TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
Đề tài:
BIÊN SOẠN CÁC BÀI MÚA CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC
Sinh viên thực hiện
: Trần Thị Diễm Hƣơng
Lớp
: 11SMN2
Giảng viên hƣớng dẫn : Th.S Tôn Nữ Diệu Hằng
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2015
Lời Cảm Ơn
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Giáo
dục Mầm non trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng đã tạo điều kiện
cho em được làm Khóa luận tốt nghiệp này, đây là một cơ hội để em được trải
nghiệm, được thực hành các kỹ năng đã học trong 4 năm qua, chính điều này
sẽ giúp em nắm vững hơn phần nào các kiến thức có thể tự tin về bản thân
mình hơn.
Để hồn thành Khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất đến Th.S Tôn Nữ Diệu Hằng, người đã tạo điều kiện, giúp đỡ và
hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện Khóa luận. Cảm ơn tất cả các
thầy cơ đã dạy em rất nhiều kiến thức trong thời gian học tại trường, đó là
những hành trang quý báu để em có thể hồn thành Khóa luận tốt nghiệp và
tiếp tục trên con đường sự nghiệp sau này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến toàn thể bạn bè, gia đình,
những người ln bên cạnh ủng hộ và động viên em trong suốt thời gian qua.
Xin kính chúc quý thầy cô luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt!
Xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Trần Thị Diễm Hƣơng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................... Error! Bookmark not defined.
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................2
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ........................................................................2
4.1. Khách thể nghiên cứu...........................................................................................2
4.2. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................2
5. Giả thuyết khoa học ................................................................................................2
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................3
6.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ ở trường mầm non ...................................3
6.2. Tìm hiểu thực trạng biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
hoạt động giáo dục âm nhạc trẻ của một số trường mầm non ở TP Đà Nẵng ............3
6.3. Biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục âm
nhạc .............................................................................................................................3
7. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận ...............................................................3
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn ............................................................3
7.2.1. Phương pháp quan sát .......................................................................................3
7.2.2. Phương pháp đàm thoại.....................................................................................3
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng Anket .....................................................................3
7.3. Phương pháp thống kê tốn học ...........................................................................4
8. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu ..................................................................4
8.1. Về lý luận ...........................................................................................................4
8.2. Về thực tiễn ..........................................................................................................4
9. Cấu trúc của đề tài ...................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BIÊN SOẠN CÁC BÀI MÚA
CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC ................................5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................5
1.1.1. Biên đạo nói chung của nghệ thuật múa ...........................................................5
1.1.2. Biên soạn múa cho trẻ mầm non .......................................................................8
1.2. Các khái niệm ...................................................................................................10
1.2.1. Múa..................................................................................................................10
1.2.2. Biên đạo ..........................................................................................................10
1.2.3. Biên soạn bài múa ...........................................................................................11
1.2.4. Biên soạn bài múa trong hoạt động âm nhạc ..................................................11
1.3. Nghệ thuật múa của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc ở
trƣờng mầm non ......................................................................................................12
1.3.1. Mối quan hệ giữa nghệ thuật múa và âm nhạc của trẻ ....................................12
1.3.2. Hoạt động âm nhạc của trẻ 5 – 6 tuổi .............................................................13
1.3.3. Nghệ thuật múa của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc ..........14
1.4. Biên soạn các bài múa trong hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi ở trƣờng mầm non ..................................................................................19
1.4.1. Khái quát vài nét về nghệ thuật biên soạn bài múa cho trẻ.............................19
1.4.2. Nguyên tắc biên soạn bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ............................22
1.4.3. Chất liệu cơ bản Múa ......................................................................................23
1.4.4. Quy trình biên soạn bài múa cho trẻ ...............................................................28
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BIÊN SOẠN CÁC BÀI MÚA
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC ........31
2.1. Khái quát về quá trình điều tra ......................................................................31
2.1.1. Mục đích điều tra ............................................................................................31
2.1.2. Nội dung điều tra .............................................................................................31
2.1.3. Đối tượng điều tra ...........................................................................................31
2.1.4. Phương pháp tiến hành ....................................................................................31
2.1.5. Thời gian điều tra ............................................................................................33
2.1.6. Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê tính tỉ lệ phần trăm .......................33
2.1.7. Tiêu chí và thang đánh giá ..............................................................................33
2.2. Kết quả điều tra ................................................................................................34
2.2.1. Đối với giáo viên .............................................................................................34
2.2.2. Đối với trẻ .....................................................................................................38
2.2.3. Thực trạng về chương trình các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường
mầm non
.....................................................................................................39
2.3. Nguyên nhân của thực trạng ...........................................................................40
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan ....................................................................................40
2.3.2. Nguyên nhân khách quan ................................................................................41
CHƢƠNG 3: BIÊN SOẠN CÁC BÀI MÚA CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC...........................................................43
3.1. Cơ sở biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
âm nhạc ....................................................................................................................43
3.1.1. Căn cứ vào đặc điểm khả năng múa của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ....................43
3.1.2. Căn cứ vào mục tiêu hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ..............................44
3.1.3. Căn cứ vào các nguyên tắc giáo dục mầm non ...............................................44
3.1.4. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực trạng biên soạn bài múa cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc ...........................................................................45
3.2. Biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc
...................................................................................................................................46
3.2.1. Các bài hát lựa chọn biên soạn ........................................................................46
3.2.2. Biên soạn các bài múa minh hoạ cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc46
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SƢ PHẠM.............................................................80
1. Kết luận ................................................................................................................80
1.1. Về cơ sở lí luận ..................................................................................................80
1.2. Về cơ sở thực tiễn ..............................................................................................80
2. Một số kiến nghị sƣ phạm ..................................................................................81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................83
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
TP
: Thành phố
NSND : Nghệ sĩ nhân dân
NSƯT : Nghệ sĩ ưu tú
NXB : Nhà xuất bản
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Thực trạng về vai trò của múa đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. ....... 35
Bảng 2: Nguồn sử dụng các bài múa khi dạy cho trẻ ............................................... 36
Bảng 3: Thực trạng về việc học múa của trẻ ............................................................. 39
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Mầm non được coi là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Giáo dục Mầm non đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát
triển tồn diện nhân cách cho trẻ. Trẻ nhỏ ln có nhu cầu giao tiếp với môi trường
xung quanh. Việc nắm được những tri thức khoa học giúp trẻ có một nhân cách toàn
diện phù hợp với yêu cầu xã hội đề ra.
