ISSN 1859 - 2252
Số
4 - 2020
NHA TRANG UNIVERSITY
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TẠP CHÍ
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ THỦY SẢN
ISSN 1859 - 2252
TỔNG BIÊN TẬP
TS. TRẦN DỖN HÙNG
PHĨ TỔNG BIÊN TẬP
TS. VŨ KẾ NGHIỆP
BAN BIÊN TẬP
PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Anh
Trường Đại học Nha Trang
GS. TS. Augustine Arukwe
PGS. TS. Lê Phước Lượng
Trường Đại học Nha Trang
PGS. TS. Nguyễn Đình Mão
Norwegian University of Science and Technology, Trondheim,
Norway
Trường Đại học Nha Trang
PGS. TS. Vũ Ngọc Bội
Trường Đại học Nha Trang
Trường Đại học Nha Trang
TS. Phan Thị Dung
Trường Đại học Nha Trang
TS. Nguyễn Hữu Dũng
Trường Đại học Nha Trang
PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng
Trường ĐH Kinh tế Luật- ĐHQG Tp HCM
PGS. TS. Nguyễn Văn Duy
Trường Đại học Nha Trang
PGS.TS. Nông Văn Hải
Viện Nghiên cứu hệ gen - Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam
PGS. TS. Lê Văn Hảo
Trường Đại học Nha Trang
TS. Nguyễn Thị Hiển
Trường Đại học Nha Trang
TS. Nguyễn Văn Hịa
Trường Đại học Nha Trang
GS. TS. Hồng Đình Hịa
Trường ĐH Bách khoa Hà Nội
GS. TS. Nguyễn Trọng Hoài
Trường ĐH Kinh tế Tp. HCM
PGS. TS. Lê Minh Hoàng
Trường Đại học Nha Trang
TS. Mai Thị Tuyết Nga
PGS. TS. Ngô Đăng Nghĩa
Trường Đại học Nha Trang
PGS. TS. Nguyễn Văn Nhận
Trường Đại học Nha Trang
PGS. TS. Nguyễn Hữu Ninh
Viện Nghiên cứu NTTS I - Bộ NNPTNT
PGS. TS. Mai Thanh Phong
Trường ĐH Bách khoa - ĐHQG Tp. HCM
GS. TS. Nguyễn Thanh Phương
Đại học Cần Thơ
PGS. TS. Trần Gia Thái
Trường Đại học Nha Trang
GS. TS. Trương Bá Thanh
Đại học Đà Nẵng
PGS. TS. Phạm Hùng Thắng
Trường Đại học Nha Trang
TS. Khổng Trung Thắng
Trường Đại học Nha Trang
TS. Hồng Văn Tính
Trường Đại học Nha Trang
GS. TS. Toshiaki Ohshima
Tokyo University of Marine Science and Technology,
Japan
TS. Hoàng Hoa Hồng
PGS. TS. Trang Sĩ Trung
Trường Đại học Nha Trang
Trường Đại học Nha Trang
PGS. TS. Lại Văn Hùng
PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn
Trường Đại học Nha Trang
Trường Đại học Nha Trang
GS. TS. Nguyễn Ngọc Lâm
Viện Hải dương học - Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam
GS. TS. Yew-Hu Chien
National Taiwan Ocean University, Taiwan
GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội
PGS. TS. Đỗ Thị Thanh Vinh
Trường Đại học Nha Trang
BAN THƯ KÝ
ThS. Trần Nhật Tân - ThS. Lương Đình Duy
•
•
•
•
•
•
•
Tòa soạn
: Trường Đại học Nha Trang, số 02 Nguyễn Đình Chiểu, TP. Nha Trang - Khánh Hòa
Điện thoại
: 0258.2220767
Fax: 0258.3831147
E-mail:
Giấy phép xuất bản : 292/GP-BTTTT ngày 3/6/2016
Chế bản tại
: Phòng Khoa học và Công nghệ - Trường Đại học Nha Trang
In tại
: Công ty cổ phần In và Thương mại Khánh Hòa, số 08 Lê Thánh Tôn - Nha Trang
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
MỤC LUÏC
Ảnh hưởng của xâm nhập mặn và thời tiết cực đoan đến hoạt động ương - nuôi cá tra tại Sóc Trăng
Nguyễn Văn Quỳnh Bơi, Nguyễn Lâm Anh và Nguyễn Trọng Lương
Ảnh hưởng của dịch chiết rong Ulva reticula lên sự phát triển của rau muống (Ipomoea aquatic).
Văn Hồng Cầm, Khúc Thị An, Nguyễn Thảo Hiền, Trần Thị Phương Anh
Ảnh hưởng của độ mặn và thức ăn đến sinh trưởng, tỷ lệ sống của ấu trùng Ốc đĩa (Nerita balteata
Reeve, 1855) giai đoạn trôi nổi
Vũ Trọng Đại, PhạmThị Khanh
Đánh giá chất lượng giun nhiều tơ từ nguồn tự nhiên và nguồn nuôi thương phẩm trong nuôi vỗ thành
thục tôm thẻ chân trắng Litopenaeus Vannamei (Boone, 1931) bố mẹ
Nguyễn Văn Dũng, Trương Hà Phương, Lục Minh Diệp
Thực trạng môi trường và bệnh vùng nuôi tôm trên cát ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Nghi Xuân, Hà Tĩnh
Trương Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Thị Nguyện, Trương Thị Thành Vinh,
Nguyễn Thị Là, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Nguyễn Thị Hạnh,
Lê Thị Mây, Chu Chí Thiết, Nguyễn Hữu Nghĩa
Tác động của việc bổ sung chitin vào thức ăn lên khả năng kháng lại Vibrio Parahaemolyticus của
tôm thẻ chân trắng (Litopenaeid Vannamei)
Trần Vĩ Hích, Nguyễn Cơng Minh, Nguyễn Thị Kim Cúc,
Phạm Thị Đan Phượng, Trang Sĩ Trung
Nghiên cứu sản xuất chả cá diêu hồng không sử dụng phụ gia
Nguyễn Văn Hiếu
Ảnh hưởng thời gian kích thích hormone lên đặc tính sinh hóa của dịch tương cá chẽm mõm nhọn
Psammoperca waigiensis
Lê Minh Hoàng, Nguyễn Văn Minh, Phạm Quốc Hùng và Ngô Văn Mạnh
2
10
19
27
36
45
51
58
Nghiên cứu đặc điểm sinh học buồng trứng cá bè đưng (Gnathanodon speciosus)
Phạm Quốc Hùng, Hứa Thị Ngọc Dung, Nguyễn Thị Tồn Thư 67
Tối ưu hóa điều kiện chiết với sự hỗ trợ siêu âm để thu nhận polyphenol có hoạt tính chống oxy hóa
từ lồi rong đỏ Gracilaria salicornia
Đỗ Trần Lâm, Phạm Hồng Ngọc Thùy,
Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Thế Hân 75
Ảnh hưởng của chitosan lên sự sinh trưởng của lan Mokara nuôi cấy mô
Phạm Thị Minh Thu, Nguyễn Ngọc Thiên Trang, Huỳnh Kim Đỉnh 85
Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus
Vannamei Boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ
Lê Hữu Tình, Lê Hồng Duyệt, Võ Văn Nha 94
Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chiên (Bagarius rutilus) giai đoạn 70-500g
nuôi lồng tại vùng hạ lưu sông Lô, tỉnh Phú Thọ
Triệu Anh Tuấn, Thái Thanh Bình 105
Vấn đề trao đổi
Chất lượng phân ủ từ rác thải hữu cơ
Trần Thanh Thư 113
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA XÂM NHẬP MẶN VÀ THỜI TIẾT CỰC ĐOAN ĐẾN
HOẠT ĐỘNG ƯƠNG - NI CÁ TRA TẠI SĨC TRĂNG
EFFECTS OF SALTWATER INTRUSION AND EXTREME WEATHER ON STRIPED
CATFISH (PANGASIUS HYPOPTHALMUS) NURSING –GROWING IN SOC TRANG
Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1, Nguyễn Lâm Anh2 và Nguyễn Trọng Lương2
Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
Viện Khoa học và Công nghệ khai thác thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
Tác giả liên hệ: Nguyễn Văn Quỳnh Bôi (Email: )
1
2
Ngày nhận bài: 24/09/2020; Ngày phản biện thơng qua: 16/11/2020; Ngày duyệt đăng: 24/12/2020
TĨM TẮT
Xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra nhiều ảnh hưởng đối với hoạt động ương – ni
cá tra tại Sóc Trăng. Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp khảo sát áp dụng công cụ phỏng vấn dựa
trên bộ câu hỏi bán cấu trúc trên 97 đối tượng là những hộ ương – nuôi cá thể, các quản lý trang trại nuôi của
các công ty và những người nắm thơng tin tại Sóc Trăng. Hầu hết các đối tượng đã nhận thức được ảnh hưởng
của xâm nhập mặn và các cực đoan về thời tiết đến hoạt động này và cho rằng tương đối khó khăn trong việc
khắc phục xâm nhập mặn. Ngồi ra, tỷ lệ lớn nhất ở cả 3 nhóm đối tượng đều cho rằng đã có những bất thường
– cực đoan về khí hậu – thời tiết xảy ra ở mức độ nào đó và xâm nhập mặn là vấn đề được quan tâm – lo ngại
nhiều nhất. Trong tương lai, xâm nhập mặn vẫn là vấn đề lo ngại cao nhất đối với hoạt động ương – nuôi cá tra
ở tất cả các nhóm đối tượng. Tuy nhiên, biến động nhiệt độ theo thời gian, thời tiết thất thường,… được quan
tâm nhiều hơn bởi những người nắm thông tin nhưng không được đánh giá cao bởi những đối tượng trực tiếp
sản xuất. Thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra được cả 3 nhóm xem như là biện pháp thích ứng quan trọng nhất
để ứng phó với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu – xâm nhập mặn, bộ câu hỏi khảo sát, Sóc Trăng, ương – ni cá tra,
ABSTRACT
Saltwater intrusion and extreme weather caused many impacts on striped catfish nursing – growing in Soc
Trang. Study was carried out by the survey method using the interview tool based on semi-structured questionnaire
on 97 subjects that were individual nursing-fattening households, fish farms managers of companies and keyinformants in Soc Trang. Most of subjects were aware of the effects of saltwater intrusion and extreme weather
to this activity and considered it was rather difficult to overcome saltwater intrusion. In addition, the largest
proportion in all groups showed that there were abnormalities – weather and climate extremes occurred to some
extent and saltwater intrusion was the most concerned problem. In the future, saltwater intrusion would still be
the highest concern for striped catfish farming activity in all groups. However, temperature fluctuations over time,
weather abnormality,... would be more concerned by key-informants but would not lead to much worry by the
group of direct production. Nursing – growing techniques changing for striped catfish would be considered by 3
groups as the most important adaptation measure to cope with climate change and saline intrusion.
Key words: Climate change – salt intrusion, survey questionnaire, Soc Trang, striped catfish nursing – growing,
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sơng Hậu,
cách thành phố Hồ Chí Minh 231km, cách Cần
Thơ 62 km; nằm trên tuyến Quốc lộ 1A nối liền
các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà
Mau [9]. Tỉnh có diện tích đất tự nhiên 331.187
ha [1], chiếm khoảng 1% diện tích cả nước và
8,3% diện tích của khu vực đồng bằng sơng Cửu
2 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Long [9]. Diện tích đất nơng nghiệp là 213.114
ha (64,35% tổng diện tích đất) với 71.500 ha
cho ni trồng thủy sản [1]. Điều đó chứng tỏ
Sóc Trăng là một tỉnh có tiềm năng để phát triển
nơng nghiệp bao gồm cả hoạt động nuôi cá nước
ngọt. Số liệu thống kê của tỉnh những năm gần
đây cho thấy diện tích nuôi cá nước ngọt tương
đối ổn định, thay đổi trong phạm vi 17.738 ha
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
(2010), 18.456 (2015) và 17.924 (2018) với chỉ
số phát triển năm 2018 là 105,01% [1].
