Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Điều tra xã hội học về hứng thú học ngữ văn tại trường thpt hoàng diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.44 KB, 57 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN

PHAN THỊ MINH QUÝ

ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VỀ HỨNG THÚ HỌC
NGỮ VĂN TẠI TRƢỜNG THPT HỒNG DIỆU

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Đà Nẵng, tháng 5/2015


1

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo ThS. Nguyễn Đăng Châu.
Các số liệu trong khóa luận này là hồn tồn trung thực và chưa hề
cơng bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác. Nếu có gì sai sót, tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm.
Đà Nẵng, tháng 4 năm 2015
Tác giả

Phan Thị Minh Quý


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng và chân thành tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu


sắc tới Trường ĐHSP Đà Nẵng, Khoa Ngữ văn, các cơ quan liên quan đã tạo
điều kiện cho chúng tôi được tham gia, học tập và nghiên cứu. Cảm ơn các
quý thầy cơ, các nhà khoa học đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tơi hồn
thành khóa luận và q trình học. Đặc biệt, tôi xin cảm ơn đến Thầy Nguyễn
Đăng Châu, người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hồn thành khóa luận này.
Đồng thời, tơi xin cảm ơn đến lãnh đạo, quý thầy cô giáo và học sinh
trường THPT Hồng Diệu, tỉnh Quảng Nam đã giúp đỡ tơi trong q trình
nghiên cứu và hồn thành khóa luận.
Trong q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành khóa luận, dù tôi đã
rất cố gắng song chắc chắn không thể tránh những thiếu sót. Vì vậy, rất mong
nhận được ý kiến đóng góp quý báu từ các nhà khoa học, các q thầy cơ và
mọi người để khóa luận được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 4 năm 2015
Tác giả
Phan Thị Minh Quý


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 2
5. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 2
NỘI DUNG....................................................................................................... 3
Chương 1. MỘT VÀI VẤN ĐỀ TỪ LÍ THUYẾT ĐẾN THỰC TRẠNG
DẠY HỌC NGỮ VĂN HIỆN NAY ............................................................... 3
1.1. Ngữ văn là mơn học có tính nghệ thuật ..................................................... 3
1.2. Ngữ văn là môn học chủ yếu của khoa học xã hội và nhân văn ................ 5

1.3. Dư luận xã hội về dạy học ngữ văn hiện nay ............................................. 6
1.4. Kĩ thuật điều tra xã hội học ........................................................................ 8
Chương 2. ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VỀ HỨNG THÚ HỌC NGỮ VĂN
TẠI TRƢỜNG THPT HỒNG DIỆU ........................................................ 25
2.1. Tổng thuật q trình điều tra .................................................................... 25
2.1.1. Đặc điểm học sinh ở trường THPT Hồng Diệu .................................. 25
2.1.2. Sơ lược mục đích và nội dung điều tra ................................................. 26
2.1.3. Các bước tiến hành điều tra................................................................... 31
2.2. Phân loại kết quả điều tra ......................................................................... 31
2.2.1. Kết quả theo từng đối tượng điều tra .................................................... 31
2.2.1.1. Đối tượng học sinh ............................................................................. 31
2.2.1.2. Đối tượng là giáo viên ........................................................................ 32
2.2.2. Kết quả theo khối lớp ............................................................................ 33
2.2.3. Kết quả phân theo ban ........................................................................... 35


2.3. Phân tích kết quả điều tra ......................................................................... 37
2.3.1. Phân tích kết quả điều tra theo đối tượng ............................................. 37
2.3.1.1. Đối với học sinh ................................................................................. 37
2.3.1.2. Đối với giáo viên ................................................................................ 39
2.3.2. Phân tích kết quả theo khối lớp ............................................................. 39
2.3.3. Phân tích kết quả theo ban .................................................................... 41
Chương 3. LÍ GIẢI KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VÀ MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ . 45
3.1. Nguyên nhân thực sự dẫn đến việc giảm hứng thú học ngữ văn ............. 45
3.2. Một vài khuyến nghị ................................................................................ 48
KẾT LUẬN .................................................................................................... 51
TƢ LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 52


1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu cho sự phát triển và vững bền
của một quốc gia. Chính vì vậy mà giáo dục ngày càng được đầu tư, phát triển
và mở rộng trong thời hội nhập ở cả ban khoa học tự nhiên và ban khoa học
xã hội ở các cấp học. Trong các môn học của khoa học xã hội, môn Ngữ văn
ở nhà trường phổ thơng đóng một vai trị cực kì quan trọng. Đây là mơn học
góp phần hình thành nhân cách, cá tính, năng lực và phẩm chất cơng dân cho
học sinh.
Có hay khơng có tình trạng giảm hứng thú ở học sinh? Dư luận thiên về
thực trạng chán học văn của học sinh với nhiều biểu hiện ngày càng rõ rệt
trong hoạt động dạy học ở trường THPT. Từ bao đời nay văn chương là môn
học truyền thống của dân tộc ta, hơn nữa ở bất kì thời đại nào thì văn học
cũng ln khốc trên mình và thực hiện nhiều chức trách đáng quý, đặc biệt
trong đó có thiên chức giáo dục giúp bồi đắp, ni dưỡng tâm hồn, nhân cách
và các hệ giá trị đạo đức cho con người. Văn học góp phần hình thành và
hồn thiện con người có ích cho gia đình và xã hội. Chính vì vậy mà việc tạo
tâm thế, giúp học sinh ham học, thích thú hơn đối với mơn Ngữ văn là điều
cần thiết và đáng được quan tâm. Tuy nhiên trước dư luận xã hội về thực
trạng học sinh khơng thích và chán học Ngữ văn ở trường THPT hiện nay là
vấn đề đáng xem xét, lưu tâm và cần phải có giải pháp khắc phục. Và để có
thể góp phần tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng tôi đưa ra đề tài nghiên
cứu ở một trường THPT cụ thể với tên đề tài là: Điều tra xã hội học về hứng
thú học Ngữ Văn tại trường THPT Hoàng Diệu.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, chưa có một cơng trình điều tra nghiên cứu với đầy đủ số
liệu chính thức nào về tỷ lệ hứng thú học ngữ văn của học sinh Việt Nam.