Ở trường mầm non có rất nhiều hoạt động nhằm bồi dưỡng và phát triển toàn
diện cho trẻ, múa là một trong những hoạt động không chỉ bồi dưỡng về thể chất
giúp cơ thể mềm dẻo, linh hoạt mà nó còn giúp tâm hồn biết hướng tới cái thiện, cái
đẹp, u q cuộc sống. Vì vậy múa góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Nghệ thuật múa là bức “Điêu khắc sống”, ở múa quan trọng chính là con
người thể hiện gây ấn tượng sâu sắc tới những người thưởng thức. Nó mang trong
mình màu sắc riêng, có vai trị quan trọng trong việc hồn thiện các chức năng hoạt
động của cơ thể con người.
Bắt đầu bằng những động tác đơn giản, sau đó cùng với sự phát triển của lứa
tuổi, những động tác phức tạp nhiều hơn, những vận động đó làm cho sự mềm dẻo
của cơ thể, sự khéo léo của toàn thân trẻ tăng dần lên. Vận động múa giúp trẻ có
một cơ thể khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, dẻo dai đáp ứng yêu cầu phát triển thể chất.
Qua đó trẻ cịn nhận biết được cái đẹp của lời ca, của động tác, trẻ thêm tự tin và
thoải mái trong các hoạt động.
Trẻ lứa tuổi mầm non rất thích được hát múa, đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi, qua đó trẻ được thể hiện mình, được trải nghiệm những gì trẻ biết. Tuy nhiên,
ở các lớp mẫu giáo hiện nay hoạt động múa của trẻ chỉ dừng lại ở việc vận động
theo lời ca, động tác đơn giản, nghèo nàn, cốt làm sao cho hết câu hát. Trẻ không
được học những động tác múa cơ bản hay động tác múa đặc trưng của một số dân
tộc: múa quạt, đi xúng xính, đánh cồng… Hơn nữa, khả năng múa, biên soạn bài
múa của giáo viên còn hạn chế, cơ sở vật chất của trường còn thiếu thốn. Mặt khác,
1
do chưa có một chương trình biên soạn các bài múa cụ thể để giáo viên lựa chọn
nên việc dạy múa cho trẻ gặp nhiều khó khăn.
Để góp phần thực hiện chương trình giáo dục nói chung và chương trình giáo
dục âm nhạc nói riêng đối với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đạt kết quả tốt thì cần có
nhiều bài múa theo các chủ đề trong hoạt động âm nhạc. Thế nhưng hiện nay, các
bài múa theo các chủ đề còn hạn chế dẫn đến sự nhàm chán cho trẻ khi tham gia
hoạt động. Đồng thời gây khó khăn cho giáo viên trong việc lựa chọn các bài múa
phù hợp với hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ, với các yêu cầu của từng chủ đề
đặt ra. Hơn nữa, trong những năm gần đây các nhà biên đạo thường ít chú ý tới
mảng biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo.
Chính vì những lý do trên, với mong muốn nghệ thuật múa thực sự đáp ứng
được nhu cầu biểu diễn của trẻ, đồng thời làm phong phú thêm kho tàng các bài
múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Biên soạn các bài
múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc”.
2. Mục đích nghiên cứu
Biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc
góp phần làm phong phú tư liệu bài múa, giúp giáo viên dễ dàng hơn trong việc
tuyển chọn các bài múa phù hợp với hoạt động âm nhạc cho trẻ ở trường mầm non.
3. Phạm vi nghiên cứu
Biên soạn các bài múa minh họa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
âm nhạc ở trường mầm non.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
-
Hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
-
Các bài múa phù hợp với chủ đề, phù hợp với hoạt động giáo dục âm nhạc cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
5. Giả thuyết khoa học
2
Nếu biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm
nhạc sẽ giúp giáo viên thuận lợi trong việc lựa chọn và sử dụng các bài múa vào
hoạt động giáo dục âm nhạc, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục. Đồng thời làm
phong phú kho tàng các bài múa dành cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi trong hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ ở trường mầm non
6.2. Tìm hiểu thực trạng biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
hoạt động giáo dục âm nhạc trẻ của một số trường mầm non ở TP Đà Nẵng
6.3. Biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục
âm nhạc
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá những tài liệu
có liên quan đến đề tài nghiên cứu, cụ thể hoá lý thuyết nhằm xây dựng cơ sở lý
luận của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Dự giờ quan sát quá trình tổ chức hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi nhằm đánh giá thực trạng việc biên soạn các bài múa cho trẻ.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi với giáo viên để tìm hiểu vai trị của múa đối với trẻ, vai trò của
việc biên soạn các bài múa trong hoạt động giáo dục âm nhạc, những thuận lợi và
khó khăn trong việc biên soạn các bài múa phù hợp với hoạt động giáo dục âm nhạc
cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng Anket
Sử dụng phiếu thăm dò, điều tra các giáo viên ở các trường mầm non trong
thành phố Đà Nẵng để nắm việc biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong hoạt động âm nhạc.
3
7.3. Phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng các cơng thức thống kê toán học để xử lý số liệu.
8. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
8.1. Về lý luận
-
Góp phần hệ thống các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
8.2. Về thực tiễn
-
Tìm hiểu thực trạng biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
hoạt động giáo dục âm nhạc của một số trường mầm non ở thành phố Đà Nẵng,
đồng thời chỉ ra nguyên nhân của thực trạng.
-
Biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của khoá luận được chia làm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5
– 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc.
Chương 3: Biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động âm nhạc.
4
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BIÊN SOẠN CÁC BÀI
MÚA CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Biên đạo nói chung của nghệ thuật múa
Nghệ thuật múa là loại hình nghệ thuật có từ sớm nhất của lồi người, nó tồn
tại và phát triển theo lịch sử văn hóa và lịch sử phát triển trí tuệ của con người.