Tuy nhiên, hoạt động nơng nghiệp nói
chung và ni cá nước ngọt nói riêng ở đồng
bằng sơng Cửu Long, bao gồm tỉnh Sóc Trăng,
đã và đang chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
và nước biển dâng.
Cho đến nay, đã có nhiều cơng bố về ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu đến ni trồng thủy
sản, cụ thể là hoạt động nuôi cá tra tại Việt Nam.
Vụ Nuôi trồng thủy sản (2008) cho rằng xâm nhập
mặn sẽ gây tác hại đến nghề nuôi cá tra và nếu độ
mặn cao hơn 4‰ sẽ không phù hợp cho đối tượng
nuôi này. Phan và cộng sự (2009) đã dẫn chứng
các ao nuôi gần biển có sản lượng giảm sút mà
nguyên nhân có thể từ biến động độ mặn do thủy
triều. Trong năm 2011 xâm nhập mặn gia tăng ở
tỉnh Bến Tre với độ mặn cao đã làm tăng tỷ lệ chết
và giảm tốc độ sinh trưởng của cá tra so với năm
2010 [3]. Tương tự như Bến Tre, với vị trí ven biển
Đơng, hoạt động ni cá tra tại tỉnh Sóc Trăng
chắc chắn bị ảnh hưởng bởi vấn đề này. Theo đó,
việc đề xuất các giải pháp thích ứng với tình hình
biến đổi khí hậu – nước biển dâng cần thiết phải
được đặt ra. Trong thực tế, xâm nhập mặn do mực
nước biển dâng sẽ lan rộng về phía thượng lưu
khiến cho một phần diện tích đang dùng ni cá
tra khơng cịn phù hợp nữa. Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam (MARD) đã đề ra
chương trình hành động thích ứng với biến đổi
khí hậu của ngành giai đoạn 2008-2020 tập trung
vào đảm bảo sự an toàn của cư dân, sản xuất nông
nghiệp và an ninh lương thực bền vững, hệ thống
Số 4/2020
đê điều và cơ sở hạ tầng an tồn [6]. Đối với hoạt
động ni cá tra, các biện pháp thích ứng tự phát
làm gia tăng chi phí của người nuôi và hạn chế
khả năng giải quyết vấn đề một cách hệ thống [4].
Vì lý do này, người ni cá tra vùng ven biển sẽ
giảm sút lợi nhuận vì ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu. Phân tích của Kam và cộng sự (2012) cũng
cho thấy chi phí thích ứng tự phát của người ni
sẽ giảm đi nhiều nếu có các biện pháp thích ứng
kế hoạch của nhà nước [5]. Bài viết này trình bày
các kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng xâm nhập
mặn và những cực đoan về thời tiết đến hoạt động
ương – ni cá tra tại Sóc Trăng thơng qua khảo
sát nhằm đánh giá khả năng thích ứng của hoạt
động nuôi cá tra trong bối cảnh biến đổi khí hậu
và xâm nhập mặn.
II. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2/2020
đến tháng 6/2020 theo phương pháp khảo sát áp
dụng công cụ phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi bán
cấu trúc (semi-structured questionnaire) đối với
các nhóm đối tượng là những hộ ương – nuôi
cá thể, các quản lý trang trại nuôi của các công
ty và những người nắm thông tin tại Sóc Trăng.
Nguồn số liệu thứ cấp được thu thập từ niên
giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2018. Nguồn
số liệu sơ cấp được tổng hợp dựa trên quá trình
phỏng vấn những hộ ương - ni cá tra, các quản
lý trại nuôi cá tra thương phẩm thuộc các công
ty và những người am hiểu tình hình ni cá tra
tại địa phương thơng qua bộ câu hỏi điều tra.
Hình 1. Bản đồ khu vực nghiên cứu
( truy cập ngày 8/2/2020)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 3
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Bảng 1. Mẫu điều tra
Đối tượng
Số phiếu khảo sát
Người nắm thông tin
Quản lý trại nuôi
(am hiểu - key informant) thuộc các công ty
40
12
Hộ ương nuôi cá thể
45
Tổng số
97
Ghi chú:
- Người nắm thông tin bao gồm các cán bộ thuộc Chi cục thủy sản tỉnh Sóc Trăng và Trung tâm giống vật ni của tỉnh; Phịng Nơng
nghiệp và Phát triển Nơng thơn, Trạm Khuyến nông các huyện Long Phú, Cù Lao Dung và Kế Sách, cùng với cán bộ quản lý địa phương
từ cấp thôn.
- Quản lý trại nuôi thuộc các công ty là những cán bộ kỹ thuật hoặc quản lý nhân sự đang làm việc tại các trại nuôi cá tra thuộc các công ty.
- Hộ ương - nuôi cá thể là những hộ đã và đang thực hiện hoạt động ương và nuôi cá tra.
Theo số liệu khảo sát ban đầu vào tháng 2
năm 2020 về hiện trạng, trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng có 5 cơng ty đang tham gia hoạt động
nuôi cá tra (tập trung tại huyện Long Phú,
Cù Lao Dung và Kế Sách) và khoảng 50 hộ
tham gia hoạt động ương và ni cá tra trên
tồn tỉnh. Trên cơ sở này, nghiên cứu đã khảo
sát thông qua các nhân viên quản lý của 11
trại thuộc 5 công ty này. Đối với số hộ ương
– nuôi, do huyện Long Phú khơng cịn các
hộ tham gia hoạt động này với tính chất cá
thể và những hộ tại huyện Cù Lao Dung chỉ
nuôi với quy mô đáp ứng nhu cầu địa phương
nên việc khảo sát các hộ ương - nuôi cá thể
tập trung vào huyện Kế Sách trong thời gian
từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2020. Với kích
thước tổng thể không quá lớn nên đề tài đã
khảo sát 45 hộ tham gia hoạt động ương-nuôi
(chủ yếu tại huyện Kế Sách) nhằm đảm bảo
yêu cầu về mặt kích thước mẫu (> 33) [8].
Kích thước mẫu khảo sát được trình bày qua
bảng 1.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng phỏng vấn
chuyên sâu (in-depth interview) một số cán bộ
thuộc Chi cục Thủy sản tỉnh Sóc Trăng, nhân
viên quản lý kỹ thuật các trại ni thuộc các
công ty và người nuôi lâu năm nhằm xác định
các thơng tin chi tiết về một vài khía cạnh liên
quan đến hoạt động nuôi không thu được qua
điều tra khảo sát.
Số liệu thu tập được xử lý theo các nội dung
khảo sát trên phần mềm MS. Excel phiên bản
2013. Kiểm định “Khi bình phương” (Chi
square) được áp dụng để khảo sát mối liên
hệ giữa đối tượng khảo sát với ý kiến phản
hồi, thực hiện bởi phần mềm SPSS phiên bản
22.0.
4 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
1. Ảnh hưởng của xâm nhập mặn và hiện
tượng thời tiết cực đoan đến nghề nuôi cá tra
Kết quả khảo sát đánh giá của các bên liên
quan (người ương - nuôi cá thể, quản lý trại
nuôi của các công ty và người nắm thông tin
về hoạt động nuôi cá tra) về tần suất xảy ra và
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu - xâm nhập mặn
đến hoạt động ni cá tra tại Sóc Trăng được
trình bày qua bảng 2 và 3. Bảng 2 cho thấy các
bên liên quan đã nhận thức được ảnh hưởng của
vấn đề này. Rất ít ý kiến cho rằng khơng có hiện
tượng bất thường hay cực đoạn nào về khí hậu
– thời tiết xảy ra - chỉ 11,11% nhóm hộ ni cá
thể và 5% những người am hiểu (bảng 2). Phân
tích thống kê về tần suất xảy ra những biểu hiện
của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn đối với
hoạt động nuôi cá tra theo ý kiến của các nhóm
đối tượng khảo sát cho thấy mặc dù ý kiến phản
hồi về vấn đề này khơng giống nhau ở các nhóm
nhưng sự khác nhau này khơng có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). Phần lớn ở cả 3 nhóm khảo sát đều
cho rằng đã có những bất thường – cực đoan về
khí hậu – thời tiết xảy ra ở mức độ nào đó. Điều
này đưa đến những lo ngại trong phần lớn cộng
đồng ương – nuôi cá tra.
Để làm rõ mối quan tâm – lo ngại của các
đối tượng, các vấn đề được nghiên cứu chi tiết
hơn với kết quả được trình bày ở bảng 3. Kết
quả bảng 3 chỉ ra rằng xâm nhập mặn là vấn
đề được quan tâm – lo ngại nhiều nhất ở cả 3
nhóm đối tượng khảo sát (chiếm tỷ lệ 97,78%
ở nhóm hộ ương – ni cá thể và 100% ở 2
nhóm cịn lại). Những vấn đề được quan tâm
tiếp theo lần lượt là thời tiết bất thường (chiếm
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
tỷ lệ 88,89% ở nhóm hộ ương – ni cá thể,
95% ở nhóm những người am hiểu và 100%
ở nhóm quản lý trang trại công ty), biến động
nhiệt độ theo thời gian (chiếm tỷ lệ 91,67%
ở nhóm quản lý trang trại cơng ty, 93,33% ở
nhóm hộ ương ni cá thể và 95% ở nhóm
những người am hiểu),…Vấn đề ít được quan
tâm nhất là ảnh hưởng của lũ lụt đến hoạt động
nuôi cá tra (chiếm tỷ lệ 8,33% ở nhóm quản
lý trang trại cơng ty, 11,1% ở nhóm hộ ương
– ni cá thể và 22,5% ở nhóm những người
am hiểu). Tương tự ở bảng 2, hầu hết sự khác
biệt về ý kiến phản hồi đối với những vấn đề
cụ thể được trình bày qua bảng 3 khơng có ý
nghĩa thống kê giữa các nhóm đối tượng khảo
sát (p>0,05); duy nhất sự khác biệt về ý kiến
phản hồi đối với sự thay đổi lượng mưa có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Tỷ lệ ý kiến phản hồi
rằng biến động thời tiết đã đưa đến ảnh hưởng
của lũ đối với hoạt động sản xuất không đồng
nhất và rõ ràng, tập trung nhiều nhất vào việc
gây ảnh hưởng đến cơng trình ni. Ngược với
những ý kiến phản hồi về thay đổi lượng mưa,
chế độ gió và lũ lụt; các nhận định về thời tiết
bất thường, biến động nhiệt độ theo thời gian
và đặc biệt là xâm nhập mặn khá đồng nhất
và chiếm tỷ lệ rất cao qua khảo sát. Kết quả
này khẳng định biến đổi khí hậu và xâm nhập
mặn đã ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá tra
tại Sóc Trăng. Các ý kiến phản hồi chỉ ra rằng
thời tiết ngày càng cực đoan hơn và kéo dài
hơn với các hiện tượng bất thường phổ biến
xuất hiện trong khoảng thời gian 3 năm trở
lại đây và mạnh nhất vào năm 2019 – 2020.
Cụ thể là nắng nóng kéo dài từ tháng 2 – 4 và
tháng 11 – 12 với nền nhiệt độ cao làm nước
bốc hơi nhanh dẫn đến làm trầm trọng hơn
tình trạng nhiễm mặn, đồng thời kết hợp gây
ảnh hưởng đến cá nuôi. Ngược lại, mùa mưa
từ tháng 5 đến tháng 10 có xu hướng kéo dài
với lượng mưa lớn hơn và gió mạnh vào thời
gian này. Ngày càng xuất hiện nhiều giông
hơn trong mùa mưa và nước mặn xâm nhập từ
tháng 10 – 12 là thời điểm giao mùa nên cá dễ
bị bệnh (đặc biệt đối với hoạt động ương cá).
