
gây bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm thẻ chân
trắng ở Thái Lan
Study of non-vibrio bacteria as potential
associates of vibrio parahaemolyticus in causing
AHPND in white-leg shrimp in Thailand
TRƯƠNG HỒNG VIỆT, AJAREE NILAWONGSE, KALLAYA
SRITUNYALUCKSANA, TIMOTHY W. FLEGEL,
SIRIPONG THITAMADEE
Một số đặc điểm sinh học của vi khuẩn nitrate
hóa tuyển chọn và ứng dụng của nó trong nuôi
trồng thủy sản
Nitrifying bacteria and application in aquaculture
43-54
HOÀNG PHƯƠNG HÀ, ĐỖ THỊ TỐ UYÊN, ĐỖ THỊ LIÊN,
CUNG THỊ NGỌC MAI, VŨ NGỌC HUY,
NGUYỄN HỒNG THU, LÊ LỢI, LÊ THỊ NHI CÔNG
Sàng lọc vi khuẩn lactic có khả năng kháng
vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây bệnh
xuất huyết trên cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus)
Screening of latic acid bacteria for their
antimicrobial activity against Aeromonas
hydrophila causing hemorrhagic disease in tra
catfish (Pangasianodon hypophthalmus)
55-66
TRẦN THỊ NGỌC PHƯƠNG, ĐẶNG THỊ HOÀNG OANH
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
1
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Khảo sát hiện trạng thành phần loài thủy sản và
dự báo các ảnh hưởng của cơng trình ngăn mặn
đến nguồn lợi thủy sản Bắc Bến Tre
Survey of species composition and effect forecast
of salinity prevent irrigation to aquatic resources
at the northern of Ben Tre
67-77 Hiệu quả và các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa 108-118
NGUYỄN NGUYỄN DU, NGUYỄN VĂN PHỤNG,
VŨ VI AN, NGUYỄN VĂN TRỌNG
chọn đối tượng tôm nuôi thâm canh ở tỉnh
Bến Tre
Efficiencies and production factors which affect to
selection of shrimp species for intensive farming
model in Ben Tre province
NGUYỄN THỊ KIM QUYÊN, NGUYỄN NHẬT HỒI
Ảnh hưởng của gluten, tinh bột biến tính, bột 119-125
Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở 78-88 mì đến một số đặc tính của chả cá từ phụ phẩm
các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập
cá chẽm
mặn ven biển mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc
Effect of gluten, wheat flour, modified starch on
Trăng
quality, criteria of the fish cake which is made from
Diversity of gobiidae and eleotridae families at
barramundi by-product
different habitats in Mo O’s mangrove, Tran De
LÊ HUYỀN TRÂM, PHẠM THỊ HIỀN, PHẠM THỊ ĐAN
district, Soc Trang province
PHƯỢNG
TRANG LÂM NGÂN HÀ, TRẦN XUÂN LỢI
Ảnh hưởng của NH3 lên tăng trưởng, tỷ lệ sống, 126-136
Nghiên cứu thành phần loài cá ở 2 hồ chứa: hồ 89-99 và chất lượng của thịt cá tra (Pangasianodon
Tây và hồ Đắk R’tang thuộc tỉnh Đắk Nông
hypophthalmus)
Studying of fish species composition in 2 reservoirs
The effects of ammonia (NH3) on growth,
of tay and Dak rtangin Dak Nong province
survival, and meat quality of striped catfish
(Pangasianodon hypophthalmus)
ĐẶNG NGỌC HẢO, NGÔ THỊ THU HIỀN, LÊ THỊ TUYẾT MAI,
VÕ THỊ THANH NHÀNG, NGUYỄN VÕ THANH THÚY, TRẦN
VĂN PHƯỚC
NGUYỄN THỊ TRÚC LINH, TRƯƠNG QUỐC PHÚ, VÕ LÊ GIA
LINH, TRẦN THỊ NGỌC PHƯƠNG
100-107
Hiện trạng kỹ thuật và tài chính của mơ hình
ni cá chình (Anguilla marmorata) ở tỉnh
Cà Mau
Status of technical and economical aspects of
ell (Anguilla marmorata) pond culture in Camau
province
LÝ VĂN KHÁNH
2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ẢNH HƯỞNG CỦA 17α - METHYLTESTOSTERON LÊN CHẤT
LƯỢNG MÀU SẮC CỦA CÁ BẢY MÀU (Poecilia reticulata)
Nguyễn Thị Kim Liên1*, Vũ Cẩm Lương2
TÓM TẮT
Sản xuất cá bảy màu toàn đực đã được ứng dụng cho mục đích thương mại, tuy nhiên hiện chưa có
nghiên cứu báo cáo về chất lượng màu sắc của cá bảy màu đực được chuyển đổi giới tính. Nghiên
cứu này được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của 17α - Methyltestosteron (17α - MT) lên chất
lượng màu sắc của cá bảy màu (Poecilia reticulata). Trong nghiên cứu này, cá bảy màu mẹ đang
mang thai được cho ăn thức ăn có chứa 17α- MT với liều 300, 400 và 500 mg/kg thức ăn trong thời
gian từ 5 – 9 ngày trước khi đẻ. Kết quả sản xuất được 94,9 - 98,8% cá bảy màu đực, trong đó có
thể phân biệt được cá đực XX so với cá đực XY ở 90 ngày tuổi thơng qua kích thước thân và hình
dạng vây đuôi. Việc kiểm tra thêm cá đực XX được tiến hành qua giao phối với cá cái XX đã cho
kết quả 96,5% cá cái ở 90 ngày tuổi. Kết quả cũng chỉ ra rằng 17α – MT đã không thể cải thiện thêm
chất lượng màu sắc của cá đực XY so với cá XY đối chứng, trong khi chất lượng màu sắc của cá
đực XX được cải thiện tương đương với cá XY đối chứng ở phần thân nhưng kém đẹp hơn cá XY
đối chứng ở các vây lưng và đi.
Từ khóa: Cá bảy màu, 17α – Methyltestosteron, chất lượng màu sắc.
I. GIỚI THIỆU
Tại thành phố Hồ Chí Minh, cá cảnh được
xem là một trong những đối tượng nuôi chủ lực và
đã trở thành một ngành kinh doanh mang lại hiệu
quả kinh tế cao. Trong 9 tháng đầu năm 2013,
thành phố đã xuất khẩu hơn 7 triệu cá cảnh, lượng
cá cảnh xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm tăng đột
biến với mức hơn 32% so với cùng kỳ năm 2012
(Trung tâm tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh, 2012). Trong các lồi cá cảnh
xuất khẩu, cá cảnh nước ngọt có 60 lồi (chiếm
99%), trong đó sản lượng chủ yếu là cá Bảy màu
(Poecilia reticulata), dĩa (Symphysodon spp), ơng
tiên (Pterophyllum spp.), hịa lan (Xiphophorus
spp.), hồng kim (Xiphophorus hellerii Heckel,
1848), moly (Poecilia spp.)…. Riêng về số
lượng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, cá bảy màu
hiện đang đứng hàng đầu, với lượng xuất khẩu
hơn 2 triệu con/năm (Trung tâm tư vấn và hỗ trợ
Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 2012).
Cá bảy màu là một trong những loài cá cảnh
phổ biến nhất ở Việt Nam. So với cá cái, cá bảy
màu đực luôn được ưa chuộng và có lợi thế kinh
doanh vì có màu sắc vượt trội, cũng như có các
dạng vây đi và lưng thật đa dạng, đẹp mắt.
Nếu để cá sinh sản tự nhiên thì tỉ lệ cá đực và
cá cái trung bình là 1:1, điều này khơng có lợi
cho người ni và kinh doanh cá bảy màu vì
để nhận diện và loại cá cái thì phải ương ni
đến 90 ngày tuổi. Các nghiên cứu đực hóa cá
Bảy màu đã được nghiên cứu từ nhiều năm nay
(Pandian và Sheela, 1995; Dzwillo 1962; 1966)
tuy nhiên hiện vẫn chưa có nghiên cứu đánh giá
về chất lượng màu sắc của cá bảy màu sử dụng
17α - MT trong q trình đực hóa. Việc nghiên
cứu đánh giá ảnh hưởng của 17α - MT lên chất
lượng màu sắc của cá bảy màu có thể là gợi ý về
tính hiệu quả của giải pháp này.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Chọn cá bố mẹ cho sinh sản là cá có kiểu
hình da rắn vì những hoa văn và màu sắc nổi bật
của kiểu hình này có thể giúp nâng cao hiệu quả
đánh giá chất lượng màu sắc của cá con. Cá bố
mẹ được nuôi vỗ riêng đực cái một tháng trước
khi tiến hành sinh sản. Tỷ lệ cá bố mẹ cho sinh
sản được là 1:1, bố trí thành 12 bể kính kích
thước 0,5 x 0,5 x 0,3 m, mỗi bể bố trí một cặp
cá bố mẹ.
Thí nghiệm gồm có 4 nghiệm thức, mỗi
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh
Khoa thủy Sản- Trường Đại học Nơng Lâm TP. Hồ Chí Minh
*Email:
1
2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
3
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
nghiệm thức có 3 lần lặp lại. Các nghiệm thức
bao gồm: (1) thức ăn không trộn 17α – MT; (2)
thức ăn trộn 17α – MT với liều 300 mg/kg thức
ăn; (3) thức ăn trộn 17α – MT với liều 400 mg/
kg thức ăn; (4) thức ăn trộn 17α – MT với liều
500 mg/kg thức ăn.
Thức ăn cho cá mẹ mang thai có thành phần
gồm bột cá (10 g), cám gạo mịn (20 g) và lòng
đỏ trứng gà ḷc (2 trứng). Cá thí nghiệm được
cho ăn 3 lần/ngày với monia, trùn chỉ và thức ăn
viên, cho ăn vừa đủ, thay nước 1 lần/ngày với
lượng 50%/lần.
Thời điểm tiến hành cho cá mẹ mang thai
ăn thức ăn có chứa 17α - MT là từ 5 - 9 ngày
trước khi cá đẻ. Việc pha thêm hormone 17α MT dựa theo phương pháp pha trong cồn và cho
bốc hơi của Guerrero (1975).
Sau khi sinh sản, cá mẹ được tách khỏi cá
con, từng đàn cá con thuộc một mẹ được ni
riêng biệt trong thời gian ba tháng, sau đó tiến
hành đánh giá chất lượng màu sắc của cá thí
nghiệm bằng thang điểm ở Bảng 1. Người đánh
giá là những người am hiểu về cá cảnh nói
chung và có kinh nghiệm ni cá bảy màu nói
riêng, chọn 5 người để đánh giá độc lập.