Ngay từ thuở bình minh của bộ người nguyên thuỷ, nghệ thuật múa đã xuất hiện
như một nhu cầu thiết yếu trong đời sống văn hoá tinh thần và phát triển ngày càng
hoàn thiện. Từ thời kỳ xã hội nguyên thuỷ, sang thời kỳ chiếm hữu nô lệ rồi đến
thời kỳ xã hội phong kiến, sang chế độ tư bản và lên chủ nghĩa xã hội, múa được
phát triển qua từng thời kỳ. Đầu tiên chưa có định hướng, sau đó múa mang tính mơ
phỏng, múa thể hiện các nội dung sinh hoạt của con người. Qua hàng trăm năm,
nghệ thuật múa của người Việt Nam đã phát triển không ngừng, từ điệu thức đơn
giản đến phức tạp, từ quy mô một vùng mở rộng ra nhiều khu vực và phát triển với
nhiều hình thức khác nhau, trở thành bản sắc văn hóa Việt Nam.
Đến sự kế thừa và phát triển nghệ thuật múa Việt Nam trong thời kỳ mới.
Bước sang thế kỷ XXI – thế kỷ của thơng tin, khoa học, cơng nghệ, xu thế tồn cầu
hóa trên các mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa đã và đang mở ra những cơ hội
và thách thức mới. Cuốn theo vịng xốy đó, văn hóa nghệ thuật nói chung, nghệ
thuật múa nói riêng phải tìm cho mình những bước đi, hướng đi mới để thích ứng
và phát triển. Vấn đề đặt ra cho những người làm cơng tác nghệ thuật múa là phải
suy nghĩ, tìm tịi cái mới trong sáng tạo để những tác phẩm múa mang tính tư tưởng,
5
thẩm mĩ và giáo dục cao, thể hiện được hơi thở, nhịp sống của ngày hơm nay. Có
như vậy nghệ thuật múa mới tồn tại và đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của công
chúng trong thời đại mới.
Nền nghệ thuật múa Việt Nam hôm nay được bắt nguồn và kế thừa từ nền
nghệ thuật múa dân tộc truyền thống. Trên cái nền cội nguồn đó, mỗi thế hệ đã góp
phần sáng tạo của mình để gìn giữ và làm giàu hơn bản sắc tâm hồn dân tộc bằng
cách phát huy những giá trị vốn có, bên cạnh đó cần phải sáng tạo những yếu tố
mới, sắc thái mới trên cơ sở tiếp nhận và cải biên các giá trị của sự lan tỏa văn hóa
nội vi và ngoại lai để phát triển nền nghệ thuật nước nhà cho phù hợp với điều kiện,
hồn cảnh của dân tộc mình. Giữ gìn cái cốt lõi, tinh túy nhất trong vốn múa, giữ
được cái “đặc trưng”, “tiêu biểu” nhất để từ đó phát triển và bổ sung cho hoàn thiện
hơn vốn múa của dân tộc, nó sẽ là nguồn mạch bản sắc văn hóa vơ cùng quan trọng
để các nhà biên đạo khai thác và kế thừa.
Sự kết hợp giữa hai dòng ngôn ngữ múa dân gian dân tộc và múa ballet cổ
điển Châu Âu hoặc múa hiện đại Phương Tây đang trở thành một xu hướng mới
trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở đó, những nhà biên đạo múa Việt Nam cũng đã
vận dụng phương pháp kết hợp ngôn ngữ này áp dụng vào trong quá trình sáng tạo
những tác phẩm múa mới. Ngay từ những năm 60 của thể kỷ XX tác phẩm múa
Cánh chim và mặt trời của nhà biên đạo múa NSND Thái Ly đã như một minh
chứng cho sự kết hợp ngôn ngữ Đông – Tây, sự kết hợp hài hòa giữa múa dân tộc
Khơme và múa cổ điển Châu Âu, tạo nên sức sống cho tác phẩm múa này. Những
đường nét cong lượn của đôi cánh chim, của những tạo hình múa mang đậm dáng
điệu từ những bức tượng và những điệu múa đặc sắc của dân tộc Khơme, bên cạnh
đó là những bước quay, nhảy lớn và những cách kết cấu ngôn ngữ tổ hợp, cấu trúc
tác phẩm đã khắc họa được hình tượng của con chim vươn lên bay bổng dưới ánh
sáng mặt trời. Tác phẩm múa điển hình này mang đậm bản sắc dân tộc và nó trở
thành như một di sản của nghệ thuật múa Việt Nam.
Trên con đường sáng tạo nghệ thuật, các nhà biên đạo Việt Nam đã đi bằng
nhiều con đường khác nhau, tìm kiếm sáng tạo theo nhiều xu hướng khác nhau để
6
cùng đến một đích – múa Việt Nam dân tộc mà hiện đại. Chúng ta có thể điểm qua
một số xu hướng sáng tác như: Xu hướng phát triển từ chất liệu múa dân gian; Xu
hướng kết hợp múa dân gian với những động tác sinh hoạt đương đại; Xu hướng kết
hợp múa dân gian với múa nước ngoài (múa ballet cổ điển và múa Phương Tây).
Trên sân khấu múa chuyên nghiệp hiện nay xuất hiện nhiều tác phẩm múa
được cơng chúng đón nhận và đánh giá cao như: Hồn là ai?, Mùa xuân trên bản
H’Mông, Y Đăm (NSND Công Nhạc); Hương quê, Hoa mai nở (NSND Chu Thúy
Quỳnh); Pho tượng cổ (NSND Ứng Duy Thịnh); Lời ru của rừng, Mênh mang mùa
xuân, Khai sơn phá thạch (NSƯT Anh Phương); Mẹ mặt trời (Xuân Thanh); Cân
Bằng (Mai Anh); Tình quê (Thu Hà); Sự tích trầu cau (NSƯT Minh Thơng); Cịng
Cịng gió (Quang Minh).
Những nhà biên đạo trên đã có rất nhiều cống hiến cho nghệ thuật múa Việt
Nam với những tác phẩm để lại nhiều cảm xúc trong lịng cơng chúng. Có thể điểm
qua những cống hiến trong nền nghệ thuật nước nhà của các biên đạo múa ở Việt
Nam:
Trước tiên phải nói đến nhà biên đạo múa NSND Thái Ly, ơng là một trong
những người đặt nền móng cho nghệ thuật múa Việt Nam với những tác phẩm và
kịch múa kinh điển như: Đôi bờ, Cánh chim và ánh mặt trời, Katu, Bả khó…Ơng là
người biên đạo cho vỡ kịch múa Ballet đầu tiên của Việt Nam là Hái hoa dâng Bác
(năm 1960).
