TẠP CHÍ
MỤC LỤC
NGHỀ CÁ
SƠNG CỬU LONG
Số 15 - Tháng 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Giấy phép xuất bản
số 47/GP-BTTTT
cấp ngày 8/2/2013
Xuất bản hàng quý
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP:
Tổng biên tập:
TS. NGUYỄN VĂN SÁNG
Phó tổng biên tập:
TS. PHAN THANH LÂM
Thư ký tịa soạn:
ThS. HỒNG THỊ THỦY TIÊN
CÁC ỦY VIÊN:
* PGS. TS. NGUYỄN QUANG HUY
* PGS. TS. VÕ NAM SƠN
* TS. NGUYỄN THANH TÙNG
* TS. LÊ HỒNG PHƯỚC
* TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH
* TS. LA XUÂN THẢO
* TS. NGUYỄN VĂN NGUYỆN
* TS. VŨ ANH TUẤN
* TS. NGUYỄN NHỨT
Trình bày:
ThS. Hồng Thị Thủy Tiên
Tịa Soạn:
Viện Nghiên Cứu Ni Trồng
Thủy Sản II
116 Nguyễn Đình Chiểu,
Q.1, TP.HCM
ĐT: 028 3829 9592
Fax: 028 3822 6807
Email: ria2@ mard.gov.vn
In tại: Công ty In Liên Tường
240/59-61-63 Nguyễn Văn Luông
Quận 6, TP. HCM
Trang
Khảo sát tính kháng khuẩn của cao chiết
quế (Cinnamomum verum) và gừng
(Zingiber officinale Rose) tách chiết bằng
ethanol đối với các chủng vi khuẩn
Streptococcus agalactiae phân lập trên cá
rô phi giống (Oreochromis spp.).
3-14
Antibacterial activity of cinnamon bark
(Cinnamomum verum) and ginger (Zingiber
officinale rose) ethanol extract against
Streptococcus agalactiae isolated from
tilapia fingerlings (Oreochromis spp.)
ĐOÀN VĂN CƯỜNG, NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH,
MÃ TÚ LAN, NGUYỄN THÀNH NHÂN
Sự hiện diện của white spot syndrome
virus, Vibrio parahaemolyticus và
Enterocytozoon hepatopenaei trên tôm
giống và tôm nuôi nước lợ ở Đồng bằng
sông Cửu Long.
15-23
The prevalence of white spot syndrome
virus (WSSV), Vibrio parahaemolyticus
and Enterocytozoon hepatopenaei in
postlarvae and grow-out brackish-water
shrimps in the Mekong delta.
LÊ HỒNG PHƯỚC, NGUYỄN HỒNG LỘC
Tổng quan về bệnh columnaris trên cá
nước ngọt.
24-33
A review of columnaris disease on
freshwater fish.
NGUYỄN NGỌC DU
Thử nghiệm ương cá chẽm giống (Lates
calcarifer Bloch, 1790) cỡ 3 - 10 cm trên bể
composite ở các mật độ khác nhau.
Rearing sea bass fingerlings (Lates calcarifer
Bloch, 1790) with total length of 3-10 cm in
composite tank at different density.
TRẦN VĂN NHIÊN, NGUYỄN XUÂN HÙNG,
NGUYỄN VĂN LƯƠNG, NGUYỄN HỮU THANH
34-42
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Phân tích hiệu quả kỹ thuật của mơ hình
ni tơm thẻ chân trắng thâm canh tại
Đồng bằng sông Cửu Long.
43-56
Analysis of technical efficiency of intensive
white-leg shrimp farming in Mekong delta.
Đánh giá biến động thành phần loài, mật
độ cá bột và cá con ở Đồng bằng sông
Cửu Long năm 2019.
71-82
Evaluate variation on composition, density
of fish larvae and fingerling in the Mekong
river delta in 2019.
NGUYỄN VĂN PHỤNG, PHAN THANH LÂM
TRẦN THÚY VY, NGUYỄN NGUYỄN DU, HUỲNH
HOÀNG HUY VÀ ĐINH TRANG ĐIỂM
Đề xuất phương án sắp xếp vùng nuôi cá
lồng bè trên hồ Trị An.
Proposal project on arrangements of fish
cage culture area in Tri An reservoir.
NGUYỄN NGUYỄN DU, PHAN THANH LÂM
57-70
Ứng dụng GIS thể hiện sự phân bố, biến
động thành phần loài và sản lượng khai
thác cá vùng Đồng bằng sông Cửu Long
giai đoạn 2017 – 2019.
83-93
Applications of GIS to display distribution,
fluctuation on species composition and fish
catch in the Mekong delta during the periods of 2017 – 2019.
HUỲNH HỒNG HUY, NGUYỄN NGUYỄN DU
2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
KHẢO SÁT TÍNH KHÁNG KHUẨN CỦA CAO CHIẾT QUẾ
(Cinnamomum verum) VÀ GỪNG (Zingiber officinale Rose)
TÁCH CHIẾT BẰNG ETHANOL ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG VI KHUẨN
Streptococcus agalactiae PHÂN LẬP TRÊN CÁ RƠ PHI GIỐNG
(Oreochromis spp.)
Đồn Văn Cường 1*, Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh 1, Mã Tú Lan1, Nguyễn Thành Nhân1
TÓM TẮT
Vi khuẩn Streptococcus agalactiae được biết đến như là tác nhân gây bệnh và gây chết nghiêm
trọng trên nhiều loài cá nước ngọt và nước mặn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát hiệu quả
kháng khuẩn đối với hai chủng vi khuẩn Streptococcus agalactiae được phân lập từ cá rô phi bị
bệnh lồi mắt, xuất huyết thu tại thành phố Hồ Chí Minh bởi cao chiết quế và gừng, được tách chiết
bằng phương pháp ngấm kiệt với dung môi ethanol ở 3 nồng độ riêng rẻ (96%, 72%, 48%) và liên
tục (96% tiếp đến 72% và 48%). Kết quả cho thấy cao chiết quế trong dung mơi ethanol 96% cho
đường kính vịng kháng khuẩn 29-34 mm, giá trị MIC = 2 mg/ml, MBC = 8 mg/ml; cao chiết gừng
trong dung môi ethanol 96% cho đường kính vịng kháng khuẩn 14-17 mm, giá trị MIC = 1 mg/ml,
MBC = 2 mg/ml. Cao chiết quế và gừng trong ethanol 96% là hai loại cao thảo dược tiềm năng có
khả năng ứng dụng để phịng trị bệnh do Streptococcus agalactiae gây ra trên cá rơ phi.
Từ khóa: cá rô phi, cao chiết gừng, cao chiết quế, phương pháp ngấm kiệt, Streptococcus agalactiae.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên cá rô phi, bệnh lồi mắt, xuất huyết
thường xuất hiện vào mùa mưa và các tháng
giao mùa ở Đồng bằng sông Cửu Long và
Đông Nam Bộ, với tỷ lệ chết cao (gần như
100% từ khi phát hiện bệnh), gây thiệt hại
kinh tế nghiêm trọng cho người nuôi, bệnh
này được xác định do vi khuẩn Streptococcus
agalactiae gây ra (Đặng Thị Hoàng Oanh và
ctv., 2012). Vi khuẩn Streptococcus agalactiae
được biết đến như là tác nhân gây bệnh và gây
chết nghiêm trọng trên nhiều loài cá nước ngọt
và nước mặn như: cá hồi vân (Oncorhynchus
mykiss), cá rô phi (Oreochromis sp.), cá cam
(Seriola quinquerodiata), cá phèn (Upeneus
moluccensis), cá chim (Stromateoides). Tháng
7-9/2009, dịch bệnh xảy ra gây chết với tỷ lệ cao
86,5-100% tại Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương,
Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh và Hà Giang
(Viện NCNT Thuỷ sản I, 2017). S. agalactiae là
một trong hai loài vi khuẩn chính ảnh hưởng đến
việc sản xuất cá rơ phi trên thế giới, lồi cịn lại
là S. iniae (Evans và ctv., 2006). Nghiên cứu của
Brian cho thấy, bệnh do vi khuẩn Streptococcus
gây ra trên cá rô phi ở các nước Châu Á như:
Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia, Philippines,
Thái Lan là S. agalactiae type 2 (Brian Sheehan
và ctv., 2009). Chủng vi khuẩn S. agalactiae
type 2 cũng được phân lập từ các mẫu cá rơ phi
đỏ có dấu hiệu xuất huyết và phù mắt tại Việt
Nam (Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv., 2012).
Hiện nay, giải pháp phổ biến để phòng trị
bệnh nhiễm khuẩn trên cá là sử dụng kháng sinh
hay hóa chất. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng
sinh, hóa chất vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập,
gây nên hiện tượng kháng kháng sinh ở các
loài vi khuẩn gây bệnh trên động vật thủy sản,
và truyền các gene kháng kháng sinh cho các
lồi vi khuẩn trong mơi trường và vi khuẩn gây
bệnh trên người. Ngồi ra, việc tích lũy kháng
Viện Nghiên cứu ni trồng Thủy sản II
* Email:
1
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
3
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
sinh trong động vật thủy sản có thể gây hại cho
mơi trường và cho người tiêu thụ. Vì vậy, các
nhà khoa học đang tìm kiếm các giải pháp thay
thế (vaccine, probiotic…) trong việc kiểm sốt
bệnh nhiễm khuẩn trong ni trồng thủy sản.
Trong thời gian gần đây, việc sử dụng thảo dược
trong phòng trị bệnh nhiễm khuẩn đang ngày
càng trở nên phổ biến do những ưu điểm: dễ tìm
kiếm, giá thành thấp, hoạt tính kháng khuẩn cao,
có khả năng kích thích hệ miễn dịch tự nhiên
của vật chủ, thân thiện với môi trường, không
gây nên hiện tượng đề kháng thuốc và đặc biệt
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với con
người (Rattanachaikunsopon và ctv., 2009).
Một số nghiên cứu đã chứng minh hoạt tính
kháng khuẩn của các loại thảo dược: cây xương
cá (Stella aquatic), hoa móc tay (Impatiens
biflora), cây anh thảo (Oenothera biennis), cây
ngải cứu (Artemisia vulgaris) và cây kim ngân
(Lonicera japonica) giúp kháng lại các bệnh do
vi khuẩn và virus ở cá (Shangliang, 1990). Dịch
chiết của cây ổi (Psidium guajava) có thể kiểm
soát bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila
gây ra trên cá nước ngọt (Pachanawan và ctv.,
2008). Các nghiên cứu về cây dược liệu cũng
cho thấy rằng, củ hành tím (Allium ascalonicum)
có tác dụng kháng viêm và tiêu diệt các vi
khuẩn lây nhiễm (bao gồm cả vi khuẩn E.coli và
Salmonella), giúp tăng cường miễn dịch và được
xem như là loại thảo dược chứa các chất kháng
sinh tự nhiên cực kỳ an toàn và hiệu quả. Đối
với nhóm vi khuẩn Streptococcus, đã có nhiều
nghiên cứu tìm ra một số loại thảo dược có tác
dụng kháng Streptococcus cũng như xác định
được loại dung môi tạo dịch chiết đạt hiệu quả
kháng Streptococcus mạnh nhất. Dịch ép của cỏ
lào (Eupatorium odoratum) đã được đánh giá
là có khả năng kháng khuẩn đối với vi khuẩn
Streptococcus sp. gây bệnh trên cá rô phi vằn.