Nếu nắng nóng kéo dài và nhiệt độ tăng cao
làm cá dễ bị xuất huyết, lở loét; nếu lạnh kéo
dài làm cá dễ bị gan thận mủ. Đồng thời, từ
Số 4/2020
tháng 6 đến tháng 12 hàng năm thường có áp
thấp nhiệt đới gây mưa bão, qua đó ảnh hưởng
đến hoạt động ương – ni cá.
Để làm rõ hơn nhận thức của các bên liên
quan đến hoạt động ương – ni cá tra về những
khó khăn đặt ra, đánh giá xếp hạng những vấn
đề có khả năng tác động đến hoạt động ương
nuôi cá tra trong 5 – 10 năm đến đã được khảo
sát với kết quả trình bày qua bảng 4. Các phân
tích thống kê được xem xét dựa trên tỷ lệ ý kiến
phản hồi tương ứng với bậc xếp hạng của mỗi
yếu tố ảnh hưởng. Kết quả phân tích cho thấy
đánh giá những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt
động ương – nuôi cá tra bao gồm xâm nhập mặn
và tăng chi phí đầu tư khơng có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm đối tượng
(p>0,05). Ngược lại, có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê trong việc xếp hạng những vấn đề gia
tăng dịch bệnh, biến động giá cả thị trường và
những vấn đề khác (biến động nhiệt độ, thời tiết
thất thường,…) (p<0,05). Xét riêng biệt từng
nhóm đối tượng khảo sát, tỷ lệ ý kiến phản hồi
thể hiện quan điểm rất đa dạng. Tuy nhiên, kết
quả bảng 4 cũng cho thấy rằng xâm nhập mặn
đã thật sự ảnh hưởng đến hoạt động ương ni
cá tra tại Sóc Trăng, thể hiện qua ý kiến phản
hồi từ tất cả các nhóm đối tượng khảo sát đều
xếp hạng tác động của vấn đề này ở mức cao
nhất. Với vị trí ở hạ lưu sông Cửu Long tiếp giáp
với biển, dễ dàng hiểu được xâm nhập mặn ngày
càng tác động đến hoạt động nuôi cá tra tại Sóc
Trăng. Nghiên cứu với cá có khối lượng trung
bình 25g đã cho thấy độ mặn 9‰ làm tốc độ
sinh trưởng của cá giảm rõ rệt [2]. Điều này cũng
phù hợp với khuyến cáo của Vụ Nuôi trồng thủy
sản (2008) khi cho rằng xâm nhập mặn sẽ gây
tác hại đến nghề nuôi cá tra và nếu độ mặn cao
hơn 4‰ sẽ khơng thích hợp cho đối tượng ni
này. Theo đó, người ni trên địa bàn nghiên
cứu cố gắng giữ nước ao có độ mặn dưới 7‰.
Để bảo đảm chất lượng nước, trong khoảng thời
gian này người nuôi phải giảm cho ăn. Điều này
làm giảm tốc độ sinh trưởng của cá dẫn đến làm
giảm năng suất và sản lượng vụ nuôi [7]. Riêng
vấn đề biến động nhiệt độ theo thời gian, thời
tiết thất thường,…khơng được đánh giá cao bởi
nhóm những đối tượng trực tiếp sản xuất nhưng
lại được quan tâm nhiều hơn bởi nhóm đối
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 5
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
tượng là những người am hiểu. Điều này có thể
là nhờ vào những biện pháp khắc phục như đào
sâu ao, dự trữ nước ngọt để thay nước,… nên
ảnh hưởng tăng chậm của biến động nhiệt độ
theo thời gian và thời tiết thất thường,…trên địa
bàn nghiên cứu vẫn chưa đưa đến những thiệt
hại tức thời và trực quan để được những người
ương – nuôi cá tra ưu tiên quan tâm. Ngược lại,
với quan điểm của nhà quản lý, những người am
hiểu lại cho rằng các vấn đề này cần được quan
tâm với tính chất có khả năng tác động đến hoạt
động ương nuôi cá tra trong 5 – 10 năm đến.
2. Các biện pháp thích ứng của người ni
Trước những ảnh hưởng tiêu cực gây ra do
biến đổi khí hậu – xâm nhập mặn, cần phải có
những biện pháp khắc phục nhằm duy trì hoạt
động ương – ni cá tra. Kết quả khảo sát về
khả năng khắc phục những tác động do biến
đổi khí hậu – xâm nhập mặn (bảng 3) cho thấy
ý kiến phản hồi có sự khác biệt giữa các nhóm
đối tượng khảo sát (p<0,05). Đáng lưu ý, tỷ
lệ lớn ý kiến từ những người ương nuôi cá tra
trong thực tế cho rằng rất khó khăn hoặc tương
đối khó khăn trong việc khắc phục vấn đề này
(lần lượt chiếm các tỷ lệ 35,56% và 46,67%
ở nhóm hộ ương – ni cá thể, và 33,33% và
66,67% ở nhóm quản lý trại ni của các cơng
ty). Trong khí đó, mặc đù đa số ý kiến đánh giá
tương đối khó khăn (82,5%), vẫn có một tỷ lệ
tương đối ở nhóm người am hiểu (12,5%) cho
rằng khơng gặp khó khăn trong việc khắc phục
vấn đề này. Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho
thấy hiện tượng xâm nhập mặn gây ảnh hưởng
đến hoạt động ương – nuôi cá tra đã trở nên
thường xuyên hơn, xuất hiện sớm hơn với mức
độ nghiêm trọng hơn tùy theo khu vực. Thông
thường, hiện tường này xảy ra từ ngày 7 – 14
Âm lịch hàng tháng với độ mặn nước sơng ở
Sóc Trăng có thể lên đến 13‰ - 16‰. Để thích
ứng với tình hình biến đổi khí hậu – xâm nhập
mặn, người ương – ni cá tra phải có các biện
pháp khắc phục nhằm bảo đảm hoạt động (bảng
5). Kết quả ở bảng 5 cho thấy khơng có nhóm
đối tượng nào đồng tình với ý kiến ngừng hoạt
động – chuyển đổi ngành nghề. Điều này tiếp
tục khẳng định ương – nuôi cá tra là một hoạt
động sinh kế gắn bó với một bộ phận lớn nơng
dân ở Sóc Trăng. Kết quả xử lý thống kê chỉ
ra hầu hết việc lựa chọn các biện pháp khắc
phục những khó khăn gây ra bởi xâm nhập mặn
khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
các nhóm đối tượng (p>0,05); ngoại trừ duy
nhất trường hợp phản hồi về việc áp dụng biện
pháp củng cố cơng trình (p<0,05).
Việc thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra
(giảm mật độ, tăng cường sức đề kháng cho
cá ni, ni theo quy trình khép kín và giảm
cho ăn để hạn chế thay nước khi bị xâm nhập
mặn,…) đều được cả 3 nhóm khảo sát xem như
là biện pháp thích ứng quan trọng nhất (lần
lượt chiếm tỷ lệ 75,56%, 83,33% và 90% ở các
nhóm hộ cá thể, quản lý trang trại công ty và
người am hiểu). Trong bối cảnh chịu nhiều ảnh
hưởng của biến đổi
Bảng 2. Nhận thức về biến đổi khí hậu của các đối tượng liên quan đến hoạt động ương –
nuôi cá tra
Đối tượng
đánh giá
Người ương –
nuôi (n=45)
Quản lý
trang trại
(n=12)
Người am
hiểu (n=40)
Hiện tượng bất thường - cực đoan xảy ra
(% ý kiến đánh giá)
Rất thường Ở mức nào
Khơng bất
xun
đó
thường
Quan tâm – lo ngại của những người
được khảo sát (% ý kiến đánh giá)
Tương đối
Không lo
Rất lo ngại
lo ngại
ngại
20,0a (9/45)
68,89a (31/45)
11,11a (5/45)
22,22a (10/45) 66,67a (30/45) 11,11a (5/45)
41,57a (5/12)
58,33a (7/12)
0,0a(0/12)
33,33a (4/12)
66,67a (8/12)
0,0a (0/12)
25,0a (10/40)
70,0a (28/40)
5,0a (2/40)
17,5a (7/40)
82,5a (33/40)
0,0a (0/40)
Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Bảng 3. Các vấn đề gây ra bởi biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động ương – nuôi cá tra
Khó khăn trong khắc phục
(% ý kiến đánh giá)
Hiện tượng (% ý kiến đánh giá)
Đối tượng
đánh giá
Người
ương
– nuôi
(n=45)
Quản lý
trang trại
(n=12)
Người am
hiểu (n=40)
Xâm
nhập
mặn
Thời
tiết bất
thường
Biến động
nhiệt độ
theo thời
gian
Thay
đổi
lượng
mưa
Thay
đổi chế
độ gió
Lũ lụt
Tương
Rất khó
đối khó
khăn
khăn
Khơng
khó
khăn
97,78a
(44/45)
88,89a
(40/45)
93,33a
(42/45)
33,33a
(15/45)
31,11a
(14/45)
11,1a
(5/45)
35,56a
(16/45)
46,67a
(21/45)
17,77a
(8/45)
100a
(12/12)
100a
(12/12)
91,67a
(11/12)
33,33a
(4/12)
58,33a
(7/12)
8,33a
(1/12)
33,33a
(4/12)
66,67a
(8/12)
0a (0/12)
100a
(40/40)
95a
(38/40)
95a
(38/40)
87,5b
(35/40)
47,5a
(19/40)
22,5a
(9/40)
2,5b
(1/40)
82,5b
(34/40)
12,5b
(5/40)
Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống
kê (p>0,05), những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Bảng 4. Đánh giá những vấn đề có khả năng tác động đến hoạt động ương nuôi cá tra trong
5 – 10 năm đến
Đối
tượng
đánh
giá
Tác
động
Xâm nhập
mặn (% ý
kiến đánh
giá)
Gia tăng dịch
bệnh (% ý
kiến đánh
giá)
Tăng chi phí
đầu tư (%
ý kiến đánh
giá)
Biến động
giá cả - thị
trường (%
ý kiến đánh
giá)
81,82a (36/44)
11,36a (5/44)
4,55a (2/44)
2,22a (1/44)
0a (0/44)
75a (9/12)
8,33a (1/12)
0a (0/12)
0a (0/12)
16,67a (2/12)
75,49a (31/39)
10,26a (4/39)
2,56a (1/39)
5,13a (2/39)
2,56a (1/39)
2,27a (1/44)
47,73a (21/44)
18,18a (8/44)
4,55a (2/44)
25a (12/44)
0a,b (0/12)
50a,b (6/12)
16,67a,b (2/12)
0a,b (0/12)
33,33a,b (4/12)
23,08b (9/39)
41,03b(16/39)
10,26b (4/39)
12,82b (5/39)
12,82b (5/39)
0a (0/44)
47,73a (21/44)
38,64a (17/44)
13,64a (6/44)
0a (0/44 )
0a (0/12)
50a (6/12)
41,67a (5/12)
0a (0/12)
8,33a (1/12)
2,56a (1/39)
61,54a (24/39)
30,77a (12/39)
2,56a (1/39)
0a (0/39)
6,82a (3/44)
36,36a (16/44)
40,91a (18/44)
15,91a (7/44)
0a (0/44)
0a,b (0/12)
50a,b (6/12)
25a,b (3/12)
8,33a,b (1/12)
16,67a,b (2/12)
35,90b (14/39)
28,21b (11/39)
23,08b (9/39)
7,69b (3/39)
5,13b (2/39)
Xếp hạng
Hộ ương
– nuôi
các thể
(n=44)
Quản
lý trang
trại
(n=12)
Người
am hiểu
(n=39)
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
Vấn đề khác
(biến động
nhiệt độ,
thời tiết thất
thường,…)
(% ý kiến
đánh giá)
0a (0/25)
0a (0/25)
20a (5/25)
32a (8/25)
48a (12/25)
0b (0/12)
8,33b (1/12)
0b (0/12)
33,33b (4/12)
58,33b (7/12)
15,38c (6/39)
28,21c (11/39)
38,46c (15/39)
2,56c (1/39)
12,82c (5/39)
Ghi chú:- 1 hộ nuôi và 1 người am hiểu chỉ nêu ý kiến đánh giá mà không xếp hạng các tác động đến hoạt động ương ni cá tra
- Chỉ có 25 hộ ương – nuôi đánh giá về mục vấn đề khác như thời thiết bất thường, cực đoan, biến động nhiệt độ
- Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05),
những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Bảng 5. Biện pháp khắc phục (và dự kiến biện pháp khắc phục) các ảnh hưởng của xâm nhập
mặn đối với hoạt động ương – nuôi cá tra
Đối với hoạt động nuôi cá tra (% ý kiến đánh giá)
Đối tượng
khảo sát
Thay đổi kỹ
thuật ni
Thay đổi
mùa vụ
Củng cố
cơng trình
Biện pháp
khác (khoan
giếng và
dành ao trữ
nước ngọt)
Nuôi đối
tượng mới
(% ý kiến
đánh giá)
Người ương –
75,56a (34/45) 15,56a (7/45) 24,44a (11/45) 15,56a (7/45) 11,11a (5/45)
nuôi (n=45)
Quản lý
trang trại
(n=12)
83,33a (10/12)
8,33a (1/12)
0a (0/12)
41,67a (5/12)
Người am
hiểu (n=40)
90a (36/40)
12,5a (5/40)
65b (26/40)
25a (10/40)
Ngừng nuôi/
Chuyển đổi
ngành nghề (%
ý kiến đánh
giá)
0a (0/45)
12,67a (2/12) (Không khảo sát)
10a (4/40%)
0a (0/40)
Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05),
những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Khí hậu mà cụ thể là hiện tượng xâm nhập
mặn, việc bảo đảm tỷ lệ sống, giảm dịch bệnh và
thúc đẩy tăng trưởng của cá nuôi để ổn định năng
suất bằng những biện pháp kỹ thuật thực sự là ưu
tiên hàng đầu. Ngược lại, biện pháp thay đổi mùa
vụ khó khả thi với đa số người nuôi (tỷ lệ lựa chọn
thấp) do hoạt động ương - nuôi cá tra gần như tiến
hành quanh năm, đặc biệt là thời gian ni kéo
dài, thậm chí phải gối vụ từ năm này qua năm sau.