2
Chúng ta có thể bắt gặp đây đó trong các hội nghị, trên báo đài những lời
phàn nàn về tình trạng dạy học văn hiện nay. Về văn bản, có thể gặp vài ý
kiến cụ thể hơn nhưng chỉ là những kết luận tư biện, thiếu số liệu thực tế;
chẳng hạn, Hồ Quang Trung, 2011, trong khóa luận Thạc sỹ có nhắc đến tình
trạng học Ngữ Văn của học sinh huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An (http://123
doc.vn/document/891758-kiem-tra-danh-gia-trong-day-hoc-mon-ngu-van-otruong-trung-hoc-pho-thong-huyen-anh-son-tinh-nghe-an-luan-van-thac-syngu-van.htm) nhưng chỉ để giải thích kết quả kiểm tra, đánh giá chứ khơng đi
sâu phân tích dưới góc độ tâm lí – xã hội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh
dưới góc độ điều tra xã hội học.
- Phạm vi nghiên cứu: tại trường THPT Hoàng Diệu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Điều tra xã hội học
- Thống kê
- Tổng hợp
- Phân tích và lý giải
- Phỏng vấn
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung gồm có 3
chương:
Chương 1: Một vài vấn đề từ lí thuyết đến thực trạng dạy học ngữ văn
hiện nay
Chương 2: Điều tra xã hội học về hứng thú học ngữ văn tại trường THPT
Hoàng Diệu
Chương 3: Lí giải kết quả điều tra và một vài khuyến nghị


3


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT VÀI VẤN ĐỀ TỪ LÍ THUYẾT ĐẾN THỰC TRẠNG
DẠY HỌC NGỮ VĂN HIỆN NAY
1.1. Ngữ văn là mơn học có tính nghệ thuật
Cũng như hội họa, ca nhạc, điêu khắc… văn học là một môn nghệ thuật.
Và dĩ nhiên trong văn học ắt phải có tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật của văn
học được thể hiện trong chính mỗi tác phẩm. Đối tượng của văn học là con
người – con người trong học tập, lao động, chiến đấu, con người trong tình
yêu và những mối quan hệ xã hội khác, con người trong không gian, thời gian
với thiên nhiên, vũ trụ. Nói văn học là nhân học, đúng thế. Văn học phản ánh
nhận thức con người và đời sống con người, nói lên những ước mơ, khát
vọng, những tâm tư, tình cảm của con người trong chiều sâu tâm hồn với sự
đa dạng, phong phú.
Văn chương được hình thành rất lâu trong tâm thức và đời sống của
người Việt, đây là mơn học khơng chỉ có tính truyền thống mà cịn có tính
nghệ thuật. Văn học hình thành và phát triển, trải dài theo năm tháng thăng
trầm của lịch sử. Từ xa xưa nó đã có sức ảnh hưởng, tác động lớn trong văn
hóa tinh thần cũng như đi liền với đạo nghĩa, hành động trong cuộc sống sinh
hoạt đời thường của dân tộc. Đặc biệt ở thời phong kiến, văn chương rất được
xem trọng, nó được dùng trong dạy học và thi cử để nhằm giáo dục đạo đức,
nhân cách cũng như thử thách, đo lường tài năng, trí tuệ của con người.
Khơng chỉ trong văn học bác học mà địa hạt của văn chương vốn được
hình thành và ni dưỡng trong văn học bình dân của dân gian; mà ở nơi đâu
văn chương cũng toát lên nét đẹp thiên hướng của mình, những giá trị đầy
tính thẩm mĩ và giáo dục cao. Đồng thời cũng là món ăn tinh thần đầy hương


4
vị đã ăn sâu, thấm nhuần trong đời sống Việt, góp phần tạo nên văn hóa bản

sắc cho dân tộc Việt. Đó có thể là câu ca dao về tình yêu, nỗi nhớ được diễn
tả đầy mộc mạc, chân chất, mà sâu sắc ý vị như:
“Nhớ ai nỗi nhớ bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.”
Đó cịn là câu ru Kiều mượt mà của bà, của mẹ hát về những triết lý ở
đời, về tấm lòng trắc ẩn, nhân văn của các cụ ta thuở trước như:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lịng.”
(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Khơng chỉ có thế mà cịn có những bài học, những câu chuyện ngụ ngơn,
truyền thuyết, cổ tích.... nó có sức hấp dẫn dễ đi vào lòng người và lay động
tâm thức cao.
Ngữ văn có tính nghệ thuật bởi trong mỗi tác phẩm văn học đã là một thế
giới nghệ thuật, chúng được tác giả tái tạo từ hiện thực thông qua cảm quan,
lăng kính thẩm mĩ của mình. Ở phân mơn văn học bằng tác phẩm văn học,
giáo viên dạy cho học sinh năng lực thẩm mĩ. Có thể qua một tác phẩm ngụ
ngơn nào đó, giáo viên dùng phương pháp tiếp cận và gợi mở để dìu các em
vào thế giới nghệ thuật, thế giới thẩm mĩ trong văn chương, giúp cho học sinh
được phát huy trí tưởng tượng, năng lực cảm thụ và tiếp nhận những hệ giá trị
đạo đức, triết lý từ sâu bên trong dưới tầng ngôn ngữ của tác phẩm. Từ đó
giáo viên định hướng tư tưởng đạo đức, giá trị Chân - Thiện - Mĩ cho học
sinh, mở rộng và liên hệ những giá trị đạo đức, giá trị triết lý giáo dục từ trong
chính tác phẩm với hiện thực cuộc sống, với quan hệ sinh hoạt, chuẩn mực
trong đời sống thực tế, thời đại hiện nay. Các tác phẩm văn học trong nhà