Dịch chiết lá hẹ (Allium tuberosum) có khả năng
kháng vi khuẩn Streptococcus sp. cao, trong đó
nước, ethanol và methanol là các loại dung mơi
cho dịch chiết có tác dụng kháng S.agalactiae
cao (Trương Thị Mỹ Hạnh, 2008). Dịch chiết
lá cây hương thảo (Rosmarinus officinalis) có
hiệu quả trị bệnh nhiễm khuẩn do Streptococcus
4
sp. trên cá rô phi (Oreochromis spp.) (Abutbul
và ctv., 2004). Nghiên cứu thực hiện trên cá rô
phi lai (O. niloticus x O. aureus) trong 4 tuần
với khẩu phần ăn có 0,5% tỏi (Allium sativum)
cho thấy có tác dụng nâng cao miễn dịch và
tính đề kháng bệnh của cá (Ndong và ctv.,
2007). Dịch chiết bằng nước của lá chùm ngây
(Moringa oleifera) có tác dụng kháng vi khuẩn
S. agalactiae type 2 mạnh nhất, theo sau là chiết
xuất bằng dung môi Chloroform của lá sầu đâu
(Azadirachta indica) (Kamble và ctv., 2014).
Dịch chiết vỏ quế (Cinnamomum verum), củ
tỏi (Allium sativum), hoa đinh hương (Eugenia
caryphyllus), cỏ xạ hương (Thymus vulgaris)
cũng có tác dụng kháng S. agalactiae (Alsaid và
ctv., 2010). Tác dụng kháng S. agalactiae của
6 loại dịch chiết thảo dược muồng trâu (Cassia
alata L), măng cụt (Garcinia mangostana),
xuyên tâm liên (Andrographis paniculata), ổi
(P. guajava), duối nhám (S.asper), tỏi (Allium
sativum) trong 3 dung môi khác nhau (nước,
95% ethanol, methanol) trên cá rô phi, kết quả
cho thấy dịch chiết bởi dung môi nước của
xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) có
tác dụng kháng S. agalactiae mạnh nhất trong
số 6 loại thảo dược, với đường kính vịng vơ
khuẩn đạt 27,5 mm và giá trị MIC đạt 31,25
µg/ml. Bên cạnh đó, dịch chiết bởi ethanol của
ổi (P. guajava) và dịch chiết bởi nước của cây
duối nhám (S. asper) cũng có tác dụng kháng
S. agalactiae mạnh. Kết quả thí nghiệm in vivo
cho thấy khi cá rơ phi ăn thức ăn có bổ sung
bột lá xuyên tâm liên tách chiết bằng dung môi
nước, đã giúp làm giảm tỉ lệ chết của cá khi gây
nhiễm với S. agalactiae (Rattanachaikunsopon
và ctv., 2009).
Trước đây nhóm đã khảo sát trên mười loại
dược liệu bằng phương pháp ngâm trong dung
môi nước, ethanol 96% và methanol 96%, trong
đó quế và gừng ngâm trong ethanol và methanol
có tác dụng kháng Streptococcus agalactiae
cao nhất. Trong nghiên cứu này, chúng tơi tiếp
tục khảo sát tính kháng khuẩn của 2 loại cao
chiết thảo dược (gừng và quế) tách chiết bằng
phương pháp ngấm kiệt trong dung môi ethanol
với các nồng độ khác nhau nhằm tìm ra nồng độ
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
tối ưu cho tách chiết đối với hai chủng vi khuẩn
Streptococcus agalactiae CC-2.1 và Q9-8.1 thu
từ cá rơ phi có biểu hiện xuất huyết, lồi mắt ở
thành phố Hồ Chí Minh.
chế, thái lát mỏng và sấy lạnh ở 40oC (Tủ sấy
lạnh, sản xuất ở Việt Nam) cho đến khi đạt độ
ẩm < 12%, được xay mảnh nhỏ bằng máy xay
khô (Xinganbangle-880Y) và làm ẩm bằng loại
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
dung môi ngấm kiệt, sau đó cho vào bình
ngấm kiệt ngâm 24 giờ, sau 24 giờ sử dụng 30
lít ethanol (Cơng ty CP dược phẩm OPC) cho
ngấm kiệt 1kg thảo dược khô, tốc độ rút dịch
chiết 5 ml/phút. Hai phương pháp thu dịch chiết
khác nhau được thực hiện.
2.1. Phương pháp thu mẫu, phân lập và
định danh vi khuẩn
Thu mẫu gan, thận, lách trên cá rô phi giống
đang bị bệnh lồi mắt, xuất huyết nuôi ao ở Trung
tâm Giống thủy sản và cây trồng tại xã Tân An
Hội, huyện Củ Chi và bè ni tại phường Long
Trường, quận 9, Tp. Hồ Chí Minh. Thu những
con cá cịn sống, có các triệu chứng bệnh tích:
lồi mắt, xuất huyết (hậu mơn, thân, đầu, nắp
mang,…), mổ cá và ghi nhận các dấu hiệu bệnh
lý bên trong cơ thể cá. Dùng que cấy để lấy mẫu
bệnh phẩm trên các nội tạng gan, thận, lách. Mẫu
bệnh phẩm được cấy trên đĩa môi trường BrainHeart Infusion Agar (110493, Merck) để phân
lập vi khuẩn và Blood Agar (110886, Merck) để
xác định các dạng tan huyết, trong đó tan huyết
dạng β là tan huyết hoàn toàn xung quanh khuẩn
lạc, tan huyết dạng α là chỉ tan huyết một phần
và có màu xanh hoặc nâu xung quanh khuẩn
lạc (Buxton, 2005). Đĩa cấy được ủ ở nhiệt độ
35°C trong tủ ấm (Memmert-UFB 400) trong
24-48 giờ. Hình dạng, kích thước của các khuẩn
lạc phân lập từ mẫu bệnh được xác định bằng
phương pháp nhuộm Gram (11885, Merck). Sử
dụng test kit API 32 Strep (BioMerieux, Pháp)
để test sinh hóa và xác định kết quả bằng phần
mềm APIweb (bio Mérieux SA, France). Bên
cạnh đó, vi khuẩn được gửi đến Công ty TNHH
Thương mại & Dịch vụ Nam Khoa, quận 7, Tp.
Hồ Chí Minh định danh bằng phương pháp giải
trình tự gen 16S rRNA và so sánh với trình tự
trên ngân hàng gen NCBI.
+ Mỗi loại thảo dược được ngấm kiệt với
ethanol 96%, dịch chiết thu được để riêng ra,
bã thảo dược tiếp tục ngấm kiệt với ethanol
72% rồi ethanol 48%. Cô quay dịch chiết của
từng phân đoạn và tổng của 3 phân đoạn, thu
được 4 loại cao chiết khác nhau đối với mỗi
loại thảo dược.
+ Mỗi loại thảo dược được ngấm kiệt riêng
rẽ với ethanol 96%, ethanol 72%, và ethanol
48% ("Assessment report on Hypericum
perforatum L., herba," 2018). Cô quay dịch
chiết thu được từ mỗi nồng độ ethanol và tổng
của 3 phân đoạn, thu được 4 loại cao chiết khác
nhau đối với mỗi loại thảo dược.
Các cao chiết được cô bằng máy cô quay
(Haake Phoenix II - C25P - Thermo) ở nhiệt
độ 60oC các dịch chiết tương ứng cho đến khi
99% dung môi được loại bỏ. Các cao chiết dạng
2.2. Phương pháp chiết xuất dược liệu
Sử dụng phương pháp ngấm kiệt với dung
môi ethanol để chiết xuất dược liệu (Nguyễn
Thượng Dong và ctv., 2008). Hai loại thảo
dược: Vỏ quế (mua ở Viện Y Học Dân Tộc Tp.
Hồ Chí Minh) và củ gừng (mua ở chợ Bà Chiểu,
quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh), được sơ
Hình 1: Hệ thống ngấm kiệt
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
5
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
sệt được bảo quản lạnh ở -200C để sử dụng cho
các thí nghiệm thử khả năng kháng khuẩn bằng
phương pháp đĩa giấy khuếch tán, cũng như xác
định nồng độ ức chế tối thiểu (Yasuko Sekita và
ctv.,) và nồng độ diệt khuẩn tối thiểu (MBC).
2.3. Phương pháp đánh giá khả năng
kháng khuẩn của các cao chiết thảo dược
2.3.1. Phương pháp đĩa giấy khuếch tán
(Ahn và ctv., 1994)
Tẩm 20 µl cao chiết thảo dược (0,33 g/ml)
vào các đĩa giấy vơ trùng có đường kính 6 mm,
ở nghiệm thức đối chứng âm tẩm ethanol 96%,
72% và 48%, mỗi loại được tẩm vào 6 đĩa giấy,
đặt các đĩa giấy này vào tủ vô trùng trong 15
phút cho cao chiết khuếch tán vào đĩa giấy. Ở
nghiệm thức đối chứng dương, các đĩa giấy được
tẩm ba loại kháng sinh thương mại là amoxillin
(10 µg), doxycycline (30 µg) và florfenicol (30
µg) (Nam Khoa). Chủng S. agalactiae được
ni cấy trong mơi trường Brain Heart Infusion
Broth (110493, Merck) trong 24 giờ, sau đó so
với ống Mc Farland để được mật độ 108 CFU/
ml (tương ứng ống 0,5), tiếp tục pha loãng 100
lần với nước muối sinh lý để đạt mật độ 106
CFU/ml. Hút 1000 µl dịch khuẩn 106 CFU/ml,
tráng đều bằng que thủy tinh tam giác trên mặt
thạch BHI agar (110886, Merck) trong 30 giây
cho vi khuẩn thấm đều vào mặt thạch. Sau đó
dùng micropipet hút bỏ lượng dung dịch cịn
dư. Lật úp các đĩa thạch và để trong tủ cấy vô
trùng trong 5 phút cho khô. Đặt các đĩa thạch
vào tủ mát ở 4oC trong 15 phút để cao chiết có
thời gian khuếch tán ra đĩa thạch. Sau đó chuyển
tất cả các đĩa thạch vào ủ trong tủ ấm ở 30oC,
đo đường kính vịng vơ khuẩn tạo thành xung
quanh các đĩa giấy sau 24 giờ (nếu có). Vi khuẩn
mẫn cảm với dịch chiết nếu vịng vơ khuẩn ≥ 7
mm, vi khuẩn kháng với dịch chiết nếu vịng vơ
khuẩn <7mm (Nascimento và ctv., 2000).
2.3.2. Xác định nồng độ ức chế tối thiểu
(Yasuko Sekita và ctv.,) và nồng độ diệt khuẩn
tối thiểu (MBC) của các cao chiết thảo dược
Sử dụng đĩa 96 giếng (thể tích giếng 200
µl) để xác định các giá trị MIC và MBC (Nagi
A Al-Haj và ctv., 2018) của các loại cao chiết
6
có hiệu quả kháng khuẩn mạnh bằng phương
pháp đĩa giấy khuếch tán. Các cao chiết thảo
dược được pha lỗng với dung mơi tương ứng
theo dãy 08 nồng độ bao gồm 32.000, 16.000,
8.000, 4.000, 2.000, 1.000, 500 và 250 µg/ml,
mỗi nồng độ lập lại trong 4 giếng. Dịch khuẩn
S. agalactiae được pha trong ống nghiệm chứa
nước muối sinh lý 0,85% để đạt mật độ 108
CFU/ml (tương ứng với Mc Farland 0,5), sau
đó được pha lỗng trong nước muối sinh lý để
đạt mật độ cuối cùng là 104 CFU/ml, sau khi
pha loãng sẽ trải đĩa BHI agar (110886, Merck)
để kiểm tra nồng độ vi khuẩn thực tế. Cho vào
các giếng 100 µl dịch khuẩn + 100 µl thảo dược
để đạt nồng độ cuối cùng theo dãy nêu trên, mật
độ vi khuẩn cuối cùng trong mỗi giếng là 5 x
103 CFU/ml. Các giếng đối chứng âm chỉ chứa
200µl mơi trường BHI Broth (110493, Merck).