Bảng 1. Thang điểm đánh giá chất lượng màu sắc cá Bảy màu
Thang điểm (điểm)
Độ đậm nhạt của màu sắc
Độ sắc nét của hoa văn
1
Nhạt
Nhạt
2
Nhạt
Vừa
3
Nhạt
Rõ
4
Trung bình
Nhạt
5
Trung bình
Vừa
6
Trung bình
Rõ
7
Đậm
Nhạt
8
Đậm
Vừa
9
Đậm
Rõ
* Thang điểm do chính cá nhân tự xây dựng để phục vụ cho nghiên cứu này. Điểm số màu sắc của
cá ở mỗi thí nghiệm là điểm trung bình cộng của 5 người tham gia đánh giá dựa theo thang điểm từ 1 - 9
điểm, 5 người tham gia đánh giá đã được chúng tôi hướng dẫn cụ thể trước khi cho điểm.
Số liệu thu thập sẽ được tính tốn bằng
phần mềm Excel và phân tích thống kê bằng
phương pháp ANOVA một yếu tố sử dụng phần
mềm thống kê Minitab 16. Sự khác nhau giữa
các nghiệm thức thí nghiệm được xác định bằng
trắc nghiệm Tukey với mức ý nghĩa 95% và trắc
nghiệm χ2.
III. KẾT QUẢ
3.1. Kết quả đực hóa cá bảy màu bằng
17α - MT
Với các liều 300, 400 và 500 mg/kg thức
4
ăn cho cá mẹ mang thai ăn từ 5 - 9 ngày trước
khi đẻ, tỉ lệ đực hóa ở thế hệ con quan sát sau
90 ngày tuổi được trình bày trong Bảng 2. Tỉ lệ
cá đực trung bình đạt 96,9%, so với tỉ lệ cá đực
đạt 47,6% ở nghiệm thức đối chứng (P < 0,05).
Trong các nghiệm thức cá ăn 17α - MT, kết quả
ghi nhận cá đực chia ra làm hai nhóm hình thái
khác biệt, nhóm có hình thái bên ngồi giống với
cá đực ở nghiệm thức đối chứng được giả định là
cá đực XY; nhóm cịn lại cá có vi đi khơng xịe
rộng trong khi kích thước thân lớn hơn cá đực
XY đới chứng, được giả định là cá đực XX.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 2. Tỉ lệ đực cái trong các thế hệ cá con khi cá mẹ được ăn 17α - Methyltestosteron
Liều 17α MT (mg/kg
thức ăn)
Số ngày cá
ăn
17α - MT
Tổng
số
0
0
0
5
8
9
6
7
9
8
5
7
21
35
30
27
36
39
34
37
28
27
31
32
0 (ĐC)
300
400
500
Cá con lúc thành thục
Cá đực
Cá
Tổng số
cái
XY
XX*
cá đực
11
10
0
10
18
17
0
17
16
14
0
14
2
13
12
25
1
18
17
35
2
20
17
37
0
17
17
34
2
17
18
35
1
14
13
27
1
14
12
26
0
16
15
31
0
15
17
32
Tỉ lệ
cá đực
(%)
47,6
48,6
46,7
92,6
97,2
94,9
100
94,6
96,4
96,3
100
100
Tỉ lệ cá đực
trung bình
(%)
47,6b± 1,0
94,9a± 2,3
97,0a± 2,8
98,8a± 2,1
Ghi chú: Các số liệu trên cùng 1 cột có chữ cái khác nhau là sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê
(P<0,05). XX* là cá đực XX giả định.
3.2. Tỉ lệ sống của cá được đực hóa ở 90
ngày t̉i
Tỉ lệ sống cá 90 ngày tuổi ở nghiệm thức xử
lý 17α - MT với liều 300 và 400 mg/kg thức ăn
là 96,3 và 95,8% còn tỷ lệ sống ở nghiệm thức
đối chứng là 94,5%, sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê. Nhưng ở nghiệm thức 500 mg/
kg thức ăn tỉ lệ sống cá là 79,3%, thấp hơn và
khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn
lại (P < 0,05).
Bảng 3. Tỉ lệ sống cá được đực hóa ở 90 ngày tuổi
Liều lượng 17α - MT
(mg/kg thức ăn)
0 (ĐC)
300
400
500
Tỉ lệ sống (%)
94,5a± 3,3
96,3a± 1,1
95,8a± 1,6
79,3b± 3,2
Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là giá trị
trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số
liệu trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện
sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
3.3. Nhận dạng cá đực XY, cá đực XX và
cá cái XX
Cá đực XY: Vi lưng và đuôi của cá đực dài,
trên thân và vây đi có màu sặc sỡ, thân thn
dài và có kích thước nhỏ hơn so vớicá cái XX.
Cá cái XX: Thân màu xám nâu, vây đi
màu hồng nhạt, thân hình ống trịn và có kích
thước lớn hơn so với cá đực XY.
Cá đực XX: Vây đi khơng xịe rộng và
kích thước thân lớn hơn cá đực XY ở nghiệm
thức đối chứng. So với cá cái XX thì cá đực XX
có da rắn xuất hiện trên thân.
Hình 1. Cá đực XX, cá đực XY và cá cái XX
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
5
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Để khẳng định tính chính xác khi lựa chọn
cá đực XX theo đặc điểm hình thái bên ngoài,
nghiên cứu đã cho phối với cá đực XX với cá
cái XX thì thế hệ con đạt 96,5% cá cái XX
(Bảng 4).
Bảng 4. Kết quả kiểm tra cá đực XX qua phép giao phối với cá cái XX
Cá con thành thục
Tổng số
Cá cái XX
Cá đực XX*
28
26
2
30
30
0
34
33
1
26
25
1
32
32
0
28
27
1
38
37
1
37
35
2
28
26
2
39
38
1
320
309
11
Trung bình
STT bầy
cá con
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Tổng số
Tỉ lệ % cá cái
χ2
92,9 ± 4,9
100,0 ± 0,0
97,1 ± 2,9
96,2 ± 3,8
100,0 ± 0,0
96,4 ± 3,5
97,4 ± 2,6
94,6 ± 3,7
92,9 ± 4,9
97,4 ± 2,5
20,6
30,0
30,1
22,2
32,0
24,1
34,1
29,4
20,6
35,1
96,5 ± 2,5
Ghi chú: XX* là cá đực XX giả định
3.4. Chất lượng màu sắc của cá đực XX
so với cá đực XY
Dựa vào độ đậm nhạt của màu sắc và độ sắc
nét của hoa văn trên thân và đuôi cá (xem thang
điểm ở phần phương pháp nghiên cứu), nghiên
cứu đã tiến hành đánh giá chất lượng màu sắc
của cá bảy màu đực XX so với cá đực XY ở
nghiệm thức đối chứng. Kết quả ở Bảng 5 cho
thấy, điểm số màu sắc trên thân cá ở các nghiệm
thức khơng có sự khác biệt về thống kê (P >
0,05). Cá đực XX dưới tác dụng của 17α - MT
có màu sắc và hoa văn trên thân khá giống cá
đực XY bình thường. Với các liều 17α - MT
khác nhau thì điểm số màu sắc trên thân và đi
cá cũng khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê,
điều này chứng minh ở liều 300 mg/kg đủ để cá
thể hiện màu sắc. Tuy nhiên, màu sắc trên vây
đuôi và vây lưng của cá đực XX so với cá đực
XY thì khác biệt có ý nghĩa thống kê. Vây đi
cá đực XX có đường nét hoa văn không rõ so
với cá đực XY.
Bảng 5. Đánh giá chất lượng màu sắc của cá đực XX so với cá đực XY
Nghiệm thức
Cá đực XX
Cá đực XY
Liều lượng 17α - MT
(mg/kg)
Điểm số màu sắc trên
thân cá
Điểm số màu sắc trên vây
lưng và vây đuôi cá
300
8,1a ± 0,1
7,1b ± 0,1
400
8,2a ± 0,1
7,1b ± 0,1
500
8,0a ± 0,1
7,1b ± 0,1
0 (ĐC)
8,1a ± 0,1
8,0a ± 0,1
Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
6
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 2. Cá đực XX so với cá đực XY
Hình 3. Cá đực XX ở các liều 17α - MT khác nhau
3.5. Chất lượng màu sắc của cá đực XY
ở nghiệm thức xử lý 17α – MT so với cá đực
XY đối chứng
Điểm số màu sắc của cá đực XY được sinh
ra từ cá mẹ ăn 17α - MT khác biệt không có ý
nghĩa thống kê so với cá đực XY ở nghiệm thức
đối chứng. Điều này có thể do, bản thân cá đực
XY đã mang nhiễm sắc thể giới tính Y mà tất
cả các gen màu trên Y đều trội (Kirpichnikov,
1987). Những cá đực XY có màu sắc được biểu
hiện rõ bởi những gen quy định màu sắc trên
nhiễm sắc thể Y. Do vậy, dưới tác dụng của 17α
- MT, thì chất lượng màu sắc của cá đực XY
khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 6. Điểm số màu sắc của cá đực XY ở nghiệm thức xử lý 17α - MT so với cá đực XY đối chứng
Nghiệm thức
Cá đực XY (17α - MT)
Cá đực XY (Đối chứng)
Điểm số màu sắc
8,3a± 0,1
8,1a± 0,1
Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
3.6. Chất lượng màu sắc của cá đực XX
so với cá cái XX
Kết quả ghi nhận qua Bảng 7 thể hiện điểm
số màu sắc ở cá đực XX cao hơn và khác biệt có
ý nghĩa với cá cái XX (P < 0,05).
Bảng 7. Điểm số màu sắc cá đực XX so với cá cái XX
Nghiệm thức
Cá đực XX
Cá cái XX (đối chứng)
Điểm số màu sắc trên vây
lưng và vây đuôi
7,1a± 0,1
4,2b± 0,1
Điểm số màu sắc trên thân cá
8,2a± 0,1
1,0b± 0,0
Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
7
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
IV. THẢO LUẬN
Kết quả tỉ lệ sống cá 90 ngày tuổi ở nghiệm
thức xử lý 17α - MT (với 3 mức nồng độ 300,
400 và 500 mg/kg) cho thấy phương pháp cho
cá mẹ ăn 17α - MT ở liều 500 mg/kg có thể đã
ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá con. Kết quả
này có phần tương đồng với kết quả nghiên cứu
của Kavumpurath và Pandian (1992) khi dùng
Ethynylestradiol để cái hóa cá bảy màu với liều
500 mg/kg thức ăn thì tỉ lệ trung bình cá chết là
67,4%, có trường hợp toàn bộ cá con chết sau
khi được sinh ra.