Nhóm biện pháp củng cố cơng trình (nâng cao
và gia cố bờ bao, đào sâu ao đến 4 – 5 m) được
hai nhóm đối tượng là các hộ ương – nuôi cá thể
và những người am hiểu ưu tiên hơn so với biện
pháp thay đổi mùa vụ với 24,44% và 65% số ý
kiến phản hồi. Riêng ở nhóm những người quản
lý trang trại của các cơng ty, khơng có ý kiến nào
lựa chọn biện pháp này. Đối với nhóm những hộ
ương – ni cá thể, có thể do thiếu nhân lực nên
hệ thống cơng trình mà đặc biệt là đê bao khơng
kịp khắc phục khi bị ảnh hưởng bởi triều cường
và lũ. Ngược lại, với đội ngũ nhân lực đông, điều
này không trở thành vấn đề đối với các trại nuôi
thuộc các công ty. Liên quan đến các biện pháp
kỹ thuật, đối với hoạt động ương – nuôi cá tra,
việc bảo đảm chất lượng nước mà trước hết là
ổn định độ mặn đóng vai trị rất quan trọng. Trên
8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
cơ sở này, ưu tiên thứ hai đối với cả 3 nhóm đối
tượng khảo sát là khoan giếng để chủ động nguồn
cấp nước ngọt và nuôi luân phiên để dành ao dự
trữ nước ngọt trước tác động của xâm nhập mặn.
Biện pháp thích ứng có tỷ lệ lựa chọn gần như
thấp nhất so với những biện còn lại đối với cả 3
nhóm đối tượng khảo sát là ni những giống cá
tra mới có khả năng chịu mặn cao hoặc tìm một
đối tượng mới có hiệu quả kinh tế tương đương
để thay thế. Có thể hiểu được điều này vì người
ni nói chung thường xem xét vấn đề dựa trên
thực tế vì hiện tại vẫn chưa thấy cơng bố nào về
giống cá tra chịu mặn cao cho dù đã có những
nghiên cứu của Đại học cần Thơ và Viện Nghiên
cứu nuôi trồng thủy sản II, cũng như việc thay
thế lồi ni khác sẽ phải tốn chi phí thay đổi
cơng trình ni và tìm thị trường mới.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
Dựa trên kết quả khảo sát, có thể đưa đến
những kết luận và đề xuất sau:
1. Kết luận
- Những hộ ương – nuôi cá thể, các quản
lý trang trại nuôi cá của các công ty và những
người nắm thông tin (cán bộ thuộc các cơ quan
– ban ngành có liên quan và cán bộ quản lý địa
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
phương) tại Sóc Trăng đã nhận thức được ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn
đến hoạt động ương – nuôi cá tra. Với tỷ lệ lớn
nhất ở cả 3 nhóm, tất cả đều cho rằng đã có
những bất thường – cực đoan về khí hậu – thời
tiết xảy ra ở mức độ nào đó và xâm nhập mặn
là vấn đề được quan tâm – lo ngại nhiều nhất.
- Trong 5 đến 10 năm đến, xâm nhập mặn
được đánh giá vấn đề đưa đến mối lo ngại cao
nhất đối với hoạt động ương – nuôi cá tra ở
tất cả các nhóm đối tượng. Đa số những người
được khảo sát đều cho rằng tương đối khó khăn
trong việc khắc phục vấn đề này. Bên cạnh đó,
biến động nhiệt độ theo thời gian, thời tiết thất
thường,… được quan tâm nhiều hơn bởi những
người nắm thông tin nhưng không được đánh giá
cao bởi nhóm những đối tượng trực tiếp sản xuất.
- Thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra (giảm
Số 4/2020
mật độ, tăng cường sức đề kháng cho cá nuôi,
nuôi theo quy trình khép kín và giảm cho ăn
để hạn chế thay nước khi bị xâm nhập mặn,…)
được cả 3 nhóm xem như là biện pháp thích
ứng quan trọng nhất trước ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu và xâm nhập mặn.
2. Đề xuất ý kiến
- Mở rộng nghiên cứu đối với nhóm hộ nuôi đáp
ứng nhu cầu địa phương tại huyện Cù Lao Dung.
- Nghiên cứu nên được tiếp tục theo khía
cạnh xây dựng khả năng thích ứng (với biến
đổi khí hậu – xâm nhập mặn) cho hoạt động
ương – nuôi cá tra tại Sóc Trăng.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được thực
hiện trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ GD&ĐT
“Nghiên cứu ảnh hưởng xâm nhập mặn đến
nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus
Sauvage, 1878) tại Sóc Trăng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Chi cục thống kê tỉnh Sóc Trăng (2018). “Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2018”. Nhà Xuất bản
Thống Kê.
2. Nguyễn Chí Lâm, Đỗ Thị Thanh Hương, Vũ Nam Sơn và Nguyễn Thanh Phương (2011). “Ảnh hưởng của
độ mặn lên thay đổi sinh lý và tăng trưởng của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giống”. Tạp chí Khoa
học 2011, số 17a các trang 60-69, Trường Đại học Cần Thơ
3. Sở NN&PTNT Bến Tre (Ben Tre DARD) (2012). “Báo cáo tình hình ni cá tra năm 2011 và kế hoạch cho
năm 2012”.
Tiếng Anh
4. Anh Lam Nguyen, Minh Hoang Truong, Johan AJ Verreth, Rik Leemans, Roel H Bosma and Sena S De Silva
(2015). “Exploring the climate change concerns of striped catfish producers in the Mekong Delta, Vietnam”.
SpringerPlus (2015) 4:46. (DOI 10.1186/s40064-015-0822-0)
5. Kam, S.P., Badjeck, M.C., The, L., The, L., Tran, N., (2012). “Autonomous adaptation to climate change by
shrimp and catfish farmers in Vietnam’s Mekong River delta”. WorldFish Working Paper: 2012-24.
6. MARD (Ministry of Agriculture and rural Development), (2008). “Action plan framework for adaptation
and mitigation of climate change of the agriculture and rural development sector period 2008-2020”. MARD,
Ha Noi, Vietnam
7. Phan, Lam T., Bui, Tam M., Nguyen, Thuy T.T., Gooley, G.J., Ingram, B.A., Nguyen Hao V., Nguyen
Phuong T. De Silva Sena S., (2009). “Current status of farming practices of striped catfish, Pangasianodon
hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam”. Aquaculture, 296, 227-236.
8. Ram C. Bhujel, (2008). “Statistics for aquaculture”. Asian Institute of Technology (AIT). Wiley-Blackwell.
Trang web
9. truy cập ngày 10-2-2020.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT RONG Ulva reticulata
LÊN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA RAU MUỐNG (Ipomoea aquatic)
Văn Hồng Cầm1, Khúc Thị An1, Nguyễn Thảo Hiền2, Trần Thị Phương Anh3
Viện Công nghệ sinh học và môi trường, Trường Đại học Nha Trang
2
Sinh viên K56 – Công nghệ sinh học, Trường Đại học Nha Trang
3
Khoa Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Nha Trang
Tác giả liên hệ: Văn Hồng Cầm (Email: )
1
Ngày nhận bài: 23/12/2019; Ngày phản biện thông qua: 06/11/2020; Ngày duyệt đăng: 24/12/2020
TÓM TẮT
Rong biển đã và đang được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó ngành nơng nghiệp có thể
sử dụng rong biển như một loại phân bón hữu cơ. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích khảo sát điều
kiện thích hợp để thu dịch chiết rong Ulva reticulata, và khảo sát ảnh hưởng dịch chiết rong lên tỷ lệ nảy mầm,
năng suất, chiều dài thân, chiều dài rễ của rau muống (Ipomoea aquatica).
Kết quả khảo sát điều kiện pH và nhiệt độ thích hợp để thu dịch chiết rong biển U. reticulata cho
thấy: dịch chiết thu được tốt nhất là ở điều kiện nhiệt độ 120ºC/1atm (20 phút), pH = 3 hoặc 11. Khơng có
sự khác biệt giữa các nghiệm thức có bổ sung rong biển và nghiệm thức đối chứng trong ảnh hưởng của
dịch chiết U. reticulata lên tỉ lệ nảy mầm và phát triển rễ ở rau muống. Dịch rong chiết ở pH11 với nồng
độ 0,5 % cho chiều dài thân tốt nhất (34,80 ± 4,69 cm) và có khác biệt với nghiệm thức đối chứng nước
máy (22,00 ± 2,34 cm). Năng suất rau cao nhất thu được ở các chậu rau được bón lá bằng dịch rong chiết
trong môi trường pH7 và pH11 (115,33 ± 21,94 – 137,67 ± 25,42 g/chậu), khác biệt rõ rệt so với đối chứng
nước máy (52,33 ± 30,27 g/chậu) và 2 sản phẩm phân bón rong biển thương mại được thử nghiệm song
song (65,7±9,7 g/chậu).
Từ khóa: Ulva reticulata, phân bón dạng lỏng, phân bón rong biển
ABSTRACT
Seaweeds have been used in many applications including organic fertilizers. The aim of our research
was to evaluate the method to extract Ulva reticulata and the effect of those extracts on the growth
(germination rate, shoot length, root length) and productivity of water spinach (Ipomoea aquatica). The
results showed that the optimal conditions to get extracts were 121ºC/1atm for 20 minutes at pH3 and pH11.