5
trường nhìn chung là các tác phẩm được chọn lọc theo triết lý về cái đẹp, có ý

nghĩa liên hệ hoặc trực tiếp với thời chúng ta đang sống, gần gũi và bắt nhịp
với nhịp sống chung của xã hội và nhân loại. Chúng đem đến sự phát triển trí
tuệ, nhân cách cho học sinh, đồng thời cũng giúp hình thành nên những con
người mới, phát triển tốt đáp ứng yêu cầu về một xã hội ngày càng trở nên tốt
đẹp hơn. Cũng như qua đó, góp phần bảo tồn, ổn định và phát huy những giá
trị đẹp trong cuộc sống, tạo nên phơng văn hóa cho dân tộc và xã hội thơng
qua những giá trị thẩm mĩ.
Chính vì vậy mà giáo viên dạy môn Ngữ văn cần hiểu rõ đặc trưng có
tính nghệ thuật của mơn học này, phát huy hết được giá trị thẩm mĩ và tính
nghệ thuật của nó. Bên cạnh đó cần có sự đề xuất phương pháp để tổ chức dạy
học cho phù hợp và đạt được hiệu quả giáo dục cao.
1.2. Ngữ văn là môn học chủ yếu của khoa học xã hội và nhân văn
Khoa học xã hội – nhân văn bao gồm các lĩnh vực nghiên cứu về lịch sử,
địa lý nhân văn, tâm lý học – xã hội,… trong đó Ngữ văn là mơn học hàng
đầu và có vai trị lớn không chỉ ở riêng trong ngành khoa học xã hội – nhân
văn mà cịn có tầm quan trọng sánh ngang cùng với các mơn học chính khác ở
trường Phổ thơng như Tốn, tiếng Anh hiện nay.
Ngữ văn là mơn học có truyền thống lâu đời. Mà ở bất kì thời đại nào thì
văn học vẫn hướng đến giáo dục đời sống tinh thần của con người. Nói như
vậy khơng có nghĩa là đồng nhất văn học với bộ môn đạo đức học mà ở đây
thấy được thiên hướng về cái đẹp dù ẩn náu ở dạng nào đi chăng nữa thì qua đó,
văn học giúp cho học sinh được cảm nhận, được thẩm thấu và học nhiều điều
quý báu thông qua những luồng sáng thẩm mĩ ánh lên trong mỗi tác phẩm.
Từ đó Ngữ văn góp phần hình thành nhân cách học sinh. Học Ngữ văn
trước hết là học làm người. Bởi lẽ cái mục đích cuối cùng của dạy học Ngữ
văn đó chính là giúp cho các em có khả năng tiếp nhận và tạo lập được các


6
phát ngôn trong giao tiếp và bồi đắp tư tưởng, tinh thần nhân văn tốt đẹp để từ

đó hình thành nên những đức tính, nhân cách phát triển tốt cho học sinh. Bởi
một điều trước hết không thể chối cãi được, chính là nhân cách và lễ nghĩa –
điểm cốt yếu để làm nên một con người, và cũng chính điều này tạo ra ranh
giới giúp con người giữ được bản lĩnh, lương tri của mình trước những cái
xấu, cái bất lương, những biến động trong bão táp cuộc đời.
1.3. Dƣ luận xã hội về dạy học ngữ văn hiện nay
Mơn Ngữ văn có vai trị quan trọng trong dạy học và cuộc sống nhưng
hiện nay có khơng ít dư luận xã hội bàn tán về thực trạng học văn của học
sinh. Theo nhiều luồng thông tin trên báo giấy, báo mạng, đa số các tác giả
đều cho rằng học sinh hiện nay đang chán học văn. Khơng ít thầy cô và phụ
huynh đều cho rằng học sinh đang dần giảm hứng thú học văn và năng lực
Ngữ văn xuống cấp. Trước hết phải nói đến là học sinh thụ động, quen nghe,
quen ghi chép và lười tìm tịi, khám phá, suy nghĩ. Các em chủ yếu dựa vào
sách văn mẫu hay những lời nói vay mượn trong cuộc sống hằng ngày để làm
văn mà thiếu sáng tạo. Chính vì tâm thế chán học văn mà dẫn đến khả năng và
cơ hội diễn đạt của học sinh cũng ngày một giảm dần. Soạn bài và làm bài
chủ yếu là đối phó cho qua giờ hơn là chủ động tìm hiểu, học hỏi.
Nhiều kiến thức cơ bản nhất của Ngữ văn các em cũng ít quan tâm, ít đọc
sách để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương. Và từ đó các em thấy
văn chương là trừu tượng, xa vời không thực tế, không thiết thực cho các em.
Điều dễ thấy trong các tiết học văn là các em thường ngủ gục hoặc nói
chuyện riêng khơng quan tâm đến bài, học chỉ là để đối phó mà khơng có tâm
thế tích cực.
Trong xã hội ngày càng phát triển, văn minh và hiện đại, các em hầu hết
tiếp xúc với các trị chơi giải trí hiện đại và cũng như chạy theo xu hướng
kinh tế hóa nên chú trọng các mơn tự nhiên như: Tốn, Lý, Hóa, Sinh.... nhiều


7
hơn và ít coi trọng các mơn xã hội, đặc biệt là mơn Văn thì các em cảm nhận

rằng khơng cần thiết.
Mỗi năm con số thi tuyển vào các khối chun văn khơng nhiều nếu
khơng muốn nói là ít. Và trong thi cử tốt nghiệp nếu môn Văn không phải là
mơn bắt buộc thì chắc các em sẽ ít hoặc khơng lựa chọn, khơng muốn thi,
thậm chí là vui mừng. Phát biểu tại hội thảo Đổi mới kiểm tra, đánh giá môn
Ngữ văn trong trường phổ thông, TS. Chu Văn Sơn (khoa Văn, ĐH Sư phạm
Hà Nội) chia sẻ, do có dịp được đi khắp đất nước, được dự nhiều giờ giảng,
nên cảm thấy rất lo ngại về tình trạng dạy và học văn hiện nay.
Các bậc phụ huynh cũng cho rằng con em mình rất chán học văn vì nói
đến mơn Văn các em đều xem nhẹ và khơng quan tâm, về nhà cũng không
thiết tha mấy với môn này, chủ yếu là mượn vở bạn bè chép soạn, hay văn
mẫu để đối phó cho qua là chính.
Tất cả những điều trên khơng phải chỉ từ học sinh; có nhiều nguyên nhân
khiến môn Văn trở nên áp lực, mệt mỏi đối với các em; lí do thực sự dẫn đến
tình trạng này sẽ được chúng tơi đi vào lý giải thông qua kết quả điều tra ở
phần sau.
Trên đây cũng chỉ là những bàn tán, ý kiến, nhận xét của dư luận chứ
chưa phải là nguồn thơng tin có kiểm chứng, khoa học, chưa có sự xác thực,
tin cậy cao. Theo đó, chúng tơi quyết định đề xuất đề tài khóa luận của mình
với mong muốn góp phần làm rõ thêm vấn đề về thực trạng hứng thú học Ngữ
văn ở trường Phổ thông hiện nay của học sinh, ở một quy mơ cụ thể là trường
THPT Hồng Diệu bằng phương pháp điều tra xã hội học để khảo sát, làm rõ
thêm vấn đề này. Từ đó, góp một phần nhỏ nghiên cứu ấy vào sự nghiệp dạy
học hiện nay, có cơ sở để tìm hiểu rõ hơn về đối tượng, thái độ, nhận thức của
học sinh mà để có phương pháp, sự nhận thức đúng đắn trong sự nghiệp tiếp
tục trồng người.


