Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
MỤC LỤC
THƠNG BÁO KHOA HỌC
Ảnh hưởng của liều lượng Lactobacillus acidophilus lên tỷ lệ sống và biến thái của
ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949)
Nguyễn Việt Bắc
Đánh giá hệ sinh thái rạn san hơ Hịn Mun qua khảo sát du khách lặn biển người
nước ngồi
Nguyễn Văn Quỳnh Bơi, Lê Minh Thư
Ảnh hưởng của độ mặn và thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu
lụa (Paphia undulata Born, 1778) giai đoạn trơi nổi tại Khánh Hịa
Vũ Trọng Đại, Ngơ Anh Tuấn, Ngơ Thị Thu Thảo
Tình hình kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio spp. trên tôm thẻ chân trắng
(Litopenaeus vannamei)
Hồ Khánh Duy, Truyện Nhã Định Huệ, Lưu Thị Thanh Trúc
Hiện trạng chất lượng môi trường biển tại bãi ngao Hiệp Thạnh tỉnh Trà Vinh năm
2016 – 2017
Nguyễn Minh Hiếu, Hoàng Trung Du,
Võ Hải Thi, Nguyễn Trịnh Đức Hiệu
Tương quan giữa sự thay đổi độ mặn và thành phần lồi tảo giáp (Dinophyta) ở vùng
cửa sơng Mỹ Thanh, Sóc Trăng
Âu Văn Hóa, Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Thanh Phương,
Huỳnh Trường Giang và Vũ Ngọc Út
Ảnh hưởng của loại thức ăn và mật độ ương lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá trèn bầu
(Ompok bimaculatus Bloch, 1797) giai đoạn 31 – 90 ngày tuổi trong bể thủy tinh sợi
Lê Văn Lễnh, Nguyễn Hữu Yến Nhi,
Trịnh Thị Lan, Đặng Thế Lực, Lê Anh Tuấn
Tối ưu hóa thành phần mơi trường tạo khí biogas sinh học từ chất thải rắn ao tôm ở
Miền Nam Việt Nam bằng phương pháp đáp ứng bề mặt (RSM)
Lê Thế Lương , Nguyễn Phúc Cẩm Tú, Nguyễn Thị Cẩm Tú
Hiệu quả phòng trừ sinh học bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) gây ra bởi
Vibrio parahaemolyticus NT2.5 trên tôm thẻ từ in vitro tới quy mô nuôi thương phẩm
của chế phẩm vi sinh CPVS 01 và CPVS 02
Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Có, Trần Kiến Đức,
Nguyễn Sen, Nguyễn Văn Dũng, Dư Ngọc Tuân
Khả năng chịu sốc độ mặn và sự tương tác của độ mặn với nhiệt độ lên đặc điểm sinh
học và sinh sản của loài copepoda Pseudodiaptomus annandalei
Đoàn Xuân Nam, Phạm Quốc Hùng, Đinh Văn Khương
Ảnh hưởng của phương thức cho ăn lên chất lượng nước, sinh trưởng và tỉ lệ sống
của cá trê vàng (Clarias macrocephalus)
Nguyễn Thị Hồng Nho, Trương Quốc Phú, Phạm Thanh Liêm
3
11
19
26
33
41
50
58
66
75
88
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
Tiềm năng chế phẩm vi sinh Bacillus và Streptomyces kiểm soát Vibrio
parahaemolyticus gây bệnh AHPND trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
Võ Hồng Phượng, Phạm Thị Huyền Diệu, Lê Hồng Phước,
Cao Vĩnh Nguyên, Chu Quang Trọng, Nguyễn Công Thành,
Thái Thanh Trung, Đặng Ngọc Thùy
Ảnh hưởng của các yếu tố đến quá trình thủy phân protein từ phụ phẩm cá lưỡi trâu
bằng enzyme Alcalase
Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Ngọc Hà, Nguyễn Phúc Cẩm Tú
Ảnh hưởng của một số yếu tố lên sinh sản nhân tạo cá mao ếch Allenbatrachus
grunniens (Linnaeus, 1758) trong điều kiện nhân tạo
Nguyễn Thị Phương Thảo, Cao Văn Hùng, Nguyễn Phước Triệu
Hiện trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio spp. phân lập trong ao nuôi tôm
thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) ở tỉnh Bến Tre
Phan Thị Anh Thư, Đoàn Thị Đông Kiều, Nguyễn Công Tráng
Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp xử lí và điều kiện chiết rút đến chất lượng
của gelatin từ da cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)
Lê Thị Minh Thủy, Nguyễn Văn Thơm
Khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập từ các
vùng nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) của tỉnh Bạc Liêu năm 2019
Nguyễn Công Tráng, Trần Thị Ngọc Lắm, Huỳnh Thị Quỳnh Như
Chế tạo và khảo sát khả năng hấp phụ ionCr (VI) của vật liệu chitosan xốp
Trần Quang Ngọc, Trần Thị Phương Anh,
Hoàng Thị Trang Nguyên, Hoàng Thị Thu Thảo, Huỳnh Trần Phôn
Tương quan giữa chất lượng nước và sự phân bố của trùng bánh xe (Rotifera) dọc
theo tuyến sông Mỹ Thanh, Sóc Trăng
Huỳnh Phước Vinh, Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Trường Sinh
Một số đặc điểm sinh học của luân trùng Brachionus rubens
Lê Hồng Vũ, Ngơ Minh Cường, Vũ Ngọc Út
Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ lên kết quả ương ấu trùng tôm hề (Hymenocera
picta Dana, 1852)
Trần Văn Dũng, Trần Thị Lê Trang
Phân lập và tuyển chọn vi khuẩn lactic có họat tính kháng Vibrio parahaemolyticus
từ nội tạng tơm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
Đoàn Thị Tuyết Lê, Đỗ Minh Anh, Lê Thị Thu Hương
Hiện trạng khai thác cá ngừ đại dương trên tàu câu tay kết hợp ánh sáng tại
Khánh Hòa
Nguyễn Trọng Lương, Vũ Kế Nghiệp
Nghiên cứu ứng dụng máy tạo xung cho nghề câu tay cá ngừ kết hợp ánh sáng
Nguyễn Trọng Lương, Vũ Kế Nghiệp, Tơ Văn Phương
2 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
97
106
115
122
130
139
148
156
164
173
181
189
197
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
THÔNG BÁO KHOA HỌC
ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG Lactobacillus acidophilus LÊN TỶ LỆ SỐNG VÀ
BIẾN THÁI CỦA ẤU TRÙNG CUA BIỂN
(Scylla paramamosain Estampador, 1949)
EFFECT OF Lactobacillus acidophilus ON SURVIVAL RATE AND METAMORPHOSIS OF MUD
CRAB LARVAE (Scylla paramamosain Estampador, 1949)
Nguyễn Việt Bắc¹
Ngày nhận bài: 05/08/2019; Ngày phản biện thông qua: 14/10/2019; Ngày duyệt đăng: 10/11/2019
TĨM TẮT
Cua biển là lồi giáp xác quan trọng của ngành thủy sản. Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng Lactobacillus
acidophilus lên tỷ lệ sống và biến thái của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain Estampador, 1949) được thực
hiện tại trại sản xuất giống giáp xác Trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau nhằm góp phần hạn chế việc sử dụng
kháng sinh, cải thiện năng suất và tỷ lệ sống trong ương ấu trùng cua biển. Thí nghiệm có 3 nghiệm thức với liều
lượng Lactobacillus acidophilus khác nhau gồm 104 CFU/mL, 105 CFU/mL và 106 CFU/mL (theo thể tích) được
thử nghiệm với ba lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức. Ấu trùng được ương trong xơ nhựa có thể tích 60 lít, với mật
độ 200 ấu trùng/L. Kết quả nghiên cứu cho thấy mật độ vi khuẩn tổng trong bể nuôi cao nhất ở nghiệm thức bổ
sung Lactobacillus acidophilus với liều lượng 106 CFU/mL (4,2 x 105 CFU/mL) và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05)
với các nghiệm thức còn lại. Mật độ vi khuẩn Vibrio sp thấp nhất ở nghiệm thức 3 (0,21 x 103 CFU/mL) (p<0,05).
Tỷ lệ biến thái và chiều dài ấu trùng Zoea5 cao nhất ở nghiệm thức 2 (105 CFU/mL) lần lượt là 65,6% và 4,44 mm.
Chiều rộng mai (CW) Cua1 cao nhất 3,13 mm ở nghiệm thức 2. Tuy nhiên, khơng có sự khác biệt đáng kể về các
chỉ số này giữa các nghiệm thức (p>0,05). Tỷ lệ sống đến Cua1 tốt nhất ở nghiệm thức 3 (8,54 %) nhưng khác biệt
khơng có ý nghĩa (p>0,05) với nghiệm thức 1 (8,12 %) và nghiệm thức 2 (8,51 %). Kết quả nghiên cứu cho thấy
nên bổ sung Lactobacillus acidophilus với liều lượng 105 CFU/mL trong thực tế sản xuất giống.
Từ khóa: Lactobacillus acidophilus, cua biển, men vi sinh, Scylla paramamosain.
ABSTRACT
The effect of Lactobacillus acidophilus on survival rate and metamorphosis of mud crab larvae (Scylla
paramamosain Estampador, 1949) was investigated at crustacean hatchery of Ca Mau community college.
This experiment aimed to identify the suitable concentration of Lactobacillus acidophilus used to the minimise
antibiotic application, to improve the production and survival rate of mud crab rearing. The experiment in the
larval rearing period from zoea-1 stage to crab-1 stage was conducted with different densities of Lactobacillus
acidophilus as following 104, 105 and 106 CFU/mL, respectively with three replicates per treatment. Larvae were
reared in plastic tanks of 60 liters with the stocking density of 200 larvae/L. The results showed that the highest
total bacteria was found in the treatment supplied concentration at 106 CFU/mL (4.2×105 CFU/ml). It was
significantly different from other treatments (p<0.05). The level of Vibrio sp was significantly lowest in the third
treatment (0.21×103 CFU/mL) (p<0.05). Metamorphic rate and the total length of zoea5 stage in the treatment
105 CFU/ml were the highest with 65.6% and 4.44 mm, respectively. The body length of crab-1 was highest (3.13
mm) in treatment 105 CFU/mL and was not significantly different with other treatments (p>0.05). The survival of
crab-1 was the best in the treatment 106 CFU/mL (8.54%); which was not significantly different from those of the first
treatment (8.12%) and second treatment (8.51%) (p>0.05). The results suggested that addition of Lactobacillus
acidophilus at concentrations at 105 CFU/mL could be applied to commercial production for mud-crab harchery.
Keywords: Lactobacillus acidophilus, mud crab, probiotic, Scylla paramamosain.
¹ Trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 3
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong trại sản xuất giống cua biển, tỷ lệ sống
của ấu trùng cua biển Scylla paramamosain
thường rất thấp do ấu trùng bị nhiễm Vibrio
harveyi từ cua mẹ mang trứng hoặc từ nguồn
nước ương ấu trùng (Lavilla-Pitogo và ctv.
1992; Lavilla-Pitogo và De la pena, 2004). Để
hạn chế rủi ro trong quá trình ương ấu trùng các
trại giống thường sử dụng kháng sinh để phịng
và trị bệnh, dẫn đến hình thành các chủng vi
khuẩn kháng thuốc (Talpur và ctv., 2011).
Trong những năm gần đây, việc sử dụng kháng
sinh và hóa chất trong lĩnh vực ni trồng thủy
sản đã có xu hướng giảm, nhằm hướng đến
quy trình ương, ni thân thiện với mơi trường
và mang tính an tồn sinh học cao (Cabello,
2006).
Gần đây men vi sinh đã được chú ý và áp
dụng nhiều cho các đối tượng nuôi thủy sản
(Gatesoupe, 1999). Trong nuôi trồng thủy sản,
chế phẩm sinh học thường được bổ sung trong
thức ăn hoặc bổ sung trực tiếp vào môi trường
nước (Moriarty, 1999). Nhiều nghiên cứu gần
đây đã cho thấy hiệu quả cải thiện tăng trưởng
và khả năng miễn dịch của động vật thủy sản
khi được bổ sung chế phẩm sinh học trong q
trình ương ni cá, tơm và nhuyễn thể (Sumon
và ctv., 2018; Thao và ctv., 2012). Tuy nhiên, có
rất ít thơng tin về việc ứng dụng chế phẩm sinh
học trong ương ấu trùng cua biển (Talib và ctv.,
2017). Nguyễn Việt Bắc và Dương Xuân Đào
(2016) đã sử dụng các dịng vi khuẩn hữu ích
khác nhau cho ương ấu trùng cua biển Scylla
paramamosain. Kết quả cho thấy ấu trùng cua
có tỷ lệ sống và tăng trưởng tốt nhất (10,04%)
khi bể ương được bổ sung vi khuẩn Lactobacilus
acidophilus, cao hơn nhiều so với nghiệm thức
không bổ sung vi sinh (7,51%). Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu chưa chỉ ra ảnh hưởng của liều
lượng Lactobacillus acidophilus được bổ sung
đến sự phát triển của ấu trùng cua biển. Do đó,
đề tài ảnh hưởng của liều lượng Lactobacilus
acidophilus lên tỷ lệ sống và biến thái của ấu
trùng cua biển (S. paramamosain Estampador,
1949) được thực hiện nhằm tìm ra liều lượng
Lactobacilus acidophilus bổ sung tối ưu nhất
cho ương ấu trùng cua biển.