There was no difference between seaweed-extract-added treatments and tap-water control in germination
rate and root length. On the other hand, the shoot length was highest when the plants were sprayed with
0.5 % of pH11-extracted liquid (34.80 ± 4.69 cm) that was significantly different from other treatments. The
highest productivity was achieved in seaweed solutions extracted in pH7 and pH11 (average over 100 g/pot),
which were much higher than other controls including tap water (52.3 ± 30.2 g/pot) and commercial liquid
seaweed fertilizer controls (65.7 ± 9.7 g/pot).
Key words: Ulva reticulata, liquid fertilizer, seaweed fertilizer
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rong lục võng hay còn được gọi là rong
giấy hoặc rong xanh nhớt Ulva reticulata,
thuộc chi rong xà lách Ulva, thường phát triển
bám trên các bãi đá trong vùng bãi triều. Khi
hàm lượng dinh dưỡng trong nước cao, các
loài thuộc chi Ulva sẽ phát triển mạnh mẽ,
còn được gọi là “thủy triều xanh” – “green
tides” [6]. Hiện tượng thủy triều xanh đã
10 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
được ghi nhận và mô tả ở nhiều nơi khác nhau
trên thế giới. Vào đầu những năm 2000, các
bờ biển trong các khu resort ở đảo Boracay
(trung tâm Philippines) đã xuất hiện ồ ạt Ulva
reticulata – nguyên nhân do việc xử lý nước
thải không triệt để [8]. Đảo Mactan (Cebu,
Philippines), cũng đã chi trả một khoảng tiền
lớn cho việc dọn dẹp Ulva reticulata và Ulva
lactuca trong các đợt thủy triều xanh vào năm
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
2003-2004 [8]. Vào thế vận hội Olympics
lần thứ 29 diễn ra tại Qingdao (Thanh Đảo),
Trung Quốc, thủy triều xanh đã gây nhiều
rắc rối cho môn thể thao thuyền buồm. Hơn
10.000 người và 1.400 thuyền được điều
động để dọn dẹp Ulva reticulata chỉ trong
thời gian ngắn trước khi thế vận hội bắt đầu
[9]. Tháng 8 năm 2011, Viscusi cũng đã công
bố trên website Bloomberg.com về việc thủy
triều xanh đã làm khách du lịch rời khỏi vùng
biển Brittany, Pháp [16].
Ulva reticulata phân bố chủ yếu ở miền
Trung và Nam Trung bộ Việt Nam [1]. Trước
đây, U. reticulata xuất hiện tại khu vực bờ
biển Hòn Chồng-Nha Trang với mật độ thấp,
sự có mặt của chúng khơng đáng kể và vai
trị của chúng cũng khơng được nhắc đến. Tuy
nhiên trong khoảng thời gian trở lại đây, sau
khi đường Phạm Văn Đồng được xây dựng, số
hộ dân trong khu vực tăng lên, các hoạt động
du lịch tăng mạnh, nguồn nước thải ra biển
xử lý không đầy đủ dẫn đến sự bùng phát của
thủy triều xanh Ulva reticulata (Hình 1). Sự
xuất hiện của U. reticulata trong thời gian qua
đã gây “phiền hà” đến người dân sống trong
khu vực cũng như ảnh hưởng đến hoạt động
du lịch địa phương. Khi rong phân hủy, sẽ gây
mùi khó chịu.
Trước tình hình “thủy triều xanh” xuất
hiện, nhiều nhà khoa học đã bắt đầu các
nghiên cứu hướng đến việc sử dụng U.
reticulata. Selvam và Sivakumar (2013) đã
Số 4/2020
thử nghiệm dịch chiết Ulva reticulata lên sự
phát triển của đậu mười Vigna mungo. Kết
quả cho thấy, với nồng độ thấp dịch chiết
rong biển U. reticulata có khả năng thúc đẩy
nhanh sự nẩy mầm, sự phát triển, cho năng
suất cũng như chất lượng hạt đậu cao [14].
Magnusson (2016) đã đề xuất mơ hình gồm
nhiều cách thức sử dụng khác nhau trong việc
xử lý chi tảo Ulva nở hoa (Hình 2) [10].
Nhóm nghiên cứu của Selvam đã sử dụng
dịch chiết từ rong U. reticulata tác động lên
sự nảy mầm, tăng trưởng của hạt đậu đen
đã cho kết quả tốt, hạt được ngâm với nồng
độ dịch chiết thấp cho tỷ lệ nảy mầm cao
hơn bình thường, lần lượt là 100% (nồng độ
2,5%), 95% ± 2,1 (nồng độ 1%) [13], [14].
Một nghiên cứu khác thuộc nhóm nghiên
cứu Muthezhilan về việc phát triển phân
bón dạng lỏng từ 3 loại rong biển khác nhau
bao gồm Ulva fasciata, Sargassum wightii
và Padina boergesenii nhằm nâng cao năng
suất các loài thực vật bao gồm đậu xanh
(Vigna radiate), đậu mười (Vigna mungo),
cải bẹ xanh (Brassica juncea) và lúa (Oryza
sativa). Kết quả của nghiên cứu này đã
chứng minh rõ ràng công dụng thúc đẩy tăng
trưởng của các nhóm thực vật thử nghiệm,
nhóm nghiên cứu cũng đã đề xuất việc sử
dụng hỗn hợp dịch chiết rong biển (chiết
bằng nước) trong nông nghiệp nhằm nâng
cao mùa vụ sản xuất theo phương thức thân
thiện với mơi trường [11].
Hình 1: Rong Ulva spp. dạt lên b ờ biển Phạm Văn Đồng, Nha Trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 11
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Hình 2: Mơ hình được đề xuất trong việc xử lý tảo chi Ulva nở hoa [10]
(1) chi Ulva thu hoạch từ tảo nở hoa do phú dưỡng hóa
(2) tảo ni trồng.
(3) rửa sinh khối trong nước ngọt,
(4) bốc hơi nước rửa trong các ao bằng năng lượng mặt trời
(5) muối rong biển với tỷ lệ Na: K thấp và hàm lượng Ca và Mg cao và một loạt các nguyên tố vi lượng, và các chất có hoạt tính sinh
học từ các chất xơ hịa tan (ulvan), có thể được kết hợp vào các sản phẩm thực phẩm chế biến.
(6) phân bón hữu cơ, (7) thức ăn gia súc (8) và nhiên liệu sinh học.
Năm 2014, John và Mahadevi đã tiến hành
thí nghiệm nghiên cứu tác động của phân bón
lỏng chiết từ rong Caulerpa peltata lên hạt
đậu xanh, kết quả cho thấy dịch chiết rong
Caulerpa peltata ảnh hưởng tích cực đến sự
nảy chồi và chiều dài rễ của hạt đậu xanh, các
chất sinh hóa (diệp lục, carotenoid,…) tăng
lên và hàm lượng sắc tố tối đa ở mức 10%
SLF, nghiên cứu đưa ra kết luận dịch chiết
rong Caulerpa peltata có thể được sử dụng
như phân bón sinh học cho sự phát triển của
hạt đậu xanh Vigna radiata [12].
Việc sử dụng các chất chiết xuất thu được từ
rong biển nhằm thúc đẩy tăng trưởng ở thực vật
đã được nghiên cứu rộng rãi kể từ lần đầu tiên
sản phẩm được tung ra thị trường vào những
năm 1940 [5]. Những sản phẩm này giúp tăng
cường sự tăng trưởng và năng suất của nhiều
cây trồng thông qua việc cải thiện sự phát triển
của rễ, tăng hàm lượng chất diệp lục và diện
tích lá [2], [4], [5], [7], [15].
Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào thử
nghiệm dịch chiết rong U. reticulata trên đối
tượng rau muống (Ipomoea aquatica) - một
loại rau có trong bữa ăn hàng ngày của các gia
đình Việt Nam- nhằm đánh giá tính khả thi của
12 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
việc xử lý rong Ulva trong các đợt “thủy triều
xanh” trở thành dịch phân bón cho rau xanh.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thu mẫu và xử lý mẫu:
Rong lục võng (còn gọi là rong giấy, rong
xanh nhớt) Ulva reticulata được thu từ vùng
nước cạn khu vực bãi đá Hịn Chồng, phía
Bắc Thành phố Nha Trang vào mùa rong phát
triển ồ ạt. Mẫu rong thu vào tháng 5-7/2016
tháng 5-7/2018 (mùa khô), tháng 10-11/2016
và tháng 10-11/2017 (mùa mưa). Mẫu rong thu
về được rửa sạch để loại bỏ muối, cát và các tạp
chất khác. Mẫu rong được định danh khoa học
dựa theo tài liệu của Phạm Hoàng Hộ (1969) và
cơ sở dữ liệu online Algaebase (https://www.
algaebase.org/search/species/detail/?species_
id=3671). Mẫu rong sau khi thu được rửa sạch
nhiều lần bằng nước ngọt, các mẫu rong, sau đó
được phơi khơ dưới mái che trong 1 – 2 ngày).
Sau khi sấy, mẫu rong đuợc xay nhỏ 2mm, giữ
trong các túi PET và hút chân không. Mẫu đuợc
bảo quản ở nhiệt độ phòng, trong điều kiện tối.
Một phần được sử dụng trong nghiên cứu thủy
phân rong bằng để thu dịch rong biển và thử
nghiệm trên cây trồng.
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
2.2 Ảnh hưởng của pH và nhiệt độ đến sự
phân cắt Ulva reticulata
Dịch chiết rong đuợc chuẩn bị theo phương
pháp của Brico-Domínguez [3], có cải tiến,
cách thực hiện như sau: mẫu rong xay nhỏ
đuợc trộn với nuớc theo tỉ lệ 1:20 (rong:nuớc
cất), sử dụng H3PO4, KOH để điều chỉnh đến
các giá trị pH = 3, 5, 7, 9, 11, 13. Tiến hành
thủy phân các mẫu rong ở các nhiệt độ khác
nhau bao gồm: nhiệt độ phòng (đối chứng),
60ºC, 80ºC, 121ºC (20 phút, 1atm). Tất cả các
phản ứng được thực hiện trong bình kín. Sau
đó, mẫu đuợc đánh giá cảm quan về màu, mùi,
độ nát của rong. Khi pH tự về lại trung tính
(hoặc điều chỉnh về trung tính bằng acid HCl
hoặc NaOH) mẫu được ly tâm 1000rpm trong
5 phút và thu dịch nổi. Dịch ly tâm được sử
dụng để đo hàm lượng các chất hòa tan ∆Brix
(Atago, Nhật) nhằm đánh giá lượng đường hòa
tan được tạo ra. Mỗi nghiệm thức được lặp lại
3 lần.
(∆Brix = Ðộ hòa tan sau khi gia nhiệt (Bt) –
Ðộ hịa tan ban dầu (Bi)).
Ngồi ra, các đánh giá về mặt cảm quan bao
gồm màu sắc rong, mùi của dịch chiết và độ nát
của bã rong sau khi chiết đều được ghi nhận.
2.3. Khảo sát ảnh hưởng của dịch chiết rong
lên sự sinh trưởng của Ipomoea aquatica
2.3.1 Ảnh hưởng của dịch chiết rong đến sự
nảy mầm của hạt Ipomoea aquatica
Hạt giống rau muống (Ipomoea aquatica)
do công ty TNHH Hạt giống Thuận Điền sản
xuất được sử dụng để đánh giá dịch chiết rong
biển U. reticulata. Cách trồng và thu hoạch dựa
vào thơng tin được in trên bao bì.
Thí nghiệm khảo sát tỷ lệ nảy mầm của hạt
giống được thực hiện như sau: chuẩn bị dịch
chiết rong được chiết bằng: nước cất, KOH
(pH =11), H3PO4 (pH = 3) với các nồng độ
0,5% và 1%,; hạt giống mỗi loại được gieo
trên hộp nhựa thực phẩm có lót giấy lọc thấm
sẵn dịch chiết rong đã chuẩn bị (20ml/đĩa),
lựa chọn hạt giống có kích thước, màu sắc
và trọng lượng đồng nhất, tiến hành gieo hạt
gieo 50 hạt/đĩa và lặp lại 3 lần, sau đó tính
kết quả trung bình, trong đó, nghiệm thức
đối chứng bao gồm nước máy, hai loại phân
Số 4/2020
bón từ rong biển thương mại là Phân bón A
có dạng bột được hịa tan (PB_A) và Phân
bón B dạng dịch lỏng (PB_B) theo công thức
của nhà sản xuất. Hạt được đặt trong phòng
ở nhiệt độ 25ºC ± 2ºC, Sau 4 ngày, tiến hành
đếm và tính tốn tỷ lệ nảy mầm của hạt giống.