8
1.4. Kĩ thuật điều tra xã hội học

Cuộc nghiên cứu xã hội học thực nghiệm hay nói cách khác là cuộc điều
tra xã hội học là phương pháp thu thập thơng tin về các hiện tượng và q
trình xã hội trong phạm vi không gian và thời gian cụ thể nhằm đạt được mục
tiêu nghiên cứu đã đề ra. Điều tra xã hội học có thể sử dụng các phương pháp
khác nhau. Điều tra xã hội học có thể tiến hành toàn diện (toàn bộ đối tượng
trong diện nghiên cứu) hoặc điều tra chọn mẫu (chỉ điều tra trong các đối
tượng được chọn một cách khoa học). Thực tế người ta hay dùng cách chọn
mẫu và ít tốn thời gian và chi phí, kết quả suy rộng ra tồn diện.
Có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về một cuộc nghiên cứu xã hội
học thực nghiệm. Các ý kiến dù có khác nhau chăng nữa thì bất kỳ một cuộc
nghiên cứu xã hội học nào cũng trải qua những bước cơ bản sau:
- Xác định đề tài và mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng giả thuyết và thao tác hóa khái niệm
- Xác định phương pháp thu thập thông tin
- Xây dựng bảng hỏi
- Lựa chọn mẫu điều tra
- Lựa chọn và tập huấn điều tra viên, tiến hành điều tra ở địa bàn
- Xử lý thông tin
- Đánh giá, phân tích và báo cáo kết quả
Các bước trên có thể xếp vào ba giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn
thu thập thông tin và giai đoạn xử lý thông tin.
 Giai đoạn chuẩn bị:
 Xác định đề tài, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định đề tài nghiên cứu:
Xác định đề tài nghiên cứu là cơng việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định
cho bất kỳ một nghiên cứu khoa học nào và không ngoại trừ cuộc nghiên cứu


9
xã hội học thực nghiệm. Để xác định được đề tài phù hợp, người nghiên cứu

phải trả lời được các câu hỏi:
Nghiên cứu gì (đối tượng nghiên cứu; khách thể nghiên cứu)?
Nghiên cứu trong phạm vi nào (quy mô về thời gian và không gian)?
Đối tượng nghiên cứu xã hội học thường là các vấn đề xã hội nghiên cứu
và có nhu cầu tìm hiểu và hướng tìm cách giải quyết chúng.Thực tế đời sống
xã hội chúng ta gặp những sự không phù hợp hay sự khác biệt giữa cái đang
xảy ra với cái cần phải là. Sự không phù hợp hay sự khác biệt này có thể được
giải thích theo nhiều cách khác nhau. Chính sự khơng phù hợp hay sự khác
biệt đó được nêu ra để nghiên cứu, để tìm hiểu được gọi là vấn đề nghiên cứu.
Vấn đề nghiên cứu chỉ trở thành đề tài khi nó được chấp nhận và coi như
đối tượng nghiên cứu. Lĩnh vực của thực tiễn xã hội chứa đựng các vấn đề
nghiên cứu đó thì được gọi là khách thể nghiên cứu.
Như vậy, việc xác định đề tài là cần phải thấy được sự tồn tại thật sự của
vấn đề xã hội, cũng như phạm vi, lĩnh vực xác định vấn đề đó.
Tên đề tài cần được trình bày một cách ngắn gọn, khoa học với câu chữ
rõ ràng, chính xác. Khơng cho phép tên đề tài có những từ ngữ câu chữ không
xác định hoặc đa nghĩa.
- Xác định mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu là các vấn đề, cái đích mà cuộc nghiên cứu phải đạt
đến, tức là cuộc nghiên cứu giải quyết được những gì có ích cho quá trình
nhận thức và cải tạo xã hội theo đề tài đã chọn. Thường thì người nghiên cứu
phải chỉ ra được các yếu tố, các khía cạnh, các mặt của đối tượng nghiên cứu
cần được làm rõ, cần được chứng minh. Như vậy, mục đích nghiên cứu là giải
thích thêm cho đề tài, cụ thể hóa đề tài, loại bỏ đi những yếu tố chưa xác định
trong đề tài và trong chừng mực nào đó mục tiêu được xem xét như tiêu chuẩn
cho đề tài. Mỗi đề tài có thể xác định mục tiêu cơ bản và các mục tiêu cụ thể.


