Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Dmot so tan danh duoc ghi laidoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.73 KB, 54 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐẮC TÔ MỒ CHÔN QUÂN MỸ</b>


<b>ĐẮC TÔ MỒ CHÔN QUÂN MỸ</b>


Thiếu tướng PGS Hồ Đệ



Đầu năm 1967, sau thất bại ở Sa Thầy, quân Mỹ vẫn tiếp tục mở các cuộc hành
qn có tính chất ngăn chặn các cuộc tiến công của ta vào vùng Gia Lai, đường 19, Đức
Cơ, đường 21, Lạc Thiện, Quảng Nhiêu hoặc vào vùng Đắc Tô (Kon Tum). Song địch đã
vấp nhiều thất bại, vì bị quân ta đánh trả, buộc phải rút bỏ một số nơi ở tây Sa Thầy, Sùng
Thiện, Sùng Lễ... Liên tiếp cả trong mùa mưa, giao tranh giữa địch và ta hầu như không
ngớt. Ta đã thực hiện được một số trận đánh khá tiêu biểu, bằng vận động tiến cơng hoặc
bằng pháo kích (ĐKB) vào hậu phương, hậu cứ địch.


Thời gian này, tôi cũng mới vào chiến trường. Ngày 25-7-1967, Đảng ủy mặt trận
họp đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương và Quân khu 5 giao
cho chiến trường (từ sau chiến dịch Sa Thầy) và đề ra nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang
Tây Nguyên trong đông xuân 1967-1968. Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, ngày 10-9 giữa
lúc bộ đội đang bước vào đợt sinh hoạt chính trị, Đảng ủy mặt trận chính thức quyết định
mở chiến dịch Đắc Tơ nhằm mục đích: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch,
buộc địch phải cơ động lực lượng lên Tây Nguyên càng nhiều càng tốt, để phối hợp chiến
trường với tồn miền; Thơng qua tác chiến nhằm nhanh chóng nâng cao trình độ đánh tập
trung của bộ đội chủ lực, tiêu diệt gọn từng đơn vị địch, đẩy mạnh phong trào chiến tranh
du kích, nâng cao trình độ tác chiến của bộ đội địa phương lên một bước mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Biêng, mà cịn biến nó thành chốt hiểm yếu buộc địch phải ra giải tỏa.


Chọn khu vực cao điểm 875 làm điểm quyết chiến của chiến dịch, đây là nơi có dải
địa hình và các điểm cao nằm ở trung tâm không gian chiến dịch, mà cao điểm 875 lại là
một trong những điểm cao tương đối đột xuất, khống chế các vùng xung quanh; đồng thời
cũng là cao điểm xa các trận địa pháo binh: Đắc Mót-Plây Cần của địch. Ta có thể xây
dựng trận địa chốt chắc ở cao điểm này để khi quân Mỹ đổ quân vào sâu, phải lần lên đánh


điểm cao, sẽ tạo được thời cơ cho ta tiêu diệt chúng. Quá trình hành quân chiến dịch cũng
là quá trình Bộ tư lệnh mặt trận ra lệnh cho các trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực (đang phụ
trách địa bàn tại chỗ) cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích hoạt động để đánh lạc sự
chú ý của địch, giữ bí mật cho hướng chính chiến dịch của ta.