Các giếng đối chứng dương chứa 100 µl BHI +
100 µl dịch khuẩn S. agalactiae. Ủ các đĩa 96
giếng này ở 300C, sau 48 giờ cho 20 µl thuốc
thử resazurine (0,01%) (RM125-1G, Himedia)
vào mỗi giếng. Thuốc thử resazurine có màu
xanh trong dung dịch, các giếng có vi khuẩn
phát triển sẽ chuyển màu thuốc thử từ xanh
sang hồng (Faikoh và ctv., 2014). Giá trị MIC
là nồng độ thấp nhất của thảo dược tại đó thuốc
thử resazurine khơng chuyển màu. Để xác định
giá trị MBC, lấy 100 µl mẫu ở các giếng thuộc
4 dãy nồng độ liên tiếp, bao gồm dãy nồng độ
tại đó xác định giá trị MIC và 3 dãy nồng độ
cao hơn liền kề, và trải trên đĩa BHIA. Giá trị
MBC là nồng độ thấp nhất của thảo dược tại
đó khơng có sự phát triển của vi khuẩn trên
môi trường BHIA sau khi trải đĩa. Các loại cao
chiết có giá trị MBC/MIC ≥ 4 được cho là có
khả năng kìm khuẩn, MBC/MIC < 4 được cho
là có khả năng diệt khuẩn.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Giá trị trung bình đường kính vịng vơ
khuẩn tạo xung quanh các đĩa giấy ở các
nghiệm thức được so sánh bằng trắc nghiệm
One-way ANOVA và Tukey's post hoc test ở
mức ý nghĩa 0,05, sử dụng phần mềm SPSS
(version 22.0).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
III. KẾT QUẢ
3.1. Kết quả phân lập vi khuẩn gây bệnh
trên cá rô phi
Nghiên cứu đã thực hiện thu 5 mẫu cá rô
phi giống (cá rô phi vằn) nuôi ao tại Trung tâm
giống và cây trồng, xã Tân An Hội, huyện Củ
Chi vào tháng 04/2019 và 11 cá rô phi giống
(cá rô phi vằn) ni bè tại phường Long Bình,
quận 9 vào tháng 05/2019. Các cá thể này đều
thể hiện các dấu hiệu bệnh tích điển hình như
lồi mắt và xuất huyết ở vây hậu mơn, vây lưng
(Hình 2, 3), được thu thận cho phân lập và định
danh vi khuẩn bằng test sinh hóa và giải trình
tự gen 16S rRNA. Kết quả kiểm tra bằng test
API 32 strep (Bảng 1) và xác định kết quả bằng
phần mềm APIweb (bio Mérieux SA, France)
tất cả 16 mẫu cá bệnh đều bị nhiễm vi khuẩn
Streptococcus agalactiae (Hình 3). Trên mơi
trường thạch BA, khuẩn lạc Streptococcus
agalactiae có hình trịn, lồi, màu kem, kích
thước khoảng 1mm, dung huyết dạng β (Hình
5, 6), vi khuẩn nhuộm gram bắt màu xanh tím
(Gram dương), hình trịn, liên kết với nhau tạo
Bảng 1: Kết quả phân lập mẫu cá bệnh
STT
Nơi thu mẫu
Số mẫu
1
Củ Chi
5
2
Quận 9
11
Số mẫu nhiễm
Streptococcus agalactiae
5
11
Hình 2: Cá thu ở Củ chi bị lồi mắt, xuất huyết
Hình 3: Cá thu ở quận 9 bị lồi mắt, xuất huyết
thành chuỗi dạng liên cầu khuẩn xen kẽ với
những tế bào đơn lẻ. Chúng tôi chọn hai
chủng vi khuẩn CC-2.1 (phân lập từ cá 25gr
nuôi ao ở Củ Chi) và Q9-8.1 (phân lập từ cá
20gr nuôi bè ở Quận 9) để thực hiện các thí
nghiệm tiếp theo của nghiên cứu.
Quyên và ctv., 2019).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiếp tục
khảo sát khả năng kháng khuẩn của hai loại cao
chiết quế và gừng, tách chiết bằng phương pháp
ngấm kiệt với dung môi ethanol ở 3 nồng độ
khác nhau (96%, 72% và 48%). Ở thí nghiệm
1, quá trình tách chiết được thực hiện chỉ với
ethanol 96% hoặc lần lượt với 2 hoặc 3 nồng
độ khác nhau của ethanol. Qua Bảng 2 cho thấy
cao chiết của quế với ethanol 96% có tác dụng
kháng khuẩn mạnh nhất đối với cả hai chủng vi
khuẩn với đường kính vịng vô khuẩn từ 32-34
mm, giá trị này là tương đương so với đường
kính vịng vơ khuẩn tạo ra bởi ba loại kháng sinh
(35,48 mm đối với amoxillin, 22,47 mm đối với
doxycillin và 35,08 mm đối với florfenicol).
3.2. Kết quả thử khả năng kháng khuẩn
của thảo dược bằng đĩa giấy khuếch tán
Kết quả khảo sát trước đây của nhóm về
hiệu quả kháng khuẩn của 10 loại cao chiết
thảo dược tách chiết bằng ethanol 96% và
methanol 99,8%, cho thấy cao chiết quế và
gừng tách chiết bằng ethanol 96% cho hiệu
quả kháng khuẩn cao nhất đối với vi khuẩn
Streptococcus agalactiae (Nguyễn Thị Trúc
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
7
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 4. Kết quả xác định sinh hóa với API 32 Strep test
8
Hình 5: Dạng khuẩn lạc của chủng CC-2.1,
Hình 6: Dạng khuẩn lạc của chủng Q9-8.1,
dung huyết dạng β trên môi trường BA.
dung huyết dạng β trên mơi trường BA.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Kế đến là cao chiết gừng với ethanol 96% cho
đường kính vịng vơ khuẩn 14-15 mm. Ngoài
ra, cả hai loại cao chiết quế và gừng tách chiết
bằng ethanol 96% đều cho đường kính vịng vơ
khuẩn lớn nhất và cao hơn có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05) so với tách chiết bằng ethanol ở các
nồng độ thấp hơn và so với cao tổng.
Bảng 2. Đường kính vịng vơ khuẩn (mm) tạo thành xung quanh các đĩa giấy tẩm cao chiết
thảo dược, lần lượt tách chiết với ethanol ở các nồng độ khác nhau và sau 24 giờ tiếp xúc với
vi khuẩn S. agalactiae, chủng CC-2.1 và Q9-8.1.
Đường kính vịng vơ khuẩn (mm)
Dung mơi
S. agalactiae CC-2.1
Gừng
S. agalactiae Q9-8.1
Quế
Gừng
Quế
Ethanol 96%
15,12 ± 0,9c
34,23 ± 1,9b
14,88 ± 1,3b
32,67 ± 2,3b
Ethanol 96% và 72%
12,65 ± 1,2b
10,73 ± 1,1a
11,20 ± 0,8a
8,5 ± 0,5a
Ethanol 96%, 72% và 48%
9,67 ± 0,84a
7,53 ± 3,72a
10,05 ± 0,8a
9,33 ± 1,3a
Cao tổng từ 3 phân đoạn
trên (tỉ lệ 1:1:1)
12,17 ± 0,9b
9,62 ± 1,2a
10,30 ± 1,0a
9,52 ± 0,7a
Số liệu thể hiện giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Trong cùng một cột, các nghiệm thức có
các chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Ở thí nghiệm 2, quá trình tách chiết được
thực hiện riêng rẽ với một trong ba nồng độ của
ethanol (96%, 72% và 48%). Qua Bảng 3 cho
thấy cao chiết của quế với ethanol 96% có tác
dụng mạnh nhất đối với cả hai chủng vi khuẩn
với đường kính vịng vơ khuẩn từ 29-34 mm, kế
tiếp là cao chiết gừng với ethanol 96% có đường
kính vịng vơ khuẩn 16-17 mm. Ở thí nghiệm
này, cả hai loại cao chiết quế và gừng tách chiết
bằng ethanol 96% cũng cho đường kính vịng
vơ khuẩn lớn nhất và cao hơn có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05) so với tách chiết bằng ethanol ở
các nồng độ thấp hơn và so với cao tổng.
Bảng 3. Đường kính vịng vơ khuẩn (mm) tạo thành xung quanh các đĩa giấy tẩm cao chiết
thảo dược tách chiết với ethanol ở các nồng độ khác nhau và sau 24 giờ tiếp xúc với vi khuẩn
S. agalactiae, chủng CC-2.1 và Q9-8.1.
Đường kính vịng vơ khuẩn (mm)
Dung môi
S. agalactiae CC-2.1
Gừng
S. agalactiae Q9-8.1
Quế
Gừng
Quế
Ethanol 96%
16,47 ± 1,3c
33,45 ± 1,8b
16,7 ± 0,9c
29,87 ± 0,3b
Ethanol 72%
13,77 ± 0,7ab
9,05 ± 0,6a
13,58 ± 0,6b
9,47 ± 0,3a
Ethanol 48%
12,58 ± 1,1a
8,53 ± 0,6a
11,85 ± 0,6a
8,95 ± 1,2a
Cao tổng từ 3
phân đoạn trên
(tỉ lệ 1:1:1)
14,83 ± 0,6b
8,50 ± 1,0a
15,0 ± 1,1c
10,1 ± 0,4a
Số liệu thể hiện giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Trong cùng một cột, các nghiệm thức có các
chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
9
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 7: Vịng vơ khuẩn của cao chiết gừng đối
với chủng CC-2.1
Hình 8: Vịng vơ khuẩn của cao chiết quế đối
với chủng Q9-8.1
Hình 9: Vịng vơ khuẩn của ba loại kháng sinh đối
với chủng Q9-8.1
3.3. Kết quả xác định giá trị MIC và MBC của các cao chiết thảo dược
Kết quả khảo sát khả năng kháng khuẩn
của các cao chiết thảo dược ở điều kiện in vitro,
chúng tôi xác định được cao chiết vỏ quế và
gừng trong ethanol 96% có khả năng kháng
10
khuẩn mạnh đối với chủng vi khuẩn CC-2.1 và
chủng vi khuẩn Q9-8.1, chúng tôi chọn hai loại
cao chiết này để xác định giá trị MIC và MBC.
Kết quả được thể hiện trong Bảng 4.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 4. Kết quả xác định giá trị MIC và MBC của các cao chiết vỏ quế đối với chủng
Streptococcus agalactiae CC-2.1 và Q9-8.1
Loại cao chiết/dung mơi
Vỏ quế, ethanol 96%
Gừng, ethanol 96%
Chủng
MIC
MBC
Vi khuẩn
(µg/ml)
(µg/ml)
CC-2.1
2.000
8.000
Q9-8.1
2.000
8.000
CC-2.1
1.000
2.000
Q9-8.1
1.000
2.000
Hình 10: Đĩa 96 giếng xác định giá trị MIC
của cao chiết quế (hàng 1-4) và cao chiết gừng
(hàng 5-8) đối với chủng CC-2.1.
Hình 11: Đĩa 96 giếng xác định giá trị MIC
của cao chiết quế (hàng 1-4) và cao chiết gừng
(hàng 5-8) đối với chủng Q9-8.1.
IV. THẢO LUẬN
Lậy – tỉnh Tiền Giang phân lập được vi khuẩn
Streptococcus agalactiae nhưng các chủng vi
khuẩn này không gây dung huyết khi nuôi cấy
trên môi trường BA.