10
- Xác định nhiệm vụ nghiên cứu:

Là chi tiết hóa mục đích nghiên cứu, nêu ra những bộ phận của mục đích
phải hồn thành.
 Xây dựng giả thuyết và thao tác hóa khái niệm:
- Xây dựng giả thuyết:
Giả thuyết trong nghiên cứu xã hội học là sự giả định có căn cứ khoa học
về cơ cấu các đối tượng, về tính chất của các yếu tố và các liên hệ tạo nên các
đối tượng đó, về cơ chế hoạt động và phát triển của chúng.
Cũng có thể hiểu giả thuyết như là những giả định về vấn đề cần nghiên
cứu mà chúng ta thu được qua cuộc điều tra. Nó là những nhận thức sơ bộ về
vấn đề được nghiên cứu cho ta biết những ý niệm về đặc trưng, xu hướng và
tính quy luật của các q trình xã hội mà chúng ta tiến hành khảo sát.
Trong quá trình xây dựng các giả thuyết, cần lưu ý những vấn đề sau đây:
Những giả thuyết đưa ra không được mâu thuẫn với những quy luật đã
được xác định hoặc những kết quả đã được kiểm nghiệm là đúng trước đó.
Trong trường hợp đặc biệt, giả thuyết đưa ra có thể mâu thuẫn với kết quả xã
hội xác nhận trước đó. Lúc này người lập giả thuyết phải đưa ra các điều kiện
mới hoặc phải giải thích…
- Giả thuyết đưa ra phải phù hợp với những nguyên lý xuất phát của chủ
nghĩa duy vật lịch sử (mục đích của nó là dễ sàng lọc các giả thuyết lệch lạc,
lựa chọn những giả thuyết đáng tin cậy, phù hợp với cuộc nghiên cứu).
Giả thuyết phải kiểm tra trong quá trình nghiên cứu hay trong thực
tiễn. Xây dựng giả thuyết cần chú ý hai mặt: Tập hợp các nguyên nhân dẫn
đến m t hiện tượng nào đó và các nguyên nhân đó có thể kiểm tra được.
Việc phân tích lơgíc của các giả thuyết phải khẳng định được tính
khơng mâu thuẫn của nó, cho phép trả lời các câu hỏi về một số mệnh đề của
giả thuyết xem có phải là giả tạo hay không (ở đây bao hàm các thao tác


11
lơgíc, các định nghĩa thao tác và quy tắc ký hiệu).

Giả thuyết đưa ra có thể sẽ được kết quả của cuộc điều tra xác nhận là
đúng song cũng có thể bác bỏ nó trong trường hợp bị phủ nhận, chúng ta cần
xây dựng lại giả thuyết. Tuỳ thuộc vào vấn đề nghiên cứu mà số lượng giả
thuyết được đưa ra nhiều hay ít. Song trong mỗi cuộc nghiên cứu thường là có
một giả thuyết chính và một giả thuyết bổ trợ - các giả thuyết hỗ trợ có nhiệm
vụ bổ sung và giải thích cho giả thuyết chính .
Ngồi hai loại giả thuyết chính và bổ trợ ra, người ta còn chia giả thuyết
ra làm 3 loại sau:
iả thuyết mô tả, nhằm chỉ ra những đặc trưng và thực trạng của đối
tượng;

iả thuyết giải thích nhằm chỉ ra những nguyên nhân của một hiện

tượng xã hội;

iả thuyết xu hướng nhằm chỉ ra xu hướng sẽ diễn ra trong

tương lai của một hiện tượng hay một quá trình xã hội nào đó.
- Thao tác hóa khái niệm:
Đây là khâu quan trọng của một cơng trình nghiên cứu thực nghiệm, nó
cho phép chúng ta có thể tái tạo được vấn đề nghiên cứu và đo lường trực tiếp
các vấn đề được nêu ra.
Trong các đề tài nghiên cứu xã hội học, chúng ta thường gặp những khái
niệm trừa tượng. Mức độ trừu tượng của các khái niệm có thể nhiều ít khác
nhau. Song tất cả các khái niệm đó khơng thể trực tiếp sử dụng để thu thập
thông tin, bởi những khái niệm đó thường gây ra sự khó hiểu. Vì lý do đó,
người ta cần thao tác hóa khái niệm để tạo ra các khái niệm dễ hiểu.
Thao tác hoá các khái niệm là những thao tác lơgíc nhằm chuyển những
khái niệm trừu tượng, phức tạp thành khái niệm đơn giản, dễ hiểu.
Muốn thao tác hóa khái niệm phải dùng hệ thống các chỉ báo. Nói cách

khác, q trình thao tác hóa khái niệm chính là q trình xác định hệ thống
các chỉ báo. Có hai loại chỉ báo thường dùng, đó là chỉ báo khái niệm và chỉ


12
báo thực nghiệm.
Chỉ báo khái niệm (chỉ báo trung gian) tức là các khái niệm có mức độ
trừu tượng nhỏ hơn và cụ thể hơn so với khái niệm của đề tài. Nhiệm vụ của
các chỉ báo này là nhằm làm sáng tỏ, đầy đủ hơn các khái niệm của đề tài.
Chỉ báo thực nghiệm là những khái niệm ở mức độ cụ thể nhất, cụ thể tới
mức có thể đo lường, quan sát được và hồn tồn thích hợp cho việc điều tra
thực nghiệm. Nhiệm vụ của các chỉ báo thực nghiệm là làm sáng tỏ các chỉ
báo trung gian.
Khái niệm của đề tài > Chỉ báo khái niệm (chỉ báo trung gian) > Chỉ
báo thực nghiệm
Nhờ có quá trình thao tác hố các khái niệm và xác định các chỉ báo mà
chúng ta có cơ sở để thu thập thông tin thực tế, sử dụng được các phương
pháp định lượng để đo lường những hiện tượng và các dấu hiệu biểu hiện ra
bên ngoài của một đối tượng hoặc một nhóm xã hội nào đó, từ đó mà có thể
hiểu được nội dung và bản chất ẩn dấu bên trong của đối tượng.
 Giai đoạn thu thập thông tin:
 Xây dựng bảng hỏi:
- Bảng hỏi và vai trò của bảng hỏi
Bảng câu hỏi là công cụ cơ bản trong việc thu thập thông tin xã hội, là
một tập hợp các câu hỏi được sắp xếp có hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc
tâm lý và lôgic, nhằm thu được các nội dung cần thiết cho đề tài nghiên cứu,
là sự thể hiện bên ngoài của giả thuyết đã nêu ở phần quá trình nghiên cứu.
Bảng câu hỏi thường dùng trong các trường hợp sử dụng các phương
pháp phỏng vấn, ankét, mêtric xã hội.
Một bảng câu hỏi được xây xựng tốt sẽ cho phép thu được những lượng

thông tin đáng tin cậy và khả quan, ngược lại sẽ làm thơng tin thu được bị sai
lệch hoặc méo mó.