4 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Số 4/2019
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức được bố trí
hồn tồn ngẫu nhiên trên các bể nhựa chứa
60 lít nước với mật độ vi khuẩn Lactobacilus
acidophilus khác nhau, mỗi nghiệm thức được
lặp lại 3 lần. Chế phẩm sinh học Lactobacilus
acidophilus (Han Wha Pharma, Hàn Quốc)
được bổ sung định kỳ 3 ngày/lần, với mật độ
vi khuẩn theo từng nghiệm thức thí nghiệm.
Nước ương có độ mặn 26 ppt được mua từ cửa
biển Gành Hào – Bạc Liêu. Ấu trùng Zoea1
dùng cho thí nghiệm thu từ nguồn cua mẹ mua
tại các vuông nuôi tôm quảng canh ở huyện
Đầm Dơi, Cà Mau về nuôi vỗ và sinh sản. Ấu
trùng được ương với mật độ 200 con/L. Trong
suốt thời gian ương, bể ương được sục khí liên
tục và thay nước 3 ngày/lần, mỗi lần thay 25%
lượng nước ương. Sau khi ấu trùng Megalop
chuyển sang Cua1 hoàn tồn thì thu hoạch tồn
bộ cua con. Ấu trùng cua được cho ăn Artemia
Vĩnh Châu 4 lần/ngày (lúc 6 giờ, 10 giờ, 14
giờ, 18 giờ) với chế độ cho ăn được trình bày
trong Bảng 1. Trình bày cụ thể các loại thức ăn
là Artemia đã sử dụng
- Nghiệm thức 1 (NT1): Bổ sung
Lactobacillus acidophilus với mật độ 104
CFU/mL
- Nghiệm thức 2 (NT2): Bổ sung
Lactobacillus acidophilus với mật độ 105
CFU/mL
- Nghiệm thức 3 (NT3): Bổ sung
Lactobacillus acidophilus với mật độ 106
CFU/mL
Giá thể (lưới, chùm dây nylon…) được bố
trí trong bể ương với diện tích 4 m² giá thể/m²
bể ương khi ấu trùng chuyển sang giai đoạn
Megalop.
Các yếu tố môi trường như nhiệt độ được
đo bằng máy đo pH-Nhiệt độ vào lúc 7 giờ
và 14 giờ. TAN và Nitrit được đo 3 ngày/lần
bằng phương Indophenol blue và phương pháp
Dianozium.
Mật độ vi khuẩn tổng và vi khuẩn Vibrio
sp. trong nước được xác định 3 ngày/lần. Mẫu
nước được cấy vào đĩa môi trường TCBS cho
vi khuẩn Vibrio và môi trường NA chuyên biệt
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
Bảng 1. Thức ăn và chế độ cho ăn của ấu trùng cua trong thí nghiệm
Giai đoạn
Zoae1
Zoae2
Zoae3
Zoae4
Zoae5
Megalop
Cua1
Artemia
bung dù
2,5 g/m3/lần
3 g/m3/lần
Ấu trùng Artemia
Ấu trùng Artemia giàu Artemia
hóa DHA
khối
sinh
5 g/m3/lần
6 g/m3/lần
8 g/m3/lần
30 g/m3/lần
40 g/m3/lần
cho tổng vi khuẩn, dùng que tán đều đến khi
mẫu khô. Ủ trong tủ ấp ở nhiệt độ 28°C và
kiểm tra kết quả phân lập sau 24 giờ. Số khuẩn
lạc tổng cộng được đếm trên những đĩa petri
và được tính bằng đơn vị hình thành khuẩn lạc/
mL mẫu nước.
Số tế bào/mL (CFU/mL) = số khuẩn lạc x
độ pha loãng x 10
Tăng trưởng của ấu trùng Zoea1, Zoea2,
Zoea3, Zoea4, Zoea5, Megalop được đo chiều
dài tổng bằng kính hiển vi quang học có thước
đo trắc vi thị kính. Đo chiều rộng mai (CW) đối
với Cua1. Mỗi nghiệm thức đo 30 con (Nguyễn
Cơ Thạch, 1998).
Tỷ lệ biến thái của ấu trùng được xác định
mỗi 3 ngày/lần bằng phương pháp dùng cốc
thủy tinh 250 ml lấy mẫu nước ương có ấu
trùng (nước ương và ấu trùng được sục khí đều)
định lượng số ấu trùng trong cốc, mỗi bể được
định lượng 3 lần/bể. Chỉ số biến thái được tính
theo cơng thức
LSI = (N1 x n1 + N2 x n2 +…+ Ni x ni)/(n1
+ n2 +...+ ni)
Trong đó: N1, N2…Ni: giai đoạn ấu trùng;
n1, n2…ni: số ấu trùng ở giai đoạn tương ứng.
Tỷ lệ sống của ấu trùng ở giai đoạn Zoea5
được xác định bằng phương pháp dùng cốc 250
ml lấy đầy nước ương có ấu trùng và đếm toàn
bộ ấu trùng trong cốc, mỗi bể được định lượng
3 lần. Giai đoạn Megalopa và Cua1 được đếm
toàn bộ số lượng trong bể tương ứng với mỗi
giai đoạn. Tỷ lệ sống được tính bằng cơng thức
sau:
Tỷ lệ sống (%) = Số ấu trùng thu được/số ấu
trùng bố trí x 100%
Các giá trị thu thập được tính tốn các giá
trị trung bình, độ lệch chuẩn bằng phần mềm
Excel, so sánh sự khác biệt giữa các nghiệm
thức theo phương pháp phân tích ANOVA một
nhân tố (phép thử Duncan) thơng qua phần
mềm SPSS 16.0 ở mức ý nghĩa (p<0,05).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
1. Các yếu tố môi trường
Biến động các yếu tố môi trường của bể
trong suốt quá trình thí nghiệm được trình bày
ở Bảng 2.
Bảng 2. Các yếu tố môi trường trong thí nghiệm
Nghiệm thức
NT1 (104 CFU/
mL)
NT2 (105 CFU/
mL)
NT3 (106 CFU/
mL)
Nhiệt độ (oC)
7 giờ
14 giờ
7 giờ
pH
14 giờ
Nitrit
(mg/L)
TAN (mg/L)
28,2±0,05
29,7±0,05
7,80 – 7,84 7,84 – 7,88
0,33±0,01a
0,47±0,04a
28,1±0,01
29,7±0,07
7,95 – 7,96 7,90 – 8,03
0,21±0,07a
0,44±0,03a
28,2±0,03
29,6±0,01
8,04 – 8,08 8,05 – 8,09
0,25±0,02a
0,46±0,01a
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 5
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh
trưởng và phát triển ấu trùng cua biển. Ấu trùng
cua biển phát triển bình thường khi nhiệt độ nước
bể ương nằm trong khoảng 25 – 30 ºC (Zeng
and Li, 1992). Nhiệt độ trong khoảng 29 – 30
ºC, sẽ rút ngắn thời gian lột xác và biến thái của
ấu trùng (Nurdiani and Zeng, 2007; Qiao ctv.
2010). Qua Bảng 2 cho thấy, nhiệt độ giữa các
nghiệm thức tương đối ổn định từ 28,1 – 29,7
ºC. Tóm lại, khoảng dao động này nằm trong
khoảng thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng.
pH là yếu tố môi trường ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của ấu trùng các lồi giáp xác.
pH thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng cua
biển dao động trong khoảng 7,0 – 8,5 (Nguyễn
Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004;
Nguyễn Cơ Thạch, 1998). Như vậy, pH của các
nghiệm thức trong thí nghiệm dao động trong
khoảng 7,82 – 8,07 nằm trong khoảng thích
hợp cho sự phát triển của ấu trùng.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, hàm lượng
nitrit giữa các nghiệm thức dao động từ 0,21
– 0,33 mg/L và khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Theo Seneriches – Abiera
(2007), nồng độ NO2- an toàn cho từng giai
đoạn ấu trùng cua dao động từ 2,55 mg/L đến
6,99 mg/L. Như vậy hàm lượng nitrit trong thí
nghiệm vẫn khơng ảnh hưởng bất lợi đến sự
phát triển của ấu trùng.
Hàm lượng TAN trong suốt thời gian thí
nghiệm khơng dao động lớn giữa các nghiệm
Số 4/2019
thức (p>0,05) và nằm trong khoảng 0,46 đến
0,48 mg/L. Nghia (2004) đã khuyến cáo, hàm
lượng TAN trong bể ương ấu trùng cua không
nên vượt quá 1 mg/L. Như vậy hàm lượng TAN
ở các nghiệm thức đều nằm trong khoảng thích
hợp cho sự phát triển của ấu trùng cua biển.
2. Phân tích vi sinh
Mật độ vi khuẩn tổng cộng cao nhất ở
nghiệm thức bổ sung Lactobacillus acidophilus
với mật độ 106 CFU/ml và khác biệt có ý nghĩa
(p<0,05) với hai nghiệm thức cịn lại (Bảng 3).
Kết quả phân tích mẫu cũng cho thấy mật độ vi
khuẩn Lactobacillus acidophilus bổ sung vào
bể ương càng tăng thì mật độ vi khuẩn Vibrio
sp càng thấp và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05)
so với nghiệm thức còn lại. Điều này cho thấy
bổ sung vi khuẩn Lactobacillus acidophilus
sẽ kiểm soát được vi khuẩn Vibrio sp. Theo
Lavilla-Pitogo và ctv. (2001), mật độ vi khuẩn
Vibrio harveryi trong bể ương ấu trùng cua
biển không được lớn hơn 10² CFU/mL. Kết
quả Bảng 3 cho thấy, mật độ vi khuẩn Vibrio
sp. khá cao (0,21 x 10³ – 0,73 x 10³ CFU/mL),
nhưng chưa ảnh hưởng bất lợi đến ấu trùng có
lẽ do mật độ vi khuẩn Vibrio harveyi trong bể
ương thấp. Kết quả này phù hợp với nhận định
của Trần Thị Tuyết Hoa và ctv. (2004), khả
năng gây độc của Vibrio tùy thuộc vào từng
chủng vi khuẩn Vibrio nhưng mật độ vi khuẩn
Vibrio spp trong bể ương 105 – 107 CFU/mL sẽ
gây độc hầu hết ấu trùng thủy sản.
Bảng 3. Mật độ vi khuẩn trong môi trường nước ương
Nghiệm thức
NT1 (104 CFU/mL)
NT2 (105 CFU/mL)
NT3 (106 CFU/mL)
Trung bình
Vi khuẩn tổng (CFU/mL)
Vibrio sp. (CFU/mL)
5a
1,6 x 10
0,73 x 103a
1,9 x 105a
0,63 x 103a
4,2x 105b
0,21 x 103b
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
3. Tỷ lệ biến thái và sinh trưởng của ấu trùng
3.1. Tỷ lệ biến thái
Sự phát triển của ấu trùng cua biển khác
biệt không lớn giữa các nghiệm thức (Bảng 4).