Biên đạo múa Chu Thúy Quỳnh hiện là Chủ tịch Hội Nghệ sĩ múa Việt Nam,
nguyên Giám đốc Nhà hát ca múa nhạc Việt Nam. Với vai trò biên đạo múa, bà đã
cho ra đời nhiều tác phẩm đạt giải thưởng cao của Hội Nghệ sĩ múa như: Hoa Tràng
An, Vũ khúc đàn T’rưng, Hương xuân, Hương quê, Cánh chim không mỏi, Trống
hội, Những cô gái Việt Nam… để lại nhiều ấn tượng và cảm xúc trong lịng cơng
chúng.
NSND Nguyễn Văn Quang – Hiệu trưởng trường Cao đẳng Múa Việt Nam
đã biên đạo nhiều tác phẩm múa có giá trị thẩm mĩ, nghệ thuật, có nhiều tìm tòi
sáng tạo mới cống hiến rất lớn cho nghệ thuật múa Việt Nam, trong đó có những tác
7
phẩm múa nổi bật như: Nguyệt cơ hóa cáo, Nổi trống đồng lên, Ngẫu hứng triền
non, Kiếp cầm ca, Nguồn cội, Những chàng trai cô gái Khơ mú.
Với nhà biên đạo Lê Vũ Long, anh sinh ra tại Hà Nội trong một gia đình có
truyền thống nghệ thuật. Năm 2002, anh thành lập đoàn múa Nơi đến
(Togetherhigher dance company ) với các tác phẩm múa: Một là một và một là hai
(2001), Nơi đến (2002), Mắt bão (2003), Trời tròn đất vng (2004), Thấu truyền,
Chuyện của chúng mình (2007), Ký ức thở dài (2009), Ba mặt một lời (2012), Một
tập thể các cá nhân (2014)... được cơng chúng đón nhận và đánh giá cao.
NSND Hà Thế Dũng với các vở thơ múa, tổ khúc múa và kịch múa mang
màu sắc hiện đại như: Màu xanh bất diệt, Ô cửa sổ, Khơng gian sống và khơng gian
chết, Những điệu múa gió mùa… Các tác phẩm này đoạt được nhiều giải thưởng ở
các kỳ liên hoan. Những tác phẩm: Nỗi đau da cam, Tự tình mưa nắng, Những dịng
chảy mới… do anh dàn dựng cho Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam, Nhà hát Ca múa
nhạc dân tộc Bơng Sen, Đồn Nghệ thuật Quân khu 7, cùng với Tổ khúc múa 4
chương “Tổ quốc – Hai tiếng thân thương, hai tiếng tự hào” với nhịp điệu rất hào
hùng đã được công chúng đón nhận và ghi lại nhiều ấn tượng sâu sắc.
Tóm lại, về biên đạo nói chung của nghệ thuật múa ở Việt Nam đã và đang
nhận được sự quan tâm lớn từ những người tất cả các tư liệu thu thập được từ những
nhà biên đạo trên là cơ sở để chúng tơi tìm hiểu q trình phát triển ngành biên đạo
múa nói chung và biên soạn múa cho trẻ mầm non nói riêng.
1.1.2. Biên soạn múa cho trẻ mầm non
Đối với ngành mầm non, đã có nhiều tác giả viết về vai trò nghệ thuật múa
cho trẻ mẫu giáo. Hiện nay, có rất nhiều nhà sư phạm đi sâu nghiên cứu về nghệ
thuật múa cho trẻ mầm non. Nhưng về vấn đề biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc thì rất ít tác giả đề cập đến, mà mới chỉ
dừng lại ở mức độ chung với những hành động tác di chuyển đơn giản, đơn điệu
cịn dập khn, máy móc chưa thật phù hợp với nhu cầu và khả năng múa của trẻ
hiện nay.
8
Với bài viết “Một số điệu múa cho trẻ mẫu giáo” của tác giả Lã Tiến Thêm
(Viện Khoa học giáo dục – Trung tâm nghiên cứu giáo dục mầm non - 1996). Tác
giả đã đáp ứng mong mỏi của đông đảo giáo viên mầm non ở các vùng miền về các
bài múa dành cho trẻ mẫu giáo, nhằm góp phần làm phong phú các hoạt động biểu
diễn cho trẻ ở trường mầm non.
Bài viết “Một số hiểu biết về sáng tác múa” (NXB Đại học Văn hoá Hà Nội
– 1996) cũng đưa ra một số lý luận về sáng tác các bài múa nói chung nhưng chưa
đi sâu vào lý luận của việc biên soạn các bài múa dành cho trẻ mẫu giáo.
Bài viết “Múa và phương pháp biên dạy múa cho trẻ” (NXB Đại học Sư
phạm Hà Nội – 2002) có đề cập đến những kiến thức cơ bản về nghệ thuật múa và
phương pháp biên dạy múa cho trẻ nhưng vẫn còn khái quát chưa đi vào cụ thể đối
với từng loại nghệ thuật múa.
Bài viết “Lý luận một số hiểu biết về nghệ thuật múa và sáng tác múa” của
tác giả Lê Trọng Quang đã đề cập đến lý luận chung về nghệ thuật múa và sáng tác
múa, đáp ứng được nhu cầu về cơ sở lý luận của các nhà biên đạo múa nhưng chưa
biên soạn cụ thể các bài múa cho trẻ mẫu giáo.
Với giáo trình “Múa” của tác giả Trần Minh Trí (NXB Đại học Sư phạm),
tác giả đã khái quát chung về nghệ thuật múa và sơ lược về phương pháp biên soạn
động tác phụ hoạ cho các bài hát, nhưng chỉ dừng lại ở các bài múa phụ hoạ chung
cho hoạt động âm nhạc, chưa đi sâu vào các bài múa cho trẻ mẫu giáo.