Nhiễm sắc thể định đoạt giới tính ở cá bảy
màu là XY (Winge, 1992; Winge và Ditlevsen,
1947 qua Fernando và Phang, 1989). Nét độc
đáo ở loài cá này là sự tập trung đa số các gen
màu sắc, gen cấu tạo vi trên các nhiễm sắc thể
giới tính: 19 gen màu ln ln liên kết với
nhiễm sắc thể Y và trên 16 gen với nhiễm sắc
thể X và Y. Tất cả các gen trên Y đều trội, các
gen trội màu sắc ở cá cái không hoạt động vì sự
biểu hiện của các gen màu sắc được kiểm soát
bởi các hormon sinh dục đực (Kirpichnikov,
1987). Dzwillo (1962, 1966); Haskins và ctv
(1970) cho rằng việc thêm testosteron vào nước
hoặc thức ăn cho phép tạo ra những con đực
XX với những gen màu sắc được biểu hiện. Kết
luận này đã được khẳng định lại trong kết quả
thí nghiệm. Những cá bảy màu đực XX được
sinh ra từ cá mẹ mang thai ăn thức ăn có trộn
17α - MT trong thời gian 5 - 9 ngày trước khi đẻ
thì 17α - MT có tác dụng làm tăng chất lượng
màu sắc và xuất hiện tính trạng da rắn trên cá
đực XX (Bảng 5).
Theo kết quả nghiên cứu của Fernando và
Phang (1989; 1990) thì tính trạng da rắn (hoa
văn trên thân) ở cá là do gen trội nằm trên nhiễm
sắc thể Y qui định (gen Ssb), tính trạng da rắn
ở đi cũng do gen trội nằm trên nhiễm sắc
thể Y qui định (gen Sst). Theo dõi q trình thí
nghiệm, cá bảy màu đực có tính trạng da rắn ở
thân và đi, cá bảy màu cái thì khơng có tính
trạng này, chỉ có màu sắc thể hiện ở vây đi.
Quan sát thí nghiệm chúng tôi ghi nhận, cá đực
XX được tạo ra từ cá XX di truyền ăn 17α - MT
thì màu sắc và tính trạng da rắn trên thân đã biểu
hiện. Điều này có thể do tính trạng da rắn này
8
được biểu hiện khi có tác dụng của androgen
nội và ngoại sinh. Bình thường tính trạng này
chỉ xuất hiện ở cá đực, con cái khơng có. Cá
cái XX có thể cũng có gen Ssb tuy nhiên chúng
khơng biểu hiện được vì khơng có androgen
kích thích. Theo Kirpichnikov (1987) cho rằng,
tất cả các gen màu trên Y đều trội, các gen trội
màu sắc ở cá cái không hoạt động vì sự biểu
hiện của các gen màu sắc được kiểm soát bởi
hormon sinh dục đực. Vì thế những cá đực XX
tạo ra từ cá mẹ ăn 17α - MT trong một thời gian
thì tính trạng này được biểu hiện. Kết quả ghi
nhận qua Bảng 7 thể hiện điểm số màu sắc ở cá
đực XX cao hơn và khác biệt có ý nghĩa với cá
cái XX (P < 0,05).
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Cá cái XX mang thai ăn 17α - MT với liều
300 - 500 mg/kg thức ăn trong thời gian 5 - 9
ngày trước khi cá đẻ có thể sản xuất được tỷ lệ
94,9-98,8% cá bảy màu đực. Có thể phân biệt
được cá đực XX so với cá đực XY ở 90 ngày
tuổi thơng qua kích thước thân và hình dạng vây
đi. Việc kiểm tra thêm cá đực XX được tiến
hành qua giao phối với cá cái XX đã cho kết quả
96,5% cá cái ở 90 ngày tuổi. Kết quả cũng chỉ ra
rằng 17α – MT đã không thể cải thiện thêm chất
lượng màu sắc của cá đực XY so với cá đực XY
đối chứng, trong khi chất lượng màu sắc của cá
đực XX được cải thiện tương đương với cá XY
đối chứng ở phần thân nhưng kém đẹp hơn cá
XY đối chứng ở các vây lưng và đuôi.
Việc tạo cá bảy màu toàn đực bằng17α MT đã chưa thể tạo được cá đực XX đẹp tương
đương cá đực XY. Đề nghị nên có hướng nghiên
cứu tạo cá siêu đực YY và cho giao phối cá siêu
đực YY với cá cái XX để tạo ra 100% cá đực
XY cung cấp cho thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trung tâm tư vấn và hỗ trợ nơng nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh, 2012. Xuất khẩu cá cảnh
thành phố Hồ Chí Minh, tiềm năng cơ hội và
thách thức
Dzwillo M., 1962. Uber kiinstliche Erzeugung
funktioneller Mannchen weiblichen
Genotyps bei Lebiates reticuzatus. Bioz. zentrazbz.
81: 575 - 584.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Dzwillo M., 1966. Uber den Einfluss von
Methyltestosteron auf primare und sekundare
Geschlechtsmerkmale wahrend verschiedener
phasen der embryonal - entwickiung von lebiates
reticuzatus. Zooz. Anz., Suppl. 29: 471 - 476.
Fernando A.A. and Phang V.P.E., 1990. Inheritance
of red and blue caudal fin colourations in two
domesticated varieties of the guppy, Poecilia
reticulata. J. Aqua. Trop. 5: 209 - 217.
Fernando A.A. and Phang V.P.E., 1989. X - linked
inheritance of red and blue tail colourations of
domesticated varieties of the guppy, Poecilia
reticulate and its implications to the farmer.
Singapore J. Pri. Ind. 17 (1): 19 - 28.
Guerrero R.D., 1975. Use of androgens for the
production of all male Tilapia aurea. Trans.
Am. Fish. Soc. 104: 342 - 348.
Haskins C.P., Young P., Hewitt R.E. and Haskins
E.F., 1970. Stabilizer heterozygosis of
supergenes mediating certain Y - linked colour
patterns in population of Lebistes reticulatus.
Heredity, Vol. 25: 575 - 589.
Kavumpurath S. and Pandian T.J., 1992.
Production of YY male in the Guppy poecilia
reticulata by Endocrine sex reversal and
progeny testing asi. Fish sci 5: 265 - 276.
Kirpichnikov V.S., 1987. Di truyền và chọn giống
cá (Nguyễn Tường Anh dịch) Nxb Lêningrad,
98 - 129.
Pandian T.J. and Sheela S.G., 1995. Hormnal
Induction Of Sex Reversal. In Fish Aquaculture
138: 1 – 22
THE EFFECT OF 17α - METHYLTESTEOSTERON ON THE
COLOR QUALITY OF GUPPIES (Poecilia reticulata)
Nguyen Thi Kim Lien1*, Vu Cam Luong2
ABSTRACT
Sex-reversal was applied for guppies fish to produce all male guppies for trading purpose. However, the color quality of sex-reversal male guppies was not reported. This study was conducted to
evaluate the effects of17α - Methyltestosteron (17α - MT) on the color quality of guppies (Poecilia
reticulata). In this study,17α – MT was used by the feeding method for gravid females with dose
of 300, 400 and 500 mg/kg feed during 5-9 days prior to parturition.The 17α - MT can produce
94.9-98.8% male phenotype guppies, in which the 90-day-old XX male can be distinguished with
XY male throughout the body size and caudal fin shape. Further test of XX male by mating with
XX female resulting 96.5% of 90-day-old female guppy. The results also showed that the 17α - MT
can not improve the color quality of XY male guppies comparing with original XY male, while the
color quality of XX male guppies was similar with original XY male at the body and less than with
the original XY male at the dorsal and caudal fins.
Keywords: Guppy,17α – Methyltestosteron, color quality.
Người phản biện: ThS. Nguyễn Thanh Vũ
Ngày nhận bài: 25/11/2016
Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016
Ngày duyệt đăng: 05/01/2017
Research and Development Center for High Technology Agriculture, HCMC
Faculty of Fisheries, Nong Lam University
*Email:
1
2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
9
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ LĂNG VÀNG
(Hemibagrus nemurus Valenciennes, 1839) TẠI ĐỒNG THÁP
Nguyễn Thị Long Châu1*, Mai Đình Bảng2
TĨM TẮT
Nghiên cứu sinh sản cá lăng vàng được thực hiện tại trại thực nghiệm Trường Cao đẳng cộng đồng
Đồng Tháp và Trường trung cấp nghề - giáo dục thường xuyên Hồng Ngự trong hai năm 2015 và
2016. Cá bố mẹ được thu gom từ tự nhiên khu vực Đồng Tháp. Để kích thích sinh sản cá, 2 loại
hormon được sử dụng là HCG và LRHa + DOM. Kết quả cho thấy, thời gian hiệu ứng kích dục tố
dao động từ 344,33 – 458,33 phút. Sức sinh sản thực tế cao nhất là 36.125,67 trứng/kg ở nghiệm
thức sử dụng (150µg + 5mg) LRHa + DOM. Trứng cá sau khi thụ tinh được chuyển sang bình weys
để ấp nở, nhiệt độ trong bể ấp được duy trì ổn định trong khoảng 28 – 300C nhờ hệ thống gia nhiệt
tự động. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở cao nhất đạt 67,28% và 77,63%. Thời gian phát triển phôi cho đến
khi cá nở là 18 giờ 26 phút. Cá sau khi nở được chuyển sang bể composite thể tích 4m3 để ương,
mật độ ương là 10.000 con/m3. Thức ăn trong 6 ngày đầu là Moina, từ ngày thứ 7 trở đi tập cho cá
ăn thức ăn công nghiệp 40% đạm. Sau 30 ngày ương cá đạt chiều dài là (28,6 – 30,5) mm và trọng
lượng tương ứng là (0,26 – 0,32) g. Tỷ lệ sống của q trình ương cá đạt (65,72 – 76,51)%.
Từ khóa: Cá lăng vàng, sinh sản nhân tạo, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở.
I. GIỚI THIỆU
Cá lăng vàng (Hemibagrus nemurus)
là một trong những lồi thuộc họ cá lăng
Hemibagrus đang được ni và mang lại hiệu
quả kinh tế cao cho nghề nuôi cá nước ngọt
(Bùi Anh Tuấn và Nguyễn Tường Anh, 2011).
Cá được ni trong ao đất hoặc ni trong lồng,
có thể nuôi bán thâm canh hoặc thâm canh ở
nhiều địa phương trong cả nước (http://www.
thuysanvietnam.com.vn). Những nghiên cứu về
sinh sản nhân tạo cá lăng vàng được ghi nhận từ
những năm 2003 (Ngô Văn Ngọc và Bùi Minh
Phụng, 2003). Năm 2006, tài liệu kỹ thuật sản
xuất giống và nuôi cá lăng nha, cá lăng vàng
của Nguyễn Chung được xuất bản bởi nhà xuất
bản nông nghiệp. Đến năm 2011, Bùi Anh Tuấn
và Nguyễn Tường Anh sử dụng 3 phương thức
dùng hormone khác nhau để kích thích sinh sản
cá lăng vàng. Nhìn chung, các tác giả đều đưa ra
được những kết quả tốt để áp dụng vào thực tiễn
sản xuất giống. Hiện nay, do sự thay đổi cơ cấu
về giống lồi ni, nhu cầu con giống cá lăng
vàng phục vụ cho nghề nuôi cá thương phẩm
ngày càng lên cao. Do đó nghiên cứu “Sinh sản
nhân tạo cá lăng vàng (Hemibagrus nemurus)
tại Đồng Tháp” đã được thực hiện.