Sau 6 ngày ương tỷ lệ chuyển Zoea3 cao nhất ở
nghiệm thức bổ sung 106 CFU/mL Lactobacilus
acidophilus (73) khác biệt không có ý nghĩa
6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
(p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Ngày
ương thứ 9, tỷ lệ ấu trùng chuyển giai đoạn
Zoea4 cao nhất ở nghiệm thức 104 CFU/mL
Lactobacilus acidophilus (70,9) khác biệt có
ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức 105
CFU/mL Lactobacilus acidophilus (68,7) và
105 CFU/mL Lactobacilus acidophilus (66,4).
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
Bảng 4. Tỷ lệ biến thái của ấu trùng cua biển qua các giai đoạn
Zoea5
(12 ngày)
Megalop
(15 ngày)
68,5 ± 5,09ab 70,9 ± 10,7a
58,9 ± 8,39a
17,6 ± 3,85a
47,8 ± 1,92a
61,9 ± 23,4a
68,7 ± 3,33a
65,6 ± 13,9a
17,8 ± 1,94a
45,5 ± 1,92a
73,0 ± 3,33b
66,4 ± 3,85a
63,3 ± 5,77a
16,9 ± 1,92a
Nghiệm thức
Zoea2
(3 ngày)
Zoea3
(6 ngày)
NT1 (104 CFU/mL)
47,8 ± 3,85a
NT2 (105 CFU/mL)
NT3 (106 CFU/mL)
Zoea4
(9 ngày)
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Ấu trùng có xu hướng lột xác sớm hơn và biến
thái tốt hơn vào giai đoạn Zoea5 (sau 12 ngày
ương), khi các bể ương được bổ sung định kỳ
105 và 106 CFU/mL Lactobacilus acidophilus,
với tỷ lệ biến thái lần lượt là 65,6 và 63,3 khác
biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức
bổ sung 104 CFU/mL Lactobacilus acidophilus
(58,9). Tỷ lệ ấu trùng Megalop xuất hiện sau
15 ngày ương dao động từ 16,9 – 17,8 và
khác biệt khơng có ý nghĩa (p>0,05) giữa các
nghiệm thức. Theo Nghia et al (2007), ấu trùng
cua mất 16 - 18 ngày cho các giai đoạn Zoea
và 7 – 8 ngày cho giai đoạn Megalop. Đồng
thời tác giả cũng nhận định, ngồi giai đoạn
Zoea1, Megalop và Cua1 thì các giai đoạn cịn
lại của ấu trùng cua biển ln tồn tại ở cả 2 giai
đoạn Zoea cùng thời điểm. Nhìn chung, thời
gian biến thái của các nghiệm thức này ngắn
và chỉ số biến thái của ấu trùng (LSI) cũng cho
thấy ấu trùng chuyển giai đoạn đồng đều ở các
nghiệm thức, đặc biệt ở nghiệm thức bổ sung
định kỳ 106 CFU/mL vi khuẩn L. acidophilus
có sự chuyển giai ổn định qua từng giai đoạn
của ấu trùng cua biển
3.2. Sinh trưởng của ấu trùng qua các giai đoạn
Chiều dài của ấu trùng qua các giai đoạn
giữa các nghiệm thức tương đối đồng đều nhau
và khác biệt khơng có ý nghĩa (p>0,05) giữa
các nghiệm thức (Bảng 5). Tuy nhiên vào giai
đoạn Zoea3 chiều dài của ấu trùng có sự khác
biệt (p<0,05) giữa các nghiệm thức, chiều dài
của ấu trùng cao nhất ở nghiệm thức bổ sung
định kỳ 104 CFU/mL vi khuẩn Lactobacilus
acidophilus (2,68 mm) và thấp nhất ở nghiệm
thức bổ sung định kỳ 106 CFU/ml vi khuẩn
Lactobacilus acidophilus (2,65 mm). Chiều
rộng mai CW Cua1 lớn nhất ở nghiệm thức bổ
sung 105 CFU/mL Lactobacilus acidophilus
(3,13 mm) nhưng khác biệt khơng có ý nghĩa
(p>0,05) với các nghiệm thức cịn lại. Theo
Nguyễn Cơ Thạch (1998) kích thước trung
bình của ấu trùng cua biển ở các giai đoạn Zoea
1, 2, 3, 4, 5 lần lượt là 1,25; 1,53; 1,93; 2,75 và
3,67 mm. Theo Nguyễn Thanh Phương và Trần
Ngọc Hải (2004) kích cỡ ấu trùng cua ở các
giai đoạn Zoea1, Zoea2, Zoea3, Zoea4, Zoea5,
Megalopa và Cua1 lần lượt là 1,65; 2,18; 2,70;
3,54; 4,50; 4,01 và 2.0 đến 3.0 mm. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, kích thước của ấu trùng
cua biển được cải thiện đáng kể khi được bổ
sung lợi khuẩn vào bể ương.
Bảng 5. Chiều dài (mm) các giai đoạn ấu trùng cua biển
Giai đoạn
Zoea1 (mm)
Zoea2 (mm)
Zoea3 (mm)
Zoea4 (mm)
Zoea5 (mm)
Megalop (mm)
Cua1 (mm)
NT1 (104 CFU/mL)
1,20 ± 0,00a
2,15 ± 0,01a
2,68 ± 0,01b
3,68 ± 0,01b
4,39 ± 0,01a
4,21 ± 0,01a
3,10 ± 0,02a
NT2 (105 CFU/mL)
1,20 ± 0,00a
2,15 ± 0,01a
2,66 ± 0,00a
3,69 ± 0,00b
4,44 ± 0,00b
4,21 ± 0,01a
3,13 ± 0,02a
NT3 (106 CFU/mL)
1,20 ± 0,00a
2,15 ± 0,01a
2,65 ± 0,01a
3,59 ± 0,00a
4,40 ± 0,01a
4,23 ± 0,01b
3,11 ± 0,02a
Các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
4. Tỷ lệ sống
Tỷ lệ sống giữa các nghiệm thức có sự thay
đổi giữa các giai đoạn phát triển của ấu trùng
cua biển (Bảng 6). Tỷ lệ sống ở cuối giai đoạn
Zoea5 tương đối đồng đều giữa các nghiệm
thức và cao nhất (73,5%) ở các bể được bổ sung
định kỳ 105 CFU/mL vi khuẩn Lactobacilus
acidophilus khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với
các nghiệm thức còn lại. Tuy nhiên, tỷ lệ sống
ở giai đoạn Megalop có sự chênh lệch cao
giữa các nghiệm thức và cao nhất ở nghiệm
thức bổ sung định kỳ 106 CFU/mL vi khuẩn
Lactobacilus acidophilus (45,1%) khác biệt có
ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức bổ sung
định kỳ 104 CFU/mL và 105 CFU/mL vi khuẩn
Lactobacilus acidophilus lần lượt là (36,2%)
và (40,1%).
Tỷ lệ sống ở giai đoạn Cua1 giữa các nghiệm
thức dao động trong khoảng 8,12 – 8,54% và
khác biệt khơng có ý nghĩa (p>0,05). Theo
Nguyễn Việt Bắc và Dương Xuân Đào (2016),
tỷ lệ sống của ấu trùng từ giai đoạn Zoea1 –
Cua1 dao động từ 8,88 đến 10,04% khi chế
phẩm sinh học được bổ sung vào bể ương ấu
trùng, cao hơn nghiệm thức không bổ sung chế
phẩm sinh học (7,51%). Tỷ lệ sống đến Cua1
của nghiên cứu này thấp (8,12 – 8,54%), có
thể do tập tính ăn nhau của ấu trùng Megalop,
ấu trùng Megalop lột xác trước có thể ăn ấu
trùng Megalop lột sau đó. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu này cao hơn với các quy trình sử
dụng kháng sinh trong sản xuất giống hiện nay
ở Đồng bằng sông Cửu Long (5 – 7%) (Trần
Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009), tỷ
lệ sống giữa các nghiệm thức có sự thay đổi
giữa các giai đoạn phát triển của ấu trùng cua
biển (Bảng 6).
Tỷ lệ sống ở cuối giai đoạn Zoea5 tương
đối đồng đều giữa các nghiệm thức. Tỷ lệ sống
cao nhất (73,5%) ở các bể được bổ sung định
kỳ 105 CFUCFU/ml vi khuẩn Lactobacillus
Số 4/2019
acidophilus khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với
các nghiệm thức còn lại. Tỷ lệ sống thấp nhất
ở nghiệm thức bổ sung định kỳ 104 CFUCFU/
ml vi khuẩn Lactobacillus acidophilus (69,9%)
nhưng nghiệm thức này khác biệt khơng có
ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nghiệm thức
bổ sung định kỳ 106 CFUCFU/ml vi khuẩn
Lactobacillus acidophilus (70,4%).
Tuy nhiên, tỷ lệ sống ở giai đoạn Megalop
có sự chênh lệch khá cao giữa các nghiệm
thức. Tỷ lệ sống cao nhất là ở nghiệm thức
bổ sung định kỳ 106 CFUCFU/ml vi khuẩn
Lactobacillus acidophilus (45,1%) khác biệt có
ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức bổ sung
định kỳ 104 CFUCFU/ml và 105 CFUCFU/ml
vi khuẩn Lactobacillus acidophilus lần lượt
là (36,2%) và (40,1%) (p>0,05). Tỷ lệ sống
ở giai đoạn Cua1 giữa các nghiệm thức dao
động trong khoảng 8,12 – 8,54% và khác biệt
khơng có ý nghĩa (p>0,05). Theo Nguyễn Việt
Bắc và Dương Xuân Đào (2016), tỷ lệ sống
của ấu trùng từ giai đoạn Zoea1 – Cua1 dao
động từ 8,88 đến 10,04% khi chế phẩm sinh
học được bổ sung vào bể ương ấu trùng. Tỷ lệ
sống đến Cua1 của nghiên cứu này thấp (8,12
– 8,54%), có thể do tập tính ăn nhau của ấu
trùng Megalop, ấu trùng Megalop lột xác trước
có thể ăn ấu trùng Megalop lột sau đó. Mặc dù
chưa có nghiên cứu chính xác mỗi một ấu trùng
Megalop ăn bao nhiêu cá thể lột xác nhưng theo
Nghia (2004) thì mỗi ngày một con Megalop sẽ
ăn 114 cá thể nauplius Artemia. Kết quả này
cho thấy cần phải có biện pháp hiệu quả hơn
nữa để giảm đi sự ăn nhau của ấu trùng khi
ương. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cao
hơn với các quy trình sử dụng kháng sinh trong
sản xuất giống hiện nay ở Đồng bằng sông
Cửu Long (5 – 7%) (Trần Ngọc Hải và Nguyễn
Thanh Phương, 2009), điều này cho thấy hồn
tồn có thể sử dụng men vi sinh để thay thế
kháng sinh trong ương ấu trùng cua biển.
Bảng 6. Tỷ lệ sống của ấu trùng cua (%) qua các giai đoạn Zoea5, Megalop và Cua1
Nghiệm thức
NT1 (104 CFU/mL)
NT2 (105 CFU/mL)
NT3 (106 CFU/mL)
Tỷ lệ sống của ấu trùng cua (%)
Megalop (17 ngày)
Cua1 (26 ngày)
Zoea5 (14 ngày)
a
a
69,9 ± 0,62
36,2 ± 1,64
8,12 ± 1,48a
b
ab
73,5 ± 0,57
40,1 ± 5,22
8,51 ± 1,56a
a
b
70,4 ± 0,72
45,1 ± 1,69
8,54 ± 0,26a
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Các yếu tố môi trường trong suốt thời gian
thí nghiệm ln nằm trong khoảng thích hợp
cho sự phát triển của ấu trùng cua biển Scylla
paramamosain.
Sử dụng Lactobacillus acidophilus trong
ương ấu trùng cua biển giúp ức chế vi khuẩn
Số 4/2019
có hại, cải thiện tỷ lệ biến thái, tăng trưởng và
tỷ lệ sống từ Zoea1 đến Cua1, đặc biệt khi bể
ương được bổ sung Lactobacillus acidophilus
với liều lượng 105 CFU/ml.
Cần có nghiên cứu ảnh hưởng của các dịng
Lactobacillus lên giàu hóa thức ăn tươi sống
đến tỷ lệ sống và biến thái ấu trùng cua biển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Việt Bắc và Dương Xuân Đào, (2016). Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học trong ương ấu
trùng cua biển (Scylla paramamosain Estampador 1949). Kỹ yếu hội nghị khoa học trẻ thủy sản toàn quốc lần
thứ VII, 15 - 24
2. Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2009). Hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của các trại
sản xuất giống cua biển. Tạp chí khoa học Đại Học Cần Thơ: 279 – 288.
3. Trần Thị Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Thu Hằng, Đặng Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Thanh Phương (2004).
Thành phần loài và khả năng gây bệnh của nhóm vi khuẩn Vibrio phân lập từ hệ thống ương tơm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii Deman, 1879). Tạp chí khoa học Đại Học Cần Thơ. 153 – 165.
4. Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004). Giáo trình kỹ thuật sản xuất giống và nuôi giáp xác.
Khoa Thủy Sản, Đại Học Cần Thơ.
5. Nguyễn Cơ Thạch (1998). Đặc điểm sinh học sinh sản và quy trình sản xuất cua giống lồi Scylla
paramamosain Estampardo 1949. Tuyển tập các cơng trình nghiên cứu khoa học công nghệ - trung tâm nghiên
cứu thủy sản III: 227 – 266.