Cuốn sách “Tổ chức cho trẻ mầm non vận động theo nhạc và múa minh họa
theo chủ đề” của tác giả Hồng Cơng Dụng – Trần Chinh đã biên soạn các bài múa
theo các chủ đề và gợi ý cách làm một số đạo cụ, trang phục minh họa; tài liệu này
đã giúp giáo viên mầm non có thêm tư liệu tham khảo để tổ chức cho trẻ vận động
và múa minh họa theo các bài hát gắn với các chủ đề trong năm học.
Trong bài giảng “Múa và phương pháp dạy múa cho trẻ mầm non” của tác
giả Nguyễn Thị Châu đã khái quát được những vấn đề lý luận cơ bản về nghệ thuật
múa cho trẻ mầm non đồng thời là tài liệu tổng hợp của các nhóm tác giả gồm 19
bài múa minh họa cho trẻ theo các chủ đề, tài liệu đáp ứng được nhu cầu của giáo
9
viên mầm non trong hoạt động âm nhạc nói chung và hoạt động dạy múa nói riêng.
[9, 4 – 65].
Như vậy, có thể thấy rằng nghệ thuật múa đóng vai trị rất quan trọng đối với
sự phát triển tồn diện nhân cách trẻ, nuôi dưỡng tâm hồn trẻ. Tuy nhiên, thực tế
hiện nay cho thấy việc biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động âm nhạc vẫn còn nhiều băn khoăn, hạn chế đối với giáo viên.
1.2. Các khái niệm
1.2.1. Múa
Nguồn gốc của nghệ thuật múa chính là những hành động của con người
trong đời sống, trong quá trình lao động cộng với sự quan sát thiên nhiên. Từ đó,
các động tác múa có những thay đổi, cải tiến, đi đến khái quát nghệ thuật.
Như vậy, múa là bộ mơn nghệ thuật. Nó là một phương tiện sắc bén để con
người nhận thức thế giới và cải tạo thế giới theo lý tưởng xã hội. Đặc biệt, múa là
một hình thái ý thức của xã hội, thông qua con đường thẩm mỹ. Múa khơng phải lời
nói, khơng phải màu sắc và càng khơng phải âm thanh. Múa không giống các bộ
môn nghệ thuật khác ở chỗ, nó dùng động tác và tư thế của cơ thể con người. Động
tác, tư thế trong múa không giống các động tác, tư thế trong các bộ mơn nghệ thuật
khác, vì động tác và tư thế múa đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với âm nhạc, hội hoạ,
văn học… Động tác của múa không phải để phụ trợ cho lời như trong chèo, cải
lương, kịch, hay giống các động tác sinh hoạt như trong điện ảnh. Đồng thời nó
cũng khơng phải thể dục thể thao, vì động tác thể dục chủ yếu nhằm rèn luyện sức
khoẻ và nếu đẹp thì càng tốt. Mục đích biểu hiện của động tác múa phức tạp, phong
phú hơn nhiều, nó gắn liền với đời sống và sự bộc lộ tình cảm của con người. Nói
cách khác, động tác và tư thế của múa nhằm biểu hiện tư tưởng, tình cảm của một
chủ thể đã định. Múa khơng chỉ có khoẻ và đẹp. Mục đích biểu hiện của ngơn ngữ
múa quyết định sự tồn tại và phát triển của chính bộ môn nghệ thuật này.
Như vậy, múa là môn nghệ thuật độc lập, dùng động tác, tư thế của thân thể
con người có tiết tấu, tạo hình để biểu hiện tư tưởng, tình cảm.
1.2.2. Biên đạo
10
a. Biên đạo
Theo giáo trình “Múa và phương pháp biên dạy múa ở trường mầm non”
của tác giả Lê Trọng Quang, ông cho rằng: “Trong nghệ thuật múa đa số các tác
phẩm đều tồn tại trong bản thân người sáng tác và diễn viên. Trừ một số điệu múa
đơn giản (dạng tập thể) được ghi chép lại đem in để phổ biến. Việc ghi lại, chép lại
trên giấy không thể có đủ căn cứ đích thực để người khác đọc hiểu hết ý đồ của tác
giả. Thông thường người sáng tác trực tiếp hướng dẫn cho diễn viên tác phẩm của
mình. Ở các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, chèo, kịch, điện ảnh người viết
kịch và người đạo diễn là hai lĩnh vực khác nhau, cịn ở loại hình nghệ thuật múa
hầu hết do một người vừa sáng tác vừa dàn dựng từ đó nảy sinh ra danh từ biên
đạo.” [5, 25].
Vậy theo tôi, biên đạo là người sáng tác ra những sản phẩm mang tính nghệ
thuật và trực tếp hướng dẫn cho diễn viên thực hiện ý tưởng của mình.
b. Biên soạn
Theo “Từ điển.com” thì “Biên soạn là thu thập tài liệu, nghiên cứu viết thành
sách, biên soạn giáo trình, biên soạn từ điển…”
Theo từ điển Lạc Việt thì “Biên soạn là khả năng sáng tạo ra một sản phẩm
về một đề tài nhất định trong cuộc sống”. Theo tơi đây là khái niệm mang tính khái
qt thể hiện được đặc tính chung của biên soạn.
1.2.3. Biên soạn bài múa
Theo từ điển “Bách khoa tri thức” thì “Biên đạo bài múa là một nghệ thuật
sử dụng sự nhảy múa (vũ đạo) để diễn đạt hình tượng khi kết hợp với âm nhạc. Một
câu chuyện được diễn đạt bằng sự nối tiếp các dáng điệu có bước đi, cử chỉ và các
chuyển động gợi ra hình ảnh khi những âm thanh, hòa âm thêu dệt phần nền”.
Từ quan điểm trên, theo tôi “Biên soạn bài múa là sự kết hợp tài tình của
những động tác, tư thế, cách di chuyển và đội hình để diễn đạt một ý tưởng, những
cảm xúc có mở đầu, phát triển và kết thúc”.
1.2.4. Biên soạn bài múa trong hoạt động âm nhạc
11
Từ các khái niệm trên thì tơi cho rằng: “Biên soạn bài múa trong hoạt động
âm nhạc là tác giả tạo ra một bài múa có động tác, tư thế, có di chuyển và đội hình
để diễn đạt một ý tưởng, những cảm xúc có mở đầu, phát triển và kết thúc xoay
quanh một chủ đề nào đó nhằm phản ánh, biểu hiện sự nhận thức, đánh giá tư
tưởng, tình cảm của tác giả đối với cuộc sống”.