Mục tiêu:
- Nâng cao tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở của cá
lăng vàng.
- Cung cấp một lượng cá lăng giống cho
người nuôi cá lăng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Thời gian và địa điểm
- Thời gian thực hiện: từ tháng 10 năm 2015
đến tháng 10 năm 2016.
- Địa điểm thực hiện: Trại thực nghiệm
Trường Cao đẳng cộng đồng Đồng Tháp và
Trường Trung Cấp Nghề - Giáo dục thường
xuyên Hồng Ngự.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Nguồn cá bố mẹ
Cá bố mẹ được thu gom từ tự nhiên ở khu
vực Đồng Tháp, cá có khối lượng từ 270 - 480
g/con. Tổng khối lượng cá bố mẹ là 40 kg. Thời
Trường Cao đẳng cộng đồng Đồng Tháp.
Trường Trung cấp nghề - giáo dục thường xun Hồng Ngự.
*
Email:
1
2
10
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
điểm thu gom cá trùng với thời điểm cá sinh
sản ngoài tự nhiên. Sau đó, cá được đưa về ni
thuần dưỡng trong bể composite trong vòng 2
tuần trước khi được đưa vào tham gia sinh sản.
Trong q trình ni thuần dưỡng cá được cho
ăn thức ăn là cá tạp băm nhỏ, cho ăn theo nhu
cầu, ngày cho ăn một lần. Hàng ngày tiến hành
siphon thay nước, lượng nước thay khoảng 20%.
Hình 1: Cá lăng bố mẹ
2.2.2. Thí nghiệm sinh sản nhân tạo cá lăng
* Chọn cá bố mẹ cho sinh sản
- Cá cái: Cá khỏe mạnh khơng bị xây xát,
khơng thương tật, có phần bụng dưới to, mềm
đều, biểu hiện da bụng mỏng, lỗ sinh dục sưng
và ửng hồng.
- Cá đực: Thân thon dài, khỏe mạnh, không
bị xây xát, thương tật, gai sinh dục dài và ửng
màu trắng hồng ở đầu mút, có nhiều mạch máu
vùng da bụng.
Hình 2: Buồng trứng và buồng sẹ cá lăng
* Tiêm kích dục tố cho cá sinh sản:
Cá lăng được kích tích sinh sản bằng 2 loại
kích dục tố là HCG và LRHa + DOM được thể
hiện cụ thể qua bảng dưới đây.
Bảng 1: Bố trí thí nghiệm tiêm kích dục tố cho cá sinh sản
Loại kích dục tố
HCG (UI/kg cá cái)
LRHa + DOM (µg + mg)
Liều lượng
Liều sơ bộ
200
200
200
30
30
30
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
Liều quyết định
3000
4000
5000
100 + 5
120 + 5
150 + 5
11
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Mỗi nồng độ của mỗi loại hormone dùng
trong thí nghiệm được lặp lại 3 lần, mỗi lần sử
dụng 4 cặp cá bố mẹ.
Cá cái được tiêm 2 liều, thời gian cách nhau
giữa liều sơ bộ và liều quyết định là 10 giờ. Cá
đực tiêm 1 liều bằng 1/3 liều quyết định của cá
cái. Sau khi tiêm xong, cá được chuyển sang bể
composite để chứa.
Hình 3: Tiêm cá
Sau khi tiêm liều quyết định 6 giờ, cá có
dấu hiệu sinh sản (bụng mềm, khi lật ngược cá
lên bụng chảy qua hai bên) tiến hành kiểm tra
sự rụng trứng bằng cách vuốt nhẹ bụng cá, thấy
trứng chảy ra chứng tỏ trứng đã rụng. Sau đó
tiến hành vuốt trứng theo hướng từ đầu xuống
bụng và dùng thau để chứa trứng. Đồng thời,
tiến hành mổ cá đực lấy buồng sẹ (hình lược,
dọc xương sống) rửa bằng nước cất, lau sạch,
dung kéo cắt nhỏ và dùng cối nghiền. Sau đó
tiến hành gieo tinh nhân tạo.
Hình 4: Vuốt trứng cá lăng
Trứng sau khi được thụ tinh nhân tạo thì
được khử dính bằng dung dịch Tanin 0,1%.
* Ấp trứng:
Trứng sau khi khử dính được chuyển sang
hệ thống bình Weys để ấp nở. Mật độ ấp nở là
100.000 trứng / bình (thể tích mỗi bình là 10L).
Tổng số trứng ấp nở là 1,5kg.
Hệ thống sử dụng trong thí nghiệm của
chúng tơi là hệ thống bình weys có gia nhiệt
nhằm nâng cao tỷ lệ nở của cá bột. Sơ đồ bố trí
12
của hệ thống này được mô phỏng như sau:
Nhiệt độ trong bể ấp được duy trì trong
khoảng 28 – 300C nhờ bộ điều khiển nhiệt độ tự
động. Thiết bị này có hiển thị nhiệt độ hiện tại
trong bể ấp và các nút điều khiển nhiệt độ trong
khoảng thích hợp cho sự phát triển của phôi cá.
Khi nhiệt độ tăng cao hơn mức cài đặt thì máy
nước nóng sẽ ngưng hoạt động và khi nhiệt độ
xuống thấp dưới mức cài đặt thì máy nước nóng
sẽ hoạt động trở lại để cung cấp nhiệt độ cho
bể ấp.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 5: Cấu tạo mơ hình hệ thống bình Weys ấp nở trứng cá có gia nhiệt
2.2.3. Ương cá lăng bột
Cá được ương trong bể composite thể tích
4m , mật độ ương là 10.000 con/m3. Bể trước
khi ương được vệ sinh sạch sẽ. Cấp khoảng 0,8
– 1m nước, sau đó bố trí cá bột vào ương.
3
Sau khi cá hết nỗn hồng thì cấp trứng
nước vào bể ương, lượng trứng nước duy trì
khoảng 5 con/mL, nếu kiểm tra thấy ít thì cấp bổ
sung. Từ ngày thứ 7 bắt đầu tập cho cá ăn thức
ăn cơng nghiệp dạng bột, có độ đạm là 40%.
Đến ngày thứ 10 thì cá chuyển sang ăn thức ăn
cơng nghiệp hồn tồn.
Trong q trình ương từ ngày thứ 9 trở đi
cá có sự phân đàn, tiến hành phân cỡ định kỳ 1
tuần/lần.
Đến ngày 30 thì tiến hành thu hoạch, xác
định tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng của cá.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu ở các thí nghiệm được tính toán
giá trị trung bình, đợ lệch chuẩn bằng chương
trình phần mềm Excel 2003 và SPSS 16.0. So
sánh giá trị trung bình giữa các nghiệm thức dựa
vào phân tích ANOVA và phép thử DUNCAN ở
mức ý nghĩa p<0,05.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả sinh sản nhân tạo
Cá bố mẹ sau khi nuôi thuần dưỡng 2 tuần
được tiến hành kiểm tra mức độ thành thục
trước khi đưa vào sinh sản nhân tạo.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
13
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 6: Cá cái và buồng trứng
Tiến hành mổ một số cá cái có khối lượng
từ 310 – 450g để thu buồng trứng, xác định một
số chỉ tiêu sinh sản. Các chỉ tiêu thu thập được
thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2: Một số chỉ tiêu sinh sản
Chỉ tiêu
Kết quả
Tỷ lệ thành thục
88,7%
Hệ số thành thục
26,7%
Sức sinh sản tuyệt đối
32.750 trứng
Sức sinh sản tương đối 93.324 trứng/kg cá cái
Qua bảng trên ta thấy cá lăng vào mùa sinh
sản đạt tỷ lệ thành thục khá cao (90%) với hệ
số thành thục là 26,7%. Kết quả này cao hơn
so với kết quả của Ngô Văn Ngọc (2003) hệ số
thành thục của cá lăng vàng là 20,8 – 25%. Có
thể giải thích cho sự khác biệt này có thể do cá
tự nhiên thành thục tốt hơn so với cá nuôi vỗ
trong ao đất. Kết quả này cũng cao hơn cá lăng
nha khi hệ số thành thục của lồi này chỉ là 3,6
– 8,5% (Ngơ Văn Ngọc, 2003). Ngun nhân
là cá lăng vàng có kích thước nhỏ nhưng khối
lượng buồng trứng lớn.
Sức sinh sản của cá lăng vàng rất cao so với
các lồi cá da trơn khác vì chúng có hệ số thành
thục cao và kích thước trứng khá nhỏ, đường
kính trứng chín từ 1,17 - 1,32mm (Bộ thủy sản,
2005). Sức sinh sản tương đối và tuyệt đối của
cá lăng vàng kích thước 310 – 450g theo ghi
nhận của chúng tôi lần lượt là 93.324 trứng/
kg cá cái và 32.750 trứng. Theo Bộ thủy sản
(2005), sức sinh sản tuyệt đối của cá cái có khối
lượng 774,4 g là 39.079 trứng, kết quả này cao
hơn ghi nhận của chúng tơi có thể do sự khác
biệt về kích cỡ cá thí nghiệm.
Kích thích sinh sản nhân tạo cá lăng vàng
bằng 2 loại hormone là HCG và LRHa + DOM
kết quả được thể hiện theo bảng sau:
Bảng 3: Kết quả kích thích sinh sản cá lăng vàng
Nghiệm thức
HCG (UI/Kg)
LRHa+DOM
(µg + mg)/kg
3000
4000
5000
100 + 5
120 + 5
150 + 5
Thiệu ứng
(phút)
SSS thực tế
(trứng/kg)
Tỷ lệ thụ
tinh (%)
Tỷ lệ nở
(%)
352,33a
344,33a
351,67a
453,33b
452,33b
458,33b
25.469,67a
25.442,33a
25.818,33a
35.968,67b
35.933,67b
36.125,67b
66,22a
65,83a
67,28a
66,49a
67,13a
66,22a
77,63a
77,48a
76,85a
76,79a
75,57a
76,52a
Tỷ lệ sống
hết nỗn
hồng (%)
95,81a
96,16a
96,72a
94,15a
95,44a
96,25a
Ghi chú: Số liệu trong cùng một cột có ký hiệu mũ khác nhau thể hiện khác biệt có ý nghĩa (p<0,05)
14
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Từ kết quả trên ta thấy, đối với thời gian
hiệu ứng kích dục tố trong các nghiệm thức
kích thích cá lăng vàng sinh sản cùng một loại
kích dục tố thì khơng có sự khác biệt giữa các
nồng độ tiêm khác nhau (p>0,05). Tuy nhiên
có sự khác biệt giữa 2 loại kích dục tố, các
nghiệm thức sử dụng HCG có thời gian hiệu
ứng ngắn hơn so với nghiệm thức sử dụng
LRHa + DOM (p<0,05). Kết quả này có sự đối
nghịch so với kết quả trong nghiên cứu của Bùi
Thanh Tuấn và Nguyễn Tường Anh (2011),
nhưng loại tương đồng với kết quả của Vũ Thị
Hậu (2007). Có thể thời gian và địa điểm bố
trí thí nghiệm cũng như liều lượng kích dục tố
khác nhau sẽ ảnh hưởng đến thời gian hiệu ứng
kích dục tố.