Sang tháng 10, sư đoàn bộ binh số 4 của Mỹ đã chuyển cuộc hành quân Mác-ác-tơ
ra vùng tây bắc Kon Tum. Ngày 2-11, quân Mỹ lên Đắc Tô, thiết lập hai trận địa pháo ở
Plây Cần và Đắc Mót. Trung đồn 320 của ta được lệnh gấp rút chiếm Ngọc Dơ Lang. Khi
tiểu đoàn 6 vừa hành quân tới Ngọc Dơ Lang thì một tiểu đồn bộ binh Mỹ cũng đến Ngọc
Rinh Rua. Địch ra quân sớm hơn dự kiến. Giữa ta và địch cũng tranh chấp muốn chiếm
điểm cao, nên tình huống chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Tình hình đó thúc đẩy đội hình
chiến dịch của ta phải nhanh chóng chiếm lĩnh và khẩn trương hồn tất mọi công tác
chuẩn bị. Chiều ngày 3-11-1967, Mỹ dùng máy bay lên thẳng đổ một tiểu đoàn bộ binh
xuống khu đồi tranh phía đơng dãy Ngọc Bờ Biêng khoảng 500m và tiến lên trận địa chốt
của đại đội 11, tiểu đoàn 6. Bộ đội ta đang đào công sự phải bước vào chiến đấu. 15 giờ 30
phút ngày 3-11-1967, trên mỏm đồi yên ngựa dãy Ngọc Bờ Biêng, tiểu đội 7, đại đội 11,
mở màn chiến dịch Đắc Tô bằng trận đánh quyết liệt với hai đại đội Mỹ trước chiến hào
đơn vị. Các chiến sĩ nhảy lên chiến hào thu hai súng ga-răng, một M79. Đây là những
khẩu súng chiến lợi phẩm đầu tiên của chiến dịch. Sáng ngày 4-11-1967, địch ném bom
đào, bom xăng và chất độc hóa học ngay từ sáng sớm đến 8 giờ, nhiều đoạn chiến hào của
ta bị san phẳng. Quân Mỹ bắt đầu tiến công lên chốt, mỗi lần tiến công, chúng đều bị đánh
bật trở lại, bom đạn lại giội xuống. Suốt ngày quân Mỹ đã tổ chức 8 đợt tiến công để
chiếm chốt, ta có một số chiến sĩ bị thương vong, nhưng cuối cùng các chiến sĩ tiểu đội 7
đã anh dũng, bình tĩnh đánh lui được địch, diệt 120 tên, thu nhiều súng, giữ vững trận địa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

1 đã dùng 2 khẩu sơn pháo 75mm bắn phá Đắc Tô. Trung đội ĐKZ ở Ngọc Tang cùng lúc
vừa chặn địch tràn xuống, vừa bắn vào sân bay đã gây thiệt hại cho địch. Trung đoàn 320
và trung đoàn 66 chặn đánh quân địch ở điểm cao 724, 823 và pháo kích vào Ngọc Rinh
Rua, diệt hơn 300 tên, tiêu diệt và tiêu hao 3 đại đội Mỹ, bắn rơi 2 trực thăng. Như vậy, từ
ngày 3 đến 10-11-1967, các phân đội nhỏ của ta kiên cường chống giữ các điểm cao, chốt


chiến dịch được giữ vững, một số trận chiến đấu đã diễn ra.


Lữ đoàn dù 173 Mỹ sau khi lần lượt đổ quân xuống cao điểm 823, 845, 882 trên
dãy Ngọc Cam Liệt, bắt đầu tiến công vào sườn phải sư đoàn bộ binh 1 của ta, để tiến lên
chiếm cao điểm 875. Ta liền tập trung từng trung đoàn đánh tiêu diệt trên khu quyết chiến
Ngọc Cam Liệt và Ngọc Dơ Lang. Trong ngày 11-11, đã diễn ra hai trận tác chiến của hai
trung đoàn do sư đồn trực tiếp chỉ huy, hình thành trận vận động tiến công xuất sắc ở khu
vực điểm cao 823, diệt gọn 4 đại đội dù thuộc lữ đoàn dù 173 và sư đoàn 1, sư đoàn bộ
binh 4 Mỹ, giết và làm bị thương hơn 400 tên, trong đó lữ đoàn dù 4 bị diệt gọn. Đây là
trận then chốt đầu tiên của chiến dịch. Đây cũng là trận đánh hết sức bất ngờ với địch, làm
cho địch không thực hiện được ý đồ chia cắt chiến dịch với ta. Và đúng như phán đoán của
ta, Mỹ đã đổ quân xuống khu vực Plây Cần và Ngọc Cam Liệt, với ý định chia cắt đội
hình của ta và chúng sẽ hợp vây chiến dịch ở khu vực cao điểm 875.


Diễn biến những ngày đầu chiến dịch chứng minh những phán đoán và dự kiến của
ta là đúng. Ta đã nhử được lữ đoàn dù 173 và sư đoàn 4 Mỹ vào bẫy Đắc Tô. Song lần này
địch ra quân dè dặt, nên các đơn vị của ta chỉ đánh bại từng mũi và nhử chúng từng bước,
không đánh được những trận tiêu diệt lớn hơn. Trước tình thế lữ đoàn dù 173 và sư đoàn 4
Mỹ bị đánh đau. Bộ chỉ huy Mỹ buộc phải tung lực lượng dự bị gồm: hai tiểu đồn thuộc
sư đồn khơng vận số 1 và chiến đồn dù 3 ngụy sớm vào vịng chiến. Không quân Mỹ
phải dùng mỗi ngày tới 700 lần chiếc máy bay B.52 và máy bay phản lực ném bom xuống
Đắc Tô. Song với quyết tâm chiến đấu cao, bộ đội ta vừa quyết giữ trận địa đến cùng, vừa
kết hợp xuất kích ngắn tiến cơng để diệt địch. Tiểu đoàn 6 Tây Ninh trên dãy Ngọc Bờ
Biêng đã đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 3 thuộc lữ đoàn 1 Mỹ, diệt 300 tên. Địch ta xen kẽ,
anh em đã bám những cơng sự, những đoạn hào cịn lại, dùng lựu đạn, lưỡi lê, báng súng
đánh giáp lá cà với địch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