Bài múa được biên soạn phải mang tính mới mẻ, sáng tạo, phong cách, mang
tính nghệ thuật, phù hợp với nội dung và giai điệu của ca khúc mà bài múa thể hiện,
phải đảm bảo về cấu trúc của một bài múa. Qua bài múa, qua các động tác múa trẻ
hiểu được và thể hiện đúng nội dung, tinh thần của tác phẩm múa, người xem có sự
đồng cảm và hiểu được tác phẩm múa và sự thể hiện của ngôn ngữ cơ thể.
Biên soạn các bài múa cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc
là một quá trình tạo ra những tác phẩm múa phù hợp với khả năng múa của trẻ, phù
hợp với lứa tuổi và các chủ đề. Các bài múa phong phú về chủ đề, động tác dễ tập,
dễ nhớ và thể hiện đúng nội dung tư tưởng của tác phẩm âm nhạc.
1.3. Nghệ thuật múa của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc ở
trƣờng mầm non
1.3.1. Mối quan hệ giữa nghệ thuật múa và âm nhạc của trẻ
Âm nhạc và múa từ lâu đã là một thể loại riêng được gọi là “vũ khúc” nó có
tính độc lập, hồn chỉnh và mang tính nghệ thuật cao. Nhạc trong múa có cái chung
và cái riêng đó là tiết tấu hay cịn gọi là nhịp điệu. Nó là một tổ hợp tiết tấu mang
tính nhất định, khơng có đặc tính đó khơng thể múa được.
Múa là mơn nghệ thuật dùng động tác, tư thế thân thể con người, có tiết tấu
và tạo hình để biểu hiện tư tưởng, tình cảm.
Múa không thể tách rời âm nhạc được. Ngay trong bản thân động tác múa đã
phải chứa đựng tiết tấu âm nhạc và bao giờ cũng phải có âm nhạc đi kèm.
Múa phải chịu sự quy định của nội dung và tính chất âm nhạc: âm nhạc sơi
động thì động tác múa cũng vui nhộn, ngược lại âm nhạc êm ái thì động tác múa
cũng mềm mại, nhẹ nhàng. Chính vì thế, người ta gọi “Múa là âm nhạc qua những
hình tượng thấy bằng mắt” (Từ điển Bách Khoa toàn thư Liên Xô).
12
Âm nhạc dùng cho múa có thể là những âm hình tiết tấu của vỗ tay, gõ đập.
Chỉ có tiếng cồng, tiếng chiêng vang lên cũng thu hút hàng trăm cô gái Tây Nguyên
tham gia nhảy múa rất hào hứng.
Tuy âm nhạc là linh hồn của múa, nhưng trong quá trình cảm thụ âm nhạc,
múa lại góp phần quan trọng cụ thể hoá trong những đường nét, giai điệu, tiết tấu,
màu sắc âm thanh của âm nhạc bằng những bước nhảy nhẹ nhàng, bay bổng, nét
đưa tay uyển chuyển, sự dồn nén cảm xúc mảnh liệt trong các vòng quay liên tiếp
đầy cảm xúc…
Như vậy, âm nhạc là một bộ phận cấu thành của nghệ thuật múa. Do đó múa
của trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi nói riêng được tổ chức trong
hoạt động giáo dục âm nhạc.
1.3.2. Hoạt động âm nhạc của trẻ 5 – 6 tuổi
Âm nhạc được coi là một trong những phương tiện tạo nên sự hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
Đối với trẻ mầm non, giáo dục cho trẻ lòng yêu âm nhạc, biết cảm thụ âm
nhạc thông qua các hoạt động âm nhạc phong phú. Dưới tác động giáo dục của âm
nhạc, những ấn tượng, khái niệm âm nhạc tạo điều kiện cho sự hình thành thị hiếu
âm nhạc ở trẻ, giúp trẻ biết lựa chọn, đánh giá tác phẩm, biết cách biểu diễn ở mức
độ đơn giản. Dạy trẻ những kĩ năng cơ bản, đơn giản và thói quen trong các dạng
hoạt động âm nhạc như ca hát, nghe, vận động, múa, trò chơi âm nhạc. Phát triển ở
trẻ năng lực cảm thụ, tưởng tượng, sự tập trung chú ý, biết nhận xét, có khả năng
diễn tả hứng thú và sự lựa chọn; phát huy tính tích cực, sáng tạo trong các dạng hoạt
động âm nhạc như thể hiện các hình tượng bằng động tác, điệu bộ, hoặc tự hát một
câu nhạc ngắn theo ý thích…
Hoạt động âm nhạc của trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non có nội dung gồm 10
chủ đề được tiến hành ở hai hình thức là trên tiết học có chủ đích và ngồi tiết học.
Trên tiết học có chủ đích hoạt động giáo dục âm nhạc gồm có hai hình thức:
-
Hình thức 1: Nội dung trọng tâm + Nội dung kết hợp.
+ Trọng tâm dạy hát kết hợp với nghe nhạc (hoặc trò chơi âm nhạc).
13
+ Trọng tâm nghe nhạc kết hợp với vận động theo nhạc (hoặc trò chơi âm
nhạc).
+ Trọng tâm vận động theo nhạc kết hợp với nghe hát (hoặc trò chơi âm nhạc).
-
Hình thức 2: Biểu diễn văn nghệ cuối chủ đề.
Biểu diễn cuối chủ đề là giáo viên tổ chức cho trẻ ôn lại kiến thức tổng hợp
trong chủ đề đó dưới các hình thức: hát, nghe hát, múa, kể chuyện, đọc thơ…
1.3.3. Nghệ thuật múa của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động âm nhạc
a. Vai trò của nghệ thuật múa đối với trẻ
Múa là phương tiện hình thành phẩm chất đạo đức:
Tuổi thơ là thời kỳ bình minh của cuộc đời, là giai đoạn phát triển mạnh nhất
của chức năng tâm lí. Nghệ thuật múa hình thành “xã hội trẻ em” khi trẻ hát múa
với nhau, đồng thời việc phối hợp với nhau để thực hiện các động tác, tình cảm bạn
bè trở nên thân thiết hơn. Trẻ yêu thương giúp đỡ nhau, cùng nhau vui vầy ca hát.
