Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.28 KB, 14 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định công tác vận động quần </b>
<b>chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí </b>
<b>Minh về công tác dân vận - công tác vận động quần chúng - là một hệ thống những quan điểm, phương thức </b>
<b>dân vận được thấm nhuần trong cả cuộc đời và trong các tác phẩm của Người. </b>
Thương yêu nhân dân, thương yêu con người, tin tưởng ở sức mạnh đồn kết của nhân dân, hết lịng phục vụ nhân
dân là quan điểm bao trùm trong toàn bộ Tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở để hình thành tư tưởng về công tác dân vận
của Người. Người luôn ý thức “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong bầu trời khơng gì
q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”. Hoặc “ở trong xã hội
muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hịa. Nhưng thiên thời khơng quan trọng bằng địa
lợi, mà địa lợi khơng quan trọng bằng nhân hịa. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”.
Trước lúc đi xa, Bác cịn viết trong Di chúc: “Cuối cùng, tơi để lại mn vàn tình thân u cho tồn dân, toàn Đảng, cho
toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Bác nói về việc riêng của Bác: “Suốt đời tơi hết lịng, hết sức
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi khơng có điểm gì phải hối
hận, chỉ tiếc rằng khơng được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Người coi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, nhưng nhân dân cần Đảng dẫn đường. Đảng có trách nhiệm đoàn
kết, tập hợp nhân dân, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Trong cuốn Đường cách mệnh (1927) Người đã khẳng định:
“Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ khơng phải việc một hai người”. Đó là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc
cách mạng là vấn đề đoàn kết, tập hợp được đông đảo nhân dân. Đảng dù vĩ đại đến mấy cũng chỉ là một bộ phận của
nhân dân. Người nêu lên một luận đề như một chân lý: Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì
cũng thành cơng.
<b>Tư tưởng cơ bản chỉ đạo công tác dân vận</b>
- Tất cả vì lợi ích của nhân dân. Người thường nói: Ngồi lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, Đảng ta
khơng có lợi ích nào khác. Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân thì ta hết sức tránh. Đó cũng
chính là mục đích của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cả đời tơi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và
hạnh phúc của quốc dân.
- Dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt công tác dân vận. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln có
cái cốt lõi: Dân là gốc. Bản chất dân chủ là quyền làm người. Bác Hồ nói: Lãnh đạo một nước mà để cho nước mình
lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ.
- Dân là gốc thì dân phải là chủ và dân phải làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn
phận cơng dân. Bác đánh giá rất cao về dân chủ: Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Thực hành dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.
Đồn kết, tập hợp lực lượng là nhiệm vụ cơ bản của cơng tác dân vận.
Đồn kết khơng chỉ là nhiệm vụ cơ bản của công tác dân vận, mà còn là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Trong tư tưởng đại đồn kết tồn dân
của Người có những vấn đề cơ bản sau:
- Giữ vai trò của Đảng Cộng sản, hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc. Người nói: “Cách mạng muốn thành cơng,
trước hết phải có Đảng cách mệnh”. “Nhân dân cần có Đảng dẫn đường. Bởi vậy đại đồn kết phải có Đảng lãnh đạo.
Đảng phải được xây dựng xứng đáng với vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận. Đảng của giai
cấp nhưng Đảng cũng là của dân tộc. Nhân dân công nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của mình. Đây thật là
một vinh dự.
Đảng là thành viên bình đẳng trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng là thành viên lãnh đạo Mặt trận. Đảng lãnh đạo
Mặt trận bằng thuyết phục và nêu gương. Đảng phải tiêu biểu cho mọi sự đồn kết nhất trí, bảo đảm dân chủ nội bộ,
thống nhất tư tưởng, tự phê bình và phê bình.
Phương thức cơ bản của công tác dân vận là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc
dân là chủ, phương thức cơ bản của công tác dân vận là phương pháp dân chủ chứ không phải là những thủ thuật
chính trị. Tuy khi đó chưa có phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”, nhưng cách nói của Bác trong
bài báo Dân vận (15-10-1949) cũng chính là như vậy.
“Dân vận khơng thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của
họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương rồi động viên và tổ chức toàn dân
ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân
kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
Bên cạnh phương thức cơ bản này, Bác Hồ thường nhấn mạnh:
<i>Một là,</i> cán bộ đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng. Với đặc điểm, tâm lý của người phương Đông,
người Việt Nam, việc nêu gương có một tác dụng to lớn. Cán bộ, đảng viên phải tự mình làm gương cũng chính là yêu
cầu đầu tiên của phong cách Lêninnít. Lời nói đi đơi với việc làm.
<i>Hai là,</i> phải gần gũi quần chúng, kiên trì, giải thích cho quần chúng hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách. Người
dạy: Muốn thực sự gần gũi quần chúng thì phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm mới biết sinh hoạt của quần chúng thế
nào... mới biết nguyện vọng của quần chúng thế nào.
Trong bài báo Dân vận, Bác viết: Tất cả cán bộ, chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức
nhân dân (Liên Việt, Việt Minh...) đều phải phụ trách dân vận.
Điều ấy có nghĩa là, tất cả cán bộ chính quyền đều phải làm dân vận. Đây là đặc điểm nổi bật của cơng tác dân vận khi
Đảng ta có chính quyền. Chính quyền của ta là cơng cụ chủ yếu của nhân dân. Chính quyền khơng những chỉ phải làm
dân vận mà cịn có nhiều điều kiện làm cơng tác dân vận thuận lợi hơn.
<b>Phẩm chất và phong cách người cán bộ dân vận </b>
Vấn đề phẩm chất, tác phong hay phong cách (tác phong và tư cách) của người cán bộ cách mạng, cán bộ dân vận có
ý nghĩa rất quan trọng. Về phong cách làm việc của cán bộ dân vận, Bác Hồ có nhiều cách nói khác nhau, ở những
ngữ cảnh khác nhau nhưng tập trung nhất là trong bài báo Dân vận ngày 15-10-1949, Người đúc kết thành 12 từ: óc
Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu, Bác Hồ muốn khẳng định công tác dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể, những cơng
thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học - khoa học về con người, một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận
động con người, phải dày cơng tìm tịi suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận
vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả. “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu sát cơ sở, sát thực
tế, đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà giúp dân giải quyết các cơng việc cụ thể, đề
xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách.
“Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay, “phải thật thà nhúng tay vào việc”, không được nói một
đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác nhưng mình thì khơng làm hoặc làm ngược lại. Bác cũng nghiêm
khắc phê phán “bệnh nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”.
Đối lập với tác phong “miệng nói, tay làm” là lối “chỉ nói sng, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” tức là nói mà khơng làm, và nếu
có làm thì chỉ làm theo lối quan liêu “bàn giấy”. Trong thư gửi các đồng chí Bắc bộ năm 1947, Bác đã phê phán tác
phong làm việc kiểu này: “Thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón khơng chịu xuống địa
phương kiểm tra công tác để vạch ra những kế hoạch thi hành chỉ thị, nghị quyết của đoàn thể cho chu đáo. Những chỉ
thị, nghị quyết cấp trên gửi xuống các địa phương có thực hiện được hay khơng, các đồng chí cũng khơng biết đến”. Và
Bác nhấn mạnh hậu quả tai hại của căn bệnh này: “Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta khơng đi
sát phong trào, khơng hiểu rõ được tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành
được đến nơi, đến chốn”. “Phải thật thà nhúng tay vào việc”.
Người làm dân vận phải thật thà “nhúng” tay vào việc, tức là làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động, cùng chiến
đấu, lăn vào cuộc sống hàng ngày của quần chúng để thực hiện mục đích của cơng tác dân vận. Nếu “chỉ nói sng,
chỉ ngồi viết mệnh lệnh” thì làm sao hiểu được dân, làm sao “vận” được dân, làm sao để dân có tự do, hạnh phúc thật
sự.
Thực hiện đường lối của Đảng và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiều năm qua cơng tác dân vận của cả hệ thống
chính trị được triển khai với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đạt kết quả tốt.
0 Phản hồi
Đảng Cộng sản Việt nam ra đời, cách mạng Việt Nam đã có người cầm lái. Đảng cộng Sản Việt Nam ra
đời là kết quả sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam.
1. Đảng cộng Sản Việt Nam- Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam
Không dừng lại ở đó, cùng với những hoạt động về lý luận và thực tiễn, cùng với việc tổ chức, giảng bài tại
những lớp Huấn luyện chính trị, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán, sáng lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên và ra báo Thanh Niên làm cơ quan ngôn luận của Hội tại Quảng Châu trong những năm từ
1925- 1927, <b>Hồ Chí Minh</b> đã nỗ lực chuẩn bị một cách đầy đủ những tiền đề và điều kiện cho sự ra đời của
một chính đảng vơ sản kiểu mới ở Việt Nam.
Tiếp đó, như một tất yếu khách quan của lịch sử, luồng gió mới của thời đại, những nguyên lý của học
thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản, về phương pháp đấu tranh cách mạng, vận động quần chúng, về vai
trò của các tổ chức quần chúng,v.v.. đã theo những hội viên của hội Việt Nam cách mạng thanh niên, theo
những tờ báo Thanh Niên được bí mật truyền về trong nước, góp phần làm cho đời sống chính trị – xã hội
trong nước có những chuyển biến tích cực. Và phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác,
phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta đã ngả theo khuynh hướng vô sản,v.v.. đã dẫn đến sự ra
đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam trong những năm 1929- 1930.
Trong bối cảnh đó, để tránh nguy cơ phân liệt và mất đoàn kết, nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử của mình,
Thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng của giai cấp vơ sản, <b>Hồ Chí Minh</b> khẳng
định: trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất và độc nhất có sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Và trong cuộc đấu tranh giải phóng, dù là lực lượng cách mạng to lớn,
nhưng do những hạn chế về mặt giai cấp, nên giai cấp nơng dân khơng thể tự mình lãnh đạo cách mạng,
mà phải liên minh với giai cấp công nhân, là đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, cũng theo quan điểm của Người, Đảng dù là tổ chức của những người con ưu tú nhất của giai
cấp công nhân và của dân tộc, nhưng Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận và nhân dân thừa nhận quyền lãnh
đạo của mình mà, Đảng “phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất, chân thực nhất; chỉ
trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng
lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”[2].
Thực tiễn quá trình ra đời và hoạt động của Đảng ta trong 82 năm qua đã chứng minh rằng: Vận dụng sáng
tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái
nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân, nên luôn luôn và nhất định: “Đảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Làm cho Tổ
quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”[3].
2. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh trong điều kiện Đảng cầm quyền
Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, cùng với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Theo <b>Hồ Chí Minh</b>, là người lãnh đạo, người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân, nhưng “Đảng cầm quyền, nhân dân là chủ” và mọi quyền hành, mọi lực lượng
đều ở nơi dân.
Ngay từ những ngày đầu của nền dân chủ cộng hịa, <b>Hồ Chí Minh</b> đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề này,
và nhấn mạnh đó chính là điểm khác biệt, phân biệt bản chất của một chính Đảng vơ sản kiểu mới với các
chính đảng khác. Và dù là người lãnh đạo, song trong chế độ xã hội mới mà nhân dân ta đang xây dựng và
tiếp tục xây dựng, thì quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân là vấn đề có tính ngun tắc. Ngun tắc đó
khẳng định vai trò Đảng lãnh đạo cách mạng, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, đồng thời chỉ rõ: cán
bộ, đảng viên của Đảng nắm giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan cơng quyền thực sự là cơng bộc
của dân, phải hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, v.v… Nếu làm trái
với những điều này, nếu cậy quyền, cậy thế, quan liêu, tham nhũng, những “ông quan cách mạng”, những
kẻ “vinh thân phì gia”, vì quyền lợi ích kỉ của bản thân, gia đình, giịng họ mà xa rời mối liên hệ máu thịt
Đảng – Dân, thì những con “sâu mọt của dân” ấy đã làm cho nguy cơ thối hóa, biến chất, đe dọa sự tồn
vong của một Đảng cầm quyền đến rất gần.