Sức sinh sản thực tế của cá lăng vàng
trong thí nghiệm này dao động từ 25.442,33 –
36.125,67 trứng/kg, kết quả này cũng tương tự
với kết quả được Bộ thủy sản (2005) công bố
(sức sinh sản thực tế là 20.841 trứng/kg (cá cỡ
327 g) và 87.110 trứng/kg (cá nặng 1,589 kg).
Khơng có sự khác biệt giữa các nghiệm thức sử
dụng cùng loại hormone (p>0,05), nhưng lại có
sự khác biệt khi sử dụng các loại hormone khác
nhau, các nghiệm thức sử dụng LRHa+DOM
để kích thích sinh sản cá lăng vàng cho kết quả
sức sinh sản thực tế cao hơn (p<0,05), kết quả
này cũng tương tự nhận định của Bùi Thanh
Tuấn và Nguyễn Tường Anh (2011). Trong
nghiên cứu của Bùi Thanh Tuấn và Nguyễn
Tường Anh (2011), nhóm tác giả này cho
rằng các nghiệm thức sử dụng HCG có sức
sinh sản thực tế thấp (21.124,67 – 24.182,33
trứng /kg) điều này cũng được khẳng định lại
trong nghiên cứu này, khi sức sinh sản thực
tế cao nhất ở nghiệm thức sử dụng HCG đạt
được là 25.818,33 trứng/kg với nồng độ kích
dục tố là 5.000 UI/kg cá cái. Đối với nghiệm
thức sử dụng LRHa+DOM, sức sinh sản thực
tế dao động trong khoảng 35.933,67 trứng/kg
đến 36.125,67 trứng/kg, kết quả này thấp hơn
kết quả mà nhóm tác giả Bùi Thanh Tuấn và
Nguyễn Tường Anh (2011) công bố khi cho
cá lăng vàng đẻ chính vụ (46.189 – 47.325,67
trứng/kg) nhưng lại cao hơn so với kết quả của
Vũ Thị Hậu (2007) (21.156 - 24.200 trứng/kg).
Như vậy, có thể thấy rằng sức sinh sản thực tế
của cá lăng ngoài việc khác nhau do loại và
liều lượng kích dục tố cịn phụ thuộc vào thời
điểm cho sinh sản và nguồn gốc cá bố mẹ.
Trong khi đó, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ
sống cho đến khi cá hết nỗn hồng đều khơng
có sự khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05).
Tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ sống cho đến khi
cá hết nỗn hồng cao nhất lần lượt là 67,28%,
77,48% và 96,72%. Kết quả này cao hơn nhiều
so với các kết quả mà nhóm tác giả Bùi Thanh
Tuấn và Nguyễn Tường Anh (2011), Vũ Thị
Hậu (2007) tìm ra. Sự khác biệt về tỷ lệ thụ
tinh so với các nghiên cứu trước có thể do cá
được tuyển chọn từ nguồn cá tự nhiên có trải
qua q trình ni thuần dưỡng trước khi cho
đẻ hai tuần, trước khi tiến hành sinh sản được
tuyển chọn rất kỹ càng, cá bố mẹ thành thục
tốt, chất lượng buồng trứng và buồng sẹ cao
do đó tỷ lệ thụ tinh được cải thiện đáng kể. Sự
khác biệt về tỷ lệ nở có thể đến từ việc cải tiến
quy trình kỹ thuật ấp trứng trong bình Weys
có hệ thống gia nhiệt tự động, nhiệt độ trong
bể ấp được duy trì ổn định và tối ưu cho sự
phát triển của phôi. Theo Nguyễn Văn Kiểm và
Phạm Minh Thành (2009) thì nhiệt độ làm ảnh
hưởng đến thời gian nở, tỷ lệ nở của trứng và
tỉ lệ dị hình của cá bột. Nhiệt độ thích hợp cho
q trình phát triển phơi của những lồi cá có
xuất xứ ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long là
27 – 310C (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn
Kiểm, 2009). Như vậy, khi ấp nở trứng cá lăng
vàng trong hệ thống bình Weys có hệ thống gia
nhiệt tự động giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ nở và
tỷ lệ sống của cá bột.
3.2. Quá trình phát triển phôi của cá lăng
Thời gian phát triển phôi của cá lăng vàng
đến lúc trứng nở là phút ở điều kiện nhiệt độ
nước là 28 - 300C là 18 giờ 26 phút và được thể
hiện ở hình 7.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
15
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Phơi cá sau 10 phút
Phôi cá sau 20 phút
Phôi cá sau 0,5 giờ
Phôi cá sau 2 giờ
Phôi cá sau 8 giờ
Phôi cá sau 10 giờ
Phôi cá sau 12 giờ
Phôi cá sau 14 giờ
Phôi cá sau 16 giờ
Cá nở sau 18 giờ 26 phút
Hình 7: Q trình phát triển phơi của cá lăng vàng
Kết quả tương tự cũng được ghi nhận bởi
Ngô Văn Ngọc (2004) khi tác giả này cho rằng
thời gian nở của cá lăng vàng từ 28 ÷ 32 giờ
tính từ lúc trứng được thụ tinh. Trong điều kiện
ấp trứng bằng bình Weys thời gian phát triển
phơi kéo dài từ 18 ÷ 20 giờ. Một số loài khác
như cá mè trắng và cá trôi Ấn Độ thời gian
phát triển phôi cũng tương tự (16 – 18 giờ và
14 – 16 giờ) (Phạm Minh Thành và Nguyễn
Văn Kiểm, 2009).
Qua kết quả này ta thấy rằng, thời gian phát
triển phôi của cá lăng vàng ngắn hơn so với một
số loài cá khác. Theo Đỗ Minh Tri (2008) thời
gian phát triển phôi của cá hú ở điều kiện nhiệt
độ nước 28 – 290C là 26 – 28 giờ. Ở điều kiện
nhiệt độ 28 – 290C thời gian phát triển phôi của
cá chép là 36 – 38 giờ; cá trê là 26 – 28 giờ (Phạm
Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Như
vậy thời gian phát triển phơi của cá sẽ phụ thuộc
vào lồi và nhiệt độ nước trong bể ấp.
16
3.3. Kết quả ương cá lăng.
Cá được ương trong bể composite thể tích
4m , mật độ ương là 10.000 con/m3. Bể trước
khi ương được vệ sinh sạch sẽ. Cấp khoảng 0,8
– 1m nước, sau đó bố trí cá bột vào ương. Tổng
số bể ương là 2 bể, đến ngày thứ 9 tiến hành san
thưa kết hợp với phân cỡ cá. Các yếu tố môi
trường được theo dõi trong suốt q trình thí
nghiệm và được thể hiện qua bảng 3.
Bảng 4: Chỉ tiêu chỉ tiêu chất lượng nước
của bể ương.
3
Yếu tố thủy lý hóa
Nhiệt độ (0C)
NH3 (mg/L)
pH
DO (mg/L)
Biên độ dao động
27 – 30
0 – 0,003
6,5 – 8
3,5 – 6
Nhìn chung các yếu tố mơi trường dao động
khơng đáng kể và đều nằm trong khoảng thích
hợp cho sự phát triển của cá bột.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Trong q trình ương cá bắt mồi tốt, sau
những ngày đầu sử dụng thức ăn tự nhiên đến
ngày thứ 7 cá đã bắt đầu sử dụng được thức ăn
Cá bột 10 ngày tuổi
Với thức ăn ở ống tiêu hóa
Hình 8: Cá bột 10 ngày tuổi
Sau thời gian ương 30 ngày tuổi tiến hành
thu hoạch và xác định các chỉ tiêu sản xuất. Kết
quả được thể hiện trong bảng 4 dưới đây.
Bảng 5: Kết quả quá trình ương cá lăng vàng.
Chỉ tiêu
Chiều dài (mm)
Trọng lượng (g)
Tỷ lệ sống (%)
công nghiệp và đến ngày thứ 10 cá đã sử dụng
thức ăn cơng nghiệp hồn tồn (Hình 8).
Kết quả
28,6 – 30,5
0,26 – 0,32
65,72 – 76,51
Qua kết quả này ta thấy, cá lăng vàng trong
giai đoạn 30 ngày tuổi tăng trưởng về chiều
dài và trọng lượng khá cao, từ kích cỡ ban đầu
3,18mm sau q trình ương đạt 30,5mm và
trọng lượng 0,32g. Cá đạt tỷ lệ sống tương đối
cao trong quá trình ương. Tổng số cá bột thu
được trong q trình ương ni là 56.892 con.
IV. KẾT LUẬN
Cá lăng vàng sinh sản tốt với cả hai loại
kích dục tố là HCG và LRHa. Thời gian hiệu
ứng kích dục tố dao động từ 344,33 – 458,33
phút. Sức sinh sản thực tế cao nhất là 36.125,67
trứng/kg ở nghiệm thức sử dụng (150µg + 5mg)
LRHa + DOM. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở cao
nhất đạt 67,28% và 77,63%.
Trứng nở sau khi thụ tinh 18 giờ 26 phút ở
điều kiện nhiệt độ là 28 - 300C.
Sau 30 ngày ương cá đạt chiều dài, trọng
lượng và tỷ lệ sống tương ứng là (28,6 – 30,5)
mm, (0,26 – 0,32)g và (65,72 – 76,51)%. Tổng
số cá bột thu được trong quá trình ương nuôi là
56.892 con.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Tường Anh, 1999. Một số vấn đề về nội
tiết học sinh sản cá. NXB Nông nghiệp Hà
Nội. 238 trang.
Bộ Thủy Sản, 2005. Kỹ thuật nuôi cá lăng vàng
thương phẩm (tài liệu tập huấn dùng cho dự
án chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá
lăng vàng.
Ngô Văn Ngọc, 2002. Kết quả nghiên
cứu sản xuất giống nhân tạo cá
lăng vàng (Mystus nemurus Vanlenciennes,
1839)-Tr 104 – 107. Nhà xuất bản Nông
nghiệp. Tập san khoa học kỹ thuật Nơng lâm
nghiệp, Số 3/2002.
Ngơ Văn Ngọc, 2004. Quy trình công
nghệ sản xuất giống nhân tạo cá
lăng vàng (Mystus nemurus Vanlenciennes,
1839).
Nguyễn Chung, 2006. Kỹ thuật sản xuất
giống & nuôi cá lăng nha, cá lăng
vàng. NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 94 trang.
Vũ Thị Hậu, 2007. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo
cá lăng vàng (Mystus nemurus) tại Khánh Hòa.