Tính đồng cảm, tính kỷ luật, tính tập thể được bền chặt hơn. Với những bài hát có
sự kết hợp của những động tác múa cịn mang đến cho trẻ những cảm xúc, lòng tự
hào về quê hương đất nước. Có những bài hát, điệu múa giúp trẻ phân biệt được
những điều tốt, xấu trong xã hội. Qua đó hình thành cho trẻ phẩm chất đạo đức tốt.
Múa là phương tiện phát triển thẩm mĩ:
Nghệ thuật múa là “bức điêu khắc sống”. Để làm nên bức điêu khắc múa - ở
múa chính là con người thể hiện bằng dáng dấp, cơ bắp, tâm hồn, nhựa sống của
bức điêu khắc đó. Nó gây ấn tượng sâu sắc tới người thưởng thức và ngay cả người
thể hiện nó. Nó mang trong mình màu sắc về đạo đức thẩm mĩ và vui chơi giải trí,
nó cịn có vai trị trong việc hồn thiện các chức năng hoạt động.
Lứa tuổi mầm non rất hiếu động và lứa tuổi này là thời kì phát triển giáo dục
thẩm mĩ. Chính tiếp nhận thế giới xung quanh bằng trực quan cảm tính nên khi tiếp
thu với nghệ thuật múa trẻ cảm thụ, lĩnh hội được cái đẹp và cái chưa đẹp, lĩnh hội
màu sắc kích thước, góc độ, trang phục… Qua đó phát triển cho trẻ về đạo đức thẩm
mĩ, thích biết cái đẹp và thích tạo ra cái đẹp.
14
Khi múa trẻ dễ dàng cảm nhận được giai điệu âm nhạc, trên cơ sở đó trẻ biết
phối hợp động tác cho phù hợp với giai điệu, đó chính là điều kiện định hướng thẩm
mĩ cho trẻ một cách tốt nhất.
Múa là phương tiện phát triển thể chất:
Nghệ thuật múa là một q trình rèn luyện của chính cơ thể con người. Qua
các cử chỉ, dáng dấp, đường nét tạo nên dáng vẻ hài hoà, sinh động và mềm mại.
Tính đa dạng của động tác múa đã tạo ra những phản ứng gắn với sự thay đổi nhịp
tim, tăng tuần hoàn máu, giãn nở các cơ cũng như sự phát triển của hệ xương. Sự
phối hợp nhịp nhàng, vững chắc càng giúp trẻ biết khống chế, thay đổi tốc độ,
cường độ múa sao cho phù hợp. Qua múa các động tác của tay, chân, cơ bắp, hô
hấp… hoạt động, tạo cho trẻ sự nhanh nhẹn, hoạt bát, có tư thế duyên dáng, giúp trẻ
phát triển cân đối hài hoà, có đủ sức khoẻ là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của
trí tuệ tốt.
Múa là phương tiện giáo dục trí tuệ:
Khi thể hiện múa ở lứa tuổi mầm non luôn phải đi kèm với bản nhạc và lời
ca. Muốn thực hiện được trẻ phải chú ý lắng nghe nhạc, lời ca thì mới thực hiện
được. Từ đó tư duy của trẻ phải làm việc tích cực, phải tập trung chú ý để thực hiện
động tác múa. Cũng có thể qua lời ca trẻ nghĩ ra động tác minh hoạ phù hợp với
những gì trẻ đã được tiếp nhận qua môi trường xung quanh. Khi hoạt động với nghệ
thuật múa trẻ phải kết hợp tai nghe nhạc, mắt nhìn, tay chân hoạt động… chính vì
vậy mà trẻ nhận thức và phản ảnh thế giới xung quanh một cách thoải mái và thuận
lợi. Hoạt động với nghệ thuật múa cũng là điều kiện tốt nhất để phản ánh những
hoạt động đối với trẻ thơ. Nghệ thuật múa gắn với sự phát triển trí tuệ trẻ, địi hỏi
trẻ phải có ghi nhớ có chủ định, có trí tưởng tượng, tư duy sáng tạo. Khi múa trẻ
biết lắng nghe nhạc, phối hợp giữa âm nhạc và động tác, kết hợp từ những động tác
đơn giản đến động tác phức tạp. Múa cịn rèn luyện cho trẻ tính kiên trì, biết tự
kiềm chế và hồ mình với tập thể.
Như vậy, có thể nói, mỗi loại hình nghệ thuật phản ánh một cách độc đáo
cuộc sống và ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến sự phát triển tình cảm, trí tuệ của
15
trẻ, mà nghệ thuật múa cũng như các loại hình nghệ thuật khác (âm nhạc, điêu khắc,
hội hoạ…) đều mang trong mình chức năng phản ánh sâu sắc về đạo đức, vui chơi,
giải trí… đồng thời tính nhân văn của nghệ thuật múa luôn được thẩm định ở độ cao
trong vai trị hồn thiện các chức năng hoạt động. Khơng những thế mà hoạt động
múa cịn có quan hệ mất thiết với các loại hình nghệ thuật khác như thơ ca, văn học,
âm nhạc, sân khấu,… giúp trẻ tiếp cận các loại hình nghệ thuật khác thơng qua múa
được dễ dàng và gây hứng thú cho trẻ. Do đó múa đóng vai trị quan trọng đối với
sự phát triển nhân cách trẻ một cách toàn diện nhất.
b. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi liên quan đến nghệ thuật múa
Đặc điểm tâm lý:
Trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn rất hiếu động, ham hiểu biết, muốn tìm tịi, khám
phá những điểm mới lạ, tâm hồn trẻ thơ rất hồn nhiên, trong sáng và nhạy cảm với
thế giới xung quanh. Do đó mà năng khiếu nghệ thuật thường được nảy sinh.
Ngay từ nhỏ, trẻ luôn say mê mong ước tạo ra được nhiều cái đẹp, ước mình
đẹp hơn. Đến tuổi mẫu giáo tư duy của trẻ đã chuyển dần từ tư duy trực quan hành
động sang tư duy trực quan hình tượng. Việc thay thế này giúp trẻ nhìn sự vật, hiện
tượng một cách tồn diện, chứ không tách rời từng mảng, từng bộ phận một cách
khơ cứng.