Tiên liệu trước nguy cơ thối hóa biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên trong Đảng, <b>Hồ Chí</b>
<b>Minh</b>nhấn mạnh: để Đảng cầm quyền bao gồm những người con ưu tú nhất của dân tộc, đó là những người
cơng nhân, nơng dân, lao động trí óc, và những người ưu tú của các giai tầng khác trong xã hội (đã giác
ngộ cách mạng, sẵn sàng hy sinh phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, khơng có lợi ích nào khác ngồi lợi
ích của Tổ quốc, của nhân dân), thì những đội ngũ cán bộ đảng viên phải là những người “giàu sang khơng
thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Muốn vậy, mỗi cán bộ đảng
viên phải không ngừng phấn đấu, học tập, để một mặt nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ quản lý,
phương thức lãnh đạo, mặt khác “mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
phải thật sự cần kiệm liêm chính chí cơng vơ tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[4]. Đây chính là một luận điểm quan trọng của
Người về mối quan hệ giữa Đảng và Dân; Đảng và Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong
Và cũng theo lời Người, để xây dựng Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh trong điều kiện Đảng cầm quyền,
tất yếu và thường xuyên phải tiến hành xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Về vấn đề này, <b>Hồ Chí Minh</b> đã từng
nói: “Phải chỉnh đốn nội bộ Đảng… Đảng ví như cái máy phát điện, các cơng việc trên ví như những ngọn
đèn, máy mạnh thì đèn sáng” (1/1949); “Đảng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Để làm tròn nhiệm
vụ kháng chiến và kiến quốc, Đảng phải mạnh, toàn Đảng tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí”
(4/1952); và trong bản Di chúc lịch sử, Người nhấn mạnh: “Việc phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng,
làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm trịn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình,
tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù cơng việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta
cũng nhất định thắng lợi” (5/1968),v.v..
Mác-Lênin, nắm vững lập trường, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những
vấn đề của thực tiễn. Cán bộ, đảng viên phải khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận, trình độ chun mơn,
năng lực trí tuệ, nắm chắc thực tiễn cách mạng để hoạch định và kịp thời bổ sung chủ trương, đường lối của
Đảng; chống giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa,v.v..Đặc biệt, cán bộ, đảng viên phải luôn tuân thủ và vận
dụng một cách linh hoạt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ; tập
thể lãnh đạo cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh và tự giác; đoàn kết thống
nhất trong Đảng về tư tưởng, ý chí và hành động, và trong mọi hoàn cảnh phải kiên quyết chống và quét
sạch chủ nghĩa cá nhân.
Đồng thời, để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, để xây dựng và chỉnh đốn Đảng thành cơng, một cơng
việc khơng kém phần quan trọng, đó là Đảng phải phải loại bỏ những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất ra
khỏi Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, để Đảng luôn là bộ tham mưu tối cao, ưu tú của giai
cấp và dân tộc, luôn luôn giữ vững đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phục vụ Tổ quốc và nhân dân.
3. Tiếp tục xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
Tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta từng bước tiến hành đổi mới chính trị, nhằm thực hiện mục tiêu dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ và sức mạnh của nhân dân. Trong khi đổi mới tổ chức
và hoạt động của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã coi trọng xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững
Trên tinh thần đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm
2011) được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XI ghi rõ: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng đồng thời
cũng là một bộ phận của hệ thống đó, nên “Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[5]. Để Đảng đảm đương được vai trò lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng, Đảng phải mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải giữ vững truyền thống đoàn kết, thường
xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình, ln xây dựng và tự chỉnh đốn, v.v…
Đồng thời để đội ngũ cán bộ đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của
nhân dân, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đến thành công, thấm nhuần lời dạy của
Người: “Đảng có vững cách mạng mới thành cơng”, tồn Đảng, tồn qn và tồn dân ta đã thực hiện tư
tưởng <b>Hồ Chí Minh</b> về xây dựng Đảng một cách nghiêm túc trên tinh thần đổi mới. Đó là thường xuyên tự
chỉnh đốn, tự đổi mới trong hơn tám thập kỷ; là cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện, toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân đã thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương VI (lần thứ 2) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng”, trên cả
ba lĩnh vực (nhận thức, tư tưởng, chính trị; đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên và một số vấn đề tổ
chức); là triển khai thực hiện Học tập và làm theo tấm gương đạo đức <b>Hồ Chí Minh</b> theo tinh thần Nghị
<b>quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) và Chỉ thị 03 của Bộ chính Trị và đặc biệt là thực hiện Nghị quyết</b>
12- khóa XI: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” sâu rộng trong cả nước,v.v..
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay”, và nhất là “chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong sạch, có phẩm chất, có năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức <b>Hồ Chí Minh</b>” theo
Đó là yêu cầu, là nhiệm vụ bức thiết, thường xuyên của một Đảng cầm quyền, đó cũng là thực hiện theo
những chỉ dẫn của <b>Hồ Chí Minh</b> về xây dựng Đảng, để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức,
là văn minh” đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của nhân dân ta đi đến thàn
<b>Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận</b>
Là lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho mn đời sau một hệ thống
quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, trong đó có cơng tác
dân vận.
Kế thừa và phát triển tư tưởng "trọng dân", "yêu dân", "dựa vào dân" của ông cha ta trên cơ sở tư duy
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa lý luận vào thực tiễn công tác vận động
nhân dân lên tầm cao mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đặt câu hỏi: Dân vận là gì? Và Người đã định nghĩa: "Dân vận là vận động
tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng đề sót một người nào, góp thành lực lượng tồn dân, để thực
hành những việc nên làm, những cơng việc Chính phủ và đồn thể giao cho".