Qua 16 mẫu vi khuẩn thu được từ cá rô phi
giống bị bệnh lồi mắt, xuất huyết nuôi tại ao và
bè tại Tp. Hồ Chí Minh, sau nhuộm gram, test
sinh hóa và giải trình tự gen 16S rRNA đều có
kết quả dương tính với vi khuẩn Streptococcus
agalactiae. Khuẩn lạc của vi khuẩn Streptococcus
agalactiae hình trịn, lồi, màu kem, kích thước
khoảng 1-2mm, dung huyết dạng β, đây là tan
máu hồn tồn, vịng tan máu trong suốt và có
đường kính gấp 2-4 lần đường kính của khuẩn
lạc. Những Streptococci có khả năng gây tan
máu β phần lớn có khả năng gây bệnh, hầu hết
các chủng vi khuẩn Streptococci không gây tan
huyết thu từ cá bệnh đều là vi khuẩn S. difficae
(Alsaid và ctv., 2010; Buller, 2004). Tuy nhiên,
nghiên cứu của (Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv.,
2012) phân lập vi khuẩn gây bệnh lồi mắt, xuất
huyết trên cá rô phi nuôi năm 2010 ở huyện Cai
Trong nghiên cứu này chiết xuất với ethanol
96%, khả năng kháng khuẩn Streptococcus
agalactiae (106 CFU/ml) của gừng (330 mg/
ml) cho vòng kháng khuẩn 29-34 mm và quế
(330 mg/ml) cho vòng kháng khuẩn 14-17 mm,
khả năng ức chế và diệt vi khuẩn Streptococcus
agalactiae (mật độ 5 x 103 CFU/ml) của gừng
có giá trị MIC = 1 mg/ml, MBC = 2 mg/ml và
của quế có giá trị MIC = 2 mg/ml, MBC = 8 mg/
ml, giá trị MBC/MIC ≤ 4 chứng tỏ hai loại thảo
dược này có khả năng diệt khuẩn cao.
Giá trị MIC xác định bởi nghiên cứu này là
tương đồng với kết quả nghiên cứu của một số
tác giả khác. Nghiên cứu dịch chiết bằng nước
từ gừng trên 18 chủng vi khuẩn A. hydrophila có
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
11
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
vịng kháng khuẩn từ 7 - 13,67 mm (10 mg/đĩa),
MIC = 0,05 – 0,20 mg/ml và MBC = 0,78-50
mg/ml (Snuossi và ctv., 2016). Nghiên cứu dịch
chiết bằng nước từ gừng trên 6 chủng vi khuẩn
Staphilococcus sciuri có vịng kháng khuẩn từ
8,67 - 15,33 mm (10 mg/đĩa), MIC = 0,05 – 0,20
mg/ml và MBC = 1,26 - 25 mg/ml (Snuossi và
ctv., 2016). Nghiên cứu dịch chiết bằng nước
lạnh, nước nóng và ethanol (95%) từ gừng (200
mg/ml) trên chủng vi khuẩn Streptococcus sp có
vịng kháng khuẩn lần lượt 14, 11 và 28 mm
(Nader, 2010). Chiết xuất gừng với ethanol
95% (100 mg/ml) cho vòng kháng khuẩn 15,5
mm với vi khuẩn Streptococcus pneumonia
(Suleiman AG và ctv., 2019). Chiết suất vỏ quế
với nước (1 g/ml) cho vòng kháng khuẩn 21,5
mm với vi khuẩn Streptococcus iniae (105 CFU/
ml), MIC = 0,04 mg/ml (Rattanachaikunsopon
và ctv., 2010). Nghiên cứu chiết xuất bằng
ethanol 95% trên tỏi, nguyệt quế, muồng
trâu, măng cụt, ổi và cây duối (10 mg/ml) khả
năng kháng khuẩn Streptococcus agalactiae
(108 CFU/ml) cho đường kính vịng kháng
khuẩn từ 20-22 mm, khả năng ức chế vi khuẩn
Streptococcus agalactiae (108 CFU/ml) trên
muồng trâu, ổi, cây duối có giá trị MIC ≤ 0,125
mg/ml (Rattanachaikunsopon và ctv., 2009).
Nghiên cứu của chiết xuất bằng ethanol 95%
trên lá sầu đâu (100 mg/ml) có khả năng kháng
khuẩn Streptococcus agalactiae (108 CFU/ml)
cho đường kính vịng kháng khuẩn 10,5 mm,
trên lá cây tơng dù (100 mg/ml) cho đường kính
vịng kháng khuẩn 10,9 mm, khả năng ức chế
vi khuẩn Streptococcus agalactiae (108 CFU/
ml) của sầu đâu có giá trị MIC = 1,25 mg/ml,
của lá cây tơng dù có giá trị MIC = 0,6 mg/ml
(Kamble và ctv., 2014).
V. KẾT LUẬN
Vi khuẩn phân lập được từ cá rô phi giống
bị bệnh lồi mắt, xuất huyết thu tại Tp. Hồ Chí
Minh là Streptococcus agalactiae. Khả năng
kháng khuẩn Streptococcus agalactiae của cao
chiết quế trong ethanol 96% (nồng độ cao chiết
330 mg/ml) cho đường kính vịng kháng khuẩn
29-34 mm và cao chiết gừng trong ethanol 96%
12
(nồng độ cao chiết 330 mg/ml) cho đường kính
vịng kháng khuẩn 14-17 mm, khả năng ức chế
và diệt vi khuẩn Streptococcus agalactiae (5 x
103 CFU/ml) của cao chiết gừng có giá trị MIC
= 1 mg/ml, MBC = 2 mg/ml và của cao chiết
quế có giá trị MIC = 2 mg/ml, MBC = 8 mg/ml.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Đặng Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Thanh Phương,
2012. Phân lập và xác định đặc điểm của vi khuẩn
S. agalactiae từ cá điêu hồng (Oreochromis sp.)
bệnh phù mắt và xuất huyết. Tạp chí Khoa học Đại
học Cần Thơ, 22C, 203-212.
Nguyễn Thượng Dong, Vietnam, Bộ giáo dục và đào
tạo, Vietnam, Bộ y tế, Viện dược liệu, 2008. Kỹ
thuật chiết xuất dược liệu. Hà Nội: Nhà xuất bản
Khoa học và kỹ thuật.
Trương Thị Mỹ Hạnh, 2008. Nghiên cứu tính kháng
khuẩn và kháng nấm của một số loại thảo mộc.
Báo cáo đề tài khoa học – Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng thủy sản I, Bắc Ninh.
Nguyễn Thị Trúc Quyên, Lê Linh Chi, Đoàn Văn
Cường, Nguyễn Diễm Thư, Mã Tú Lan, Trần
Hồng Bích Ngọc, Nguyễn Thành Nhân, Nguyễn
Thị Ngọc Tĩnh, 2019. Khả năng đối kháng vi
khuẩn Streptococcus agalactiae phân lập trên cá
rô phi (Oreochromis spp.) bởi một số cao chiết
thảo dược. Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy
sản, 3, 124-132.
Viện NCNT Thuỷ sản I, 2017. Các bệnh thường gặp
trên cá rơ phi ni tại Việt Nam, tình hình nghiên
cứu bệnh do TiLV trên cá rô phi. Báo cáo hội nghị
phịng chống bệnh mới do TiLV trên cá rơ phi nuôi
tại Việt Nam, 10/2017.
Tài liệu tiếng Anh
Abutbul S., Golan Avi, Barazani Oz, Zilberg Dina,
2004. Use of Rosmarinus officinalis as a treatment
against Streptococcus iniae in tilapia (Oreochromis
sp.). Aquaculture, 238, 97-105. doi:10.1016/j.
aquaculture.2004.05.016
Ahn Y. J., Kwon J. H., Chae S. H., Park J. H., Yoo J.
Y., 1994. Growth-inhibitory Responses of Human
Intestinal Bacteria to Extracts of Oriental Medicinal
Plants. Microbial Ecology in Health and Disease,
7(5), 257-261. doi:10.3109/08910609409141363
Alsaid Milud, Mohd Daud Hassan, Bejo Siti,
Abuseliana Ali, 2010. Antimicrobial Activities
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
of Some Culinary Spice Extracts against
Streptococcus agalactiae and Its Prophylactic
Uses to Prevent Streptococcal Infection in Red
Hybrid Tilapia (Oreochromis sp.). World Journal
of Fish and Marine Sciences, 2.
Assessment report on Hypericum perforatum L., herb,
2018. Committee on Herbal Medicinal Products
(HMPC). European Medicines Agency.
Brian Sheehan Ph.D. , L. Labrie, DVM , Y.S. Lee, B.S.
, F.S. Wong, B.S. , J. Chan, B.S. , C., Komar DVM
, N. Wendover, B.S. and L. Grisez, Ph.D, 2009.
Streptococcosis in tilapia. Global Aquaculture
Advocate.
Buller Nicky B., 2004. Bacteria from Fish and Other
Aquatic Animals. A Practical Identification
Manual.
Buxton Rebecca, 2005. Blood Agar Plates and
Hemolysis Protocols. American Society for
Microbiology.
Evans Joyce, Klesius P. H., Shoemaker Craig, 2006.
An overview of Streptococcus in warmwater fish.
Aquaculture Health International, 7, 10-14.
Faikoh E.N., Hong Y.H., Hu S.Y., 2014. Liposomeencapsulated
cinnamaldehyde
enhances
zebrafish (Danio rerio) immunity and survival
when challenged with Vibrio vulnificus and
Streptococcus agalactiae. Fish & shellfish
immunology, 38, 15-24.
Kamble Manoj, Gallardo Wenresti, Yakupitiyage
Amararatne,
Chavan
Balasaheb,
Rusydi
Rachmawati, Rahma Aulia, 2014. Antimicrobial
Activity of Bioactive Herbal Extracts Against
Streptococcus agalactiae Biotype
2. International Journal of Basis and Applied Biology,
2, 152-155.
Nader Mohammed & Kassim, Kais & Ali, Safaa &
Azhar, Dalia, 2010. Antibacterial activity of ginger
extracts and its essential oil on some of pathogenic
bacteria. Baghdad Science Journal, 7, 1159-1165.
Nagi A Al-Haj, Khadija Zedan Hassan, Alabed Ali A
Alabed, Abdullah Y Al Mahdi, Rasheed Abdsalam,
Albawani. Sami Mohammed, 2018. Antibacterial
Assays of Malaysian Medicinal Plant Polygonum
minus Using Different Extraction Methods**
Nagi A. Al-Haj," Khadija Zedan Hassan,“Alabed
Ali A. Alabed,“Abdullah Y. Al Mahdi.
Nascimento Gislene G. F., Locatelli Juliana, Freitas
Paulo C., Silva Giuliana L., 2000. Antibacterial
activity of plant extracts and phytochemicals on
antibiotic-resistant bacteria. Brazilian Journal of
Microbiology, 31, 247-256.
Ndong Diegane, Chen Yu-Yuan, Lin Yu-Hung,
Vaseeharan Baskaralingam, Chen Jiann-Chu,
2007. The immune response of Mozambique
tilapia Oreochromis mossambicus (Peters) and
its susceptibility to Streptococcus iniae under
stress in low and high temperatures. Fish &
shellfish immunology, 22, 686-694. doi:10.1016/j.
fsi.2006.08.015
Pachanawan A. , Phumkhachorn P.
,
Rattanachaikunsopon P., 2008. Potential of
Psidium guajava Supplemented Fish Diets in
Controlling Aeromonas hydrophila Infection
in Tilapia (Oreochromis niloticus). Journal of
bioscience and bioengineering, 106(5), 419-424.
Rattanachaikunsopon P., Phumkhachorn P., 2009.
Prophylactic effect of Andrographis paniculata
extracts against Streptococcus agalactiae infection
in Nile tilapia (Oreochromis niloticus). Journal
of bioscience and bioengineering, 107, 579-582.
doi:10.1016/j.jbiosc.2009.01.024
Rattanachaikunsopon P., Phumkhachorn P., 2010.