13
Xây dựng bảng hỏi là một cơng việc trí tuệ vất vả, chất lượng của bảng
hỏi phụ thuộc vào trình độ của tác giả và sự chuẩn bị chu đáo ở các khâu xác
định đề tài và mục tiêu nghiên cứu, xây dựng các giả thuyết, mơ hình nghiên
cứu và thao tác hóa các khái niệm.
Thơng thường, lập một bảng câu hỏi phải tính đến hai yêu cầu: Phải đáp
ứng được mục tiêu của cuộc điều tra và phải phù hợp với trình độ và tâm lý
của người được hỏi.
Cơ sở chủ yếu để tạo nên bảng hỏi là các câu hỏi.
* Các loại câu hỏi
Căn cứ vào nội dung câu hỏi, có:
Các câu hỏi đặc trưng cho một sự kiện, sự thật nào đó, trong một
khơng gian và thời gian xác định.
Các câu hỏi thể hiện sự mong muốn, đánh giá của cá nhân, của nhóm
về một vấn đề nào đó.
Căn cứ vào tính chất câu hỏi, có:
Câu hỏi đóng: là câu hỏi có sẵn các phương án trả lời. Thơng thường
có hai dạng: câu hỏi đóng đơn giản là loại câu hỏi chỉ gồm hai phương án trả
lời có – khơng; câu hỏi đóng phức tạp là câu hỏi có nhiều phương án trả lời
hơn, phân biệt chi tiết hơn các phương án trả lời, ví dụ:
nh ch có hài l ng với cơng việc của mình khơng
- Hài l ng.
- ình thường
- Khơng hài l ng.
Ưu điểm của câu hỏi đóng là câu trả lời thường trúng trọng tâm nghiên
cứu, dễ tổng hợp. Tuy vậy, loại câu hỏi này chỉ thích hợp với các vấn đề rõ

ràng, người nghiên cứu đã bao quát được các cách trả lời (nếu chưa bao quát
hết các cách trả lời, ta sẽ bỏ mất các cơ hội thu được nhận thức mới).


14
Câu hỏi mở: Là loại câu hỏi không chuẩn bị phương án trả lời trước,
người được hỏi trả lời theo sự hiểu biết, tâm trạng của mình, do đó, những câu
trả lời nhận được cũng có nội dung khác nhau, mức độ dài ngắn cũng khác nhau.
Ví dụ: Tại sao bạn chọn thi vào Trường Đại học Sư phạm hoặc nh ch
có thể cho biết ý kiến của mình về vấn đề thời trang học đường hiện nay
Câu hỏi mở có ưu điểm là người được hỏi khơng bị ảnh hưởng bởi các
câu trả lời được chuẩn bị trước, do vậy, nó có khả năng chỉ ra những hiện
tượng xã hội mà chính tác giải đơi khi cũng chưa dự đoán trước được. Nhờ ưu
thế này, câu hỏi mở thường được dùng cho những hiện tượng và quá trình
chưa được hiểu biết một cách đầy đủ. Ngoài ra, khi cần kiểm tra tính đầy đủ
và chất lượng của câu hỏi đóng, người ta cũng thường dùng câu hỏi mở.
Tuy nhiên, câu hỏi mở cũng có nhược điểm là các câu trả lời thường có
nhiều nghĩa rất khác nhau, nhiều cách trả lời khác nhau hay cách dùng từ đa
nghĩa của người trả lời,… gây khó khăn lớn cho việc xử lý số liệu thống kê.
Câu hỏi kết hợp: Loại câu hỏi này vừa đưa ra sẵn các cách trả lời, vừa
có phần để ngỏ để người trả lời tự điền vào. Loại câu hỏi này hay được dùng
vì nó kết hợp được ưu điểm của cả hai loại câu hỏi trên.
Các loại câu hỏi khác: Trên thực tế, bảng hỏi cịn có thể có nhiều loại
câu hỏi khác nữa như:
Câu hỏi chức năng: loại câu hỏi này thường dùng để thực hiện ba mục
đích: (1) Kiểm tra sự am hiểu của người được hỏi đối với vấn đề do nhà
nghiên cứu đặt ra (câu hỏi lọc), (2) Kiểm tra tính trung thực của câu trả lời,
(3) Chức năng tâm lý: tạo ra sự hứng thú, xoá bỏ các hàng rào tâm lý, giảm
bớt sự căng thẳng, mệt mỏi cho người trả lời.
+ Câu hỏi theo bảng với hai mặt đối cực.

Câu hỏi theo dạng cho điểm.


15
* Yêu cầu đối với câu hỏi
- Các câu hỏi phải rõ ràng, cụ thể, không được hiểu theo nhiều nghĩa
(đặc biệt là trong câu hỏi đóng, các phương án trả lời phải được phân chia
rạch ròi theo một cơ sở thống nhất, không được chồng chéo lên nhau).
- Hạn chế dùng các khái niệm như thường xuyên, đôi khi mà tăng những
câu hỏi đo lường cụ thể…
- Câu hỏi phải có trật tự, lơgíc, phù hợp với trình độ và đặc điểm của
từng người và từng nhóm đối tượng cụ thể. Hạn chế dùng các ngôn ngữ bác
học hoặc q thơ thiển.
- Đối với các câu hỏi tìm hiểu về chính kiến hoặc tâm tư, tình cảm riêng
của đối tượng, nên dùng nhiều câu hỏi gián tiếp; còn khi câu hỏi liên quan đến
các hiện tượng tiêu cực thì nên tìm các từ ngữ và câu nói thích hợp để giảm
nhẹ mức độ mới có thể thu được câu trả lời đáng tin cậy.
*