Phạm Quốc Hùng, Nguyễn Tường Anh và Nguyễn
Đình Mão, 2014. Hormon và sự điều khiển
sinh sản ở cá. NXB Nông nghiệp. 107 trang.
Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
17
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất cá giống.
NXB Nông nghiệp. 215 trang.
Bùi Thanh Tuấn và Nguyễn Tường Anh, 2011. So
sánh ba phương thức dùng hormone kích thích
sinh sản cá lăng vàng (Hemibagrus nemurus
Valenciennes, 1839)
Đỗ Minh Tri, 2008. Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất
giống cá hú (Pangasius conchophilus). Luận
án thạc sĩ.
Nguyễn Văn Tư, 2011. Nghiên cứu bước đầu về
đặc điểm sinh học của cá trê Phú Quốc (Clarias
gracilentus). Tạp chí KHKT NLN.
INDUCED SPAWNING OF NEMURUS CATFISH (Hemibagrus
nemurus Valenciennes, 1839) IN DONG THAP PROVINCE
Nguyen Thi Long Chau1*, Mai Đinh Bang2
ABSTRACT
The research for induced spawning of Nemurus catfish (Hemibagrus nemurus Valenciennes, 1839)
was carried out at the Dong Thap Community College and Hong Ngu Vocational Training and
Continuing School between 2015 and 2016. Broodstock was catched from the wild in Dong Thap.
Inducing agents used including HCG (Human Chorionic Gonadotropin) and LRHa + DOM (Luteinising Hormone – Releasing Hormone analogue and Domperidone). The result showed that, the
spawning time ranged from 344,33 – 458,33 minutes. The highest level of actual relative fecundity
was 36.125,67 eggs.kg-1 ((150µg + 5mg) LRHa + DOM). After fertilization, all of eggs were tranferred to weys tank system to hatching. During the hatching period, the temperature was remained
from 28 – 300C by automatic heating system. The highest level of fertilization and hatching rate
were 67,28% and 77,63% respectively. The hatching period took approximately 18 hours and 26
minutes. After 3 days of hatching, finished – yolk sac – fry were tranferred to fibre glass tanks for
nursing at density of 10.000 inds/m3. Moina were used to feed the fries in the first 6 days. After that,
formulate diet were used (40CP). The result showed that, the total length and weight and survival
rate were (28,6 – 30,5)mm, (0,26 – 0,32)g and (65,72 – 76,51)% respectively at the day of thirty.
Keywords: Nemurus catfish, maturation, artificial propagation, fertilizition rate, hatching rate.
Người phản biện: TS. Nguyễn Tuần
Ngày nhận bài: 5/12/2016
Ngày thông qua phản biện: 12/12/2016
Ngày duyệt đăng: 05/01/2017
Dong Thap Community College
Hong Ngu Vocational Training and Continuing School
*
Email:
1
2
18
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
THỰC NGHIỆM NUÔI THÂM CANH TÔM SÚ
(Penaeus monodon) KẾT HỢP CÁ NÂU (Scatophagus argus)
Ở CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU
Hoàng Thị Thanh Nga1, Lý Văn Khánh1*
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định mật độ cá nâu thích hợp trong mơ hình ni kết hợp với tơm sú. Thí
nghiệm được bố trí hồn tồn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức mật độ cá nâu (i) 0 con/m3(đối chứng),
(ii) 8 con/m3, (iii) 12 con/m3. Tôm sú được nuôi kết hợp ở tất cả các nghiệm thức với mật độ 40 con/
m3, mỗi thí nghiệm được lặp lại 3 lần. Bể thí nghiệm có thể tích 0,5m3, độ mặn 10‰, khối lượng
tơm trung bình ban đầu là 0,39g, cá nâu có khối lượng ban đầu17,1g. Sau 90 ngày ni, các yếu tố
mơi trường nước nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của tôm sú và cá nâu. Kết quả cho
thấy, tơm sú đạt kích cỡ trung bình 2,97-5,98g/con, tỷ lệ sống 90-100% và sinh khối 114-239g/m3.
Khối lượng tôm sú ở nghiệm thức đối chứng (không thả cá nâu) là cao nhất (5,98g) nhưng khác biệt
khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú (5,29g). Tỷ lệ sống của
tôm ở nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú là thấp nhất (90%). Tuy nhiên, khác biệt khơng có ý nghĩa
thống kê (p>0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. Như vậy, trong nghiên cứu này nuôi kết hợp cá nâu
với tôm sú ở mật độ 8 cá nâu+40 tôm sú trên bể 0,5 m3 cho thấy sự tăng trưởng tốt nhất cho tơm sú
lẫn cá nâu.
Từ khóa: ni kết hợp, mật độ, tăng trưởng, Penaeus monodon, Scatophagus argus
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, các mơ hình ni thủy sản kết hợp
đang được nghiên cứu và phát triển nhằm nâng
cao hiệu quả của mơ hình. Theo Tạ Văn Phương
và ctv., (2006), nghiên cứu mơ hình ni kết hợp
sị huyết trong ao ni tơm sú cho thấy khả năng
làm sạch môi trường và hấp thu vật chất hữu
cơ rất lớn. Nguyễn Thanh Thảo và ctv., (2006),
mơ hình ni kết hợp cá rơ phi trong ao tôm
sú bước đầu cho kết quả tốt hơn về chất lượng
nước so với nuôi đơn, các yếu tố thủy lý hóa ổn
định và sự phát triển của tảo thích hợp cho sinh
trưởng của tôm nuôi. Cá nâu được nuôi phổ biến
trong các mơ hình quảng canh kết hợp với các
đối tượng khác ở vùng nước lợ (Nguyễn Thanh
Phương và ctv., 2005). Trong các đối tượng nuôi
kết hợp hiện nay thì cá nâu là đối tượng có nhiều
triển vọng trong ni ghép với tơm sú ở các mơ
hình quảng canh cải tiến và mơ hình tơm rừng.
Việc đưa cá nâu vào ni rộng rãi sẽ góp phần
làm đa dạng đối tượng nuôi, giảm áp lực lên
1
*
đối tượng tôm sú, đồng thời làm tăng tính hiệu
quả và bền vững cho ni trồng thủy sản. Chính
vì vậy, nghiên cứu “Thực nghiệm ni thâm
canh tôm sú (Penaeus monodon) kết hợp cá nâu
(Scatophagus argus) ở các mật độ khác nhau”
được thực hiện.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Thời gian và địa điểm
Thí nghiệm được thực hiện từ 15/03/2016
đến 15/06/2016 tại trại thực nghiệm của Khoa
Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí hồn toàn ngẫu
nhiên với 3 nghiệm thức. Mỗi nghiệm thức
được lặp lại 3 lần.
- Nghiệm thức 1: 0 cá nâu/m3 kết hợp với
40 tôm sú/m3
- Nghiệm thức 2: 8 cá nâu/m3 kết hợp với
40 tôm sú/m3
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ.
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
19
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
- Nghiệm thức 3: 12 cá nâu/m3 kết hợp với
40 tơm sú/m3
Thí nghiệm được thực hiện trong bể có thể
tích 0,5 m3với độ mặn nước 10‰ và được sục khí
liên tục. Tơm sú bố trí thí nghiệm có kích cỡ trung
bình 0,39 g/con và cá nâu có khối lượng trung
bình 17,1 g/con. Thời gian thí nghiệm là 3 tháng.
Tơm sú và cá nâu được cho ăn 3 lần/ngày.
Cá nâu được cho ăn trước bằng thức ăn cá dạng
viên nổi hiệu Grobest (28% đạm) với lượng
thức ăn dao động từ 5-15% khối lượng thân,
tôm sú được cho ăn bằng thức ăn tôm sú hiệu
Grobest (40-42 % đạm). Trong suốt q trình
ni siphon đáy và thay nước định kỳ tháng/lần.
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
Các yếu tố thủy lý hóa gồm: Nhiệt độ và
pH được đo 15 ngày/lần bằng máy hiệu HANA
2 buổi/ngày (lúc 7h00 và 14h00); NO2-, TAN và
độ kiềm được đo bằng test SERA 15 ngày/lần.
Khối lượng và chiều dài chuẩn của tôm sú
và cá nâu trước khi bố trí thí nghiệm được cân
và đo ngẫu nhiên 20 con tôm sú và 20 con cá
nâu để tính trung bình cho các nghiệm thức. Kết
thúc thí nghiệm tơm sú và cá nâu được cân, đo
từng cá thể trong từng bể của mỗi nghiệm thức.
Tỷ lệ sống của tôm sú và cá nâu được xác định
khi kết thúc thí nghiệm.
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng
(g/ngày) = (W1-W2)/T
Tốc độ tăng trưởng đặc biệt về khối lượng
(%/ngày)= 100 x (LnW2-LnW1)/T
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài
(cm/ngày) = (L1-L2)/T
Tốc độ tăng trưởng đặc biệt về chiều dài
(%/ngày) = 100 x (LnL2-LnL1)/T
Trong đó: W1: khối lượng tôm, cá ban đầu (g);
W2: khối lượng tôm, cá lúc thu mẫu (g);
L1: chiều dài tôm, cá ban đầu (cm);
L2: chiều dài tôm, cá lúc thu mẫu (cm)
T: Số ngày nuôi
Tỉ lệ sống (%) = 100 x (số cá thể cuối/số
cá thể ban đầu)
Sinh khối (kg/m3) = tổng khối lượng/1 m3
nước ni (g/m3)
2.3. Phương pháp xử lí số liệu
Các số liệu thu thập ở các nghiệm thức được
tính tốn giá trị trung bình, độ lệch chuẩn bằng
phần mềm Excel phiên bản 2010, so sánh sự
khác biệt trung bình giữa các nghiệm thức bằng
phép thử Ducan thông qua phần mềm SPSS
16.0 ở mức ý nghĩa (p<0,05).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các yếu tố môi trường nước
Từ kết quả Bảng 1 cho thấy, các yếu tố thủy
lý giữa các nghiệm thức ít biến động. Trong thí
nghiệm này nhiệt độ trung bình buổi sáng và
chiều dao động trong khoảng 27,4-29,5oC, pH
buổi sáng và chiều dao động trong khoảng 8,368,75 ở các nghiệm thức trong suốt q trình
ni. Theo Boyd và Fast (1992), nhiệt độ thích
hợp cho tơm dao động trong khoảng 25-30oC,
pH trong khoảng 7-9. Chanratchakool et al.,
(1995), cho rằng nhiệt độ cao hơn 33oC hay thấp
hơn 25oC thì khả năng bắt mồi của tôm giảm
30-50%, tôm sẽ giảm hoạt động tạo điều kiện
cho mầm bệnh tấn cơng. Vì thế, các yếu tố thủy
lý trong thí nghiệm này vẫn trong phạm vi thích
hợp cho sự phát triển của tơm cá nuôi.