Potential of cinnamon (Cinnamomum verum) oil
to control Streptococcus iniae infection in tilapia
(Oreochromis niloticus). Fisheries Science, 76,
287-293.
Shangliang T., Hetrick, F. M., Roberson, B. S., and
Baya, A., 1990. The antibacterial and antiviral
activity of herbal extracts for fish pathogens. J.
Ocean. Uni. Qingdao, 20, 53-60.
Snuossi Mejdi, Trabelsi Najla, Ben Taleb Sabrine,
Dehmeni Ameni, Flamini Guido, De Feo
Vincenzo, 2016. Laurus nobilis, Zingiber
officinale and Anethum graveolens Essential
Oils: Composition, Antioxidant and Antibacterial
Activities against Bacteria Isolated from Fish and
Shellfish. Molecules (Basel, Switzerland), 21(10),
1414. doi:10.3390/molecules21101414
Suleiman A.G., Hamisu M., Adamu M.D., Rabiu S.,
Abdulrazak M.H., Mujaheed A., Usman A.H., I
and Marwan, 2019. In Vitro Antibacterial Activity
and Phytochemical Analysis of Zingiber officinale
L. Rhizome Extracts. Med Chem (Los Angeles),
9(4), 056-059.
Yasuko Sekita, Keiji Murakami, Hiromichi Yumoto,
2016. Preventive Effects of Houttuynia cordata
Extract for Oral Infectious Diseases. Department
of Pharmacognosy, Tokushima - Japan, 770-8505.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
13
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ANTIBACTERIAL ACTIVITY OF CINNAMON BARK (Cinnamomum
verum) AND GINGER (Zingiber officinale rose) ETHANOL EXTRACT
AGAINST Streptococcus agalactiae ISOLATED FROM TILAPIA
FINGERLINGS (Oreochromis spp.)
Doan Van Cuong 1*, Nguyen Thi Ngoc Tinh1, Ma Tu Lan1, Nguyen Thanh Nhan1
ABSTRACT
Streptococcus agalactiae is known as an important pathogen that causes high mortality in many
freshwater and marine fish species. In this study, Streptococcus agalactiae was isolated from
tilapia with haemorrhage and eye-protrusion symptoms colected in Ho Chi Minh city. Extraction
of two herbs namely cinnamon bark (Cinnamon verum), ginger (Zingiber officinale Rose) by
exhaustion method with ethanol solvent at three separate concentrations (96%, 72%, and 48%) or
three consecutive concentrations (96%, then 72% and 48%, respectively). The results showed that
cinnamon extract in 96% ethanol demonstrated a highest antibacterial activity, with the diameter of
inhibition zone ranging from 29-34 mm, MIC value = 2 mg/ml, and MBC value = 8 mg/ml; while
Ginger extract in 96% ethanol showed the diameter of inhibiton zone ranging from 14-17 mm, MIC
value = 1 mg/ml, and MBC value = 2 mg/ml. In sum, cinnamon and ginger extract in 96% ethanol
are considered two potential herbal extracts that can be applied to prevent and to treat diseases
caused by Streptococcus agalactiae in tilapia.
Keywords: Cinnamon bark extract, ginger extract, Streptococcus agalactiae, tilapia.
Người phản biện: TS. Nguyễn Ngọc Du
Người phản biện: TS. Ngô Huỳnh Phương Thảo
Ngày nhận bài: 18/10/2019
Ngày nhận bài: 18/10/2019
Ngày thông qua phản biện: 02/11/2019
Ngày thông qua phản biện: 10/11/2019
Ngày duyệt đăng: 25/12/2019
Ngày duyệt đăng: 25/12/2019
Research Institute for Aquaculture II
* Email:
1
14
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
SỰ HIỆN DIỆN CỦA WHITE SPOT SYNDROME VIRUS, Vibrio
parahaemolyticus VÀ Enterocytozoon hepatopenaei TRÊN TÔM
GIỐNG VÀ TÔM NUÔI NƯỚC LỢ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Lê Hồng Phước 1*, Nguyễn Hồng Lộc 1
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện trên 800 mẫu tôm giống thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng
Tàu và ĐBSCL và 170 mẫu tôm nuôi nuớc lợ được thu tại các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng,
Trà Vinh và Cà Mau từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2019. Kết quả kiểm tra một số mầm bệnh nguy
hiểm bằng phương pháp PCR cho thấy trên tôm giống tỷ lệ nhiễm WSSV, Vibrio parahaemolyticus
gây AHPND và EHP lần lượt là 2,29; 4,86 và 6,4%. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh này trên tôm
thịt trong mùa khô lần lượt là 9,38; 10,94 và 25,0%. Trong mùa mưa, tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh
WSSV, Vibrio parahaemolyticus gây AHPND và EHP trên tôm giống lần lượt là 1,56%; 3,33% và
9,33%. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh này trên tôm thịt là 12,26; 10,37 và 33,02%. Tỷ lệ nhiễm Vibrio
parahaemolyticus trên tôm giống trong năm 2019 là 4,0%, cao hơn so với năm 2018 (3,63%). Tỷ
lệ nhiễm WSSV trên tôm giống cũng cao hơn (1,87% trong năm 2019, cao hơn so với 1,13% trong
năm 2018). Tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm giống năm 2019 cao hơn so với năm 2017 và 2018 (7,78%
năm 2019; 6,75% năm 2018 và 2,73% năm 2017).
Từ khóa: WSSV, EHP, Vibrio parahaemolyticus.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những ảnh hưởng lớn đến nghề
nuôi tôm trong những năm gần đây là dịch bệnh
truyền nhiễm do vi rút, vi khuẩn và kể cả ký sinh
trùng. Trong đó, đặc biệt cần quan tâm là bệnh
đốm trắng do WSSV (White Spot Syndrome
Virus), bệnh hoại tử gan tụy cấp (Acute
Hepatopancreatic Necrosis Disease: AHPND)
do Vibrio parahaemolyticus và bệnh do vi bào
tử trùng EHP (Enterocytozoon hepatopenaei)
gây ra cả trên tôm sú và tôm thẻ chân trắng.
Năm 2009, lần đầu tiên trên tôm sú nuôi ở Thái
Lan phát hiện vi bào tử trùng mới có tên là EHP
nhưng chưa được người nuôi chú ý. Cho đến
năm 2011 bệnh do loài vi bào tử trùng này trở
nên nghiêm trọng hơn ở những trang trại nuôi
trên 5 năm và gần biển (Panakorn, 2012). Ở Việt
Nam, bệnh do EHP cũng được tìm thấy trong
những năm gần đây trên cả tôm sú và tơm thẻ
chân trắng. Biểu hiện bệnh khơng có dấu hiệu
điển hình như bệnh đốm trắng hay hoại tử gan
tụy cấp mà chủ yếu là chậm lớn, mềm vỏ và
màu sắc gan tụy nhợt nhạt. Trên thực tế cho thấy
có nhiều trường hợp đồng cảm nhiễm giữa EHP
và AHPND hay tác nhân khác. Hiện nay tình
hình nhiễm EHP trên tơm nước lợ đang có chiều
hướng gia tăng. Đây là một loại bệnh không gây
chết hàng loạt như bệnh đốm trắng, hoại tử gan
tụy cấp nhưng có ảnh hưởng lớn đến kinh tế
đối với nghề nuôi tôm do khi tôm bị bệnh này
sẽ chậm lớn, thậm chí khơng lớn mặc dù vẫn
tiêu tốn rất nhiều thức ăn (tôm nuôi 90-100 ngày
tuổi vẫn có thể chỉ đạt kích cỡ 4-5 g/con).
Ngày 17/9/2019, Tổng Cục Thủy Sản cùng
với Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng chủ trì
Hội nghị “Giải pháp phát triển ni tơm nước lợ
hiệu quả, bền vững” tại Thành phố Sóc Trăng.
Hội thảo với các báo cáo tham luận và thảo luận
chung chủ yếu tập trung vào bệnh do vi bào tử
trùng EHP, hội chứng phân trắng và hoại tử gan
tụy cấp trên tôm. Đây là các bệnh được xem
là quan trọng nhất đối với tôm nuôi tại khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
Các ý kiến thảo luận cũng tập trung vào các
Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản II
* Email:
1
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
15
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
bệnh này và chủ yếu là bệnh do EHP. Ngoài
ra, theo phản ánh của một số địa phương như
Sóc Trăng, Bạc Liêu, Quảng Nam và Khánh
Hịa thì kết quả phân tích mẫu bệnh trên
tôm giống trong thời gian từ tháng 7-8/2019
đã phát hiện thấy tỷ lệ nhiễm EHP khá cao
(trên 11% số mẫu phân tích). Trước thực
trạng trên, việc duy trì kiểm tra và đánh giá
tình trạng nhiễm các mầm bệnh quan trọng
được nêu trên qua các năm là rất cần thiết
và ý nghĩa cho việc thống kê, cảnh báo cũng
như đề xuất các giải pháp phòng và quản lý
các dịch bệnh này. Do đó trong năm 2019,
chúng tơi tiếp tục thực hiện nghiên cứu “Sự
hiện diện của các tác nhân gây bệnh WSSV,
Vibrio parahaemolyticus và vi bào tử trùng
EHP trên tôm giống và tôm nuôi nước lợ ở
Đồng bằng sông Cửu Long”.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu
800 mẫu tôm sú và tôm thẻ chân trắng
giống được thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình
Thuận, Vũng Tàu và Đồng bằng sơng Cửu
Long (Cà Mau, Bạc Liêu). Chi tiết mẫu thu ở
các tỉnh được thể hiện trong Bảng 1.
170 mẫu tôm sú và tôm thẻ chân trắng
thương phẩm được thu tại các tỉnh Bạc Liêu,
Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng. Chi tiết mẫu
thu ở các tỉnh được thể hiện trong Bảng 2.
Ngoài ra, cịn có kết quả nghiên cứu trong
năm 2018 từ nhiệm vụ thường xuyên do Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II thực hiện
trong năm 2018,
Các hóa chất chính: NaOH 0,25N, SDS
0,125%, 10 mM Tris-HCl (pH = 8,3), 1,5 mM
MgCl2, DNA, polymerase 0,125 u (Promega,
Mỹ), các mồi đã được thiết kế và cơng bố trên
các tạp chí trên thế giới (Bảng 3).
Bảng 1. Số mẫu tôm giống thu ở các tỉnh
Tỉnh
Tôm thẻ nuôi
Tôm sú nuôi
Mùa khô
Mùa mưa
Mùa khô
Mùa mưa
Bạc Liêu
4
6
8
20
Bến Tre
6
8
8
6
Sóc Trăng
6
8
7
20
Trà Vinh
6
4
8
10
Cà Mau
2
4
9
20
Tổng
24
30
40
76
Ghi chú: Mùa mưa từ tháng 6-11; mùa khô từ tháng 1-5
Bảng 2. Số mẫu tôm nuôi nước lợ thu ở các tỉnh
Tỉnh
Tôm sú giống
Mùa khô
Mùa mưa
Tôm thẻ giống
Mùa khơ
Mùa mưa
Bình Thuận
10
40
50
20
Ninh Thuận
30
50
80
70
Vũng Tàu
15
40
50
50
Cà Mau, Bạc Liêu
35
80
80
100
Tổng
90
210
260
240
Ghi chú: Mùa mưa từ tháng 6-11; mùa khô từ tháng 1-5
16
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 3. Trình tự mồi sử dụng trong nghiên cứu.