Tiếng Anh
6. Cabello, F.C. (2006). Heavy use of prophylactic antibiotics in aquaculture: a growing problem for
human and animal health and for the environment. Environmental Microbiology, 8: 1137-1144.
7. Gatesoupe, F.J. (1999). The use of probiotics in aquaculture. Aquaculture, 180:147-165.
8. Gomez-Gil, B., Roque, A., & Tumbull, J.F. (2000). The use and selection of probiotic bacteria for use
in the culture of larval aquatic organisms. Aquaculture, 191 (1-3):259-270.
9. Lavilla-Pitogo, C.R., Albright, L.J., Paner, M.G. & Suñaz, N.A. (1992). Studies on the sources of
luminescent Vibrio harveyi in Penaeus monodon hatcheries. In: Shariff, M., Subasinghe, R.P. & Arthur, J.R.
(Editors) Diseases in Asian Aquaculture I, Fish Health Section, Asian Fisheries Society, Manila, Philippines:
157-164.
10. Lavilla-Pitogo, C. R., Marcial, H.S., Pedrajas, S.A.G., Quinitio, E.T. & Millamena, O.M. (2001).
Problems associated with tank-held mud crab (Scylla spp.) broodstock. Asian Fisheries Science, 14: 217 - 224.
11. Lavilla-Pitogo, C. R. & de la Peña, L.D. (2004). Diseases in eggs and larvae. In: Lavilla-Pitogo, C.
R. and L.D. de la Peña (Editors), 2004. Diseases in farmed mud crabs Scylla spp.: diagnosis, prevention, and
control. Tigbauan, Iloilo, Philippines: SEAFDEC Aquaculture Department: 11 – 36.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
12. Nghia, T.T. (2004). Optimisation of mud crab (Scylla paramamosain) larviculture in Vietnam. Ph. D.
thesis, Faculty of Agriculture and Applied Biology Science, University of Ghent, Belgium, 192 pp
13. Nghia, T.T., Wille, M., Binh, T.C., Thanh, H.P., Danh, N.V. & Sorgeloos, P. (2007). Improved
techniques for rearing mud crab Scylla paramamosain (Estampador 1949) larvae. Aquaculture Research, 38:
1539 – 1553
14. Nurdiani, R. & Zeng, C. (2007). Effects of temperature and salinity on the survival and development
of mud crab, Scylla serrata (Forsskål), larvae. Aquaculture Research, 38: 1529 – 1538.
15. Moriarty, D. J. (1999). Disease control in shrimp aquaculture with probiotic bacteria. In Proceedings
of the 8th international symposium on microbial ecology (pp. 237-243). Halifax, Canada: Atlantic Canada
Society for Microbial Ecology.
16. Qiao, Z., Wang, J.G., Yu, Z. L., Jiang, K. J., & Ma, L. B (2010). The novel hatchery facilities based on
main effect factors of seedling rearing of mud crab (Scylla spp.) in China. Journal of Life Sciences, 4: 1334 –
7391.
17. Seneriches-Abiera, M.L (2007). Acute toxicity of nitrite to mud crab Scylla serrata (Forsska°l) larvae.
Aquaculture Research, 38: 1495 – 1499.
18. Sumon, M. S., Ahmmed, F., Khushi, S. S., Ahmmed, M. K., Rouf, M. A., Chisty, M. A. H., and Sarower,
M. G. (2018). Growth performance, digestive enzyme activity and immune response of Macrobrachium
rosenbergii fed with probiotic Clostridium butyricum incorporated diets. Journal of King Saud University Science, 30(1): 21–28.
19. Talpur, A.D., Memon, A. J., Khan, M. I., Ikhwanuddin, M., Daniel, M. D., & Abol-Munafi, A. B.
(2011). Pathogenicity and antibiotic sensitivity of pathogenic flora associated with the gut of blue swimming
crab, Portunus pelagicus (Linnaeus, 1758). Journal of Animal and Veterinary Advances, 10: 2106-2119.
20. Thao, N. T. T., Dao, T. M. D., & Vo, M. T. (2012). Effects of probiotic supplementations on growth
and survival rate of juvenile clam (Meretrix lyrata). Can Tho University Journal of Science, 21b: 97–107.
Zeng, C. & Li, S. (1992). Effects of temperature on survival and development of the larvae of Scylla serrata.
Shuichan Xuebao, 16: 213 – 221.
10 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
THÔNG BÁO KHOA HỌC
ĐÁNH GIÁ HỆ SINH THÁI RẠN SAN HƠ HÒN MUN QUA KHẢO SÁT DU
KHÁCH LẶN BIỂN NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
AN ASSESSMENT OF HON MUN CORAL REEF BASING ON
FOREIGN SCUBA-DIVING TOURISTS SURVEY
Nguyễn Văn Quỳnh Bơi¹, Lê Minh Thư¹
Ngày nhận bài: 07/08/2019; Ngày phản biện thông qua: 17/10/2019; Ngày duyệt đăng: 16/11/2019
TÓM TẮT
Thuộc khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang, rạn san hơ Hịn Mun có tầm quan trọng quốc tế và đa dạng sinh
học cao nhất Việt Nam với 1.500 lồi sinh vật trong số 2.000 lồi san hơ và sinh vật biển trên toàn thế giới
(Nguyễn Văn Hoàng, 2012). Hiện nay, các hoạt động du lịch như lặn có khí tài (scuba diving) và các hoạt động
bơi lặn tham quan khác đóng vai trị quan trọng nhằm tạo nguồn thu phục vụ cơng tác bảo tồn đều có tác động
đến rạn san hô. Để đánh giá hiệu quả của công tác này, nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát ý kiến đánh
giá của du khách lặn biển có khí tài đối với hệ sinh thái rạn san hơ Hòn Mun theo phương pháp khảo sát ngẫu
nhiên. Các đánh giá của du khách cho thấy rạn san hơ Hịn Mun khơng ở tình trạng tốt nhất. Nếu được bảo
tồn hợp lý, Hòn Mun vẫn là một điểm du lịch lặn biển hấp dẫn đối với du khách trong và ngồi nước với 98%
du khách có mong muốn quay trở lại.
Từ khóa: Rạn san hơ Hịn Mun, lặn biển có khí tài, khảo sát ngẫu nhiên, bảo tồn, quản lý
ABSTRACT
Of the marine protected area of Nha Trang Bay, Hon Mun coral reef is of international importance and
has the highest biodiversity of Vietnam, with 1,500 species out of 2,000 coral species and marine creatures
(Nguyen Van Hoàng, 2012) in the world. Currently, tourism activities such as scuba diving and other sightseeing
diving ones that play important role to generate revenue for conservation activities have impacts on coral
reefs. In order to evaluate the effectiveness of this work, the study was conducted to survey the scuba diving
tourists’ assessments about Hon Mun coral reef ecosystem by random method. Tourists’ assessments show that
Hon Mun coral reef is not in the best condition. If properly conserved, Hon Mun is still an attractive diving
destination for domestic and foreign tourists with 98% wishing to return.
Key words: Hon Mun coral reef, scuba diving, random survey, conservation, management
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Wells and Price (1992) nhận định rằng
san hô là các sinh vật biển thuộc lớp san hô
(Anthozoa) tồn tại dưới dạng các thể polyp
nhỏ giống hải quỳ, thường sống thành những
quần thể gồm những cá thể giống hệt nhau.
Một hệ sinh thái rạn san hô bao gồm một
tập hợp của nhiều loại thực vật và động vật
ở vùng biển nhiệt đới nơi san hô tạo thành
các rạn. San hô cứng, thành phần dễ thấy nhất
của rạn san hô, được cấu trúc bởi các động
¹ Viện Ni trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
vật biển nhỏ được gọi là polyp san hô có khả
năng tạo ra một bộ xương ngồi (exoskeleton)
bằng carbonat can-xi. Các polyp phân chia khi
chúng lớn lên và tạo thành các tập đồn san hơ
phức tạp được tạo thành từ hàng triệu polyp
được hợp nhất bởi các bộ xương của chúng
(De Silva and Ridzwan, 1982).
Các rạn san hô phát triển mạnh ở vùng
nước nông của vùng biển nhiệt đới với nhiệt
độ tối ưu từ 26ºC đến 27ºC. Các rạn san hơ đã
tham gia hình thành và bảo vệ hàng ngàn hịn
đảo. Chúng cũng có vai trị quan trọng đối với
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 11
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
vùng bờ biển trong việc bảo vệ đất đai. Thực
tế, rạn có ý nghĩa thật sự đối với các cộng đồng
ven biển và những quốc gia nhiệt đới. Các rạn
san hô được coi là hệ sinh thái có năng suất cao
nhất thế giới. Chúng chiếm khoảng 0,1% diện
tích bề mặt trái đất nhưng nghề cá liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp với rạn san hô được
đánh giá chiếm khoảng 10% sản lượng nghề
cá trên thế giới (Võ Sĩ Tuấn và cộng sự, 2008),
thậm chí lên đến 12% (Wells and Price, 1992).
Bên cạnh các lợi ích nêu trên, du lịch liên
quan đến rạn san hơ như lặn có khí tài (Scuba
diving) và các hoạt động bơi lặn tham quan
khác đóng vai trị quan trọng trong nền kinh
tế của nhiều quốc gia. Võ Sĩ Tuấn và cộng sự
(2008) nhận định rằng rạn san hô là “nguồn lợi
to lớn phục vụ cho giải trí và du lịch, và được
coi là một giá trị văn hóa hiện đại”. Tuy nhiên,
việc khai thác các rạn san hô cho mục đích du
lịch phải bền vững và được quản lý phù hợp để
đảm bảo rằng các rạn san hô không bị hư hại
(Lim, 1998).
Thuộc khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang,
rạn san hơ ở Hịn Mun có cấu trúc rạn thuộc
vào dạng rạn riềm khơng điển hình và hình thái
phụ thuộc vào địa hình đáy biển (Võ Sĩ Tuấn và
cộng sự, 2006). Theo các tác giả này, diện tích
rạn san hơ đã khảo sát ước tính vào khoảng gần
200 ha với độ phủ san hô cứng trong năm 2004
dao động từ 6,9 – 58,1%. Tổng thể, rạn san hơ
Hịn Mun có đến 1.500 lồi sinh vật trong số
2.000 lồi san hơ và sinh vật biển trên tồn thế
giới (Nguyễn Văn Hoàng, 2012).
Hiện nay, các hoạt động du lịch liên quan
đến rạn san hơ Hịn Mun, đặc biệt là số lượng
du khách và tần suất lặn có khí tài đang ngày
càng gia tăng. Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến
hệ sinh thái rạn san hô nếu không được tổ chức
tốt. Theo đó, để đánh giá hiệu quả của cơng tác
bảo tồn, bên cạnh việc khảo sát và nhận định
của những nhà chuyên môn về san hô, đa dạng
sinh học,…. với tư cách là người thụ hưởng
(mua dịch vụ) đồng thời cũng có thể là tác nhân
gây ảnh hưởng, ý kiến của du khách lặn biển
trực tiếp tham quan rạn san hơ tại Hịn Mun
cần được xem xét. Điều này trở nên cần thiết
khi xem xét mối quan hệ giữa vấn đề bảo tồn và
12 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Số 4/2019
tình trạng rạn san hơ nhằm khai thác bền vững
các dịch vụ của rạn. Trên cơ sở này, nghiên cứu
được thực hiện nhằm khảo sát ý kiến đánh giá
của du khách lặn biển đối với hiện trạng hệ
sinh thái rạn san hơ Hịn Mun. Khảo sát này
tập trung vào các du khách lặn biển có khí tài,
là những người có điều kiện quan sát trực tiếp
rạn san hô với thời gian dài nên có thể đưa ra
các đánh giá có độ tin cậy cao.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khảo sát được tiến hành từ tháng 3 đến
tháng 6 năm 2019 theo phương pháp khảo sát
ngẫu nhiên các du khách lặn biển có khí tài
(scuba diving) dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn
(questionnaire) được thiết kế bằng Anh ngữ.