phân tán đối phó cả ở phía sau. Nổi bật nhất là trận đánh của trung đoàn 24 ở Ngọc Xia
(14-11), Tân Cảnh (16-11), cao điểm 1030, 1423 và Ngọc Van (17, 19-11) đánh thiệt hại
nặng hai tiểu đoàn địch, phá hủy nhiều xe quân sự. Bị đánh cả phía trước và phía sau, thế


trận hành quân của địch hầu như bị rối loạn. Sau những cố gắng tiến cơng chia cắt đội hình
chiến dịch của ta ở khu vực Ngọc Cam Liệt và Ngọc Dơ Lang không thành công, Bộ chỉ
huy Mỹ buộc phải tìm cách chiếm cho được cao điểm 875 làm bàn đạp khống chế, thực
hiện đòn đánh vu hồi vào sau lưng đội hình chiến dịch của ta.


Ngày 17-11, hai tiểu đoàn 1 và 2 thuộc lữ đoàn dù 173 bắt đầu tiến công để chiếm
cao điểm 875. Khi quân Mỹ chưa đến 875 đã bị trung đoàn 66 chặn đánh, diệt từng bộ
phận; tiểu đoàn dù 2 Mỹ tiếp tục tiến lên 875. Nhưng tại đây, đại đội 7 thuộc trung đồn
174 của ta đã bí mật xây dựng cao điểm thành điểm chốt kiên cố. Khi quân Mỹ tiến lên,
các chiến sĩ đại đội 7 nổ súng chặn đứng được đội hình chúng trước chiến hào, một bộ
phận xuất kích đánh tạt sườn đã tiêu diệt một số địch. Không chiếm được cao điểm, địch
lại cho từng tốp B52 và phản lực liên tiếp giội bom gần như san phẳng ngọn đồi, rồi lại
thúc quân tiến lên, nhưng đều bị các chiến sĩ đại đội 7 dũng cảm đánh bật xuống. Nằm
trước chiến hào của ta, quân Mỹ bắn xối xả như đổ đạn, lựu đạn Mỹ ném vào chiến hào,
chiến sĩ ta nhặt ném trả lại. Có tổ 3 người đã lập công xuất sắc diệt 102 tên Mỹ. Ngày
19-11, trong lúc địch đang bị kìm chặt ở khu vực 875, ta hạ quyết tâm dùng trung đoàn 174 từ
các hướng đã chuẩn bị sẵn, thực hành trận vận động tiến cơng tiêu diệt hồn tồn tiểu đoàn
dù 2 của Mỹ. Xác Mỹ nằm la liệt trên trận địa. Một số tên sống sót cụm lại dưới chân cao
điểm đều bị pháo binh ta bắn diệt. Ngày 20, bộ đội ta diệt thêm một số, bắn rơi 12 máy
bay lên thẳng khi chúng đến lấy xác đồng bọn. Đến ngày 27-11, tại cao điểm 875 lại diệt
gọn một đại đội dù Mỹ, kết thúc chiến dịch Đắc Tô. Bộ chỉ huy Mỹ phải cho máy bay ồ
ạt lên ném bom xăng trong một phạm vi rộng, để tiêu hủy xác chết và xóa dấu vết bại trận.
Như vậy, chiến dịch Đắc Tô kéo dài 27 ngày đêm liên tục. Lực lượng vũ trang Tây
Nguyên đã cùng đồng bào các dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, ác liệt và đã giành
thắng lợi vẻ vang. Trong đó, ta đã sáng tạo được ra nhiều cách đánh hay đạt hiệu suất
chiến đấu cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>PHƯỚC LONG ĐÒN " THĂM DÒ CHIẾN LƯỢC "</b>


Phước Long Đòn “Thăm Dò Chiến Lược”




Hai tháng sau ngày Hiệp định Pa-ri được ký kết, tháng 4-1973, tại Hội nghị
San-clem-quit, Tổng thống Mỹ Ních–xơn đã lớn tiếng tuyên bố rằng Mỹ sẽ can thiệp lại nếu
miền Nam Việt Nam bị tiến cơng mạnh. Trong khi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu hy
vọng và “dài cổ ngóng trơng” thì ngày 13-12-1974 ta mở chiến dịch đường 14 Phước
Long.