Cùng với sự phát triển tư duy thì trí tưởng tượng của trẻ cũng trở nên phong
phú hơn, trẻ có khả năng dùng vật này thay thế cho vật khác và hành động với vật
thay thế đồ vật có thật.
Việc biết sử dụng các hệ thống ký hiệu khác nhau để biểu thị các sự vật hiện
tượng của hiện thực, làm giàu thêm trí tưởng tượng của trẻ
Một đặc điểm nữa về sự phát triển tâm lý của trẻ là khả năng bắt chước và
thích bắt chước. Nhờ khả năng này mà trẻ có thể tiếp nhận hay nói một cách khác
“bắt chước” một cách nhanh chóng những bài luyện tập múa theo sự hướng dẫn của
cô giáo.
Ở lứa tuổi này trẻ thơ có một tâm hồn rất nhạy cảm, trẻ thường tỏ ra dễ xúc
cảm với cảnh vật và con người xung quanh nên trẻ thơ nhìn thế giới bằng đôi mắt
16
trong sáng và hồn nhiên. Đặc điểm nổi bật trong đời sống tâm lý trẻ thơ đó là trẻ dễ
gần gũi với điều mới lạ về hình dáng, màu sắc, âm thanh…đó là tính hình tượng
đang phát triển mạnh và gần như chi phối tồn vẹn nó chứ khơng tách rời từng
mảnh, từng bộ phận rạch rịi, khơ cứng những thuộc tính cụ thể trong tâm lý trẻ thơ.
Đối với nghệ thuật múa cũng vậy, từ những đạo cụ, trang phục động tác múa đã gây
cho trẻ ấn tượng sâu sắc. Chính nhờ đặc tính tâm lý đó ở trẻ mà những hình tượng
nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật múa góp phần thúc đẩy phát triển khả năng cảm
thụ, phát triển nhân cách trẻ một cách toàn diện.
Đặc điểm sinh lý:
Đối với trẻ mẫu giáo lớn khả năng cảm thụ nghệ thuật của trẻ phát triển hơn.
Trẻ có khả năng thực hiện các động tác khi được tiếp xúc với tác phẩm múa phù
hợp. Trẻ thể hiện được sự mềm dẻo, biết chuyển động nhịp nhàng theo tính chất của
âm nhạc, thay đổi bước chuyển động theo điệu nhạc; từ tốc độ nhịp nhàng có thể
chuyển sang tốc độ nhanh hoặc chậm; thực hiện được các động tác nhảy múa
chuyển động từng đôi; nhanh nhẹn di chuyển đội hình, định hướng khơng gian.
Trẻ biết thực hiện đúng, đẹp, diễn cảm động tác quy định, bước đầu nghĩ
được các động tác riêng. Trẻ kiên trì thực hiện các động tác múa, biết phối hợp các
vận động chân tay, thân mình một cách nhịp nhàng, khéo léo, biết thể hiện động tác
qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ… Trẻ có một số kĩ năng, kĩ xảo múa là thời cơ để trẻ
tiếp xúc với nghệ thuật, để phát triển năng khiếu múa và phát triển thể chất cho trẻ
ngay từ tuổi ấu thơ.
c. Các thể loại múa của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường mầm non
Múa sinh hoạt:
Múa sinh hoạt là múa gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày của nhân dân.
Mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp từ nông thôn đến thành thị đều có thể tham gia múa. Múa
sinh hoạt được sử dụng rộng rãi ở mọi điều kiện cơ sở vật chất khác nhau. Có thể
múa trong nhà, ngồi sân, thửa ruộng, sân khấu. Như vậy, tính đại chúng của múa
sinh hoạt rất rõ nét và là loại múa lưu truyền lâu đời nhất trong nhân dân. Mọi dân
17
tộc, tơn giáo, các quốc gia đều có loại múa sinh hoạt tồn tại. Múa sinh hoạt là cội dễ
sinh ra các thể loại múa, các dòng múa sau này.
Ở trường mầm non, múa sinh hoạt gồm các động tác đơn giản, thể hiện tính
cộng đồng, tinh thần đồn kết của trẻ. Những bài múa thường mang tính chất dân
gian, mô phỏng cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
Như vậy, múa sinh hoạt có sự tham gia của tất cả trẻ. trẻ có thể đứng vịng
trịn, nắm tay nhau cùng múa hát.
Múa biểu diễn:
Múa biểu diễn là thể loại được kết tinh bằng những nét tinh hoa đặc sắc của
nền nghệ thuật múa dân tộc, nó là nền tảng chủ yếu để phát huy truyền thống múa
dân tộc của mỗi nước.
Đây là loại múa có một số ít người múa cho số đơng người xem. Nó mang
tính tổng hợp và nâng cao. Múa biểu diễn thể hiện nội dung sâu sắc hơn là múa sinh
hoạt, hình thức múa chuyên nghiệp, địi hỏi kĩ thuật cao. Do đó, múa biểu diễn là
dạng múa khó với các động tác phức tạp, đội hình múa cũng đa dạng, phong phú và
linh hoạt. Múa biểu diễn yêu cầu phải biên đạo động tác, dàn dựng đội hình cơng
phu hơn. Múa biểu diễn của trẻ 5 – 6 tuổi thường được sử dụng trong các ngày lễ,
ngày hội, trong các cuộc thi, hội diễn văn nghệ và trong các hoạt động âm nhạc có
chủ định (biểu diễn sau mỗi chủ điểm). Nhân vật trung tâm là một hình tượng, một
biểu trưng hay một tình cảm nào đó.
Múa minh hoạ:
Múa minh hoạ là động tác múa đơn giản, các động tác phù hợp với nội dung
lời ca và tiết tấu của bài hát nhằm minh hoạ cho lời ca của bài hát đó. Những động
tác phải hợp lý khơng bắt buộc có dáng dấp, đường nét. Múa minh hoạ rất phù hợp
với tư duy trực quan hình tượng của trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi nói riêng.
Như vậy, các bài múa được xây dựng trên cơ sở nội dung, tính chất và nhịp
điệu của bài hát. Những động tác minh hoạ phải rất tự nhiên, hợp lý khơng gị ép và
phải được múa hoá.
18