a chọn các câu hỏi đ đưa vào

ng câu hỏi

Để xây dựng được một bảng câu hỏi khoa học, đáp ứng yêu cầu của cuộc
điều tra, phải biết lựa chọn các câu hỏi một cách nghiêm túc và bảo đảm một
tỷ trọng thích hợp giữa các loại câu hỏi.
Thông thường, để chọn câu hỏi, căn cứ vào các tiêu chí: tính tiết kiệm
của câu hỏi, tính chắc chắn của câu hỏi, tính xác thực của câu hỏi.
Trên cơ sở của ba tiêu chí đó, ta có nhận xét sau: câu hỏi đóng tiết kiệm
hơn, tính xác thực cao hơn, và dễ xử lý bằng máy vi tính hơn, câu hỏi mở khó

xác định hơn và xử lý bằng phương pháp định lượng khó hơn, song lại có thể
cho ta những thơng tin nhiều chiều hơn, sâu sắc hơn.
Giữa các câu hỏi, những câu hỏi về nội dung phải chiếm ưu thế cả về
mặt số lượng và về quỹ thời gian. Nó phải được ưu tiên trong việc xây dựng
bảng câu hỏi cũng như trong thực hành điều tra.


16
* Bố cục b ng hỏi
Thông thường, bảng hỏi trong điều tra xã hội học thường có 3 phần:
- Phần mở đầu: bao gồm tên bảng hỏi, tên người hay tổ chức nghiên cứu,
lời giới thiệu nêu rõ mục đích nghiên cứu, các giải thích và hướng dẫn cách
trả lời. Phần này nên ngắn gọn, dễ hiểu, tạo sự tin tưởng cho đối tượng trả lời.
- Phần nội dung: Bao gồm hệ thống các câu hỏi nhằm thu thập thông tin
cho đề tài. Vấn đề cơ bản cần lưu ý trong phần này là việc xếp thứ tự các câu
hỏi. Thông thường, thứ tự câu hỏi là chung đến riêng, đơn giản đến phức tạp,
tổng quát đến cụ thể, khách quan đến riêng tư,… hoặc xếp theo thứ tự thời
gian. Ngồi ra, cịn tính đến một vài câu hỏi mang tính chất kiểm tra – nhắc
lại một câu hỏi ở trên hoặc hỏi theo cách khác để xem có gì mâu thuẫn không.
- Phần kết luận: Một vài câu hỏi kết thúc cuộc điều tra, thường là những
câu hỏi về thông tin của đối tượng điều tra.
Bảng hỏi cần được trình bày khoa học, rõ ràng, chính xác, tạo điều kiện
thuận lợi cho người trả lời đọc và ghi chép.
 Lựa chọn mẫu điều tra:
* S cần thiết chọn mẫu
Mục tiêu cơ bản của các cuộc điều tra xã hội học là để cung cấp các
thông tin từ thực tế xã hội cho việc phát triển lý luận xã hội học cũng như cho
công tác quản lý xã hội. Về nguyên tắc, thông tin thu được từ các cuộc nghiên
cứu xã hội học cần đảm báo hai đặc tính cơ bản. Thứ nhất, thơng tin phải có
tính đại diện, nghĩa là thơng tin thu được phải có giá trị cho cả tổng thể điều

tra. Thứ hai, thơng tin đó phải đảm bảo mức độ chính xác, nghĩa là thơng tin
thu được phải phản ánh đúng với thực tế khách quan.
Gắn liền với đặc tính thứ hai của thơng tin chính là các phương pháp và
kỹ thuật được sử dụng để thu thập thơng tin.
Gắn liền với đặc tính thứ nhất của thơng tin, chúng ta đang nói đến cách


17
chọn mẫu. Nghĩa là phải chọn mẫu như thế nào đó để thơng tin thu được có ý
nghĩa, có giá trị và có thể đại diện cho cả tổng thể nghiên cứu.
Như vậy, chọn mẫu chính là q trình sử dụng các phương pháp khác
nhau nhằm tìm ra được một tập hợp các đơn vị (nhóm xã hội, người) mà
những đặc trưng và cơ cấu được nghiên cứu của chúng có thể đại diện cho
một tập hợp xã hội lớn hơn; hay nói một cách khác, những kết luận được rút
ra từ nó có thể suy rộng cho cả tổng thể.
Thơng qua nghiên cứu chọn mẫu người ta có thể đảm bảo được tiến độ
công việc nghiên cứu, tiết kiệm thời gian, tiền bạc…
* Các loại mẫu và cách lấy mẫu
Trong các cuộc điều tra xã hội học, các nhà nghiên cứu thường tiến hành
một số cách lấy mẫu sau:
- Ngẫu nhiên đơn giản:
êu cầu của cách lấy mẫu này là phải có một danh sách kê khai đầy đủ
các thành viên của tổng thể (tập hợp tổng quát). Trên cơ sở danh sách này, có
thể lựa chọn một cách hồn tồn ngẫu nhiên (thí dụ: rút thăm theo kiểu hú
họa) các thành viên sao cho đủ số người cần thiết để nghiên cứu.
Đặc điểm của phương pháp này là: mọi thành viên đều có cơ hội như
nhau để rơi vào mẫu.
- Hệ thống khởi đầu bằng ngẫu nhiên.
Khi lập mẫu kiểu này, thay cho việc rút hú họa (theo kiểu lấy mẫu ngẫu
nhiên đơn giản), có thể chọn mẫu bằng cách lựa chọn một thành viên bất kỳ

nào đó trong bảng danh sách đã đánh số thứ tự, sau đó cứ cách một khoảng
cách K ta lại chọn một người (độ lớn của K là tuỳ thuộc vào việc chúng ta
chọn mẫu lớn hay nhỏ).
Lúc này chúng ta có được công thức: K
n: Số người (đơn vị) của mẫu