Lúc bấy giờ, giới quân sự Mỹ cho rằng Phước Long là một “cuộc tiến công thử
nghiệm”, là “sự thách thức những phản ứng của Mỹ”. Còn đối với ta, Phước Long được
coi như một “trận trinh sát chiến lược”. Thắng lợi của chiến dịch này có tầm chiến lược
quan trọng, cùng một lúc đạt được cả hai mục tiêu: tiêu diệt sinh lực lớn của địch, giải
phóng hồn tồn tỉnh Phước Long, một địa bàn đặc biệt nhạy cảm trong hệ thống phịng
thủ phía bắc Sài Gòn và để thăm dò khả năng phản kích chủ lực ngụy cũng như để đánh
giá khả năng can thiệp trở lại của Mỹ khi ta đánh lớn. Thắng lợi này là cơ sở thực tiễn,
góp phần để Bộ Chính trị, Trung ương Đảng ta hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hồn
tồn miền Nam một cách kịp thời và chính xác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Binh đồn chúng tơi nhận nhiệm vụ trong điều kiện các đơn vị vừa mới tập hợp
lại, tổ chức chưa thật ổn định. Song chúng tơi lại có thuận lợi là cả hai sư đoàn chủ lực 9
và 7 đều đã quen thuộc với chiến trường miền Đông và từng hiệp đồng tác chiến với nhau
nhiều. Tuy nhiên, trước khi vào trận ai cũng lo bởi đây là chiến dịch đầu tiên của binh
đoàn kể từ ngày thành lập. Nhưng rồi sau 25 ngày đêm chiến đấu, những lo lắng đó dần
dần bị xua tan.


Sau khi Phước Long bị mất, mặc dầu chính quyền G. Pho cũng có một số động
thái phản ứng, như tiếp tục lại các chuyến bay trinh sát tại không phận Bắc Việt Nam, xin
quốc hội Mỹ bổ sung viện trợ cho chế độ Sài Gòn. Các phương tiện truyền thông và bộ
máy tâm lý chiến tung tin các chiến hạm ở Su-bích, lính thủy đánh bộ ở Nhật Bản… được
lệnh chuẩn bị động binh trở lại Việt Nam… Nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là những “cú địn
gió”. Mọi hy vọng của chính quyền Thiệu tan biến khi người phát ngơn của Nhà Trắng


chính thức tun bố: “Tổng thống Pho khơng có ý định vi phạm những điều cấm (của
Quốc hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam”. Rõ ràng là “Sự kiện
Phước Long” cho thấy Mỹ khơng dễ gì can thiệp trở lại Việt Nam dưới bất cứ hình thức
nào để cứu chế độ ngụy.


Chiến thắng Phước Long là niềm tự hào không chỉ riêng của cán bộ, chiến sĩ binh
đoàn Cửu Long mà cịn của qn và dân miền Đơng Nam Bộ, bởi nó diễn ra trong một
thời điểm lịch sử nhạy cảm, thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ (ở đầu mùa khô
1974 – 1975), trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Chiến dịch đường
14-Phước Long thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự mà lúc bấy giờ ngay cả
anh em cán bộ chỉ huy chúng tơi cũng chưa thấy hết. Đó là vấn đề chọn địa bàn mở chiến
dịch đúng. Phước Long là một địa bàn rộng, dân cư ít, hệ thống phịng ngự của địch có
nhiều sơ hở, thiếu tính liên hồn để chi viện cho nhau, khả năng chi viện của quân đoàn 3
ngụy cho Phước Long rất hạn chế, vì cả hai tuyến quốc lộ 13 và 2 đã bị ta cắt đứt. Hơn
nữa, Phước Long chỉ cách Sài Gòn khoảng 100km, lại án ngữ trên tuyến hành lang chiến
lược vận chuyển Bắc-Nam. Nếu chiếm được Phước Long sẽ tạo ra bàn đạp uy hiếp Sài
Gòn từ hướng Tây Bắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Xồi sẽ nhanh chóng phá được thế phòng thủ quốc lộ 14 của địch. Trong chúng tôi lúc
bấy giờ, nhiều người cũng nghĩ như vậy. Tuy nhiên, để đánh được Đồng Xoài cần phải
huy động một lực lượng lớn (cả người và vũ khí) trong khi yêu cầu của chiến lược lúc bấy
giờ là để bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ khơng được bộc lộ lực lượng sớm, phải hết sức
tiết kiệm vũ khí (đặc biệt là đạn pháo) phải vừa đánh vừa thăm dị khả năng phản ứng của
địch. Chính vì vậy mà Bộ Chỉ huy chiến dịch đã quyết định đánh Bù Đăng trước, mặc dù
chưa có sự chuẩn bị kỹ cho mục tiêu này. Đây là một cứ điểm bị cơ lập, đường bộ khơng
đến được mà đường khơng thì ở xa, địch khó có khả năng chi viện lớn. Thực tế đã chứng
minh sự lựa chọn này là hoàn tồn chính xác.