Tác
nhân
WSSV
Tên mồi
Trình tự (5’-3’)
Kích thước
sản phẩm
F1
AGAGCCCGAATAGTGTTTCCTCAGC
1100 bp
R1
CAGGCAATATAGCCCGTTTGGG
R2
ATTGCCAATGTGACTAAGCGG
526 bp
R3
AACACAGCTAACCTTTATGAG
250 bp
VpPirB-392F
TGATGAAGTGATGGGTGCTC3
VP
VpPirB-392R
TGTAAGCGCCGTTTAACTCA
EHP 510F
GCCTGAGAGATGGCTCCCACGT
EHP 510R
GCGTACTATCCCCAGAGCCCGA
EHP
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp semi-nested PCR phát
hiện WSSV trên tôm (Kiatpathomchai và ctv.,
2001)
Sử dụng 4 mồi F/R1/R2/R3 (Bảng 3).
Thành phần phản ứng bao gồm: 200 mM dNTP,
1,5 mM MgCl2, 0,1 mM mồi F1, 0,2 mM mồi
R1, 0,3 mM mồi R2, 0,5 mM mồi R3, 1,25 unit
Taq polymerase trong tổng thể tích 50 µl. Với
chu trình nhiệt: 93oC/5 phút; 5 chu kỳ: 93oC/20
giây, 70oC/20 giây, 72oC/20 giây; 20 chu kỳ:
93oC/20 giây, 55oC/20 giây, 72oC/20 giây, 25
chu kỳ: 93oC/20 giây, 70oC/20 giây, 72oC/20
giây. Sản phẩm PCR sau đó được điện di trên
gel agarose 2%. Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức độ
nặng, sản phẩm dự kiến có kích thước 1000bp,
526bp và 250bp. Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức
độ trung bình, sản phẩm dự kiến có kích thước
526bp và 250bp. Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức
độ nhẹ sản phẩm dự kiến có kích thước 250bp.
2.2.2. Phương pháp PCR xác định V.
parahaemolyticus gây bệnh AHPND (Han và
Tác giả
Kiatpathom
chai và
ctv., 2001
392 bp
Han và ctv.,
2015
510 bp
Tang và ctv.,
2015
ctv., 2015)
Sử dụng cặp mồi VpPirB-392/ VpPirB392R (Bảng 3). Thành phần phản ứng bao gồm:
0,2 mM dNTP, 1,5 mM MgCl2, 25 pmol mỗi
mồi và 0,625 unit Taq polymerase trong tổng thể
tích 50 µl. Chu trình nhiệt: 35 chu kỳ: 93oC/3
phút; 94°C/30 giây, 60°C/30 giây, 72°C/30
giây; kết thúc: 72°C/7 phút. Sản phẩm PCR sau
đó được điện di trên gel agarose 2%, kích thước
dự kiến là 284 bp.
2.2.3. Phương pháp PCR phát hiện EHP
trên tôm (Tang và ctv., 2015)
Sử dụng cặp mồi EHP 510 F/EHP 510R
(Bảng 3) để xác định sự hiện diện của EHP trên
mẫu tôm thu. Thành phần phản ứng bao gồm:
200 mM dNTP, 1,5 mM MgCl2, 0,1 mM mồi và
0,625 unit Taq polymerase trong tổng thể tích
50 µl. Chu trình nhiệt: 94°C/3 phút; 40 chu kỳ:
94°C/30 giây, 60°C/30 giây, 72°C/30 giây; kết
thúc 72oC/5 phút. Sản phẩm PCR sau đó được
điện di trên gel agarose 2%, kích thước dự kiến
là 510 bp.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
17
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được lưu trữ trên Microsoft Excel
nhằm xử lý và đánh giá tỷ lệ nhiễm các mầm
bệnh.
III. KẾT QUẢ
3.1. Khảo sát sự hiện diện các mầm bệnh
WSSV, V. parahaemolyticus gây AHPND và
EHP trên tôm giống cung cấp cho các tỉnh
ĐBSCL
3.1.1. Kết quả kiểm tra virus gây bệnh đốm
trắng WSSV trên tơm giống
Trong mùa khơ 2019, có 90 mẫu tôm sú
giống và 260 mẫu tôm thẻ giống được kiểm
tra. Kết quả kiểm tra cho thấy có 3 mẫu tôm sú
và 5 mẫu tôm thẻ nhiễm WSSV (tỷ lệ 3,33%
và 1,92%) có nguồn gốc ở Ninh Thuận, Bình
Thuận và ĐBSCL. Trong mùa mưa 2019, trong
tổng số 210 mẫu tôm sú giống và 240 mẫu tôm
thẻ giống được kiểm tra, có 3 mẫu tơm sú giống
nhiễm WSSV (1,43%), trong đó có 1 mẫu ở
Ninh Thuận và 2 mẫu ở ĐBSCL. Có 4 mẫu tơm
thẻ giống nhiễm WSSV (1,25%), mẫu này có
nguồn gốc từ ĐBSCL, kết quả chi tiết được thể
hiện trong Bảng 4.
3.1.2. Kết quả kiểm tra vi khuẩn V.
parahaemolyticus gây bệnh AHPND (VP) trên
tôm giống
Trong mùa khô 2019, có 90 mẫu tơm sú
giống và 210 mẫu tơm thẻ giống được kiểm
18
tra. Kết quả kiểm tra cho thấy có 4 mẫu tôm sú
giống (4,44%) nhiễm V. parahaemolyticus gây
AHPND gồm 2 mẫu ở Ninh Thuận và 2 mẫu
ở ĐBSCL. Đối với tơm thẻ chân trắng có 13
mẫu (5,0%) nhiễm V. parahaemolyticus gây
AHPND, trong đó có 1 mẫu ở Bình Thuận, 4
mẫu ở Ninh Thuận, 4 mẫu ở ĐBSCL và 2 mẫu
ở Vũng Tàu. Trong mùa mưa 2019, trong tổng
số 210 mẫu tôm sú giống và 240 mẫu tôm thẻ
giống được kiểm tra, có 8 mẫu (3,81%) tơm sú
giống nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus gây
bệnh AHPND và 7 mẫu tôm thẻ giống (2,92%)
nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus gây bệnh
AHPND. Kết quả chi tiết được thể hiện trong
Bảng 4.
3.1.3. Kết quả kiểm tra vi bào tử trùng
EHP trên tôm giống
Trong mùa khô 2019, khi kiểm tra 90 mẫu
tôm sú giống ghi nhận 8 mẫu (8,89%) dương
tính với EHP. Đối với tơm thẻ giống khi kiểm
tra 260 mẫu có 13 mẫu (5,0%) dương tính với
EHP. Trong mùa mưa 2019, trong tổng số 210
mẫu tôm sú giống và 240 mẫu tôm thẻ giống
được kiểm tra, có 18 mẫu tơm sú (8,57%) và
24 mẫu tơm thẻ (10,0%) nhiễm EHP. Như vậy
trong mùa mưa năm 2019 tỷ lệ nhiễm EHP trên
tôm thẻ cao gấp đôi so với mùa khô, tỷ lệ nhiễm
EHP trên tôm sú (6,0%), thấp hơn so với tôm
thẻ (9,33%), kết quả chi tiết được thể hiện trong
Bảng 4.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 4. Kết quả kiểm tra WSSV, V. parahaemolyticus và EHP trên tôm giống
% WSSV (+)
Loại
tơm
PL sú
PL thẻ
% VP (+)
% EHP(+)
Tỉnh
Khơ
Mưa
Khơ
Mưa
Khơ
Mưa
Bình Thuận
10,00
0,00
0,00
2,50
10,00
5,00
Ninh Thuận
0,00
2,00
6,67
6,00
10,00
8,00
Vũng Tàu
0,00
0,00
0,00
2,40
6,67
7,50
ĐBSCL
5,71
2,50
5,71
3,75
8,57
11,25
Tổng
3,33
1,43
4,44
3,81
8,89
8,57
Bình Thuận
4,00
0,00
2,00
0,00
4,00
5,00
Ninh Thuận
1,25
1,42
5,00
2,86
6,25
8,57
Vũng Tàu
0,00
0,00
4,00
2,00
2,00
10,00
ĐBSCL
2,50
3,00
5,00
4,00
6,25
12,00
Tổng
1,92
1,67
5,00
2,92
5,00
10,0
Tổng cộng
2,92
1.56
4,86
3,33
6,0
9,33
3.1.4. So sánh tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh
WSSV, V. parahaemolyticus, EHP trên tôm
giống thu năm 2018 và 2019
Tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus trong năm
2019 (4,0%) cao hơn so với năm 2017 (3,63%).
Tỷ lệ nhiễm WSSV trong năm 2019 cũng cao
hơn so với năm 2018 (1,13% trong năm 2018 và
1,88% trong năm 2019). Với EHP cũng ghi nhận
tương tự, tỷ lệ nhiễm trong năm 2019 là 7,88%
cao hơn so với năm 2018 (6,75%) (Hình 1)
Hình 1. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh trên tôm giống trong năm 2018 & 2019
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
19
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
3.2. Xác định sự hiện diện của các mầm
bệnh WSSV, V. parahaemolyticus gây bệnh
AHPND và EHP trên tôm nuôi thương phẩm
Trong mùa khô 2019, có 24 mẫu tơm sú và 40
mẫu tơm thẻ nuôi được kiểm tra đồng thời 3 mầm
bệnh nguy hiểm là WSSV, V. parahaemolyticus
gây bệnh AHPND và EHP. Có 6 mẫu nhiễm WSSV
(9,38%). Có 7 mẫu nhiễm V. parahaemolyticus
gây bệnh AHPND (10,94%), 16 mẫu nhiễm EHP
(25,0%) (Bảng 5).
Trong mùa mưa 2019, trong tổng số 30 mẫu
tôm sú và 76 mẫu tơm thẻ có 13 mẫu nhiễm WSSV
(12,26%), 11 mẫu nhiễm V. parahaemolyticus gây
bệnh AHPND (10,38%) và 35 mẫu nhiễm EHP
(33,02%).
Kết quả kiểm tra cho thấy, tỉ lệ nhiễm WSSV
và EHP trong các tháng mùa mưa cao hơn các tháng
mùa khô.
Bảng 5. Kết quả kiểm tra WSSV, V. parahaemolyticus và EHP trên tơm ni
Loại
tơm
Sú ni
Thẻ ni
Tỉnh
% WSSV (+)
% EHP(+)
Khơ
Mưa
Khơ
Mưa
Khơ
Mưa
Bạc Liêu
0,00
16,60
0,00
16,66
25,00
33,33
Bến Tre
0,00
12,50
16,66
12,50
33,33
25,00
Sóc Trăng
16,60
12,50
16,66
25,00
16,66
37,50
Trà Vinh
16,60
25,00
16,66
0,00
33,33
25,00
Cà Mau
0,00
0,00
0,00
25,00
0,00
50,00
Tổng
8,33
13,33
12,50
16,67
25,00
33,33
Bạc Liêu
16,66
15,00
16,66
10,00
33,33
30,00
Bến Tre
12,50
0,00
12,50
0,00
37,50
16,66
Sóc Trăng
12,50
10,00
12,50
10,00
37,50
40,00
Trà Vinh
0,00
20,00
25,00
10,00
25,00
10,00
Cà Mau
25,00
10,00
0,00
5,00
25,00
40,00
Tổng
10,00
11,84
10,00
7,89
25,00
32,89
9,38
12,26
10,94
10,38
25,00
33,02
Tổng cộng
IV. THẢO LUẬN
Nghiên cứu của Rahman và ctv., (2007a,b)
cho thấy nhiệt độ có liên quan đến sự nhân lên
của WSSV. Nhóm tác giả này bố trí thí nghiệm
gây nhiễm tơm với các nghiệm thức khác nhau
và thay đổi nhiệt độ giữa 27 và 33oC. Ở nghiệm
thức 27oC liên tục trong thời gian gây nhiễm tơm
với WSSV cho thấy tơm có dấu hiệu đốm trắng
sau 24 giờ và chết rất sớm sau 36 giờ gây nhiễm,
20
% VP (+)
tỷ lệ nhiễm đạt 100% sau 60 giờ gây nhiễm. Ở
nghiệm thức duy trì nhiệt độ nước ổn định ở
33°C cho tỷ lệ chết rất thấp từ 0-10%. Ở nghiệm
thức trước gây nhiễm duy trì ở 27oC nhưng sau
gây nhiễm duy trì ở 33oC cho thấy mức độ chết
ở mức thấp hơn so với nhóm nghiệm thức ổn
định ở 27oC. Tỷ lệ chết ở nghiệm thức này đạt
100% sau 96 giờ gây nhiễm. Kết quả thí nghiệm
này cho thấy khi tăng nhiệt độ có khả năng ức
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
chế sự nhân lên của WSSV. Điều này khá trùng
hợp trong thực tế khi nhiệt độ thấp, mưa nhiều
thì khả năng bùng phát dịch bệnh đốm trắng
cũng tăng cao. Kết quả của nghiên cứu này cho
thấy tỷ lệ nhiễm WSSV trên tôm nuôi trong các
tháng mùa mưa cao hơn các tháng mùa khô.