Nội dung của bộ câu hỏi phỏng vấn tập trung
vào các đặc trưng của hệ sinh thái rạn hô bao
gồm độ trong của nước, mức độ che phủ và
màu sắc của rạn, mức độ phong phú của quần
thể cá rạn,…
Số du khách lặn biển điều tra được tính theo
cơng thức: n=N/(1+N.e^2)
Với:
- n: kích cỡ mẫu
- N: tổng số du khách lặn biển ở tất cả các
điểm lặn tại rạn san hơ Hịn Mun trong năm
- e (hoặc ε): xác suất có khả năng gặp lại
sai số loại 2 (β) (thông thường là 10% - 0,1)
(Bhujel, 2008)
Dựa trên số liệu thống kê (được cung cấp
bởi Ban Quản lý cảng Cầu Đá, Nha Trang) là
23.359 du khách/năm, kích cỡ mẫu khảo sát
được xác định là 99 với độ tin cậy 95% và sai
số ± 10%. Thực tế, số lượng du khách lặn có
khí tài được khảo sát là 101. Mặc dù mục đích
khảo sát hướng đến du khách nước ngồi với
hy vọng rằng họ có thể cung cấp những đánh
giá có độ tin cậy khi có so sánh với các điểm
lặn khác trên thế giới. Tuy nhiên, do hạn chế về
thời gian khảo sát tại hiện trường và khó khăn
khi tiếp cận du khách nên kết quả nghiên cứu
này bao gồm cả những đánh giá của 8 (7,92%)
du khách có quốc tịch Việt Nam.
Ngồi ra, nghiên cứu cũng khảo sát ý kiến
của một số cán bộ thuộc Khu bảo tồn biển vịnh
Nha Trang với tính chất là người am hiểu (keyinformant) để bổ sung cho bài viết.
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
Hình 1. Bản đồ khu vực nghiên cứu
(Nguồn: ; ngày truy cập 1/5/2019)
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
1. Du lịch lặn biển tại Hòn Mun và vấn đề
quản lý
Với việc được thừa nhận là 1 trong 29 vịnh
đẹp nhất thế giới từ năm 2003, các dịch vụ du
lịch ở vịnh Nha Trang ngày càng gia tăng, đặc
biệt dịch vụ lặn biển là một trong những hoạt
động đang thu hút rất nhiều khách du lịch ở
đây. Với điều kiện thuận lợi là biển ít sóng và
khoảng cách khơng q xa (cách cảng Cầu Đá
khoảng 10 km), rạn san hơ Hịn Mun đã trở
thành điểm lặn có sức thu hút của Việt Nam.
So với những khu vực đã được đưa vào khai
thác du lịch lặn biển, nơi đây có nhiều điểm
lặn khác nhau với sự tập trung rất nhiều lồi
san hơ và các loài cá sặc sỡ. Theo ý kiến của
những người làm dịch vụ lặn biển tại Hòn
Mun, hoạt động này bắt đầu từ năm 1995 và
phát triển dần theo thời gian. Theo quy chế
hiện nay, hoạt động được phép tổ chức trong
khu bảo tồn với lệ phí nhất định (66.000 VND).
Ngoại trừ những ngày biển động do thời tiết
xấu, dịch vụ lặn biển được tổ chức quanh năm.
Dữ liệu của Nguyễn Văn Hoàng (2012) chỉ ra
rằng vào mùa cao điểm có đến 100 thuyền du
lịch với khoảng 5.000 – 6.000 du khách tắm
và lặn ngắm san hơ tại Hịn Mun. Khảo sát
của Nguyễn Thị Kim Phượng (2017) cho thấy
có 8 đơn vị cung cấp dịch vụ lặn biển tại Hòn
Mun với khoảng 205 du khách/ngày. Theo Ban
Quản lý cảng Cầu Đá, những ngày cao điểm, số
lượng khách lặn có khí tài xem san hô ở vùng
lõi khu bảo tồn biển lên đến 1.000 lượt. Hỗ trợ
cho khách lặn biển là hướng dẫn viên thuộc các
đơn vị tổ chức dịch vụ do Ban Quản lý khu bảo
tồn không đủ nhân lực để chịu trách nhiệm vấn
đề này. Theo nguyên tắc, nhằm tránh các ảnh
hưởng bất lợi cho rạn san hô, những du khách
khơng có chứng chỉ lặn (diver certification) cần
phải có người hướng dẫn đi kèm. Tuy nhiên,
khảo sát thực tế (Bảng 1) cho thấy rất khó quản
lý được vấn đề này.
Bảng 1. Một vài thông tin về các du khách lặn biển có khí tài (n=101)
Quốc
tịch
Giới tính
(Nam/nữ)
Tuổi
Chứng chỉ lặn biển
(Có/Khơng có)
9
73/28
21 – 51
3/98
Kinh nghiệm lặn biển (du khách)
Lần đầu
2 – 4 lần
≥ 5 lần
84
14
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 13
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Theo Nguyễn Văn Hồng (2012), với diện
tích mặt nước khai thác hoạt động du lịch tại
Hòn Mun dao động trong phạm vi 100.000
đến 120.000 m², sức tải tối đa lượng du khách
lặn có khí tài đối với rạn san hơ Hịn Mun dao
động trong khoảng 6.318 – 7.582 người/ngày.
Dựa trên kết quả khảo sát của Nguyễn Thị Kim
Phượng trong năm 217 và số lượng du khách
năm 2018 được cung cấp bởi Ban Quản lý cảng
Số 4/2019
Cầu Đá, có thể thấy hoạt động lặn biển có khí
tài tại Hịn Mun vẫn chưa đạt đến ngưỡng này.
Kết quả này chỉ ra rằng ảnh hưởng đến rạn san
hơ từ hoạt động lặn biển có khí tài có khả năng
gây nên bởi ý thức và kinh nghiệm lặn biển của
du khách hơn là số lượng du khách. Đồng thời
điều này cũng cho thấy rằng việc khai thác dịch
vụ này cần được tổ chức với sự hướng dẫn và
hỗ trợ tốt hơn.
Hình 2. Quốc tịch của các du khách lặn biển qua thời gian khảo sát.
Về khía cạnh quản lý, rạn san hơ Hịn Mun
thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt (vùng lõi)
được quy định bởi Nghị định 57-2008/NĐ-CP
ngày 2/5/2008 Ban hành quy chế quản lý các
Khu bảo tồn biển Việt Nam có tầm quan trọng
quốc gia và quốc tế. Hiện nay, tất cả các hoạt
động trong phạm vi Khu bảo tồn biển Vịnh
Nha Trang nói chung và khu vực Hịn Mun
nói riêng được quản lý theo Quy chế quản lý
chính thức của Ban quản lý Vịnh Nha Trang
ban hành ngày 9/12/2014 theo quyết định
3363/QĐ-UBND của UBND tỉnh Khánh Hịa.
Theo đó, hoạt động lặn biển có khí tài tại Hòn
Mun phải tuân thủ sự quản lý của Ủy ban
Nhân dân thành phố Nha Trang và hướng dẫn
của Ban Quản lý khu bảo tồn biển vịnh Nha
Trang (Mục 2-Điều 13 Quy chế quản lý vịnh
Nha Trang).
Từ năm 2015, Sở Tài ngun và Mơi trường
tỉnh Khánh Hịa cùng với Viện Hải dương học
Nha Trang và 3 doanh nghiệp bao gồm Cơng ty
14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Nhà nước Một
thành viên Yến Sào, Công ty TNHH Vinpearl
Nha Trang và Cơng ty Du lịch Trí Ngun đã
bắt đầu triển khai mơ hình doanh nghiệp tham
gia quản lý rạn san hơ vì mục đích du lịch
sinh thái (Võ Sĩ Tuấn và cộng sự, 2018) tại 3
điểm gần với Hòn Mun là Sáu Sao - Vinpearl,
Nam Hòn Tằm và Bãi Sạn - Hòn Miếu. Kết
quả đánh giá giai đoạn 2015 – 2018 cho thấy
tại khu vực nghiên cứu độ phủ san hô tăng lên
đáng kể trong giai đoạn 2015–2017 nhưng suy
giảm đột ngột từ 56,8% vào tháng 7 năm 2017
xuống còn 12,5% (giảm gần 80%) vào tháng
12 năm 2017 do bị ảnh hưởng nặng bởi bão
số 12/1997. Cùng với hiện trạng này là mật độ
cá rạn thấp, đặc biệt là nhóm cá có kích thước
từ 20 cm trở lên rất hiếm gặp. Điều này chỉ ra
rằng hoạt động quản lý Nhà nước vẫn còn bất
cập. Việc khai thác nguồn lợi diễn ra mọi lúc
mọi nơi và không thể kiểm soát (Võ Sĩ Tuấn và
cộng sự, 2018).
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
2. Đánh giá hệ sinh thái rạn san hơ Hịn Mun
của du khách lặn biển có khí tài
Những thảo luận về vấn đề này dựa trên
việc kết hợp kết quả thống kê về kinh nghiệm
lặn biển có khí tài và vùng biển tham quan của
các du khách. Ý kiến đánh giá hệ sinh thái rạn
san hơ Hịn Mun của du khách lặn biển có khí
tài được trình bày qua các bảng dưới đây.
Bảng 2. Đánh giá các đặc trưng hệ sinh thái rạn san hơ Hịn Mun và mức độ hài lịng
của du khách lặn biển có khí tài (n=101)
Đặc trưng của hệ sinh thái
Độ trong
Diện tích bao phủ của rạn san hô
Màu sắc của rạn san hô
Quần xã cá rạn san hơ
Mức độ hài lịng của du khách
Đánh giá
- Rất trong
- Trong
- Trung bình
- Kém
- Rất lớn
- Khá lớn
- Trung bình
- Nhỏ
- Rất đẹp
- Khá đẹp
- Trung bình
- Khơng đẹp
- Rất phong phú và đa dạng
- Khá phong phú và đa dạng
- Trung bình
- Kém phong phú và đa dạng
- Rất hài lịng
- Hài lịng
- Tương đối hài lịng
- Ít hài lịng
Kết quả khảo sát cho thấy diện tích bao phủ
của rạn san hơ được đánh giá “Trung bình”
chiếm ưu thế với 68,32% (69 ý kiến), trong đó
có 56 (55,45%) du khách lần đầu tham gia lặn
biển, 11 du khách tham gia lặn biển từ 2 – 4 lần
(10,89%) và 2 người tham gia lặn biển từ 5 lần
trở lên (1,98%) (Bảng 2). Ý kiến đánh giá này
có độ tin cậy cao do nhiều du khách có kinh
nghiệm lặn ở những vùng biển khác nhau của
Việt Nam cũng như trên thế giới đồng ý với
điều này. Theo đó, ý kiến này rất đáng được
quan tâm. Tỷ lệ đánh giá “Khá lớn” hầu như
chỉ bao gồm các du khách lặn biển lần đầu tiên
với 3 trong số 32 du khách thuộc nhóm này
Tỷ lệ (%)
0
100
0
0
0
31,68
68,32
0
0
29,7
70,3
0
0
47,52
52,48
0
24,75
71,29
3,96
0
(9,38%) đã có kinh nghiệm lặn biển ở các vùng
biển khác trên thế giới và 4 du khách khác có
kinh nghiệm lặn biển tại Ninh Vân, Bình Ba và
Phú Quốc.
Chỉ có 29,7% du khách lặn biển (30 người)
đánh giá màu sắc của rạn san hô ở mức “Khá
đẹp” trong khi 70,3% ý kiến (71 du khách)
cho rằng màu sắc rạn hơ Hịn Mun chỉ ở mức
“Trung bình” và khơng có du khách nào đánh
giá ở mức “Rất đẹp”. Trong số những ý kiến
đánh giá ở mức “Khá đẹp”, chỉ có 2 du khách
đã có kinh nghiệm lặn biển ở Úc và Hawai, tất
cả các trường hợp còn lại đều chưa từng lặn
tham quan ở bất kỳ nơi nào. Ngược lại 11 du
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
khách đã từng lặn biển ở các nơi khác trên thế
giới và tồn bộ 6 du khách có cơ hội lặn biển
ở những vùng khác tại Việt Nam đều cho rằng
màu sắc rạn hơ Hịn Mun chỉ ở mức “Trung
bình”. Điều này gợi lên một băn khoăn về tình
trạng phát triển rạn san hơ tại Hịn Mun.
Về đặc trưng quần xã cá rạn san hơ, mặc dù
ý kiến đánh giá “Trung bình” vẫn cao hơn “Khá
phong phú và đa dạng” khoảng 5%. Nhưng
nhận định “Khá phong phú và đa dạng” với 48
du khách (47,52%) trong đó có 10/14 du khách
lặn biển từ 2 – 4 lần và 2/3 du khách lặn biển từ
5 lần trở lên đánh giá. Ý kiến đánh giá “Trung
bình” chỉ có 4/14 du khách có kinh nghiệm lặn
từ 2 – 4 lần và 1/3 du khách lặn biển từ 5 lần trở
lên đánh giá. Điều này cho thấy rằng đánh giá
quần thể cá rạn san hơ Hịn Mun khá đa dạng
Số 4/2019
và phong phú là có cơ sở.