Mục đích dân vận là để góp phần tạo thành sức mạnh tồn dân và để thực hành những nhiệm vụ chính trị
của cả dân tộc trong thời kỳ cách mạng. Đó là kháng chiến để giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm, kiến
quốc để dân giàu, nước mạnh,"ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Công tác dân vận cũng
là một khoa học, khoa học về con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu một luận điểm hồn chỉnh có tính quy luật của mọi cuộc cách mạng: "Lực
lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc
Cơng tác dân vận khơng chỉ là một chính sách, một chiến lược, mà cịn là một cơng tác cơ bản quan
trọng của Đảng, của cả hệ thống chính trị, là một sự nghiệp to lớn của toàn Đảng, toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng tổng kết: "Dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong". Một nội dung
cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đại đồn kết dân tộc. Tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Người đã trở thành đường lối chiến lược cơ bản lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực to
lớn của Đảng ta và nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng nói chung.
Về tổ chức dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong ba điều kiện
không thể thiếu được của thành công cách mạng phản đế ở một nước thuộc địa. Đó là sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, sự thành lập một mặt trận dân tộc phản đế rộng rãi, khởi nghĩa vũ trang".
Quy trình làm cơng tác dân vận mà Bác Hồ đã tổng kết trong bài "Dân vận"(đăng trên báo Sự Thật ra
ngày 15/10/1949) được tóm tắt như sau: Giải thích cho dân hiểu-bàn bạc với dân-tổ chức toàn dân thực
hiện kiểm tra- kiểm điểm rút kinh nghiệm-phê bình khen thưởng. Quy trình này được Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI quán triệt và nêu thành phương châm"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Về tác phong người cán bộ làm công tác dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cơ đọng trong 12 chữ: "Ĩc
nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm". Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận
nhiều năm qua, Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đồn thể đã có những chuyển biến tích cực và đạt được
những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, trong giai đoạn cách mạng mới, công tác dân vận cần được đẩy
mạnh với nội dung phương thức phù hợp, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà đại hội XI của Đảng đã đề ra. Công tác dân vận
không chỉ tiến hành trong Ngày Dân vận, mà phải làm thường xuyên hàng ngày, đưa công tác rất quan trọng
này thành nếp của mỗi đảng viên, cán bộ, công chức coi đây là tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ, đảng viên,
hội viên. <i><b> </b></i>
Ngày 15-10-1949 Bác Hồ kính yêu viết bài “Dân vận” đăng trên báo Sự Thật. Ngày 15-10 hàng năm trở thành Ngày
Dân vận của cả nước.
Chỉ trong một bài báo ngắn gọn, Người đã nêu rất đầy đủ ý nghĩa, nội dung và tầm quan trọng của công tác dân vận
trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Bác Hồ viết: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân...”.
Khắc sâu lời Bác Hồ dạy: “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”, do làm tốt công tác dân vận mà Đảng ta luôn tập
hợp tuyên truyền, giáo dục, động viên, phát huy mọi tầng lớp nhân dân thành lực lượng cách mạng hùng hậu tạo nên
sức mạnh to lớn của dân tộc, làm nên những thành quả vĩ đại của cách mạng. Xuyên suốt quá trình phát triển của cách
mạng, quan điểm của Đảng về cách mạng là sự nghiệp của quần chúng được quán triệt và vận dụng sáng tạo qua mỗi
thời kì. Nhờ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng hợp quy luật, hợp lòng dân tạo thành sức mạnh đại đồn kết,
đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách giành những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
kháng chiến cứu nước cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa ngày nay.
Một trong những bài học chủ yếu thời kì đổi mới đất nước là: “Đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, phù
hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo”. Lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, Đảng ta khơng có mục đích nào khác là
phục vụ nhân dân, để nhân dân trở thành chủ nhân thực sự của đất nước, làm chủ bản thân và xã hội, phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã xác định cơng tác dân vận có vị trí rất to lớn và quan trọng trong
sự nghiệp cách mạng của nước nhà; thực hiện công tác dân vận là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.
Đồng thời công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản, quan trọng, gắn liền với sự trưởng thành về sự lãnh
đạo nhân dân làm cách mạng của Đảng. Đảng ta đã hết sức coi trọng công tác dân vận. Điều đó đã được thể hiện một
cách nhất quán trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong
từng giai đoạn cách mạng. Thông qua công tác dân vận, Đảng đã phát huy cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân
dân, tạo nên động lực to lớn đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng phát triển.
Các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc đều thể hiện rõ rệt quan điểm và tư tưởng đó. Đặc biệt Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (mà chúng ta thường gọi là NQ8B) về “Đổi mới công tác quần chúng
Cơng tác dân vận không chỉ tiến hành trong ngày dân vận, mà phải làm thường xuyên hằng ngày. Nhưng mỗi năm khi
đến ngày 15-10, tất cả các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể cần kiểm điểm lại kết quả một năm thực
hiện công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm đưa cơng
tác quan trọng này thành nền nếp, thành ý thức thường xuyên của mọi cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức, coi đây
là một tiêu chuẩn để đánh giá về phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực của cán bộ, đảng viên, hội viên; góp phần
để nhân dân thật sự tin yêu Đảng và mãi mãi đi theo con đường cách mạng của Đảng, Bác Hồ.
Công tác dân vận của Đảng ta ln chiếm một vị trí quan trọng, thậm chí quyết định đến sự thành bại của cách mạng.
Điều này cho thấy vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng cơng tác dân vận: "...Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận
kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"
Công tác dân vận vừa là tiền đề, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để làm tốt công tác
này, đòi hỏi chúng ta phải hiểu thế nào là dân vận và công tác dân vận cùng những giải pháp hữu hiệu trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Dân vận là <b>tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục</b> mọi người dân thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân vận cịn có nghĩa là làm gương trước dân. Nói theo nghĩa thơng
thường thì, dân vận là cơng tác dân vận của các tổ chức dân vận của Đảng, chính quyền, đồn thể trong hệ thống
chính trị nói chung và của cả hệ thống xã hội nói riêng. Nói tóm lại, mục tiêu cao nhất của dân vận theo tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là vì dân. Do đó, mọi hành động của chúng ta phải vì dân và mang lại hiệu quả thiết thực cho dân.