Một hạt được xem là nẩy mầm khi rễ mầm
xuất hiện
Tỉ lệ nảy mầm (%) (Germination rate –
GR): được xác định bằng cơng thức:
GR = (n/N)*100 (%)
Trong đó: n là số hạt nảy mầm; N là tổng
số hạt gieo
2.3.2 Ảnh hưởng của dịch chiết rong đến sự
phát triển của Ipomoea aquatica
Lựa chọn hạt giống có kích thước, màu sắc
và trọng lượng đồng nhất, tiến hành gieo hạt
lên các chậu được chuẩn bị sẵn đất sạch (mơi
trường đất có dinh dưỡng của nhà sản xuất
Tribat - Cơng ty CNSH Sài Gịn Xanh) với
mật độ 32 hạt/chậu. Định kỳ tưới nước 2 lần/
ngày vào buổi sáng và chiều mát. Dịch phân
bón rong biển được pha loãng ở các nồng độ
khác nhau (0,5%, 1%), phun dịch vào các
châu cây các nghiệm thức theo tỷ lệ 20ml/
lần; cách 7 ngày phun 1 lần. Nghiệm thức đối
chứng bao gồm nước máy, phân bón rong biển
thương mại PB_A và PB_B pha theo hướng
dẫn của nhà sản xuất), nghiệm thức kiểm
chứng bao gồm các dịch chiết từ rong biển
Ulva reticulata bằng KOH (pH = 11), H3PO4
(pH = 3), nước cất (pH = 7) ở các nồng độ
khác nhau (0,5%; 1%). Sau 53 ngày sau khi
gieo hạt, tiến hành thu hoạch, nhổ cả gốc. Các
chậu được sử dụng trong thí nghiệm đồng
nhất về kích thước (12x14cm), hình dáng. Thí
nghiệm được lặp lại 3 lần.
Đánh giá sự phát triển của cây theo các chỉ
tiêu: chiều cao thân cây, chiều dài rễ, tỷ lệ sống
của cây và năng suất cây trồng (=khối lượng
cây/chậu).
Số liệu được thu thập và xử lý bằng phần
mềm thống kê Statgraphics centurion XV.I.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hưởng của pH và nhiệt độ đến sự
phân cắt Ulva reticulata
Kết quả khảo sát điều kiện pH và nhiệt độ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 13
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
để thu dịch chiết rong U. reticulata cho thấy:
nhiệt độ và pH có ảnh hưởng đến khả năng
phân cắt của rong. ΔBrix tuy phân bố rời rạc
nhưng ở 121ºC/1atm và pH13 hoặc pH3 đem
lại kết quả khác biệt so với các nghiệm thức
khác (Hình 3).
Về mặt cảm quan, mức pH11 và pH13,
dịch rong có màu xanh lục thẫm, khả năng
phân cắt rong nhanh hơn so với nhóm pH
thấp, tuy nhiên, khi xử lý ở pH13, sản phẩm
chiết có mùi sộc (mùi của KOH nồng độ cao),
gây độc hại. Khi chiết bằng pH = 9 ta nhận
Số 4/2020
thấy được khả năng phân cắt rong chậm (rong
nát ít), dịch rong có màu xanh lục đậm và vẫn
giữ được mùi tanh của rong biển. Đối với pH
= 3, 5, dịch rong ngả màu vàng xanh, ngồi
mùi tanh của rong cịn nhận thấy mùi chua của
acid (Bảng 3.1).
Với các kết quả như trên, chúng tôi sử
dụng pH = 3, pH = 11 và pH = 7 (đối chứng)
trong điều kiện nhiệt độ hấp 121ºC/1atm, thời
gian hấp 20 phút để chiết lấy dịch rong, tiến
hành thực hiện các thí nghiệm thử nghiệm
trên thực vật.
Hình 3: Ảnh hưởng của pH và nhiệt độ đến sự phân cắt U. reticulata
Giá trị P_value < 0.001
Bảng 3.1: Đánh giá cảm quan dịch rong chiết trong các điều kiện pH khác nhau.
14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
3.2 Ảnh hưởng của dịch chiết rong biển lên
sự phát triển của Ipomoea aquatica
3.2.1 Tỷ lệ nảy mầm của Ipomoea aquatica
Kết quả khảo sát dịch chiết rong U. reticulata
đối với tỷ lệ nảy mầm giữa hạt rau muống sau
4 ngày tính từ ngày ủ với dịch rong cho thấy:
tỷ lệ nảy mầm giữa các nghiệm thức dịch chiết
rong U. reticulata và nhóm đối chứng phân bón
rong thương mại (PB_A và PB_B) khơng thể
Số 4/2020
hiện sự khác biệt so với mẫu đối chứng nước
máy. Trong các nghiệm thức, tỷ lệ nảy mầm
của hạt rau muống đạt tỷ lệ trung bình từ 4066% với độ lệch chuẩn khá lớn 3-11%. Dịch
rong chiết ở pH11, nồng độ dịch 0,5% cho tỷ lệ
nảy mầm ổn định hơn so với các nghiệm thức
khác (độ lệch 3%), và dịch chiết rong ở pH3,
nồng độ dịch chiết 1% cho độ lệch lớn nhất
(11%) (Hình 4).
Hình 4: Ảnh hưởng của các dịch chiết rong U. reticulata lên sự nảy mầm của hạt Ipomoea aquatica
a,b,c: là giá trị phân hạng biểu diễn sự khác biệt của mẫu (với P<0,05)
3.2.2 Ảnh hưởng của dịch chiết rong lên các
chỉ số phát triển khác của Ipomoea aquatica
Đối với sự phát triển chiều dài rễ và kéo
dài thân rau muống, các kết quả ghi nhận rằng
khơng có sự khác biệt về chiều dài rễ nhưng
có sự khác biệt về sự phát triển chiều dài thân.
Nghiệm thức đối chứng nước máy có độ biến
động thấp hơn so với các nghiệm thức bón dịch
rong biển. Ngồi ra, dịch rong Ulva reticulata
chiết trong môi trường pH11 với nồng độ dịch
rong 0,5% cho kết quả khác biệt về chiều dài
thân (34,8 ± 4,69cm) so với mẫu đối chứng
nước máy (22,00 ± 2,34 cm). Tuy vậy, tất cả
các nghiệm thức đều khơng khác biệt với 2
mẫu phân bón rong thương mại mua trên thị
trường được dùng làm đối chứng (Hình 5).
Hình 5: Ảnh hưởng của các dịch chiết rong U. reticulata lên sự phát triển thân và rễ Ipomoea aquatica
a,b,c: là giá trị phân hạng biểu diễn sự khác biệt của mẫu (với P<0,05)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Các số liệu ở cuối đợt thu hoạch cho thấy
năng suất rau và tỷ lệ sống tỷ lệ thuận với
nhau. Dịch chiết rong Ulva reticulata trong
điều kiện pH3, nồng độ dịch 1% cho tỷ lệ rau
sống (31,25±3,13%) và năng suất thấp nhất
(43,67±26,40%) so với các nghiệm thức rong
Số 4/2020
U. reticulata còn lại. Về mặt năng suất rau,
dịch rong thu nhận ở điều kiện chiết kiềm
(pH11) và chiết nước (pH7) cho kết quả tốt
nhất (100g/chậu) so với tất cả các nghiệm thức
còn lại, và khác biệt rõ rệt so với đối chứng
(52,33±30,27%) (Hình 6).
Hình 6: Ảnh hưởng của các dịch chiết rong U. reticulata lên tỷ lệ sống và năng suất Ipomoea aquatica
a - f: là giá trị phân hạng biểu diễn sự khác biệt của mẫu (với P<0,05)
Như vậy có thể thấy, sự phát triển chiều dài
rễ khơng có sự khác biệt. Tuy vậy, tỷ lệ sống
và năng suất rau thu được (gấp đôi so với đối
chứng rau chỉ được tưới bằng nước máy) thể
hiện các dịch chiết rong ở pH kiềm hoặc pH
trung tính có thể sử dụng như một phân bón
cho rau xanh. Ngồi ra, 2 loại phân bón rong
biển thương mại được sử dụng làm đối chứng
có năng suất khơng vượt trội so với nhóm
nghiệm thức pH7 và pH11.
Nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với
các nghiên cứu về sử dụng dịch rong biển
trong kích thích phát triển và năng suất cây
trồng. Kết quả của chúng tôi, so với nghiên
cứu của Selvam và Sivakumar, (2013);
Selvam và Balamurugan (2013) có khác biệt
lớn về tỷ lệ nảy mầm của hạt: trong đó nhóm
tác giả này đã cơng bố dịch U. reticulata cho
tỷ lệ nảy mầm đậu mười đạt 100% (nồng độ
2,5%), 95% ± 2,1 (nồng độ 1%). Điều này có
thể do bản chất sinh học của các loại hạt giống
16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
khác nhau và nồng độ và cách thức chiết rong
khác nhau. Ngoài ra, nồng độ dịch chiết rong
thấp (0.5%) so với nồng độ dịch chiết cao
(1%) cho kết quả thử nghiệm tốt hơn trên thực
vật là một thông tin tương đồng với các kết
quả khảo sát của các nhóm nghiên cứu khác
[7], [11] [13], [14].
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Dựa trên các kết quả khảo sát, chúng tơi đề
xuất có thể sử dụng phương pháp chiết rong
bằng pH11 (năng suất vượt trội và chiều dài
thân rau tốt hơn so với đối chứng) với nồng
độ dịch rong 0,5% như một dịch bổ sung trong
trồng rau xanh. Đồng thời, tiếp tục hồn thiện
quy trình chiết dịch rong, và cần có những
nghiên cứu phối trộn sản phẩm dịch rong với
các chất dinh dưỡng khác, nghiên cứu phương
pháp bảo quản dịch rong để có thể tiến đến
thương mại hóa và sản xuất đối phó với hiện
tượng thủy triều xanh trên bờ biển thành phố
Nha Trang.
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Hình 7: Thử nghiệm dịch rong biển lên sự phát triển và năng suất Ipomoea aquatic
Từ trái sang phải: Đối chứng nước máy, Đối chứng PB_A và PB_B, pH7 1,0%, pH11 1,0%, pH3 0,5%, pH11 0,5%
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Tiếng Việt:
1. Phạm Hoàng Hộ, 1969. Rong biển Việt Nam. Trung tâm học liệu Sài gòn..
Tiếng Anh:
2. Blunden G., Jenkins T. and Liu, Y.W. (1996), "Enhanced leaf chlorophyll levels in plants treated with
seaweed extract", Journal of Applied Phycology, 8, pp. 535–543. doi: 10.1007/BF02186333.
3. Brico-Domínguez D., Hernández-Carmona G., Moyo M., Stirk W., Staden J. (2014), "Plant growth
promoting activity of seaweed liquid extracts produced from Macrocystis pyrifera under different pH and
temperature conditions". J Appl Phycol, 26, pp. 2203–2210. />4. Craigie J.S., Norrie J., Prithiviraj B. (2009), ‘Seaweed Extracts as Biostimulants of Plant Growth and
Development’, Journal of Plant Growth Regulation, 28, pp. 386–399. doi: 10.1007/s00344-009-9103-x.
5. Craigie, J.S. (2011), "Seaweed extract stimuli in plant science and agriculture", Journal of Applied Phycology,
23, pp. 371–393. doi: 10.1007/s10811-010-9560-4.