Kết quả khảo sát mức độ hài lòng của du
khách tham gia lặn biển được trình bày ở bảng
2 cho thấy 96% du khách cho ý kiến ở mức
“Hài lòng” và “Rất hài lòng”. Tỷ lệ số du
khách “Tương đối hài lịng” chỉ khoảng 4% và
khơng có du khách nào cho ý kiến là “Khơng
hài lịng”. Điều này chỉ ra các dịch vụ hệ sinh
thái khu vực vẫn đang duy trì ở mức ổn định và
nhiều du khách cho rằng lý do chọn Hịn Mun
chính là vì rạn san hơ, quần xã cá rạn và có sự
trải nghiệm, khám phá vơ cùng thú vị khi ở đây.
Vịnh Nha Trang là một nơi ít xuất hiện bão, kín
gió và ít sóng lớn nên rất thích hợp cho việc lặn
biển. Những ý kiến của du khách phù hợp với
điều kiện tự nhiên và đặc điểm của hệ sinh thái
rạn hơ Hịn Mun.
Bảng 3. Thống kê những vùng biển du khách đã lặn tham quan trên thế giới và so sánh với vịnh Nha Trang
Địa điểm
Australia
Thailand
Malaysia
Samoa
JeJu - Korea
Bali - Indonesia
Manila -Philippines
Nga
Hawaii
Maldives
California
So sánh với vịnh Nha Trang (Tỷ lệ % du khách đánh giá)
Có nhiều sinh vật vịnh Nha Trang khơng có (1%)
Có điều kiện tương đối giống nhau nhưng vịnh Nha Trang có độ đa
dạng về san hô nhiều hơn (2%)
Cá và san hô ít đa dạng so với vịnh Nha Trang (1%)
Kém hơn vịnh Nha Trang (1%)
Đẹp và tốt hơn vịnh Nha Trang (1%)
Đẹp và tốt hơn vịnh Nha Trang (1%)
Có điều kiện và sự đa dạng sinh vật tốt hơn vịnh Nha Trang (1%)
Tốt và sạch hơn vịnh Nha Trang (1%)
Đẹp và tốt hơn vịnh Nha Trang (1%)
Đẹp và tốt hơn vịnh Nha Trang (1%)
Kém hơn vịnh Nha Trang (1%)
Trong số 101 du khách được khảo sát có
đến hơn 94% chưa có cơ hội tham gia lặn biển
ở những nơi khác thuộc Việt Nam. Chỉ có 6 du
khách (5,94%) đã từng lặn tham quan các vùng
biển khác của Việt Nam như Bình Ba và Ninh
Vân – Khánh Hòa, và Phú Quốc – Kiên Giang.
Mặc dù, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong số các du
khách được khảo sát nhưng tất cả 6 du khách
này đều đánh giá rằng hệ sinh thái rạn san hơ
Hịn Mun có quần xã sinh vật đa dạng, đẹp và
sạch hơn so với những điểm nêu trên.
Có 13 du khách (12,87%) trong số 101 du
khách được khảo sát đã có cơ hội tham gia
16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
lặn khám phá các vùng biển khác nhau trên
thế giới. Trong số này chỉ có duy nhất 1 du
khách quốc tịch Việt Nam (0,99%). Theo ý
kiến những du khách này, hầu hết các điểm lặn
ở Thailand, Malaysia và Samoa được bảo tồn
tốt hơn mặc dù quần xã sinh vật, rạn san hô
và quần xã cá rạn không đa dạng như ở Việt
Nam. Ngược lại, các điểm lặn biển tại đảo
Australia, JeJu – Korea, Bali - Indonesia, Nga,
Madldives, Hawaii và Manila – Philippines
được đánh giá tốt hơn vịnh Nha Trang về độ
trong xanh của nước và có nhiều sinh vật hơn.
Theo quy luật, những vùng có khí hậu nhiệt
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
đới sẽ có độ da dạng sinh học cao hơn những
nước ơn đới. Tuy nhiên, theo so sánh của du
khách, một số điểm lặn trên thế giới có độ đa
dạng cao hơn vịnh Nha Trang thuộc khu vực
ôn đới (Nga và Hàn Quốc). Điều này nói lên
rằng việc bảo tồn hệ sinh thái rạn san hơ Hịn
Mun cần được cân nhắc thận trọng hơn. Theo
đó, cũng có thể nghĩ rằng hệ sinh thái rạn san
hơ Hịn Mun - vịnh Nha Trang đã bị ảnh hưởng
bởi nhiều lý do khác nhau như là bùng nổ sao
biển gai ảnh hưởng đến san hô (Nguyễn Văn
Quân và Nguyễn Thị Kịm Anh, 2015) hay khả
năng tẩy trắng rạn san hô do nhiệt độ nước tăng
lên, đặc biệt trận siêu bão năm 2017 gây nhiều
tổn thất cho rạn hô ở vùng nước cạn. Ý kiến
của cán bộ quản lý khu bảo tồn cho rằng hiện
nay hệ sinh thái rạn san hơ vịnh Nha Trang vẫn
cịn đang trong quá trình tái tạo chưa kịp phục
hồi. Cần lưu ý rằng hoạt động của con người,
ví dụ bơi lặn tham quan rạn san hô, cũng là
yếu tố gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái rạn san
hơ Hịn Mun do sử dụng dịch vụ hệ sinh thái
khơng bền vững.
Có gần 86% du khách không đánh giá được
sự thay đổi của hệ sinh thái rạn san hô vịnh
Nha Trang do chưa từng lặn biển ở đây, 4% du
khách đánh giá là không thay đổi nhiều so với
lần lặn biển trước. Bên cạnh đó, 10% du khách
có đóng góp ý kiến cho rằng nên nuôi cấy để
phát triển san hô nhằm thu hút và bảo vệ quần
xã cá rạn.
Chỉ có 2 (1,98%) trong trong số các du
khách được khảo sát khơng có ý định quay trở
Số 4/2019
lại lặn biển tại Hòn Mun mà khơng nêu bất kỳ
lý do nào. 99 du khách cịn lại đều có ý muốn
quay lại. Điều này chứng tỏ Hòn Mun đã để lại
ấn tượng tốt trong lòng mỗi du khách lặn biển
ở đây và khẳng định vị thế Hòn Mun là một
trong những điểm lặn đẹp nhất Việt Nam cũng
như trên thế giới.
IV. KẾT LUẬN VÀ DỀ XUẤT Ý KIẾN
Dựa trên những kết quả khảo sát, có thể đi
đến các kết luận và đề xuất dưới đây:
1. Kết luận
- Các đánh giá của du khách về 3 đặc trưng
quan trọng nhất của hệ sinh thái này bao gồm
diện tích bao phủ, màu sắc của rạn, và quần
xã cá rạn san hơ cho thấy rạn san hơ Hịn Mun
khơng ở tình trạng tốt nhất với đa số ý kiến
đánh giá ở mức trung bình, lần lượt là 68,32%;
70,3% và 52,48% theo 3 đặc trưng.
- Nếu được bảo tồn hợp lý, Hòn Mun vẫn là
một điểm du lịch lặn biển hấp dẫn đối với du
khách trong và ngoài nước với 98% du khách
có mong muốn quay trở lại.
2. Đề xuất ý kiến
- Cần có thêm các nghiên cứu khảo sát ý
kiến của du khách về khu bảo tồn biển Hòn
Mun với kích thước mẫu lớn hơn, ngơn ngữ sử
dụng phong phú hơn để đánh giá khách quan
và chính xác sức thu hút của hệ sinh thái rạn
san hơ Hịn Mun đối với du khách lặn biển.
- Phân tích đa biến nên được sử dụng trong
khảo sát kết hợp với các nghiên cứu thực địa
về quần xã san hô, cá rạn và đa dạng sinh học
để đánh giá tình trạng bảo tồn hệ sinh thái này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Văn Hồng (2012). Một số giải pháp quản lý mơi trường đối với hoạt động du lịch ở khu bảo tồn
biển vịnh Nha Trang – tỉnh Khánh Hòa. Science & Technology Development, Vol 15, No.M1.
2. Nguyễn Thị Kim Phượng (2017). Đánh giá các dịch vụ hệ sinh thái đối với du lịch lặn biển tại Vịnh Nha
Trang thông qua khảo sát du khách. Đồ án tốt nghiệp đại học ngành Quản lý nguồn lợi thủy sản. Viện Nuôi
trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang.
3. Nguyễn Văn Quân và Nguyễn Thị Kim Anh (2015). Ðặc tính sinh trưởng và nguy cơ hủy diệt các rạn san hô
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
của sao biển gai. Tạp chí Mơi trường số 8 – 2015.
4. Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Huy Yết và Nguyễn Văn Long (2006). Hệ sinh thái rạn san hô biển Việt Nam. Nhà Xuất
bản Khoa học và Kỹ thuật.
5. Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Long, Hoàng Xuân Bền, Phan Kim Hoàng và Hứa Thái Tuyến (2008). Giám sát
rạn san hô vùng biển ven bờ Việt Nam: 1994 – 2007. Nhà Xuất bản Nông nghiệp.
6. Võ Sĩ Tuấn, Hứa Thái Tuyến, Nguyễn Văn Long, Hoàng Xuân Bền, Mai Xuân Đạt (2018). Đánh giá hiệu
quả tại các mơ hình doanh nghiệp tham gia quản lý rạn san hơ vì mục đích du lịch sinh thái ở vịnh Nha Trang.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 18, Số 4A; 73–80. (DOI: 10.15625/1859-3097/18/4A/13638 - http://
www.vjs.ac.vn/index.php/jmst)
Tiếng Anh
7. Bhujel, R.C. (2008). Statistics for aquaculture. Asian Institute of Technology. Wiley- Blackwell.
8. De Silva, M. W. R. N., & Rahman, R. A. (1982). Coral reef survey of Pulau Paya/Segantang group of islands,
Kedah, Malaysia: Expedition report and recommendations for management. Report produced under WWF
Project Mal, 41, 82.
9. Lim, L.C. (1998). Carrying capacity assessment of Pulau Payar marine park, Malaysia – Bay of Bengal
Programme. Madras, India, 129.
10. Wells SM and A.R.G Price (1992). Coral reefs – Valuable but vulnerable. WWF International Discussion
paper.
18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
THÔNG BÁO KHOA HỌC
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN VÀ THỨC ĂN LÊN SINH TRƯỞNG
VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG NGHÊU LỤA (Paphia undulata Born, 1778)
GIAI ĐOẠN TRÔI NỔI TẠI KHÁNH HÒA
EFFECTS OF SALINITY AND FOOD ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF SHORTNECKED CLAM (Paphia undulata Born, 1778) AT THE VELIGER LARVAE STAGE
IN KHANH HOA
Vũ Trọng Đại*, Ngơ Anh Tuấn¹, Ngơ Thị Thu Thảo²
*Email:
Ngày nhận bài: 01/08/2019; Ngày phản biện thơng qua: 25/10/2019; Ngày duyệt đăng: 2/12/2019
TĨM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của độ mặn (23‰, 27‰, 31‰, 35‰) và các loại
thức ăn (tảo tươi, tảo tươi kết hợp thức ăn tổng hợp, tảo khô) lên sinh trưởng, tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa
giai đoạn veliger từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2018 tại Nha Trang, Khánh Hòa. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở
độ mặn 31‰, ấu trùng có tốc độ sinh trưởng (24,89 ± 0,87 µm/ngày) và tỷ lệ sống (5,09 ± 0,96%) cao hơn có
ý nghĩa so với các độ mặn 23‰ và 35‰ nhưng khơng có sự sai khác thống kê so với độ mặn 27‰.
Về ảnh hưởng của thức ăn, nghiệm thức tảo tươi cho kết quả ương ấu trùng về tốc độ sinh trưởng và tỷ
lệ sống là tốt nhất (21,01 ± 2,72 µm/ngày và 5,1 ± 1,67%), cao hơn có ý nghĩa thống kê so với hai nghiệm thức
cịn lại (p<0,05).
Từ khóa: độ mặn, nghêu lụa, thức ăn, tỷ lệ sống, sinh trưởng.
ABSTRACT
This research was conducted to determine the effect of food (algae, formulated food and Spirulina) and
salinity (23‰, 27‰, 31‰ and 35‰) on growth and survival rate of short-necked clam at the veliger larval
stage. The experiments were carried out from April to August, 2018 in Nha Trang, Khanh Hoa. The results
showed that at the sanility of 31‰, the growth rate (24.89 ± 0.87 µm/day) and survival rate (5.09 ± 0.96%) of
larvae were highest and significantly higher than those at the treatments of 23‰ and 35‰ but no significant
difference was recorded compared to the treatment of 27‰. The growth and survival rate of larvae was
highest (respectively, 21.01 ± 2.72 µm/day and 5.1 ± 1.67%) in the treatment fed algae and showed significant
difference from other treatments (p<0.05).