<b>Công tác dân vận</b> được xem là cơng việc (hay cịn gọi là nhiệm vụ chính trị) của các tổ chức đảng, Nhà nước và các
đoàn thể chính trị - xã hội cần phải làm trịn trước Đảng và nhân dân. Ví dụ như, cơng tác tun truyền, vận động nhân
dân thực hiện tốt đạo đức, tác phong, lối sống văn hóa, văn minh... theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 khóa VI cũng chỉ rõ: “Các cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở phải nắm vững và làm đúng chức
năng lãnh đạo của mình bằng phương pháp dân chủ, kiên quyết khắc phục tình trạng bao biện cơng việc của Nhà
Cơng tác dân vận trong thời kỳ đổi mới là công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người dân thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập
kinh tế quốc tế.
<b>2 - Nội dung và yêu cầu công tác dân vận trong thời kỳ mới</b>
Những năm qua, công tác dân vận của Đảng ta đã thu được những thành tựu đáng kể. Đó là mức sống của đại bộ
phận nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt; bộ mặt của đất nước được đổi mới khá toàn diện...; mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân được củng cố và tăng cường; nhiều kênh truyền thông đại chúng được tăng cường để theo dõi, nắm
bắt tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đề xuất những kiến nghị kịp thời với Đảng, Nhà
nước về các chủ trương, chính sách, giải quyết các quyền lợi chính đáng của nhân dân. Cơ cấu, tổ chức và hoạt động
của Ban Dân vận các cấp được củng cố và kiện toàn. Các cơ quan, tổ chức dân vận trong hệ thống chính trị đã có sự
phối hợp nhịp nhàng trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác dân vận. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Ban Dân vận các cấp và các tổ chức, đoàn thể quần chúng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cơng tác dân vận vẫn cịn nhiều bất cập, yếu kém. Một số cấp ủy, chính
quyền chưa nhận thức đầy đủ về vai trị, tầm quan trọng của cơng tác dân vận đối với sự nghiệp phát triển đất nước.
Công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn chưa đi vào chiều sâu, đồng bộ... Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, ... làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước. Tâm trạng của người dân còn nhiều phiền muộn và khơng bằng lịng với một bộ phận cán bộ,
cơng chức trong bộ máy nhà nước cố tình nhũng nhiễu, gây phiền hà. Nguyên nhân là do nhận thức về đổi mới công
tác dân vận chưa đồng đều trong tất cả các cấp, ngành; đội ngũ cán bộ làm cơng tác dân vận bất cập về trình độ, năng
lực, nghiệp vụ chun mơn; cơ chế, chính sách và điều kiện làm việc của tổ chức và cá nhân cán bộ làm cơng tác dân
vận cịn nhiều khó khăn, bất cập. Cơ chế phối hợp hoạt động trong công tác vận động nhân dân còn chưa đồng bộ
trong các tổ chức trong hệ thống chính trị; khuynh hướng "hành chính hóa" các tổ chức quần chúng và cơng tác vận
động quần chúng đang có xu hướng phát triển. Đây thực sự là những vấn đề bức xúc cần được quan tâm nghiên cứu
cả về lý luận lẫn thực tiễn, để có những giải pháp hữu hiệu nhằm tiếp tục phát huy bản chất tốt đẹp của Đảng ta trong
công tác dân vận trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước tình hình đó, việc đổi mới công tác dân vận theo hướng công bằng trong hệ thống chính trị và trong tồn xã hội
là vấn đề rất cần thiết và cấp bách hiện nay. Điều đáng chú ý là, công bằng giữa các giai tầng, dân tộc, tơn giáo, giữa
nam và nữ... Đó là vì nước ta bị những hạn chế rất cơ bản: 1 - Nền tảng kinh tế - xã hội nông nghiệp - nông thôn truyền
thống nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, 2 - Nền tảng văn hóa truyền thống trọng nam khinh nữ vừa là hệ quả của
nền tảng kinh tế - xã hội nêu trên vừa là nhân tố xã hội độc lập tạo ra tình trạng bất bình đẳng giới dai dẳng và nan giải,
3 - Quan hệ giữa nhà nước (vô thần) và tôn giáo (hữu thần) là một vấn đề xuyên suốt lịch sử dân tộc cũng như nhân
loại mà trong q trình hóa giải mâu thuẫn thì xung đột thường dễ xảy ra hơn là đồng thuận, hài hòa nhiều khi chỉ là ảo
tưởng...
Cần có cái nhìn thực tế, khách quan về việc xây dựng mơ hình tổ chức dân vận trong điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế. Sự chuyển đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ, giảm tỷ trọng
nông nghiệp, đã dẫn đến sự chuyển đổi về tư duy và cách làm ăn của người dân. Từ sự biến đổi về kinh tế dẫn đến
tình trạng là, đơng đảo người nông dân từ nông thôn ra thành thị làm ăn sinh sống không thuộc tổ chức nào quản lý,
công tác dân vận ở đây gần như bị bỏ trống. Vậy, ai là người quản lý họ? Những người dân xa quê, đi lang thang cơ
nhỡ không nơi nương tựa và khơng có chỗ để sinh hoạt, thì các tổ chức dân vận phải làm gì để mỗi người dân thực
hiện đúng vai trị của người cơng dân? Họ là người dân nhưng “không được biết, không được bàn, khơng được làm,
khơng được kiểm tra”, thậm chí họ bị công an kiểm tra do không rõ nguồn gốc xuất thân, hoặc tham gia các tệ nạn xã
hội (cờ bạc, ma túy, trộm cắp...) thì xã hội phải trả giá như thế nào về việc này? Do đó, phải có một tấm lòng thật sự
chân thành với dân mới tạo được niềm tin vững chãi trong dân. Tấm lịng “vì nước qn thân, vì dân phục vụ” của Hồ
Chí Minh là tấm gương sáng cho mọi dân tộc, giai cấp, tầng lớp nhân dân (cơng nhân, nơng dân, trí thức, phụ nữ,
thanh niên...) noi theo. Cũng từ niềm tin vững chắc của nhân dân đối với Người, và tấm lòng cao cả của Người đối với
nhân dân mà khơng có một trở ngại, khó khăn nào khơng vượt qua.