6. Fort A., Mannion C., Fariñas-Franco J.M., & Sulpice, R. (2019), "Green tides select for fast expanding Ulva
strains". The Science of the total environment, 698, 134337 .
7. Khan W., Rayirath U.P, Subramanian U., Jithesh M.N, Rayorath P., Hodges D.M., Critchley A.T,
8. Largo D.B., Sembrano J., Hiraoka M., Ohno M. (2004), "Taxonomic and ecological profile of `green tide'
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
species of Ulva (Ulvales, Chlorophyta) in central Philippines". Hydrobiologia 512, 247–253 (2004).
9. Leliaert F., Zhang X., Ye N., Malta E., Engelen A.H, Mineur F., Verbruggen H., Clerck O.D. (2009)
‘Research note: Identity of the Qingdao algal bloom’, Phycological Research, 57, pp. 147–151. doi: 10.1111/
j.1440-1835.2009.00532.
10. Magnusson M., Carl C., Mata L., De-Nys R., Paul N.A. (2016), "Seaweed salt from Ulva: A novel first step in a
cascading biorefinery model", Algal Research. Elsevier, 16, pp. 308–316. doi: 10.1016/J.ALGAL.2016.03.018.
11. Muthezhilan R., Ravikumar V., Karthik R., Hussain A. J. (2014), "Development of Seaweed Liquid
Fertilizer (SLF) Consortium for the Enhancement of Agriculturally Important Crop Plants", Biosciences
Biotechnology Research Asia, 11, pp. 253–261. doi: 10.13005/bbra/1418.
12. Paul J. P. and Mahadevi B. (2014), "Effects of Seaweed liquid fertilizer of Caulerpa peltata Lamour (green
seaweed) on Vigna radiata (L.) R. Wilczek., In Idinthakarai, Tamil Nadu, India ", World Journal of Pharmacy
and Pharmaceutical Sciences, 3(2), pp. 422–438.
13. Selvam, G. and Balamurugan, M. (2013), "Developmental Changes in the Germination, Growth and
Chlorophyllase Activity of Vigna Mungo L. Using Seaweed Extract of Ulva reticulata Forsskal", International
Research Journal of Pharmacy, 4(1), pp. 252–254.
14. Selvam, G. and Sivakumar, K. (2013), "Effect of foliar spray from seaweed liquid fertilizer of Ulva reticulata
(Forsk.) on Vigna mungo L. and their elemental composition using SEM - energy dispersive spectroscopic
analysis", Asian Pacific Journal of Reproduction. 2(2), pp. 119–125. doi: 10.1016/S2305-0500(13)60131-1.
15. Turan, M. and Köse, C. (2004), "Seaweed extracts improve copper uptake of grapevine", Acta
Agriculturae Scandinavica, Section B — Soil & Plant Science. Taylor & Francis, 54(4), pp. 213–220. doi:
10.1080/09064710410030311.
16. Viscusi G, (2011), "Green Tides drive away Brittany tourists., USA: Bloomberg". omberg.
com/news/2011-08-03/brittany-green-tides-drive-away-tourists-from-french-beaches.html
18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN VÀ THỨC ĂN ĐẾN
SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG ỐC ĐĨA
(Nerita balteata Reeve, 1855) GIAI ĐOẠN TRÔI NỔI
EFFECTS OF SALINITY AND FOOD ON GROWTH, SURVIVAL RATE OF MANGROVE
SNAIL (Nerita balteata Reeve, 1885) AT THE VELIGER LARVAE STAGE
Vũ Trọng Đại1* và PhạmThị Khanh1
Viện Nuôi Trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
Tác giả liên hệ: Vũ Trọng Đại (Email: )
1
Ngày nhận bài: 16/11/2020; Ngày phản biện thơng qua: 28/12/2020; Ngày duyệt đăng: 31/12/2020
TĨM TẮT
Ốc đĩa N. balteata là đối tượng hải đặc sản của vùng biển tỉnh Quảng Ninh, với giá trị dinh dưỡng và
giá trị kinh tế cao. Mặc dù đã sản xuất giống thành công nhưng tỷ lệ sống của ấu trùng và con giống cịn thấp,
đặc biệt ở giai đoạn trơi nổi chuyển sang sống đáy. Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn, thức ăn lên
sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc đĩa ở giai đoạn ấu trùng trôi nổi được thực hiện tại Quảng Ninh nhằm tìm ra
được khoảng độ mặn và loại thức ăn thích hợp nhất cho sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, độ mặn thích hợp nhất cho sinh trưởng của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi là 25 ppt với sinh
trưởng tuyệt đối đạt cao nhất 8,99 ± 0,4 µm/ngày và tỷ lệ sống đạt 54,11 ± 2,37 %. Khẩu phần thức ăn là tảo
tươi kết hợp thức ăn tổng hợp là thích hợp nhất cho sinh trưởng của ấu trùng ốc đĩa, tăng trưởng tuyệt đối đạt
10,35 ± 0,51 µm/ngày, tỷ lệ sống đạt 58,50 ± 3,04 %. Vì thế, nghiên cứu này cho thấy ấu trùng ốc đĩa ở giai
đoạn trôi nổi có thể ni ở điều kiện độ mặn 25 ppt và thức ăn là tảo tươi kết hợp thức ăn tổng hợp cho sinh
trưởng và tỷ lệ sống cao nhất.
Từ khóa: ấu trùng trơi nổi, độ mặn, ốc đĩa, thức ăn, sinh trưởng
ABSTRACT
Mangrove snail N. balteata is a potential aquaculture species with high nutritional and economic value.
Although the artificial seeds production of this species have been successful but still having problems as low
survival rate in the process by veliger larvae are transformed into spat larvae. Experiments were conducted to
determine the effects of salinity and food on growth rate and survival rate of this snail in the stage of veliger
larvae in Quang Ninh provice. The results showed that the optimal salinity for growth of veliger larvae was
25 ppt, that resulted in a absoluted growth rate of 8.99 ± 0.4 µm/day and survival rate of 54.11 ± 2.37%. The
diet of algae combined with commercial feed was most suitable for the growth of mangrove snail at the veliger
larvae stage with absoluted growth rate and the survival rate reached 10.35 ± 0.51 µm/day and 58.50 ± 3.04 %,
respectively. These results could contribute technical knowledge of rearing veliger larvae of N. balteata with
optimal salinity of 25 ppt and diet of algae combined commercial feed.
Key words: veliger larvae; salinity, mangrove snail, feed, growth, survival rate
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ốc đĩa (Nerita balteata) là loài động vật
chân bụng có phân bố chính ở các vùng biển
khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới (Frey và
Vermeij, 2008) và được xem là món ăn đặc
sản do có thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng
và giá trị kinh tế cao (Đặng Khánh Hùng và
ctv, 2012). Tuy nhiên, ốc đĩa là đối tượng mới
nên sản lượng ốc đĩa cung cấp cho thị trường
hoàn tồn là khai thác từ tự nhiên từ đó làm
cho nguồn lợi ốc đĩa ngoài tự nhiên đang đứng
trước nguy cơ cạn kiệt (Vũ Trọng Đại và ctv,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 19
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
2014). Hiện nay, trên thế giới chỉ có một số
cơng trình nghiên cứu về phân loại, phân bố và
một số đặc điểm sinh học của ốc đĩa (Siong và
Reuben, 1998; Hurtado và ctv., 2007; Frey và
Vermeij, 2008). Ở nước ta, nhóm nghiên cứu
của Trường Đại học Nha Trang đã thực hiện
các nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản
và lần đầu tiên thành công trong sản xuất giống
đối tượng này tại Quảng Ninh (Ngô Anh Tuấn
và ctv, 2013).
Mặc dù đã thành cơng trong q trình sản
xuất giống nhân tạo nhưng ốc đĩa là đối tượng
có thời gian phát triển phơi kéo dài (Phùng
Thế Trung và ctv, 2014) và đặc biệt tỷ lệ sống
của ấu trùng khi chuyển giai đoạn từ trôi nổi
sang giai đoạn sống đáy thấp (Ngô Anh Tuấn
và ctv, 2013) làm cho hiệu quả sản xuất giống
đối tượng này ở quy mơ đại trà cịn gặp nhiều
khó khăn. Do đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng
của độ mặn và thức ăn đến sinh trưởng và tỷ
lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trơi nổi
nhằm tìm ra được khoảng độ mặn và loại thức
ăn phù hợp là rất cần thiết, góp phần nâng cao
tỷ lệ sống của ấu trùng khi chuyển sang giai
đoạn sống bám, từ đó bổ sung cơ sở khoa học
quan trọng tiến tới xây dựng hoàn thiện quy
trình sản xuất giống đối tượng này ở quy mô
đại trà.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên
cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ốc đĩa, tên khoa học
Nerita balteata Reeve, 1855, tên địa phương
ốc đẻ đen.
Hình 1: Ấu trùng ốc đĩa N. balteata giai đoạn
trơi nổi.
20 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Số 4/2020
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 5/2018 đến
tháng 12/2018
Địa điểm nghiên cứu: Công ty Cổ phần
Nhật Long, Quảng Ninh.
2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.1. Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng và
tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn veliger
Thí nghiệm được bố trí gồm 3 nghiệm thức
(NT) độ mặn: NT1 độ mặn 20 ppt, NT2 độ mặn
25 ppt và NT3 độ mặn 30 ppt, mỗi NT được
lặp lại 4 lần, thời gian thí nghiệm kéo dài 40
ngày, dùng tỷ lệ pha độ mặn giữa nước ngọt và
nước biển để có độ mặn theo nghiệm thức thí
nghiệm. Nguồn nước máy được chứa trong bể
composite và sục khí 24h trước khi sử dụng để
hạ độ mặn.
Độ mặn ban đầu của nguồn nước cấp là 25
ppt (tương ứng với NT2), tiến hành tăng hoặc
hạ độ mặn từ từ để ấu trùng quen với sự thay
đổi độ mặn, cứ mỗi 30 phút tăng hoặc hạ độ
mặn 1‰ đến khi đạt được các mức độ mặn
tương ứng với các nghiệm thức thí nghiệm.
Hàng ngày cho ấu trùng ăn hai lần vào 8h
và 14h, sử dụng thức ăn là các loài tảo đơn bào
(Nannochloropsis oculata, Isochrysis galbana),
tỷ lệ phối trộn 1:1, mật độ tảo cho ăn 15.000
– 30.000 tb/mL. Trước khi cho ăn, tảo được
lọc qua lưới lọc tảo để loại bỏ chất vẩn, xác
tảo. Tiến hành thay nước 2 ngày/lần, lượng
nước thay 50% và theo dõi các điều kiện môi
trường và quan sát khả năng vận động, bắt
mồi của ấu trùng.
2.2. Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và
tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn veliger
Thí nghiệm được bố trí với 3 nghiệm thức
(NT) thức ăn: NT1 - Tảo tươi – TT (N. oculata,
I. galbana, tỷ lệ 1:1, mật độ 20.000-30.000 tb/
mL); NT2 - thức ăn tổng hợp – TATH (AP0 và
Frippark, tỷ lệ 1:1, liều lượng 1g/m³/ngày);
NT3 – TT+TATH: tảo tươi (N. oculata, I.
galbana, tỷ lệ 1:1, mật độ 10.000-15.000 tb/
mL) kết hợp với thức ăn tổng hợp (AP0 và
Frippark, tỷ lệ 1:1, liều lượng 0,5g/m³/ngày).
Các nghiệm thức được lặp lại 4 lần, thời gian
thí nghiệm là 40 ngày.