Keywords: growth rate, food, salinity, short-necked clam.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghêu lụa P. undulata là loài động vật thân
mềm hai mảnh vỏ được khai thác chính ở nhiều
nước trên thế giới do chúng có thịt thơm ngon,
giá trị dinh dưỡng cao và giá trị kinh tế lớn[1].
Ở nước ta, nghêu lụa là đối tượng thủy sản mới
được quan tâm khai thác đến trong vài năm gần
đây ở các tỉnh ven biển miền Trung (Phú n,
Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận) và các
¹ Viện Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
² Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
tỉnh khu vực Tây Nam Bộ như Kiên Giang, Cà
Mau[8]. Hiện nay, sản lượng nghêu lụa hoàn
toàn là khai thác từ tự nhiên. Tình trạng khai
thác quá mức những năm gần đây đã làm cho
nguồn lợi nghêu lụa suy giảm nghiêm trọng[9].
Mặc dù là đối tượng tiềm năng cho ngành
thủy sản trong tương lai nhưng các nghiên cứu
về nghêu lụa còn rất hạn chế, đặc biệt là các
nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật trong
quy trình sản xuất giống nhân tạo đối tượng
này. Trong giai đoạn ương nuôi ấu trùng từ giai
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 19
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
đoạn ấu trùng trôi nổi đến giai đoạn xuống đáy,
thường gặp nhiều rủi ro do ấu trùng chuyển từ
phương thức sống trôi nổi sang sống chui rúc
trong nền đáy. Vì vậy, để nâng cao được sinh
trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng thì việc nghiên
cứu tìm ra loại thức ăn và khoảng độ mặn thích
hợp trong q trình ương là một trong những
khâu quan trọng quyết định sự thành công của
quy trình sản xuất giống. Nghiên cứu này được
thực hiện nhằm xác định khoảng độ mặn và
loại thức ăn thích hợp nhất trong ương nuôi ấu
trùng nghêu lụa giai đoạn trôi nổi. Từ đó, nâng
cao chất lượng và tỷ lệ sống của ấu trùng khi
chuẩn bị chuyển sang giai đoạn sống đáy.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thời gian và đối tượng nghiên cứu
Các thí nghiệm được thực hiện từ tháng
4/2018 đến tháng 8/2018 tại Nha Trang, Khánh
Hòa. Đối tượng nghiên cứu là ấu trùng nghêu
lụa giai đoạn trơi nổi.
2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Hình 1. Nghêu lụa (P. undulata)
2.1. Thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn lên sinh
trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa
Thí nghiệm được bố trí gồm 4 nghiệm thức
tương ứng với 4 thang độ mặn là: NT1 độ mặn
23‰, NT2 độ mặn 27‰, NT3 độ mặn 31‰ và
NT4 độ mặn 35‰, mỗi nghiệm thức được lặp
lại 3 lần, thời gian thí nghiệm là 15 ngày. Sử
dụng nước máy để hạ độ mặn cho các nghiệm
thức. Nguồn nước máy được chứa trong bể
20 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Số 4/2019
composite và sục khí 24h trước khi sử dụng để
hạ độ mặn.
Đơn vị thí nghiệm là xơ nhựa có thể tích
18L, nước trước khi cấp vào xơ thí nghiệm đi
qua hệ thống lọc kích thước 0,5 µm và xử lý
EDTA nồng độ 5 ppm. Kiểm tra và điều chỉnh
các thông số môi trường nước: pH = 7,5 – 8,5,
nhiệt độ 30 ± 1ºC, độ mặn tương ứng với các
nghiệm thức của thí nghiệm. Định lượng ấu
trùng giai đoạn trôi nổi một ngày tuổi vào các
xơ thí nghiệm, mật độ ương ban đầu 2 con/
mL. Bố trí sục khí, điều chỉnh chế độ sục khí
vừa phải, sục khí 24/24. Độ mặn ban đầu của
các thí nghiệm là 31‰ (tương ứng với NT3),
đối với các nghiệm thức còn lại, tiến hành hạ
độ mặn từ từ để ấu trùng quen với sự thay đổi
độ mặn, cứ mỗi 30 phút tăng hoặc hạ độ mặn
xuống 1‰ đến khi đạt được các mức độ mặn
tương ứng với các nghiệm thức thí nghiệm.
Hàng ngày cho ấu trùng ăn hai lần vào
sáng sớm và chiều mát, sử dụng thức ăn là các
loài tảo đơn bào (Nannochloropsis oculata,
Chlorella sp., Isochrysis galbana), tỷ lệ phối
trộn 1:1:1, mật độ tảo cho ăn 15.000 – 30.000
tb/mL. Trước khi cho ăn, tảo được lọc qua lưới
lọc tảo để loại bỏ chất vẩn, xác tảo. Định kỳ 2
ngày/lần thay nước 50% kết hợp theo dõi các
điều kiện mơi trường và kiểm tra tình hình sức
khỏe của ấu trùng như khả năng vận động, bắt
mồi trong suốt q trình thí nghiệm.
Định kỳ 5 ngày/lần, lấy mẫu để xác định
các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DLG
µm/ngày) và tỷ lệ sống (%) của ấu trùng.
2.2. Thí nghiệm ảnh hưởng của thức ăn lên sinh
trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa
Thí nghiệm ảnh hưởng của thức ăn được
bố trí gồm 3 nghiệm thức thức ăn khác nhau
là: NT1: Tảo tươi (N. oculata, Chlorella sp.,
I. galbana, mật độ 20.000-30.000 tb/mL);
NT2: Tảo khô (Spirulina: liều lượng: 1g/m³/
ngày); NT3: Tảo tươi (N. oculata, Chlorella
sp., I. galbana, tỷ lệ phối trộn 1:1:1, mật độ
tảo cho ăn ộ 10.000-15.000 tb/mL) kết hợp
thức ăn tổng hợp (Lansy, Frippark tỷ lệ phối
trộn 1:1, liều lượng: 0,5g/m³/ngày). Các
nghiệm thức được lặp lại 3 lần, thời gian thí
nghiệm là 15 ngày.
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
Đơn vị thí nghiệm là xơ nhựa có thể tích
18L, nước trước khi cấp vào xơ thí nghiệm đi
qua hệ thống lọc kích thước 0,5 µm và xử lý
EDTA nồng độ 5 ppm. Kiểm tra và điều chỉnh
các thông số môi trường nước: pH = 7,5 – 8,5,
nhiệt độ 30 ± 1ºC, độ mặn 30 ± 1 ‰. Ấu trùng
nghêu lụa giai đoạn trôi nổi một ngày tuổi được
đưa vào các xơ thí nghiệm với mật độ 2 con/
mL. Điều chỉnh chế độ sục khí vừa phải, sục
khí liên tục 24/24.
Hàng ngày cho ấu trùng ăn hai lần vào sáng
sớm và chiều mát, ở NT1, trước khi cho ăn các
loại tảo được lọc qua lưới lọc để loại bỏ xác
tảo, cặn vẩn. Ở NT2 thức ăn là tảo khô và NT3
là thức ăn tổng hợp, trước khi cho ấu trùng ăn
phải cà qua vợt nhằm đảm bảo kích cỡ thức ăn
phù hợp với khả năng lọc mồi của ấu trùng.
Định kỳ 2 ngày/lần thay nước 50% kết hợp theo
dõi các điều kiện mơi trường và kiểm tra tình
hình sức khỏe của ấu trùng như khả năng vận
động, bắt mồi trong suốt q trình thí nghiệm.
Định kỳ 5 ngày/lần, lấy mẫu để xác định
các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DLG
µm/ngày) và tỷ lệ sống (%) của ấu trùng.
3. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được thu thập, tính tốn và trình
bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn
(MEAN ± SD), sử dụng các phần mềm MS
Excel 2010 và SPSS 20.0. Sử dụng phép phân
tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA)
để kiểm định sự sai khác về giá trị trung bình
giữa các nghiệm thức. Đánh giá sự sai khác của
các giá trị trung bình sau phân tích phương sai
(Post Hoc Test) bằng kiểm định Duncan. Sự
khác biệt giữa các nghiệm thức được xác định
ở mức ý nghĩa P < 0,05.
Kích thước chiều dài vỏ ấu trùng: là khoảng
cách lớn nhất kéo dài từ hai bên mép vỏ, được
đo bằng kính hiển vi có gắn thước đo trên trắc
vi thị kính, số lượng mẫu đo 30 ấu trùng/lần.
Số lượng ấu trùng trong bể được xác định bằng
phương pháp định lượng thể tích, bằng cách sử
dụng cốc thủy tinh 200 mL lấy mẫu ở 5 vị trí
khác nhau bất kì trong xơ ni để xác định mật
độ ấu trùng trong từng thời điểm thu mẫu, từ đó
xác định được tỷ lệ sống của ấu trùng.
Phương pháp đo các yếu tố môi trường:
Nhiệt độ trong bể được theo dõi hàng ngày vào
lúc 6 giờ và 14 giờ, bằng nhiệt kế bách phân có
độ chính xác 0,1ºC. Độ mặn đo bằng khúc xạ
kế (Salinometer) có độ chính xác 1 ‰. pH đo
bằng test pH với độ chính xác 0,5 đơn vị.
Cơng thức tính tốc độ tăng trưởng tuyệt đối:
(L1: kích thước chiều dài vỏ ấu trùng ở thời
điểm t1, L2: kích thước chiều dài vỏ ấu trùng ở
thời điểm t2).
Cơng thức tính tỷ lệ sống của ấu trùng:
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
1. Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng
và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn
lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu
lụa giai đoạn trơi nổi được trình bày trong Bảng
1. Kết quả thí nghiệm cho thấy, kích thước chiều
dài của ấu trùng ở các nghiệm thức có sự khác
nhau có ý nghĩa thống kê, trong đó, kích thước ấu
trùng đạt lớn nhất ở độ mặn 31‰ (494,6 ± 12,98
µm) và thấp nhất ở NT 1 (259,7 ± 8,88 µm).
Bảng 1. Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa ở các độ mặn khác nhau
Nghiệm thức
Lđầu (µm)
Lcuối (µm)
DLG (µm/ngày)
Tỷ lệ sống (%)
23‰
121,3 ± 8,14
259,7 ± 8,88a
9,23 ± 0,59a
0,99 ± 0,07a
27‰
121,3 ± 8,14
448,1 ± 18,1b
21,79 ± 1,21b
4,62 ± 0,63c
31‰
121,3 ± 8,14
494,6 ± 12,98c
24,89 ± 0,87b
5,09 ± 0,96c
35‰
121,3 ± 8,14
271,65 ± 6,20a
10,03 ± 0,41a
2,31 ± 0,16b
Số liệu có các chữ cái khác nhau trong cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 21
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Khi so sánh từng giai đoạn phát triển của ấu
trùng cho thấy sau 10 ngày ương, chiều dài của
ấu trùng ở độ mặn 27‰ và 31‰ khơng có sự
sai khác có ý nghĩa thống kê (249,91 ± 9,84 µm
và 288,79 ± 4,3 µm – Hình 2) nhưng lại cao hơn
so với chiều dài của ấu trùng ở độ mặn 23‰
(208,68 ± 12,16 µm) và độ mặn 35‰ (233,3
± 4,02 µm) (p<0,05). Sau 15 ngày thí nghiệm,
Số 4/2019
kích thước ấu trùng cao nhất ở độ mặn 31‰,
tiếp dến là độ mặn 27‰, cao hơn có ý nghĩa so
với hai nghiệm thức cịn lại. Kích thước của ấu
trùng ở độ mặn 23‰ và 35‰ khơng có sự sai
khác có ý nghĩa (p>0,05).
Tương tự, TĐTT trung bình của ấu trùng ở
các nghiệm thức độ mặn cũng có sự sai khác có
ý nghĩa thống kê, trong đó, TĐTT của ấu trùng
Hình 2. Kích thước của ấu trùng ở các nghiệm thức độ mặn
đạt cao nhất ở độ mặn 31‰ (24,89 ± 0,87 µm/
ngày) và thấp nhất ở độ mặn 23‰ (9,23 ± 0,59
µm/ngày). Khơng có sự sai khác có ý nghĩa
thống kê về TĐTT của ấu trùng giữa độ mặn
23‰ so với độ mặn 35‰ cũng như giữa độ
mặn 27‰ so với độ mặn 31‰ (p>0,05) (Bảng
1, Hình 3).
Tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa giảm dần
theo thời gian thí nghiệm và cho thấy sự khác
nhau có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức
Hình 3. Tốc độ tăng trưởng của ấu trùng ở các nghiệm thức độ mặn
22 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
(p<0,05). Sau 15 ngày ương tỷ lệ sống của ấu
trùng cao nhất ở độ mặn 31‰ (5,09 ± 0,96%)
và cao hơn có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ
sống của ấu trùng ở độ mặn 23‰ và 35‰ (0,99
± 0,07% và 2,31 ± 0,16%), nhưng không khác
biệt so với độ mặn 27‰ (4,62 ± 0,63%).
Theo dõi trong quá trính thí nghiệm cho
thấy, tỷ lệ sống của ấu trùng giảm mạnh từ
ngày ương thứ 10 trở đi khi chúng bắt đầu
chuyển sang giai đoạn ấu trùng hậu kỳ đỉnh
vỏ, chuyển từ phương thức sống trôi nổi sang
sống chui rúc trong nền đáy. Theo Ngô Anh
Tuấn (2004), ở giai đoạn biến thái từ cuối
ấu trùng đỉnh vỏ sang giai đoạn đầu ấu trùng
sống đáy, cùng với việc chuyển đổi phương
thức sống từ trơi nổi sang chui rúc trong nền
đáy thì tỷ lệ sống của ấu trùng sẽ giảm mạnh
nếu các điều kiện sinh thái như độ mặn không
phù hợp cho sinh trưởng của ấu trùng[7]. Kết
quả này lý giải cho tỷ lệ sống của ấu trùng ở
nghiệm thức độ mặn 23‰ và 35‰ là rất thấp
và hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển
chung của đông vật thân mềm hai mảnh vỏ
trong tự nhiên.
Từ kết quả trên cho thấy, trong sản xuất
giống nhân tạo khoảng độ mặn từ 27‰ đến
31‰ là thích hợp nhất cho sinh trưởng và tỷ lệ
sống của ấu trùng nghêu lụa giai đoạn trơi nổi,
khi đó tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu
trùng là tốt nhất. Điều này hoàn toàn phù hợp
với đặc điểm sinh học của nghêu lụa là do đây
là khoảng độ mặn tối ưu của nghêu lụa phân
bố ngoài tự nhiên[2]. Kết quả nghiên cứu này
cũng phù hợp với nghiên cứu của Dongmei et
al. (2016), theo đó thì độ mặn có ảnh hưởng rõ
rệt tới tốc độ lọc mồi của nghêu lụa. Khoảng
độ mặn từ 28 – 32‰ là thích hợp nhất cho
nghêu sinh trưởng và phát triển của nghêu lụa,
do trong khoảng độ mặn này, tốc độ lọc của
chúng là cao nhất và có ý nghĩa thống kê so
với các khoảng độ mặn khác[3].
2. Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng
và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa
Các lồi động vật thân mềm hai mảnh vỏ
đều có chung hình thức bắt mồi lọc bị động,
chúng khơng có khả năng chọn lọc thức ăn
về chất lượng nhưng lại có khả năng chọn
lọc rất kỹ về kích cỡ của hạt thức ăn. Do đó,
thành phần và kích cỡ thức ăn có ảnh hưởng
quan trọng tới sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu
trùng trong q trình ương ni.
Bảng 2. Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa sử dụng các loại thức ăn khác nhau
Nghiệm thức
Lđầu (µm)
Lcuối (µm)
DLG (µm/ngày)
Tỷ lệ sống (%)
Tảo tươi
127,1 ± 11,4
442,3 ± 15,7b
21,01 ± 2,72b
5,1 ± 1,67b
Tảo khô
127,1 ± 11,4
312,1 ± 13,4a
12,33 ± 2,36a
2,2 ± 0,47a
TT + TATH
127,1 ± 11,4
339,8 ± 21,0a
14,18 ± 2,60a
2,3 ± 0,53a
Số liệu có các chữ cái khác nhau trong cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
Kết quả từ Bảng 2 cho thấy, có sự sai khác
có ý nghĩa thống kê về sinh trưởng của ấu trùng
nghêu ở các nghiệm thức thức ăn (p<0,05). Ở
nghiệm thức tảo tươi, sau 15 ngày ương chiều
dài ấu trùng luôn đạt giá trị cao nhất (442,3 ±
15,7 µm) so với các nghiệm thức cịn lại. Khi
sử dụng thức ăn là tảo khô, chiều dài ấu trùng
nghêu là thấp nhất, chỉ đạt 312,1 ± 13,4 µm,
nhưng khơng có khác biệt có ý nghĩa so với
nghiệm thức cho ăn bằng hỗn hợp TT + TATH
(339,8 ± 21,0 µm) (p>0,05).
Trong suốt thời gian thí nghiệm, TĐTT của
ấu trùng nghêu ở nghiệm thức cho ăn bằng tảo
tươi luôn cao hơn có ý nghĩa so với hai nghiệm
thức cịn lại; Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng của
ấu trùng ở ngày ương thứ 15 tăng gấp đôi giai
đoạn trước (33,29 ± 3,14 µm/ngày). Đối với
nghiệm thức hai nghiệm thức cịn lại, mặc dù
TĐTT của ấu trùng có xu hướng cao hơn khi
cho ăn bằng hỗn hợp TT + TATH (25,86 ± 4,2
µm/ngày) nhưng khơng có sự sai khác có ý
nghĩa so với nghiệm thức cho ăn bằng tảo khô
(20,83 ± 2,67 µm/ngày) (p>0,05).
Tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu giảm dần
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 23
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2019
Hình 3. Tốc độ sinh trưởng của ấu trùng nghêu lụa sử dụng các loại thức ăn khác nhau
theo thời gian thí nghiệm và chịu ảnh hưởng
của các loại thức ăn khác nhau. Ở nghiệm thức
cho ăn bằng tảo tươi, tỷ lệ sống của ấu trùng
nghêu sau 15 ngày ương đạt cao nhất 5,1 ±
1,67% và có sự khác biệt so với hai nghiệm
thức còn lại (p<0,05). Ở nghiệm thức cho ăn
bằng tảo khô, tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu là
thấp nhất, chỉ đạt 2,2 ± 0,47% nhưng khơng có
sự khác biệt so với nghiệm thức cho ăn bằng
hỗn hợp tảo tươi kết hợp thức ăn tổng hợp với
tỷ lệ sống là 2,3 ± 0,53% (p>0,05).
Trong cả q trình thí nghiệm ghi nhận được
hiện tượng tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu giảm
mạnh ở ngày ương thứ 10 khi chúng bắt đầu
biến thái để chuyển từ giai đoạn trôi nổi sang
giai đoạn chui rúc trong nền đáy. Theo Trương
Quốc Phú (1999), Nguyễn Đình Hùng và CTV
(2003), kết quả này hồn toàn phù hợp với quy
luật chung của các loài động vật thân mềm hai
mảnh vỏ, do khi chuyển từ phương thức sống
trôi nổi sang giai đoạn sống chui rúc trong nền
đáy thì tỷ lệ sống cao hay thấp phụ thuộc rất
nhiều vào thức ăn và môi trường sống. Ở giai
đoạn này khi ấu trùng xuất hiện chân bò (cuối
giai đoạn đỉnh vỏ), hoạt động bơi lội giảm dần
và chúng dần lắng xuống đáy để chuyển sang
giai đoạn sống chui rúc trong nền đáy, do đó tỷ
lệ sống của ấu trùng giảm mạnh[4, 5].
Theo Quayle and Newkirk (1989) để duy
trì sinh trưởng, tỷ lệ sống của ấu trùng cao và
ổn định thì việc đảm bảo cung cấp đầy đủ về
24 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
số lượng và chất lượng của thức ăn là các lồi
tảo rất quan trọng. Theo đó, nếu nguồn thức ăn
cung cấp cho ấu trùng không đủ về số lượng
cũng như chất lượng thì nghêu có thể ngừng
sinh trưởng hoặc có thể có tốc độ sinh trưởng
âm và tỷ lệ sống rất thấp[6]. Do đó, ở nghiệm
thức sử dụng thức ăn là các loại tảo tươi, đây là
thức ăn chính của lồi, vì vậy sinh trưởng và tỷ
lệ sống của ấu trùng nghêu là tốt nhất. Còn khi
sử dụng tảo khô và thức ăn tổng hợp làm thức
ăn cho ấu trùng thì do các loại thức ăn này dễ
tan trong nước nên sẽ ảnh hưởng tới chất lượng
nước của thí nghiệm, vì vậy mà sinh trưởng và
tỷ lệ sống của ấu trùng trong các nghiệm thức
này luôn thấp hơn so với nghiệm thức sử dụng
thức ăn là tảo tươi.
Mặc dù sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu
trùng ở nghiệm thức cho ăn bằng hỗn hợp tảo
tươi kết hợp thức ăn tổng hợp thấp hơn so với
nghiệm thức cho ăn bằng tảo tươi, nhưng thực
tế trong các trại sản xuất giống động vật thân
mềm hiện nay, việc sử dụng thành công thức
ăn tổng hợp kết hợp với tảo tươi để ương nuôi
ấu trùng nghêu lụa là một lợi thế lớn, mang lại
nhiều ưu điểm do thao tác kỹ thuật đơn giản
và đặc biệt là giảm sự phụ thuộc vào nguồn
tảo tươi ni sinh khối. Vì vậy, kết quả nghiên
cứu này có thể mở ra một hướng đi mới trong
sản xuất giống các loài động vật thân mềm hai
mảnh vỏ nhờ đơn giản hóa được kỹ thuật cho
ăn, chủ động trong sản xuất và kiểm soát được
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
vấn đề an toàn sinh học.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong ương nghêu lụa giai đoạn ấu trùng
trôi nổi, độ mặn 31‰ là tốt nhất cho sinh
trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng (24,89 ± 0,87
µm/ngày và 5,06 ± 0,96%).
Sử dụng thức ăn là các loại tảo tươi cho tốc
Số 4/2019
độ tăng trưởng của ấu trùng (21,01 ± 2,72 µm/
ngày) và tỷ lệ sống (5,1 ± 1,67%) cao nhất.
2. Kiến nghị
Tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của các tỷ lệ
phối trộn giữa các loại thức ăn lên sinh trưởng
và tỷ lệ sống của ấu trùng nghêu lụa giai đoạn
trôi nổi ở các thể tích lớn hơn để nâng cao hiệu
quả ương nuôi ấu trùng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chanrachkij, I., 2009. Monitoring the Undulated Surf Clam Resources of Thailand for Sustainable Fisheries
Management, 33–44.
2. Nguyễn Chính, 1996. Một số lồi động vật thân mềm có giá trị kinh tế tại Việt Nam. NXB Nơng Nghiệp tp
Hồ Chí Minh, 1996. tr 26-29.
3. Dongmei, W., Chunqiang, L. I., Ming, P., Zhixin, L. I. U., Jian, Z., Chaosong, H. U., & Biology, T., 2016.
Influence of Salinity and pH on the Filtration Rate of Paphia undulata (Born, 1778), 2–5.2.
4. Nguyễn Đình Hùng, Huỳnh Thị Hồng Châu, Nguyễn Văn Hảo, Trình Trung Phi, Võ Minh Sơn, 2003.
Nghiên cứu sản xuất giống nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851). Tuyển tập báo cáo khoa học hội thảo Động
vật thân mềm Tồn quốc lần thứ III. NXB Nơng nghiệp.
5. Trương Quốc Phú, 1999. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh hóa và kỹ thuật ni nghêu Meretrix
lyrata (Sowerby, 1851) đạt năng suất cao. Luận án tiến sỹ Khoa học Nông nghiệp, Trường Đại học Nha Trang,
193tr.
6. Quayle D. B and Newkirk G. F., 1989. Farming Bivalve Molluscs Methods Study and Development.
Advances in World Aquaculture, volume I (1989), pp. 1-120.6.
7. Ngô Anh Tuấn, 2012. Kỹ thuật nuôi Động vật thân mềm. NXB Nơng nghiệp TP. Hồ Chí minh, 2012, 238tr.
8. Hứa Thái Tuyến, Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Thị Kim Bích, 2006. Đặc điểm sinh trưởng của nghêu lụa Paphia
undulata (Born, 1778) ở vùng biển Bình Thuận. Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, XV, 194 – 200.
9. Đỗ Chí Sỹ, 2014. Điều tra hiện trạng và đề xuất giải pháp bảo vệ, khai thác hợp lý nguồn lợi nghêu lụa ven
biển Tây tỉnh Cà Mau. Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Nha Trang.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 25