chun mơn, nghiệp vụ và lý luận chính trị vững vàng, có kiến thức hiểu biết tâm lý dân vận sâu rộng, biết cách làm
việc có hiệu quả và được nhân dân tin yêu. Đồng thời, nâng cao năng lực và sự tham gia của người dân vào việc thực
hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thơng qua công tác dân vận.
<b>3 - Một số giải pháp thực hiện</b>
<b>Một là,</b> đổi mới công tác dân vận của Đảng theo hướng công bằng giữa các giai tầng xã hội, dân tộc, tơn giáo, giới,...
<b>Hai là,</b> đổi mới công tác dân vận phải phù hợp với vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, nhất là đặc thù của mỗi giới. Mỗi
một đối tượng khác nhau đòi hỏi phương thức đổi mới dân vận cũng phải khác nhau. Thí dụ, người nơng dân bị mất
ruộng đất trong giải phóng đền bù, khơng cịn niềm tin vào chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, thì cần
phải đổi mới cơng tác dân vận như thế nào để lấy lại niềm tin trong nông dân? Tại sao nhiều gia đình hiện nay khơng
muốn con mình trở thành cơng nhân? Thực tế hiện nay, tầng lớp lãnh đạo xuất thân từ giai cấp công nhân, nơng dân
chiếm tỷ lệ rất ít và thấp (bố mẹ có thể là cơng nhân nhưng bản thân họ khơng thuộc giai cấp này), họ chủ yếu xuất
thân từ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Trong khi, giai cấp cơng nhân cịn gặp rất nhiều khó khăn về đời sống
mọi mặt... Vậy, phải đổi mới công tác dân vận như thế nào để lấy lại niềm tin trong công nhân? Tại sao những người đi
lao động ở nước ngồi thích ở nước ngồi hơn là thích về nước để cống hiến? Chính phủ trợ cấp tiền cho người nghèo
ăn Tết nhưng ở một số nơi, cán bộ xã lại “xẻo tiền” của dân để làm việc khác thì làm sao vận động được ai, thuyết phục
được ai. Các trường Dân tộc Nội trú mở ra nhưng có nơi vẫn chỉ dành cho con em của cán bộ là dân tộc nhiều hơn con
em nhân dân là dân tộc. Ở những nơi có đơng đồng bào tơn giáo, các tổ chức Mặt trận, đoàn thể chưa được kiện toàn.
Đổi mới công tác dân vận trong điều kiện hiện nay là làm sao cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo trở về
với dân, sống với dân và giúp dân xây dựng cuộc sống no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, tiến bộ, góp phần cùng dân vào
sự nghiệp phát triển chung của cả nước.
<b>Ba là,</b> đổi mới công tác dân vận của các tổ chức làm công tác dân vận của Đảng (như tổ chức đảng, chính quyền,
đồn thể) trong hệ thống chính trị. Chẳng hạn, đổi mới công tác dân vận trong việc xây dựng các chủ trương, đường
lối, chính sách...(của các tổ chức đảng); trong việc thực thi đường lối, chính sách...(của các tổ chức nhà nước); trong
việc tham gia quản lý nhà nước (của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội) nhằm đáp ứng với yêu cầu đổi
mới và hội nhập quốc tế.
<b>Vai trị của cơng tác dân vận trong thực thi quyền lực chính trị</b>
<b>Tác giả : Th.s Phạm Thị Như Quỳnh - Gv khoa Dân vận</b>
<b>File đính kèm: Khơng có</b>
Cơng tác dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng cộng sản Việt Nam, là một trong những nhân tố góp
phần hình thành các nhiệm vụ cách mạng, tạo nên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay công tác dân vận vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp thiết đối với sự nghiệp đổi
mới đất nước. Để phát huy vai trị lãnh đạo và thực thi quyền lực chính trị của Đảng, công tác dân vận cần quán triệt
và thực hiện tốt những nội dung sau:
1. Truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Để góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh hơn, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo, phát huy trí tuệ và sức
mạnh của dân tộc thì vai trị của cơng tác dân vận trong việc truyền bá hệ tư tưởng của Đảng trong nhân dân có ý
nghĩa hết sức quan trọng. C.Mác đã từng viết, lý luận sẽ trở thành sức mạnh vật chất khi thâm nhập vào quần chúng.
Để khẳng định giá trị bền vững và sức sống của CNMLN, tư tưởng Hồ Chí Minh địi hỏi Đảng ta phải bảo vệ và phát
triển nó lên một trình độ mới, tun truyền, phổ biến sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân là yếu tố cần thiết để củng
cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Truyền bá sâu rộng hệ tư tưởng của Đảng để nhân dân cảnh giác
với những âm mưu chống phá những thành quả của Cách mạng như: Âm mưu diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch khác với thủ đoạn làm tha hoá đội ngũ cán bộ, làm rệu rã về mặt tổ chức và làm sa sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Thực hiện tốt công tác dân vận trong việc truyền bá tư tưởng, giáo dục đạo đức trong cán bộ, đảng viên để họ tự giác
thực hiện những nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: giáo dục
tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống thói xem nhẹ tư tưởng. Mà để
đưa một hệ tư tưởng đến với người dân thì khơng thể thiếu vai trị của cơng tác dân vận.