Các thí nghiệm được bố trí trong các xơ
nhựa thể tích 18 lít, nước biển trước khi sử
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
dụng được lọc qua lõi lọc bơng kích thước
0,5 µm. Kiểm tra và điều chỉnh các thông số
môi trường nước: pH = 7,5 – 8,5, nhiệt độ 28
± 2ºC, độ mặn 25 ± 1 ‰. Định lượng ấu trùng
giai đoạn trôi nổi một ngày tuổi vào các xơ thí
nghiệm, mật độ ương 100 con/lít. Bố trí sục
khí, điều chỉnh chế độ sục khí vừa phải, thời
gian sục khí 24/24.
Hàng ngày cho ấu trùng ăn hai lần vào 8h
và 14h, trước khi cho ăn các loại tảo được lọc
qua lưới lọc để loại bỏ xác tảo, cặn vẩn. Thức
ăn tổng hợp ở NT2 và NT3, trước khi cho ấu
trùng ăn phải cà qua vợt nhằm đảm bảo kích cỡ
thức ăn phù hợp với phương thức ăn lọc của ấu
trùng. Tiến hành thay nước 2 ngày/lần, lượng
nước thay 50% và theo dõi các điều kiện môi
trường và quan sát khả năng vận động, bắt mồi
của ấu trùng.
Định kỳ 10 ngày/lần, lấy mẫu để xác định
các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DLG
µm/ngày) và tỷ lệ sống (%) của ấu trùng.
3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Kích thước chiều cao vỏ ấu trùng: là khoảng
cách lớn nhất kéo dài từ đỉnh vỏ phía trước
miệng vỏ, được đo bằng kính hiển vi có gắn
thước đo trên trắc vi thị kính, số lượng mẫu đo
30 ấu trùng/lần.
Số lượng ấu trùng trong bể được xác định
bằng phương pháp định lượng thể tích, bằng
cách sử dụng cốc thủy tinh 200 mL lấy mẫu ở 5
vị trí khác nhau bất kì trong thể tích thí nghiệm
để xác định mật độ ấu trùng trong từng thời
điểm thu mẫu, từ đó xác định được tỷ lệ sống
của ấu trùng.
Cơng thức tính tốc độ tăng trưởng tuyệt đối
về chiều cao (DLG):
(Trong đó: L1, L2 lần lượt là chiều cao vỏ
của ấu trùng ở thời điểm kiểm tra t1, t2)
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều cao
vỏ của ấu trùng được tính theo tồn thời gian
ương ấu trùng (40 ngày) và trong từng thời
gian thí nghiệm, sau mỗi 10 ngày ương.
Tỉ lệ sống của ấu trùng (%):
(Trong đó: Nt: số ấu trùng sau t ngày ương
ni; N0: số ấu trùng ban đầu)
Tỷ lệ sống của ấu trùng được tính theo tồn
thời gian ương ấu trùng (40 ngày) và trong từng
thời gian thí nghiệm, sau mỗi 10 ngày ương.
Các số liệu được thu thập, tính tốn và trình
bày dưới dạng giá trị trung bình ± sai số chuẩn
(MEAN ± SE) trên phần mềm Microsoft Office
Excel, 2010 và SPSS phiên bản 22,0. Sử dụng
phép phân tích phương sai một yếu tố (one-way
ANOVA) để kiểm định sự khác nhau của các giá
trị trung bình giữa các nghiệm thức. Đánh giá sự
sai khác của các giá trị trung bình sau phân tích
phương sai (Post Hoc Test) bằng phương pháp
kiểm định Duncan. Khác nhau giữa các giá trị
được xác định ở mức ý nghĩa p < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
1. Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng
và tỷ lệ sống của ấu trùng
Ấu trùng trôi nổi mới nở được bố trí thí
nghiệm với mật độ ban đầu 100 con/lít, điều
kiện mơi trường được duy trì trong khoảng
thích hợp cho ốc đĩa: nhiệt độ: 26 – 30ºC, pH:
7,5 – 8,5.
Bảng 1: Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi ở các độ mặn khác nhau sau 40
ngày ương
647,2 ± 6,2a
DLG (µm/
ngày)
7,48 ± 0,5a
Tỷ lệ sống
(%)
45,83 ± 1,44a
353,4 ± 2,8
704,1 ± 1,5b
8,99 ± 0,4b
54,11 ± 2,37b
356,9 ± 2,8
660,7 ± 6,1a
7,79 ± 0,7a
43,67 ± 1,53a
Nghiệm thức
Lđầu (µm)
Lcuối (µm)
20 ppt
355,3 ± 2,9
25 ppt
30 ppt
Lđầu: Chiều cao vỏ ấu trùng ban đầu; Lcuối: Chiều cao vỏ ấu trùng khi kết thúc thí nghiệm; DLG: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối chiều cao
vỏ ấu trùng theo ngày; Các chữ cái khác nhau trong cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 21
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Bảng 1 cho thấy, có sự sai khác có ý nghĩa
về chiều cao vỏ của ấu trùng ốc đĩa ở các độ
mặn khác nhau khi kết thúc thí nghiệm, trong
đó, ở độ mặn 25 ppt, chiều cao của ấu trùng đạt
giá trị lớn nhất (704,1 ± 1,5 µm) (p<0,05). Ở độ
mặn 20 ppt và 30 ppt, chiều cao của ấu trùng
khơng có sự sai khác có ý nghĩa, dao động từ
647,2 ± 6,2 µm tới 660,7 ± 6,1 µm) (p>0,05).
Tương tự, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều
cao của ấu trùng ốc đĩa đạt cao nhất là 9,9 ±
1,5 µm/ngày ở nghiệm thức độ mặn 25 ppt, cao
hơn có ý nghĩa so với các nghiệm thức khác
(p<0,05). Khơng có sự sai khác có ý nghĩa về
tốc độ sinh trưởng của ấu trùng giữa nghiệm
thức độ mặn 20 ppt và 30 ppt.
Tăng trưởng tuyệt đối về chiều cao của ấu
trùng trong thời gian ương là khá đều nhau ở 20
Số 4/2020
ngày đầu thí nghiệm, dao động trong khoảng
5,55 – 7,55 µm/ngày và khơng có sự sai khác
có ý nghĩa giữa các nghiệm thức (p>0,05).
Tuy nhiên, từ ngày ương thứ 30 trở đi, có sự
sai khác có ý nghĩa thơng kê về tốc độ tăng
trưởng của ấu trùng giữa các nghiệm thức. Ấu
trùng có mức tăng trưởng tuyệt đối cao nhất
có ý nghĩa ở độ mặn 25 ppt tương ứng là 9,28
µm/ngày và 11,13 µm/ngày sau 30 và 40 ngày
ương so với hai nghiệm thức còn lại (p<0,05).
Tốc tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng thấp
nhất ở nghiệm thức 20 ppt, nhưng không có sự
sai khác có ý nghĩa so với nghiệm thức 30 ppt
(p>0,05). Kết quả nghiên cứu này tương tự với
nghiên cứu của Ngô Anh Tuấn và ctv (2013)
với tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng
đạt giá trị cao nhất ở độ mặn 25‰.
(Các chữ cái khác nhau trong cùng ngày ương thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
Hình 2: Tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi ở các độ mặn khác nhau
theo thời gian thí nghiệm.
Tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giảm dần theo
thời gian thí nghiệm và có sự sai khác giữa các
nghiệm thức thí nghiệm, trong đó tỷ lệ sống của
ấu trùng ở nghiệm thức 25 ppt luôn cao hơn so
với các nghiệm thức còn lại nhưng sự sai khác
chỉ ghi nhận được ở ngày ương thứ 20 (78,17 ±
1,26%) và 40 (54,17 ± 2,36%) (p<0,05). Tỷ lệ
sống của ấu trùng ở nghiệm thức 20‰ và 30‰
khá đều nhau và khơng có sự sai khác (p>0,05).
Sau 40 ngày ương, tỷ lệ sống của ấu trùng giao
động từ 43,67 – 45,83%. Như vậy, độ mặn 25
ppt là ngưỡng độ mặn thích hợp nhất cho sinh
22 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
trưởng và phát triển của ấu trùng ốc đĩa giai
đoạn trôi nổi.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
Ngô Anh Tuấn và ctv (2013), với tỷ lệ sống ấu
trùng ốc đĩa đạt cao nhất là 74,9% ở độ mặn
25‰. So sánh với kết quả nghiên cứu trên đối
tượng động vật chân bụng khác như ốc nhảy,
thì tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của ốc đĩa
trong nghiên cứu này thấp hơn. Sinh trưởng và
tỷ lệ sống của ấu trùng ốc nhảy giai đoạn trôi
nổi đạt giá trị cao nhất là 29,03 µm/ngày và
86,38% ở độ mặn 30‰ (Dương Văn Hiệp và
Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
Số 4/2020
(Các chữ cái khác nhau trong cùng ngày ương thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
Hình 3: Tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trơi nổi theo thời gian thí nghiệm.
ctv, 2010), tỷ lệ sống của ấu trùng veliger ốc
hương đạt giá trị cao nhất là 73% sau 11 ngày
ương ở độ mặn 35‰ (Nguyễn Thị Xuân Thu
và ctv, 2000). Trong khi đó, kết quả nghiên cứu
của Vũ Trọng Đại và ctv (2018) cho thấy độ
mặn 30‰ là tốt nhất cho sinh trưởng (39,1 ±
4,74 µm/ngày) và tỷ lệ sống (70,4 ± 2,52%)
của ấu trùng ốc nhảy giai đoạn trôi nổi.
2. Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng
và tỷ lệ sống của ấu trùng
Thí nghiệm ảnh hưởng của thức ăn đến sinh
trưởng của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi
được bố trí trong điều kiện mơi trường: nhiệt
độ: 26 – 30ºC, độ mặn: 25 ± 1‰, pH: 7,5 – 8,5.
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng sau:
Chiều cao vỏ của ấu trùng có sự sai khác có
Bảng 2: Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi sử dụng các loại thức ăn khác
nhau sau 40 ngày ương ni
Nghiệm thức
Lđầu (µm)
Lcuối (µm)
DLG (µm/
ngày)
Tỷ lệ sống (%)
Tảo tươi (TT)
354,2 ± 1,9
697,5 ± 7,8a
8,73 ± 0,48a
60,33 ± 4,04b
Thức ăn tổng hợp (TĂTH)
353,8 ± 2,1
672,1 ± 7,6a
7,85 ± 0,56a
51,67 ± 2,08a
Tảo tươi + thức ăn tổng hợp
(TT+TĂTH)
363,2 ± 1,8
777,4 ± 3,2b
10,35 ± 0,51b
58,50 ± 3,04b
Các chữ cái khác nhau trong cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05); Lđầu: Chiều cao vỏ ấu trùng ban đầu; Lcuối:
Chiều cao vỏ ấu trùng khi kết thúc thí nghiệm; DLG: tốc độ tăng trưởng chiều cao vỏ đặc trưng theo ngày;
ý nghĩa giữa các nghiệm thức (p<0,05). Sinh
trưởng về chiều cao vỏ của ấu trùng ốc đĩa đạt
giá trị lớn nhất (777,4 ± 3,2 µm) ở nghiệm thức
sử dụng thức ăn là tảo tươi kết hợp với thức
ăn tổng hợp và thấp nhất (672,1 ± 7,6 µm) ở
nghiệm thức sử dụng thức ăn tổng hợp sau 40
ngày ương nuôi. Trong khi đó, khơng có sự sai
khác có ý nghĩa về kích thước chiều cao của ấu
trùng giữa hai nghiệm thức sử dụng thức ăn là
tảo tươi và thức ăn tổng hợp (p>0,05). Tốc độ
tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng đạt giá trị cao
nhất là 10,35 ± 0,51 µm/ngày ở nghiệm thức sử
dụng tảo tươi kết hợp với thức ăn tổng hợp, cao
hơn có ý nghĩa thống kê so với hai nghiệm thức
cịn lại và có giá trị thấp nhất ở nghiệm thức
cho ăn bằng thức ăn tổng hợp (7,85 ± 0,56 µm/
ngày) nhưng khơng có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với nghiệm thức cho ăn bằng tảo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 23