Nn


18
N: Số người (đơn vị) của tổng thể
K: Khoảng cách giữa hai người trong mẫu.
- Lấy mẫu nhiều giai đoạn
Trong chọn mẫu loại này, việc chọn mẫu được mẫu thực hiện qua hai
hoặc nhiều bước hơn. Giai đoạn một: chia tập hợp tổng quát ra thành các
nhóm lớn theo một dấu hiệu nhất định, lập danh sách liệt kê các nhóm, chọn
trong danh sách ra một số nhóm theo nguyên tắc ngẫu nhiên. Tiến hành lấy
mẫu ngẫu nhiên đơn giản hoặc mẫu ngẫu nhiên hệ thống bắt đầu từ ngẫu
nhiên (trong các nhóm đã được lựa chọn).
Cách lấy mẫu này dùng trong các trường hợp tập hợp tổng quát khá lớn,
thí dụ, một tỉnh, một ngành, một tầng lớp xã hội, một quốc gia.
Loại lấy mẫu này rất khó vì vậy cần hiểu thực địa kỹ lưỡng. Nếu khơng
có một tấm bản đồ xã hội thì nhà nghiên cứu phải làm việc cẩn thận với
những nhà lãnh đạo, quản lý ở địa phương nơi tiến hành khảo sát, vì họ là
những người am hiểu tình hình, đặc điểm của địa phương mình. Ngồi ra,
người ta cịn tiến hành chọn mẫu cụm, mẫu xêri, mẫu phân xuất, chọn mẫu
theo hành trình …
Để bảo đảm cho mẫu có tính đại diện cao, giảm được đến mức thấp nhất
độ sai lệch về cơ cấu thống kê của mẫu so với cơ cấu của tập hợp tổng qt,
ngồi việc tn thủ các quy trình chọn mẫu một cách nghiêm ngặt, chúng ta

còn phải quan tâm đến dung lượng của mẫu.
Khơng có một giải pháp vạn năng về dung lượng cần thiết của mẫu, song
về mặt nguyên tắc, dung lượng của nó phụ thuộc vào số lượng dấu hiệu có
trong tập hợp tổng quát và mức độ chính xác cần thiết của các kết quả trong
mẫu. Nếu trong tập hợp tổng quát có nhiều dầu hiệu, thì dung lượng của mẫu
sẽ tăng lên và ngược lại mẫu sẽ nhỏ nếu tập hợp tổng quát thuần nhất về mặt
dấu hiệu.


19
Sai số của mẫu cũng sẽ tăng lên, nếu như trong quá trình thực hành điều
tra đã vi phạm những u cầu quy trình chọn mẫu. Chính vì vậy, việc theo dõi
và điều hành một cách nghiêm túc, sát sao các điều tra viên trong quá trình
điều tra theo mẫu đã chọn là một việc làm cần thiết.
 Lựa chọn và tập huấn điều tra viên, tiến hành điều tra ở địa bàn
* Lựa chọn và tập huấn điều tra viên:
Trong mỗi cuộc điều tra, tuỳ theo quy mơ, tính chất phức tạp của đề tài
nghiên cứu và phương pháp điều tra mà người tổ chức cuộc điều tra chuẩn bị
lực lượng điều tra viên nhiều hay ít, chất lượng và những yêu cầu về năng lực,
phẩm chất cao hay trung bình. Trong những cuộc điều tra bằng phương pháp
ankét, trình độ chun mơn khơng địi hỏi cao lắm, song trong các cuộc điều
tra bằng phương pháp phỏng vấn sâu hay quan sát đầy đủ, người ta tiến hành
công việc phải có nhiều kinh nghiệm và trình độ văn hố cao (nhất là về mặt
chun mơn).
Tuy có sự khác nhau về mức độ tập huấn, song nhìn chung, mọi cuộc tập
huấn cho điều tra viên trong điều tra xã hội học đều phải thực hiện các bước sau:
- Giới thiệu mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra, thơng qua đó giúp cho
điều tra viên có thể giải thích được mục đích, ý nghĩa của các cuộc điều tra
cho đối tượng được điều tra.
- Làm cho mọi điều tra viên đều hiểu được như nhau về các khái niệm,

các câu hỏi và những vấn đề cần khai thác.
- Làm cho điều tra viên biết cách ghi chép thông tin.
- Giới thiệu trước đặc điểm của đối tượng điều tra, giúp cho các điều tra
viên tiếp cận và ứng xử linh họat, thích hợp nhằm thâm nhập vào đối tượng và
thu được tối đa những thông tin cần thiết.
- Xác lập tiến độ thực hiện cho các thành viên.


20
* Điều tra th và hoàn ch nh lại toàn ộ
ch

ng câu hỏi c ng như các

áo
Để hoàn thiện cũng như nâng cao chất lượng của bảng câu hỏi, nhiều

nghiên cứu cần thiết phải điều tra thử. Chính nhờ quá trình này mà chúng ta
tìm ra được những sai sót trong quá trình xây dựng bảng câu hỏi, loại bỏ được
những phần thiếu lơgíc trong trình tự các câu hỏi, chuẩn hoá thêm một bước
của cuộc điều tra và cuối cùng là tạo ra được một bảng câu hỏi tối ưu, phù
hợp với đố tượng của cuộc điều tra.
Điều đáng lưu ý là: nên tiến hành điều tra thử trên chính đối tượng sẽ
điều tra; tất nhiên khơng nên để khoảng cách quá xa so với thời gian tiến hành
điều tra chính.
* Tiến hành điều tra ở địa bàn
 Giai đoạn xử lý thông tin:
Giai đoạn này gồm ba công đoạn: Tập hợp tài liệu, phân nhóm và miêu
tả, giải thích; Kiểm tra giả thuyết nghiên cứu; Trình bày báo cáo và xã hội hoá
kết quả.

 Tập hợp tài liệu, ph n nhóm và miêu tả, giải thích
- Tập hợp các tài liệu, sắp xếp chúng vào các nhóm dấu hiệu riêng. Thí dụ:
Tài liệu kinh tế, chính trị, pháp luật.
Tài liệu thống kê hay các văn bản báo cáo.
Tài liệu về mức sống hay các dấu hiệu khác về học vấn, nghề nghiệp.
Trong giai đoạn xử lý thông tin bước đầu, có thể sử dụng cả các biện pháp
đơn giản để phân loại đối với các tài liệu kết hợp với xử lý bằng máy vi tính.
Xử lý bằng máy vi tính theo ba bước:
- Lập sơ đồ lơgíc, xử lý và phân tích thơng tin
Mẫu tài liệu thu thập thông tin.
Thống kê các phương pháp xử lý bảo đảm kiểm tra được giả thuyết.


×