2. Truyền bá cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho nhân dân
Một trong những nội dung quan trọng nhất của công tác dân vận là truyền bá cương lĩnh, đường lối, chủ trương của
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này, dân rất tốt, lúc họ đã hiểu thì việc gì khó
khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết phải chịu khó tìm đủ mọi cách giải thích
cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì lợi ích của họ mà họ phải làm" [Hồ Chí Minh tồn tập, tập 5 tr.246]
Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước muốn được nhân dân nhất trí, tin tưởng, quyết tâm thực
hiện tốt đều phụ thuộc vào công tác dân vận tốt hay kém. Nhiệm vụ của công tác dân vận là phải đưa nó vào cuộc
sống, biến thành hành động cách mạng sôi nổi, tự giác của các tầng lớp nhân dân, giải quyết các vấn đề thực tiễn đem
lại lợi ích cho nhân dân.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân chủ yếu thông qua Nhà nước, cụ thể là thông
qua hệ thống luật pháp, chính sách, tổ chức điều hành, thực thi luật pháp, chính sách, thơng qua mối quan hệ phối hợp
giữa Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để thực hiện luật pháp và chính sách, thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, thông qua cán bộ, công chức Nhà nước. Thực chất của quá trình này là thực hiện ý chí chính trị, mục tiêu chính
trị của Đảng. Cơng tác dân vận là một cơ chế thực thi quyền lực chính trị của Đảng. Trong quá trình này cần phối hợp
tốt giữa dân vận của Đảng, dân vận của Nhà nước và các tổ chức chính – xã hội, tổ chức thực hiện chặt chẽ, kiên
quyết nhằm biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành các phong trào cách
mạng của nhân dân, là điều kiện quyết định thành công đối với công tác dân vận của Đảng.
3. Phản ánh ý chí nguyện vọng của nhân dân
Công tác dân vận không chỉ là sự "tuyên truyền", "vận động "…mà công tác dân vận còn nhằm phát huy các sáng
kiến, sáng tạo từ phía quần chúng nhân dân, "Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra" [Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 tr 295].
Cương lĩnh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước là sản phẩm “đầu ra” của hệ thống chính trị. Vì
vậy, chúng phải phù hợp, thống nhất và phản ánh “đầu vào”, tức là nhu cầu chính trị của nhân dân. Đó chính là ý chí,
nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Người làm công tác dân vận muốn phản ánh được ý chí nguyện vọng của nhân dân
phải gắn bó với dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc của Nhà
4. Tạo nên sự đồng thuận, nhất trí, đồn kết, thúc đẩy tính tích cực chính trị của nhân dân
Cơng tác dân vận có vai trị rất quan trọng trong q trình tạo ra sự động thuận xã hội. Bởi vì: Trong cơng tác dân vận
Đảng ta luôn nhất quán tư tưởng "dân là chủ", "dân làm chủ", vì vậy, trong quá trình hoạt động đội ngũ làm công tác
dân vận phải làm cho các tầng lớp nhân dân, các cộng đồng, các nhóm trong xã hội xác định được vai trị của mình
trong đời sống chính trị.
Muốn nhân dân đồng thuận, nhất trí, đồn kết, thúc đẩy tính tích cực chính trị của nhân dân thì trước hết phải quan
tâm đến lợi ích của họ. Phải lấy lợi ích thiết thân của người lao động làm cơ sở để xây dựng chủ trương, chính sách,
xây dựng và phát triển đất nước, bởi vì lợi ích là cái gắn bó người ta lại với nhau, là động lực thúc đẩy mọi hành động
của nhân dân.
Khi nhân dân đã hiểu đúng, hiểu đầy đủ thì sẽ tạo được sự tự giác trong thực hiện, đồng thời củng cố niềm tin của
nhân dân với Đảng và Nhà nước. Chính sách đúng, cơ chế phù hợp cịn là yếu tố quan trọng của Nhà nước, của cơ
quan chính quyền trong việc phục vụ nhân dân và phát huy sức mạnh tồn dân.
Thơng qua cơng tác dân vận giúp người dân biết tìm ra những tương đồng chung, biết gác lại những khác biệt và hành
động trên cơ sở những tương đồng chung ấy. Đó chính là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, phát huy tính tích
cực chính trị của nhân dân, là yếu tố cơ bản để phát huy nội lực của đất nước./
Trong bài báo “Dân vận” năm 1949, Bác Hồ đã chỉ rõ Dân vận là gì? “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân, khơng để sót người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên làm, những
cơng việc Chính phủ và đoàn thể giao cho”.
Dân vận là phát huy truyền thống anh hùng cách mạng của dân tộc, là phát huy trí tuệ của tồn dân, nghe dân nói, bàn
bạc với dân, tôn trọng dân, học hỏi kinh nghiệm cùng với nhân dân xây dựng kế hoạch từng việc sao cho phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, cơ sở đạt kết quả thiết thực. Bác Hồ yêu cầu: Tất cả cán bộ, đảng
viên trong mọi tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến địa
phương, cơ sở đều phải làm công tác Dân vận theo nhiệm vụ chun mơn của mình.
Học tập và làm theo những điều Bác Hồ dạy trong suốt quá trình cách mạng, chính là Đảng ta đã làm tốt cơng tác dân
vận, đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thực tế cho thấy, ở đâu và lúc nào làm tốt cơng tác dân vận thì tập hợp được quần chúng nhân dân, tích cực tham gia
và đạt kết quả toàn diện, vững chắc. Ngược lại, nơi nào xem nhẹ công tác dân vận, cán bộ xa rời quần chúng nhân
dân, quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm, thiếu đạo đức, không lắng nghe, tôn trọng và không quan tâm đến tâm tư,
nguyện vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân… thì nơi ấy sẽ rất khó thực hiện đúng và đưa ra chủ trương, đường lối,
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với người dân, sẽ khơng thể nào có kết quả cao.