Bảng 1. Các yếu tố thủy lý trong thời gian thí nghiệm
Nghiệm thức (con/m3)
0 cá nâu+40 tơm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Nhiệt độ (oC)
7 giờ
14 giờ
27,6±0,14
29,5±0,37
27,5±0,04
29,5±0,17
27,4±0,08
29,1±0,15
Hàm lượng nitrite trung bình ở các nghiệm
thức dao động khoảng 0,10-0,52 mg/L có xu
hướng tăng dần theo mật độ cá, TAN dao động
20
pH
7 giờ
8,39±0,03
8,38±0,01
8,36±0,01
14 giờ
8,74±0,04
8,75±0,03
8,73±0,04
trong khoảng 0,12-0,36 mg/L và độ kiềm 118119 mg CaCO3/L (Bảng 2). Theo Boyd (1998),
hàm lượng nitrite cho phép trong ao ni thủy
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
sản khơng vượt quá 10 mg/L (tốt nhất là nhỏ
hơn 2 mg/L). Chanratchakool (2003) và Boyd
(1998) cho rằng hàm lượng TAN thích hợp cho
ao nuôi tôm là 0,2-2 mg/L. Theo Chen et al.,
(1998), chỉ ra rằng nồng độ TAN gây chết 50%
trong 48 giờ ở lồi tơm khác nhau nằm trong
khoảng 30-110 mg/L. Độ kiềm trong phạm vi
20-400 mg/L là phù hợp cho các ao nuôi thủy
sản (Boyd, 1998). Tuy nhiên, theo Vũ Thế Trụ
(2001), thì độ kiềm tốt nhất cho tơm sú phát
triển trong khoảng 80-150 mg CaCO3/L. Nhìn
chung, tất cả các yếu tố thủy lý hóa trong thí
nghiệm đều nằm trong khoảng giới hạn thuận
lợi cho tôm và cá phát triển.
Bảng 2. Các yếu tố thủy hóa trong thời gian thí nghiệm
Nghiệm thức (con/m3)
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Độ kiềm (mg/L)
118±5,91
119±1,48
118±1,48
3.2. Tăng trưởng của cá nâu sau 3 tháng nuôi
3.2.1. Tăng trưởng về khối lượng của cá nâu
Cá nâu với kích cỡ cá giống ban đầu trung
bình là 17,1g được thả vào ni ghép với tôm
sú ở các mật độ khác nhau. Sau 3 tháng nuôi kết
hợp, khối lượng cá tăng rất nhanh ở hầu hết các
nghiệm thức và đạt khối lượng trung bình dao
động 38,9-42,3 g/con. Qua kết quả Bảng 3 cho
thấy, nghiệm thức 8 cá nâu+40 tơm sú có khối
lượng 42,3±2,87 g/con và tốc độ tăng trưởng
TAN (mg/L)
0,12±0,04
0,36±0,43
0,17±0,04
NO2- (mg/L)
0,10±0,04
0,36±0,31
0,52±0,49
nhanh nhất (0,280 g/ngày và 1,004 %/ngày)
khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so
với nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm sú (0,243 g/
ngày và 0,911 %/ngày). Tốc độ tăng trưởng của
cá nâu có xu hướng tăng khi giảm mật độ ni.
Ngun nhân là do khi mật độ cá tăng lên thì
khơng gian cá sống trong môi trường bị thu hẹp
lại đồng thời có sự cạnh tranh thức ăn với nhau,
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của
cá dẫn đến tăng trưởng kém hơn.
Bảng 3. Tăng trưởng về khối lượng của cá nâu sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức (con/m3)
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Khối lượng
Ban đầu
3 tháng
a
17,1±0,00
42,3±2,87a
17,1±0,00a
38,9±3,38a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
Tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá ở
thí nghiệm này cao hơn nghiên cứu của Lý Văn
Khánh và ctv., (2010), ni cá nâu ở độ mặn
10‰ thì tốc độ tăng trưởng tuyệt đối 0,03g/ngày
và tốc độ tăng trưởng đặc biệt 0,35 %/ngày. Tốc
độ tăng trưởng này cũng cao hơn kết quả nghiên
cứu của Hoàng Nghĩa Mạnh (2010), nghiên cứu
ảnh hưởng của thức ăn và mật độ lên sinh trưởng
và tỷ lệ sống của cá nâu tại Thừa Thiên Huế, sau
6 tháng ni có tốc độ trung bình 0,078-0,090
g/ngày.
Tốc độ tăng trưởng khối lượng
Tuyệt đối (g/ngày)
Đặc biệt (%/ngày)
a
0,280±0,032
1,004±0,074a
0,243±0,038a
0,911±0,097a
3.2.2. Tăng trưởng về chiều dài của cá
Chiều dài trung bình của cá sau 3 tháng nuôi
dao động 8,72-8,98 cm (Bảng 4). Nghiệm thức
8 cá nâu+40 tơm sú có chiều dài trung bình cao
nhất 8,98 cm và có tốc độ tăng trưởng nhanh
nhất (0,009 cm/ngày và 0,105%/ngày) khác
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với
nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm sú. Tốc độ tăng
trưởng về chiều dài của cá nâu sau 3 tháng nuôi ở
các nghiệm thức dao dộng 0,006-0,017cm/ngày
(0,071-0,192 %/ngày). Tốc độ tăng trưởng về
chiều dài thấp nhất là nghiệm thức 12 cá nâu+40
tôm sú (0,006 cm/ngày và 0,071 %/ngày) khác
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
21
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú (0,009 cm/
ngày, 0,105 %/ngày). Kết quả này thấp hơn so
với nghiên cứu của Hoàng Nghĩa Mạnh (2010),
nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn và mật độ lên
tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu tại Thừa
Thiên Huế có tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về
chiều dài trung bình 0,030-0,033 cm/ngày.
Bảng 4. Tăng trưởng về chiều dài của cá nâu sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức
(con/m3)
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Chiều dài
Ban đầu
3 tháng
a
8,17±0,00
8,98±0,18a
8,17±0,00a
8,72±0,38a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
3.3. Tăng trưởng của tôm sú sau 3 tháng nuôi
3.3.1. Tăng trưởng về khối lượng của tôm sú
Tốc độ tăng trưởng của tơm sú ở các nghiệm
thức được trình bày ở Bảng 5. Khối lượng PL45
ban đầu là 0,39 g/con, sau 3 tháng ni khối
lượng trung bình của tơm dao động 2,97-5,98
g/con. Nghiệm thức đối chứng (0 cá nâu+40
tôm sú) có khối lượng trung bình cao nhất 5,98
Tốc độ tăng trưởng chiều dài
Tuyệt đối (cm/ngày) Đặc biệt (%/ngày)
a
0,009±0,002
0,105±0,023a
0,006±0,004a
0,071±0,050a
g/con và đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất
0,062±0,001 g/ngày (3,033±0,023 %/ngày) khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm
thức 12 cá nâu+40 sú (0,029 g/ngày và 2,248 %/
ngày) nhưng khác biệt khơng có ý nghĩa thống
kê (p>0,05) so với nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm
sú (0,054 g/ngày và 2,836 %/ngày). Khối lượng
trung bình và tốc độ tăng trưởng thấp nhất là
nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm sú nhưng khác
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với
nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú.
Bảng 5. Tăng trưởng về khối lượng của tôm sú sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức
(con/m )
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
3
Khối lượng
Ban đầu
3 tháng
a
0,39±0,00
5,98±0,12b
0,39±0,00a 5,29±2,23ab
0,39±0,00a
2,97±0,37a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ
cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
Theo Yang Yi và Kenvin (2005), trọng
lượng trung bình tơm đạt từ 12,3-16,6 g/con ở
mơ hình ni ghép cá rơ phi với tơm trong ao
thâm canh có nồng độ muối thấp sau khoảng
58-75 ngày nuôi. Kết quả nghiên cứu của Tiền
Hải Lý (2006), nuôi tôm sú thâm canh (20 con/
m2) ghép với cá rô phi nuôi trong lồng cho kết
quả khối lượng tôm đạt 29,5 g/con sau 4,5 tháng
nuôi. Như vậy, so với các nghiên cứu trên thì
kết quả nghiên cứu này tơm sú có tốc độ tăng
trưởng thấp hơn do điều kiện nuôi trong bể.
3.3.2. Tăng trưởng về chiều dài của tôm
22
Tốc độ tăng trưởng khối lượng
Tuyệt đối (g/ngày) Đặc biệt (%/ngày)
0,062±0,001b
3,033±0,023b
0,054±0,025ab
2,836±0,444b
0,029±0,004a
2,248±0,143a
Qua Bảng 6 cho thấy, sau 3 tháng nuôi tốc
độ tăng trưởng về chiều dài của tơm dao dộng
0,032-0,052 cm/ngày (0,602-0,860 %/ngày).
Trong đó nghiệm thức đối chứng có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất (0,052 cm/ngày và 0,860 %/
ngày) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
so với nghiệm thức 12 cá nâu+40 sú (0,032 cm/
ngày và 0,602 %/ngày) nhưng khác biệt khơng
có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm
thức 8 cá nâu+40 tôm sú. Tốc độ tăng trưởng
chiều dài tôm nhỏ nhất là ở nghiệm thức 12 cá
nâu+40 tôm sú (0,032 cm/ngày và 0,602 %/
ngày) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so
với nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú (0,047 cm/
ngày và 0,79 %/ngày).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 6. Tăng trưởng về chiều dài của tôm sú sau 3 tháng nuôi
Chiều dài
Tốc độ tăng trưởng chiều dài
Nghiệm thức (con/m3)
Ban đầu
3 tháng
Tuyệt đối (cm/ngày)
Đặc biệt (%/ngày)
a
b
b
0 cá nâu+40 tôm sú
3,97±0,00
8,61±0,22
0,052±0,002
0,860±0,029b
a
ab
ab
8 cá nâu+40 tôm sú
3,97±0,00
8,19±1,15
0,047±0,013
0,797±0,151b
12 cá nâu+40 tôm sú
3,97±0,00a
6,83±0,33a
0,032±0,004a
0,602±0,054a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
3.4. Tỷ lệ sống và sinh khối của cá nâu
sau 3 tháng nuôi
Tỷ lệ sống và sinh khối của cá nâu thu
hoạch ở các nghiệm thức được trình bày ở Bảng
7. Cá nâu ni kết hợp với tôm sú trong nghiên
cứu này đạt tỷ lệ sống sau 3 tháng nuôi là 100%
ở tất cả các nghiệm thức. Kết quả tỷ lệ sống của
nghiên cứu này cao hơn so với kết quả nghiên
cứu của Lý Văn Khánh (2010), ni cá nâu ở
độ mặn 10‰ có tỷ lệ sống 94,6% và nghiên
cứu của Nguyễn Thị Ngọc Anh (2014), sử dụng
rong bún (Enteromopha sp.) làm thức ăn cho cá
nâu đạt tỷ lệ sống 87,5-88,8%. Tỷ lệ sống của
cá nâu cao là do cá giống lúc thả nuôi có kích cỡ
lớn (17,1 g/con) và điều kiện mơi trường nuôi
thuận lợi cho sự phát triển của cá nâu.