Một số nghiên cứu trên thế giới như Tendencia
và Verreth (2011), Gao và ctv., (2011) cho thấy
yếu tố độ mặn thấp, hàm lượng Vibrio tổng số
trong nước ao cao và sự biến động nhiệt độ
trong ngày lớn là những yếu tố liên quan tới sự
bùng phát bệnh đốm trắng trên tôm. Ở điều kiện
nhiệt độ trên 35oC và dưới 15oC sự xuất hiện của
virus gây bệnh đốm trắng giảm rõ rệt và khoảng
nhiệt độ từ 25-28oC là thích hợp nhất cho sự
phát triển của WSSV. Nghiên cứu của Phước và
ctv., (2008, 2009) cho thấy hiện tượng đồng cảm
nhiễm của WSSV và Vibrio campbellii làm tăng
mức độ và tỷ lệ chết của tơm thẻ chân trắng trong
điều kiện phịng thí nghiệm. Theo nhóm tác giả
này thì khi tơm bị nhiễm với WSSV thì sẽ làm
tăng khả năng mẫn cảm với Vibrio campbellii.
Kết quả gây nhiễm tôm với WSSV và sau 24 giờ
với Vibrio campbellii cho thấy tỷ lệ chết tăng
đáng kể ở nghiệm thức gây nhiễm với WSSV
và Vibrio campbellii. Đối với nghiệm thức gây
nhiễm với đơn tác nhân ghi nhận tôm chết chậm
hơn và tỷ lệ chết cũng thấp hơn.
Tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm nuôi được ghi
nhận khá cao (từ 25-33%). Theo Tourtip và
ctv., (2009), bệnh do vi bào tử trùng ngày càng
tăng cao ở các nước Đông Nam Á. Hiện nay,
EHP được ghi nhận đã xuất hiện ở Trung Quốc,
Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ
và một số nước ở vùng Nam Á. Theo Aranguren
và ctv., (2017), EHP được xác định là yếu tố làm
tăng sự mẫn cảm của tôm thẻ chân trắng đối với
bệnh gan tụy cấp AHPND và triệu chứng SHPN
(Septic hepatopancreatic necrosis) bao gồm hội
chứng phân trắng và dị hình gây ra bởi các lồi
vi khuẩn Vibrio. Do đó, việc kiểm sốt và phịng
tránh lồi vi bào tử trùng này trong q trình
ni là rất quan trọng.
Liên quan đến bệnh do EHP, ở Cà Mau,
trong tháng 10/2019 có tổng diện tích tơm bị
thiệt hại là 179,67 ha trong đó bệnh đốm trắng
chiếm 26,8%, bệnh hoại tử gan tụy cấp 55,2%
và bệnh khác không xác định rõ tác nhân là
18% (trong đó có nhóm tơm chậm lớn). Huyện
Phú Tân có diện tích bị bệnh cao nhất, kế đến
là huyện Đầm Dơi, Cái Nước, Trần Văn Thời,
Ngọc Hiển, Năm Căn và Thành phố Cà Mau.
Tôm nuôi phát bệnh tập trung ở giai đoạn thả
nuôi từ 20-65 ngày tuổi, thiệt hại nhiều nhất ở
giai đoạn nuôi từ 20-45 ngày tuổi. Ở Sóc Trăng,
trong tháng 10/2019 diện tích tơm ni bị thiệt
hại là 939,9 ha. Tính đến thời điểm hiện tại diện
tích thiệt hại tơm ni nước lợ ở mức 9,2%.
Tôm bệnh tập trung ở các huyện Trần Đề, Vĩnh
Châu và Mỹ Xuyên với các bệnh chủ yếu là hoại
tử gan tụy cấp, phân trắng và chậm lớn. Ở Bạc
Liêu, kết quả kiểm tra bệnh tôm trên 196 mẫu
cho thấy có 78 mẫu nhiễm EHP (39,7%).
Trong thời gian từ tháng 6-8/2019, kết
quả giám sát của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản II, trên tổng số 16 ao nuôi tôm thẻ
chân trắng và tôm sú nuôi thâm canh thuộc
huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu và huyện Cái
Nước, tỉnh Cà Mau đã phát hiện thấy tơm có tỷ
lệ nhiễm EHP ở mức trung bình 15%. Ngồi ra
theo phản ánh của một số địa phương như Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Quảng Nam và Khánh Hịa
thì kết quả phân tích mẫu bệnh trên tơm giống
trong thời gian từ tháng 7-8/2019 đã phát hiện
thấy tỷ lệ nhiễm EHP khá cao (trên 11% số mẫu
phân tích).
V. KẾT LUẬN
Đối với mẫu tôm giống tỷ lệ nhiễm Vibrio
parahaemolyticus gây bệnh AHPND trong mùa
khô là 4,86% và trong mùa mưa là 3,33%. Tỷ lệ
nhiễm WSSV trong mùa khô là 2,29% và mùa
mưa là 1,56%. Tỷ lệ nhiễm vi bào tử trùng ghi
nhận trong mùa khô là 6,0% và trong mùa mưa
là 9,33%.
Đối với tôm thương phẩm tỷ lệ nhiễm
WSSV trong mùa mưa là 11,26% và mùa khô
là 9,38%. Tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus gây
AHPND trong mùa khô là 10,94% và mùa mưa
là 10,38%. Tỷ lệ nhiễm EHP trong mùa khô là
25,0% và mùa mưa là 33,02%.
Tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus, EHP
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
21
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
và WSSV trong năm 2019 đều cao hơn so với
năm 2018. Cụ thể là tỷ lệ nhiễm WSSV cao hơn
0,75%, tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus cao
hơn 0,37% và tỷ lệ nhiễm EHP cao hơn 1,13%
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aranguren L. F., Jee Eun Han, Kathy F.J. Tang,
2017. Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) is a
risk factor for acute hepatopancreatic necrosis
disease (AHPND) and septic hepatopancreatic
necrosis (SHPN) in the Pacific white shrimp
Penaeus vannamei. Aquaculture 471: 37-42.
Gao, H., Kong, J., Li, Z., Xiao, G., Meng, X., 2011.
Quantitative analysis of temperature, salinity and
pH on WSSV pro-liferation in Chinese shrimp
Fenneropenaeus chinensis by real-time PCR.
Aquaculture 312: 26-31.
Han, J.E., Mohney, L.L., Tang, K.F.J., Pantoja,
C.R., Lightner, D.V., 2015. Plasmid mediated
tetracycline resistance of Vibrio parahaemolyticus
associated with acute hepatopancreatic necrosis
disease (AHPND) in shrimps. Aquaculture
Reports (2): 17–21.
Kiatpathomchai W., Boonsaeng V., Tassanakajon A.,
Wongteerasupaya C., Jitrapakdee S., Panyim S.,
2001. A non-stop, single-tube, semi-nested PCR
technique for grading the severity of white spot
syndrome virus infections in Penaeus monodon.
Dis Aquat Organ 47(3): 235-9
Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early
mortality syndrome in shrimp. Aquaculture Asia
Pacific, 8 (1): 8-10.
Phuoc, L.H., Corteel, M., Nauwynck, H.J., Pensaert,
M.B., Alday-Sanz, V., Van den Broeck, W.,
Sorgeloos, P., Bossier, P., 2008. Increased
susceptibility of white spot syndrome virus
infected Litopenaeus vannamei to Vibrio
campbellii. J. Environ. Microbiol. 10 (10): 2718–
2727.
22
Phuoc, L.H., Corteel,M., Thanh, NC., Nauwynck,
H.J., Pensaert, M.B., Alday-Sanz, V., Van den
Broeck,W., Sorgeloos, P., Bossier, P., 2009.
Effect of dose and challenge routes of Vibrio spp.
on co-infection with white spotsyndrome virus in
Penaeus vannamei. Aquaculture 290: 61–68
Rahman, M.M., Corteel, M., Dantas-Lima, J.J.,
Wille, M., Alday-Sanz, V., Pensaert, M.B.,
Sorgeloos, P., Nauwynck, H.J., 2007a. Impact of
daily fluctuations of optimum (27 °C) and high
water temperature (33 °C) on Penaeus vannamei
juveniles infected with white spot syndrome
virus (WSSV). Aquaculture 269: 107–113.
Rahman, M.M., Corteel, M.,Wille, M., Alday-Sanz,
V., Pensaert, M.B., Sorgeloos, P., Nauwynck, H.J.,
2007b. The effect of raising water temperature to
33 °C in Penaeus vannamei juveniles at different
stages of infection with white spot syndrome
virus (WSSV). Aquaculture 272: 240–245
Tang, K.F.J., Pantoja, C.R., Redman, R.M., Han, J.E.,
Tran, L.H., Lightner, D.V., 2015. Development
of in situ hybridization and PCR assays for
the detection of Enterocytozoon hepatopenaei
(EHP), a microsporidian parasite infecting
penaeid shrimp. J Invertebr Pathol 130: 37–41.
Tendencia, E.A., Verreth, J.A.J., 2011. Temperature
fluctuation,low salinity, watermicroflora: risk
factors for WSSV outbreaksin Penaeus monodon.
Isr J Aquacult-Bamid 63: 1−7
Tourtip, S., Wongtripop, S., Stentiford, G.D.,
Bateman, K.S., Sriurairatana, S., Chavadej,
J., Sritunyalucksana, K., Withyachumnarnkul,
B., 2009. Enterocytozoon hepatopenaei sp.
nov. (Microsporida: Enterocytozoonidae), a
parasite of the black tiger shrimp Penaeus
monodon (Decapoda: Penaeidae): Fine structure
and phylogenetic relationships. Journal of
invertebrate pathology 102(1): 21-29.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
THE PREVALENCE OF WHITE SPOT SYNDROME VIRUS (WSSV),
Vibrio parahaemolyticus AND Enterocytozoon hepatopenaei IN
POSTLARVAE AND GROW-OUT BRACKISH-WATER SHRIMPS IN
THE MEKONG DELTA
Le Hong Phuoc 1*, Nguyen Hong Loc1
ABSTRACT
This study was conducted on 800 postlarvae samples collected at Ninh Thuan, Binh Thuan, Vung
Tau and Mekong Delta areas and 170 farmed shrimp samples collected at Bac Lieu, Soc Trang,
Ben Tre, Tra Vinh and Ca Mau. The samples were collected from January to October of 2019 and
were tested for several dangerous pathogenic agents including WSSV, Vibrio parahaemolyticus and
Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) via PCR method. In dry season, the percentage of postlarvae
samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were 2.29%, 4.86% and 6.4%,
respectively. Whereas the percentage of farmed shrimp samples positive with WSSV, Vibrio
parahaemolyticus and EHP were 9.38%, 10.94% and 25.00%, respectively. In rainy season, the
percentage of postlarvae samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were
1.56%, 3.33% and 9.33%, respectively, while the percentage of farmed shrimp samples positive
with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were 12.26%, 10.37% and 33.02%, respectively.