Trong chúng ta có ai đó dù có học thuộc lịng từng câu, từng chữ về chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng,
nhưng không biết cách tiếp cận quần chúng nhân dân, khơng làm tốt cơng tác giải thích, tun truyền vận động nhân
dân, khơng có việc làm thực tế vì cuộc sống thiết thân của nhân dân và không làm cho dân tin, dân hiểu thì người đó
vẫn cịn xa lạ với tư tưởng, quan điểm dân vận mà Bác Hồ đã dạy.
Bác Hồ và Đảng ta luôn nhắc chúng ta: Nước lấy dân làm gốc, dân lấy cuộc sống làm đầu, chế độ ta là chế độ của dân,
do dân. Dân theo Đảng đứng lên đánh đuổi kẻ thù giành lấy chính quyền mà có được. Các cấp chính quyền và đoàn
thể từ Trung ương đến địa phương, cơ sở là do dân bầu, dân cử ra. Do vậy, mỗi cán bộ phải vì dân, hết lịng phục vụ
mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đảng ta đã có nghị quyết về cơng tác dân vận, đề ra phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nếu làm
15-11-2011
<b>PGS.TS Dương Xuân Ngọc</b>
<b>Tạp chí Dân vận tháng 10/2005</b>
<b>Cơng tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với tồn bộ sự nghiệp cách mạng đất nước ta, cả</b>
<b>trong thời kỳ chưa có chính quyền lẫn thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự</b>
<b>lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và tồn xã hội, thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân.</b>
<b>Cần quán triệt quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận theo tư tuởng Hồ Chí Minh</b>
<b>trong thời kỳ mới.</b>
các tổ chức Đảng và chính quyền phải thực hành phương châm: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có
hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Trước lúc đi xa Người cịn khơng qn căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh
đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao phó cho
mình, tồn tâm, tồn ý phục vụ nhân dân”. Trong bất kỳ thời kỳ nào vẫn là việc của dân, do dân và vì dân.
<b>Hai là,</b>thực hành dân chủ là phương thức cơ bản của công tác dân vận.
Với quy trình bốn điểm về dân vận và cơng tác dân vận được Hồ Chí Minh đề ra: giải thích cho dân hiểu, bàn với dân,
tổ chức để dân thi hành, cùng dân kiểm thảo lại công việc, được Đảng ta tổng kết thành phương châm: dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra đã nói lên vai trị của việc thực hành dân chủ trong công tác dân vận. Hồ Chí Minh đã ghi
rõ: Thực hành dân chủ là chìa khố vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu. Khó vạn
lần dân liệu cũng xong”.
<b>Ba là, </b>dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Theo Hồ Chí Minh, đồn kết là thành cơng: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Bởi vậy, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc trên cơ sở có
sự “đồng tâm”, “đồng sức”, “đồng lịng”, “đồng thuận’, “đồng hưởng” của toàn dân, từ nhiệm vụ và mục tiêu đoàn kết,
dân vận hướng toàn dân tộc vào thực hiện mục tiêu lý tưởng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
nhân dân làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động, Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự là tổ chức mà qua đó Đảng thực
hiện sự lãnh đạo, Nhà nước thực hiện sự quản lý, nhân dân và cả hệ thống chính trị thực hành cơng tác dân vận.
Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, cần thực thi có hiệu quả những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về cơng tác dân
vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
<b>Thứ nhất,</b>phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của tổ
chức và mỗi người dân, trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân
vận; nhất là các quan điểm trong Nghị quyết Trung ương 7, khố IX về “Phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Về công tác dân tộc, công tác tôn giáo”. Cần thiết
phải nhắc lại năm chủ trương và giải pháp lớn được Đảng ta đề cập trong Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX “Phát huy
sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” để quán triệt: xây
dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc; phát huy mạnh mẽ vai trị chính
quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đồn kết tồn dân tộc; mở rộng và đa dạng hố các hình thức tập
hợp nhân dân, nâng cao vị trí vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; tăng cường cơng tác chính trị tư
tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân tộc. Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng
và tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức của các cấp, các ngành phải
có chuyển biến nhận thức sâu sắc về vai trị, mục đích, qui trình, nội dung, phương thức tiến hành cơng tác dân vận
trong giai đoạn mới làm cơ sở cho công tác dân vận.
<b>Thứ hai,</b>thực hiện tốt Qui chế dân chủ ở cơ sở, sáng tạo và thực hiện có hiệu quả những hình thức, phương pháp dân
vận phù hợp với mỗi địa phương và từng cơ sở. Chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ: chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng
tạo. Phát huy hơn nữa việc thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
<b>Thứ ba,</b>đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ở các
cấp, các ngành. Công tác dân vận là cơng việc của cả hệ thống chính trị, của tồn Đảng, tồn dân, song tổ chức trực
tiếp làm cơng tác dân vận đóng vai trị rất quan trọng. Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi
xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì
tốt, mà khơng vận được cũng mặc… Đó là sai lầm rất to, rất có hại”. Đã đến lúc cần quan tâm kiện toàn tổ chức bộ
máy làm công tác dân vận từ trung ương đến cơ sở trên cơ sở xác định đúng chức năng, nhiệm vụ và tạo điều kiện cả
về vật chất, tinh thần và pháp lý cho các tổ chức làm cơng tác dân vận hồn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời với việc
kiện toàn tổ chức bộ máy, cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận vừa “có tâm” vừa đủ “tầm”. Cán bộ làm
cơng tác dân vận theo Hồ Chí Minh phải có tác phong: “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. u
cầu óc nghĩ địi hỏi người làm cơng tác dân vận phải có trình độ, có năng lực làm công tác dân vận. Yêu cầu “mắt
trông, tai nghe, chân đi” đòi hỏi người cán bộ phải sát cơ sở sát thực tế, đến với dân, phải “trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Phong cách này chính là sự thể
hiện phương châm của Hồ Chí Minh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “Cán bộ vừa là
người lãnh đạo vừa là người đầy tớ, là công bộc của dân”.
<b>Thứ tư,</b>đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước, toàn dân đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.