Bảng 7. Tỷ lệ sống và sinh khối của cá nâu sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Tỷ lệ sống (%)
100±0,00a
100±0,00a
Sinh khối (g/m3)
338±22,9a
467±40,5b
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Sinh khối của cá nâu ở các nghiệm thức
trung bình dao động 338-467g/m3 khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05) giữa các nghiệm thức.
Nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm sú (467±40,5g/
m3) đạt sinh khối lớn nhất và sinh khối thấp nhất
là ở nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm sú (338±22,9g/
m3). Sinh khối của cá đạt được phụ thuộc vào mật
độ thả cá, tốc độ tăng trưởng, khối lượng của cá
lúc thu hoạch và tỷ lệ sống của cá nuôi.
thả cá nâu) cao nhất (100%) cao hơn so với
các nghiệm thức có thả cá nhưng sự khác biệt
này khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Như
vậy, mật độ cá nâu thả ghép khác nhau trong
thí nghiệm khơng làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sống
của tôm nuôi. Theo kết quả điều tra của Trương
Hồng Minh và ctv., (2003), trong mơ hình ni
tơm thực nghiệm với mật độ thấp (1,65 con/
m2) trên ruộng lúa ở huyện Mỹ Xuyên,tỉnh Sóc
Trăng tỷ lệ sống của tôm đạt từ 83-94%. Theo
3.5. Tỷ lệ sống và sinh khối của tôm sú
Nguyễn Văn Vượng (2003), tỷ lệ sống tôm
sau 3 tháng nuôi
sau 125 ngày nuôi đạt 58,8-65,5%. Yang Yi và
Tỷ lệ sống trung bình của tơm ở các nghiệm F.Kevin (2005), nghiên cứu nuôi ghép cá rô phi
thức khá cao dao động 90-100% (Bảng 8). Tỷ lệ trong mơ hình ni tơm sú thâm canh tỷ lệ sống
sống của tôm sú ở các nghiệm thúc nuôi kết hợp của tơm ở mơ hình ni ghép cá rơ phi và tôm
với tôm sú ở các mật độ thả cá khác nhau khác thâm canh (30 con/m2) sau 65-75 ngày ni tỷ
biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỷ lệ lệ sống đạt từ 59-79%. So với kết quả trên, tỷ lệ
sống của tôm ở nghiệm thức đối chứng (không sống ở các nghiệm thức này khá cao.
Bảng 8. Tỷ lệ sống và sinh khối của tôm sú sau 3 tháng nuôi
Nghiệm thức
0 cá nâu+40 tôm sú
8 cá nâu+40 tôm sú
12 cá nâu+40 tôm sú
Tỷ lệ sống (%)
100±0,00a
90,0±10,0a
95,0±8,66a
Sinh khối (g/m3)
239±4,69b
186±60,6ab
114±23,5a
Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
23
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Sinh khối của tôm sú sau 3 tháng nuôi
dao động từ 114-239 g/m3. Nghiệm thức đối
chứng (không thả cá nâu) đạt sinh khối cao nhất
(239±4,69g/m3) khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với nghiệm thức 12 cá nâu+40 tôm
sú nhưng khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê
(p>0,05) so với nghiệm thức 8 cá nâu+40 tôm
sú. Sinh khối thấp nhất là nghiệm thức 12 cá
nâu+40 tơm sú (114±23,5g/m3) khác biệt khơng
có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm
thức 8 cá nâu+40 tôm sú. Sinh khối của tôm sú
ở các nghiệm thức này khác biệt chủ yếu là do
tốc độ tăng trưởng và cỡ của tôm lúc thu hoạch
ở các nghiệm thức.
Từ kết quả này cho thấy có thể ni ghép
cá nâu với mật độ 8 con/m3 nhằm tăng thêm thu
nhập trong cùng 1 diện tích mà khơng làm ảnh
hưởng đến tơm sú.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận
Các yếu tố thủy lý hóa trong thí nghiệm đều
nằm trong khoảng giới hạn thuận lợi cho tôm sú
và cá nâu phát triển.
Tốc độ tăng trưởng của tôm sú ở nghiệm
thức nuôi ghép với 8 con cá nâu/m3 tốt nhất
không khác biệt so với nghiệm thức không nuôi
ghép với cá nâu.
Tỷ lệ sống của tôm không khác nhau giữa
các mật độ nuôi ghép cá nâu.
Sinh khối của tôm sú ở nghiệm thức nuôi
ghép với 8 con cá nâu/m3 cao nhất không khác
biệt so với nghiệm thức không nuôi ghép với
cá nâu.
Cá nâu không ảnh hưởng đến tăng trưởng và
tỷ lệ sống của tôm sú trong mơ hình ni ghép.
Có thể ni ghép tơm sú với 8 con cá nâu/m3
nhằm tăng thêm thu nhập trong cùng 1 diện tích.
4.2. Đề xuất
Cần bố trí ni ghép tơm sú với cá nâu
ngồi ao để kiểm chứng lại kết quả thực nghiệm
trên bể từ đó có thể triển khai ứng dụng rộng rãi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Châu Tài Tảo, Huỳnh Hàn Châu và Nguyễn Thanh
Phương, 2006. Ảnh hưởng của chế độ thay nước
24
lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm
sú (Penaeus monodon). Tạp chí Khoa học Số
đặc biệt Chuyên đề Thủy sản (Quyển 1), Trường
Đại học Cần Thơ. Trang: 268-274.
Dương Thị Nga, 2009. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus,
1766) ở đầm phá Thừa Thiên Huế, Luận văn
cao học, chuyên ngành sinh học, Trường Đại
học Khoa học Huế.
Lý Văn Khánh, Trần Ngọc Hải, Đỗ Thị Thanh
Hương và Nguyễn Thanh Phương, 2010.Nghiên
cứu một số chỉ tiêu sinh lý sinh sản của cá nâu
(Scatophagus argus) ở Đồng bằng sông Cửu
Long. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần
Thơ. 186-194.
Ngơ Thành Toàn, 2003. Khảo sát một số đặc điểm
sinh học cá nâu (Scatophagus argus). Luận văn
tốt nghiệp đại học, Khoa Thủy sản, Trường Đại
học Cần Thơ.
Nguyễn Thanh Phương, Dương Nhựt Long và Lý
Văn Khánh, 2005. Mơ hình ni thủy sản kết
hợp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuyển
tập hội thảo tồn quốc về nghiên cứu và ứng
dụng khoa học cơng nghệ trong nuôi trồng thủy
sản ngày 22-23/12/2004 tại Vũng Tàu. Nhà xuất
bản Nơng Nghiệp TP. Hồ Chí Minh, 299-313.
Nguyễn Thanh Phương, Võ Thành Tiếm, Trần Thị
Thanh Hiền, Phạm Trần Nguyên Thảo và Lý
Văn Khánh, 2004. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học dinh dưỡng và sinh sản cá nâu (Scatophagus
argus). Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần
Thơ. 51-59 .
Phạm Văn Tình, 2003. Kỹ thuật nuôi tôm sú. NXB
Nông Nghiệp. 55 trang.
Tạ Văn Phương, Trương Quốc Phú, 2006. Thử
nghiệm ni sị huyết (Anadara granosa)
trong ao nước tĩnh. Tạp chí Khoa học, Trường
Đại học Cần Thơ.192-200.
Tiền Hải Lý, 2006. Thực nghiệm nuôi kết hợp cá
rơ phi đỏ đơn tính trong ao ni tơm sú thâm
canh ở Bạc Liêu. Tạp chí Khoa học,Trường
Đại học Cần Thơ 2006 (2): 187-191.
Trần Ngọc Hải, Lê Quốc Việt, Trần Minh Nhứt, Lý
Văn Khánh và Tạ Văn Phương ,2015. Ứng dụng
Biofloc nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) với mật độ khác nhau kết hợp với
cá rô phi (Oreochromis niloticus). Tạp chí Khoa
học, Trường Đại học Cần Thơ, 44-52.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Võ Thành Tiếm, 2004. Nghiên cứu đặc điểm sinh
học cá nâu (Scatophagus argus). Luận văn thạc
sĩ, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
Võ Thị Cầm, 2009. Thực nghiệm nuôi cá nâu
(Scatophagus argus) trong bể ở các độ mặn
khác nhau. Luận văn đại học, Khoa Thủy sản,
Trường Đại học Cần Thơ
Vũ Thế Trụ, 1994. Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại
Việt Nam. NXB Nông Nghiệp.
Tài liệu tiếng Anh
Boyd, C.E., 1998. Water quality in ponds for
aquacuture. Research and Development, series
No. 43. International Center for aquaculture
& aquatic environment.Alabama agricultural
experiment station, Auburn University.
THE INTENSIVE FARMING PRACTICE OF BLACK TIGER
SHRIMP (Penaeus monodon) INTEGRATED WITH SPOTTED
SCAT (Scatophagus argus) AT DIFFERENT DENSITIES
Hoang Thi Thanh Nga1, Ly Van Khanh1*
ABSTRACT
The study aims to determine the appropriate density of spotted scat in integrated culture model with
black tiger shrimp. The experiment was set up randomly with 4 treatments and 3 plicates following
as the spotted scat densities of (i) 0 con/m3(control), (ii) 8 con/m3 and (iii) 12 con/m3. Black tiger
shrimp was integrated in all treatments with a density of 40 fish/m3. Experiment tanks were 0.5m3
in volume, salinity 10‰, while the average shrimp weight was 0.39 g/ind. and the initial weight
of spotted scat was 17.1 g/ind. After 90 days of culture, the water quality parameters were in the
suitable range for the growth of black tiger shrimp and spotted scat. Results showed that the average size of shrimp reached 2.97-5.98 g/ind, survival rate was ranged from 90-100% and biomass of
114-239 g/m3. In which the weight of shrimp in the control treatment (no spotted scat) was highest
(5.98 g), but was not statistically significant (p>0.05) compared to the treatments 8 spotted scats+40
black tiger shrimps (5.29 g). Survival rate of black tiger shrimps in treatments 8 spotted scats plus
40 black tiger shrimps was the lowest (90%), but was not statistically significant (p>0.05) compared
with 3 other treatments. Thus, culture spotted scat integrated with black tiger shrimp in tank of 0.5
m3 at the density of 8 spotted scats plus 40 black tiger shrimps results in the best growth for both
black tiger shrimp and spotted scat.
Keywords: density, integrated culture, growth, Penaeus monodon, Scatophagus argus
Người phản biện: TS. Vũ Anh Tuấn
Ngày nhận bài: 25/11/2016
Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016
Ngày duyệt đăng: 05/01/2017
1
*
College of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University.
Email:
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
25