The percentage of postlarve samples positive with Vibrio parahaemolyticus in 2019 was 4.0%,
which was higher than that of 2018 (3.63%). The percentage of postlarve samples positive with
WSSV in 2019 was also higher than that in 2019, which were 1.87% and 1.13%, respectively. EHP
infection in postlarvae was 7.78% in 2019 which was higher than that of 2017 (2.73%) and 2018
(6.75%).
Keywords: WSSV, EHP, Vibrio parahaemolyticus.
Người phản biện: TS. Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh
Người phản biện: TS. Nguyễn Ngọc Phước
Ngày nhận bài: 02/12/2019
Ngày nhận bài: 02/12/2019
Ngày thông qua phản biện: 19/12/2019
Ngày thông qua phản biện: 20/12/2019
Ngày duyệt đăng: 25/12/2019
Ngày duyệt đăng: 25/12/2019
Research Institute for Aquaculture II
* Email:
1
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
23
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
TỔNG QUAN VỀ BỆNH COLUMNARIS TRÊN CÁ NƯỚC NGỌT
Nguyễn Ngọc Du 1*
TÓM TẮT
Bài báo giới thiệu về tình hình bệnh columnaris ở cá nước ngọt trên thế giới và Việt Nam, tác nhân
gây bệnh, cơ chế gây bệnh, đường truyền lây và các biện pháp phòng trị. Một trong những biểu hiện
của bệnh columnaris được ghi nhận phổ biến trong sản xuất cá tra giống là trắng đuôi, thối đuôi và
được gọi là bệnh “trắng đuôi, thối đuôi”. Bệnh gây nhiều thiệt hại trong q trình ương ni cá da
trơn, đặc biệt từ giai đoạn bột lên hương. Hơn nữa, bài báo cung cấp thông tin về những nghiên cứu
và triển vọng trong phịng trị bệnh columnaris.
Từ khóa: Bệnh columnaris, trắng đi, thối đi, Flavobacterium columnare.
1. Tình hình dịch bệnh trên thế giới
Trong nghề nuôi cá da trơn ở Mỹ,
Flavobacterium columnare là vi khuẩn phổ
biến thứ hai, sau E. ictaluri (Hawke & Thune,
1992), gây tổn thất hàng năm lên đến 30 triệu
USD (Shoemaker và ctv., 2011). Trong suốt hai
thập kỷ gần đây, bệnh columnaris cũng là mối
đe dọa lớn nhất cho nghề nuôi cá hồi (Salmo
salar), cá hồi vân (Salmo trutta), cá hồi Thái
Bình Dương (Oncorhynchus mykiss) ở vùng
Fennoscandia, Phần Lan. Vi khuẩn này cũng
được coi là tác nhân gây bệnh quan trọng trong
nghề nuôi cá rô phi ở Brazil. F. columnare
cũng gây bệnh ở nhiều loài cá cảnh nhiệt đới
như cá molly (Poecilia sphenops), cá platie
(Xiphophorus maculatus) (Decostere và ctv.,
1998), cá da trơn Brazil và cá rô phi sông Nile
(Barony và ctv., 2015). Bệnh columnaris được
cho là nguyên nhân gây tổn thất nhiều nhất ở
các trang trại nuôi cá da trơn ở bang Mississippi
(Mỹ) vào năm 2000 (Khoo, 2001). Trên 70%
hộ nuôi cho biết bệnh columnaris hoặc sự kết
hợp của bệnh columnaris và những bệnh do tác
nhân khác là nguyên nhân gây thiệt hại kinh tế
lớn nhất đối với các hộ nuôi cá da trơn ở bốn
bang nuôi phổ biến loại cá này ở Mỹ (Khoo,
2001). Theo thống kê của hệ thống kiểm soát
sức khỏe động vật quốc gia của Mỹ vào năm
2004, bệnh ESC (do E. ictaluri) và columnaris
(do F. columnare) là hai bệnh đứng đầu trong
danh sách những bệnh truyền nhiễm ở cá da
trơn. Những ghi nhận từ phòng xét nghiệm
bệnh cá của trường đại học bang Mississippi ở
Stoneville cho thấy columnaris chiếm 40,9% và
ESC chiếm 30,7% trường hợp cá bệnh vào năm
2004. Tỷ lệ chết của cá da trơn giai đoạn từ bột
lên giống từ 30 đến 50% hoặc cao hơn. Số liệu
thống kê đã ghi nhận tỷ lệ thiệt hại cao nhất
là do ESC chiếm 28%, tương đương thiệt hại
khoảng 13,5 triệu USD, columnaris là nguyên
nhân gây thiệt hại thứ hai chiếm 23%, tương
ứng với khoản tổn thất 10,8 triệu USD (Nguồn:
đại học bang Mississippi, 2004). Khoảng thời
gian từ năm 2004 – 2007, tỷ lệ thiệt hại do bệnh
columnaris chiếm 18,33% (Cunningham và
ctv., 2012).
2. Hiện trạng bệnh do Flavobacterium
columnare trên cá nuôi ở Việt Nam
Dấu hiệu của bệnh columnaris được ghi
nhận tương tự bệnh trắng đuôi, thối đuôi trên
cá tra nuôi ở Việt Nam. Bệnh “trắng đuôi, thối
đuôi” thường đi kèm với những bệnh khác
(bệnh xuất huyết, gan thận mủ, lở loét và ký
sinh trùng), gây thiệt hại chủ yếu trên cá giai
đoạn từ bột lên hương và cá nuôi thương phẩm
ở giai đoạn nhỏ (dưới 200g). Bệnh phát sinh khi
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
* Email:
1
24
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
nhiệt độ mơi trường thay đổi do bị ảnh hưởng
của khơng khí lạnh. Hiện nay, bệnh trắng đuôi,
thối đuôi kết hợp với các bệnh truyền nhiễm
khác đang là một trong những nguyên nhân gây
thiệt hại lớn trong sản xuất cá tra giống, được
ghi nhận ở các tỉnh Đồng Tháp (Nguồn: Vasep.
com.vn, 19/04/2018), Long An (Nguồn: báo
Long An online, 10/8/2018), cá chết từ 10-30%,
có ao cá chết lên đến 100%. Cá bệnh có dấu
hiệu thối đi, trắng mang, ngồi ra cịn có biểu
hiện phù đầu, xuất huyết, gan thận mủ. Những
ghi nhận từ người nuôi cho biết bệnh này dễ
xuất hiện khi cá bị xây xát do đánh bắt, sang
ao, vận chuyển, hoặc do nhiệt độ môi trường
thay đổi đột ngột. Cá bị nhiễm bệnh thường bỏ
ăn, gốc vây lưng xuất hiện vết đốm trắng, sau
đó lan dần đến cuống đi và tồn thân. Cá bị
bệnh nặng thường bơi lờ đờ ngang mặt nước,
rồi lộn đầu xuống và chết. Bệnh thường xảy ra
rất nhanh. Ngồi cá tra giống, các loại cá khác
như: cá rơ phi, điêu hồng cũng thường bị hao
hụt rất lớn ở giai đoạn còn nhỏ, đặc biệt sau khi
vận chuyển cá hương, cá giống. Khi nhiễm bệnh
này, cá chết nhanh trong thời gian từ 2-4 ngày
sau khi có biểu hiện bệnh lý, tỷ lệ cá chết từ
80-100% đối với trường hợp nuôi trên bể và 3560% nuôi ở ao đất.
Theo tác giả Bùi Quang Tề, bệnh do F.
columnare có dấu hiệu ban đầu là các đốm trắng
trên thân, đầu, vây, mang, sau đó lan rộng thành
các vết loét. Các mép vây bị mất màu và sau
đó lan dần tới gốc vây, làm cho vây bị hoại tử
và cụt dần. Các vết loét xuất hiện trên mang,
tơ mang bị phá hủy làm cá ngạt thở. Khơng có
dấu hiệu bệnh tích ở các cơ quan nội tạng và
bệnh thường xảy ra khi nuôi nhốt cá với mật độ
cao, môi trường nghèo dinh dưỡng. Vi khuẩn
gây bệnh trên nhiều cá nước ngọt như cá ba sa,
cá diếc,… (Bùi Quang Tề, 2006). Năm 2008,
Nguyễn Ngọc Du và ctv., đã ghi nhận sự hiện
diện của vi khuẩn Flavobacterium spp. trên
mang cá chép cảnh (Koi). Đây là trường hợp
cá chép cảnh ni bè bị chết cấp tính trong thời
gian rất ngắn. Cá sống sót có biểu hiện tuột nhớt
tạo thành những đám trắng như sợi bông và
sau đó hình thành vùng hoại tử (Nguyễn Ngọc
Du, 2008). Năm 2012, một nghiên cứu về bệnh
trắng đuôi trên cá tra ở khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long cho thấy tác nhân là Flavobacterium
columnare (Từ Thanh Dung và ctv., 2012). Vi
khuẩn này dạng sợi (Myxobacterial) ngoại ký
sinh, gây tổn thương chủ yếu trên da, gây ăn
mịn đi và hoại tử mang. Bệnh gây chết cao
ở cá hương, cá giống (85-100%) và ở cá trưởng
thành (35-60%), thường xảy ra do cá bị sốc sau
quá trình vận chuyển hoặc do sự thay đổi đột
ngột của thời tiết. Ngoài ra, báo cáo của Đồng
Thanh Hà năm 2015 về bệnh columnaris trên cá
tra nuôi ở Thái Lan và Việt Nam cho thấy bệnh
này là một trong những bệnh nguy hiểm nhất
trên cá tra, cùng với bệnh gan thận mủ gây ra
do Edwardsiella ictaluri (Dong, 2015). Nghiên
cứu ở Việt Nam cũng cho thấy hai chủng F.
columnare FC-HN2 và FC-CT2 gây bệnh trên
cá tra giống có biểu hiện tương tự ở ngoài tự
nhiên. FC-HN2 và FC-CT2 gây chết cá sau
6 giờ và 8 giờ cảm nhiễm bằng phương pháp
ngâm với giá trị LD50 lần lượt là 1,7x105 và
3,2x106 cfu/ml (Từ Thanh Dung và ctv., 2012).
3. Tác nhân gây bệnh
Bệnh do Flexibacterium columnaris lần
đầu được công bố vào năm 1922 và được
xem là mối đe dọa nghiêm trọng đối với cá tự
nhiên và cá nuôi (David, 1922). Năm 1944,
Ordal và Rucker lần đầu tiên phân lập được
vi khuẩn này từ ổ dịch trên cá hồi sockeye
(Onchorhynchus nerka) ngoài tự nhiên. Đến
năm 1996, vi khuẩn này được đổi tên thành
Flavobacterium columnare và được sử dụng
cho đến nay (Bernardet, 1996). Ngồi ra cịn
có một số chủng khác gây bệnh trên cá nước
lạnh như F. psychrophylum, F. branchiophilum.
Vi khuẩn F. columnare được tìm thấy chủ
yếu trên các loại cá nước ngọt (Hawke, 1992;
Shotts, 1999). Đối với những trường hợp cấp
tính, bệnh do Flavobacterium có khả năng
gây chết lên đến 70%, hoặc có thể đến 100%
(Suomalainen và ctv., 2005). Những cá sống sót
tăng trưởng rất kém, cơ và vây bị ăn mịn và
hoại tử, khung xương bị biến dạng sau một thời
gian dài nhiễm bệnh (Austin & Austin, 1999).
Các chủng vi khuẩn có độc lực khác nhau có sự
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019
25