Đó là vấn đề nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch linh hoạt và sáng tạo mà cụ
thể là vấn đề sử dụng lực lượng hợp lý, vận dụng thích hợp các hình thức chiến thuật khi


đánh địch trong thị xã và phòng ngự kiên cố trong công sự vững chắc. Trước khi chuẩn bị
chiến dịch này, ta chưa dự kiến hết tình huống giải phóng toàn tỉnh Phước Long. Tuy
nhiên, đánh chiếm Bù Đăng, thời cơ mới mở ra, ta lập tức triển khai ngay kế hoạch đánh
Đồng Xoài khi mà cuộc chiến ở đây chưa kết thúc. Tương tự như vậy, khi số phận Đồng
Xồi sắp được định đoạt thì ta cho triển khai kế hoạch đánh Phước Long. Việc “đón trước
thời cơ” như vậy đã làm cho quân ngụy liên tục bị bất ngờ và bị động đối phó.


Chiến dịch đường 14 – Phước Long là thước đo trình độ tác chiến và nghệ thuật tổ
chức thực hành chiến dịch của chủ lực ta ở thời điểm lúc bấy giờ. Nó cho chúng ta và cả
những đơn vị chủ lực khác những kinh nghiệm quý về cách đánh địch trong thành phố, thị
xã! Về công tác tổ chức bảo đảm hậu cần, vũ khí cho một chiến dịch lớn. Ở tầm chiến
lược, chiến thắng đường 14-Phước Long đã chứng minh cho sự suy yếu rõ rệt của quân
ngụy và làm sáng tỏ “khả năng không thể can thiệp lại” của Mỹ đối với miền Nam Việt
Nam.


Chiến thắng này là cơ sở thực tiễn để chúng ta tiếp tục hoàn thiện kế hoạch chiến
lược giải phóng hồn tồn miền Nam nhanh hơn, phù hợp với sự phát triển của tình hình


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Điện Biên Phủ Trên Không


Kỳ I: Thảm bại của “pháo đài bay”



<i><b>(VietNamNet)</b></i> - Những ngày mùa đông 35 năm trước, cả Hà Nội rực lửa với 12 ngày đêm
"đất rung, ngói tan, gạch nát". Hà Nội kiên cường khuất phục "pháo đài bay B.52" và làm
nên một "Điện Biên Phủ trên không".


35 năm, đã là q khứ, Hà Nội hơm nay đã “đàng hồng hơn, to đẹp hơn” ở tất cả góc
cạnh. Những dấu vết của chiến tranh chỉ còn trong bảo tàng, ở một vài tượng đài kỷ niệm
và trong trí nhớ của những người đã lớn tuổi, nhưng không một ai, không một điều gì bị
quên lãng. 35 năm trước vẫn rất sống động trong ký ức và cả hồi niệm của nhiều người
ngày đó.



<i><b>"</b><b>Sút bóng trước khung thành"</b></i>


Trong bối cảnh lịch sử, tháng 5/1972, Tổng thống Mỹ Nixon hạ lệnh mở chiến dịch
không quân “Linebecker 1”- Tiền vệ, dùng B.52 đánh rải


thảm bom đường mịn Hồ Chí Minh, chặn sự chi viện
của miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Nhưng
khơng thể làm được gì.




Quân Mỹ gặp thất bại nặng nề trên chiến trường miền
Nam. Mỹ liều lĩnh tiến hành cuộc tập kích đường khơng
chiến lược bằng B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng, nhằm
khống chế thắng lợi của ta, buộc ta phải chấp nhận
những điều kiện có lợi về phía Mỹ và chính quyền Sài
Gịn trong đàm phán, kết thúc chiến tranh.


Hà Nội không thể quên ngày 18/12/1972. Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh bắt đầu chiến
dịch “Linebacker 2”- Sút bóng trước khung thành, dùng máy bay chiến lược B.52, cường
kích “tàng hình” F111A và hàng ngàn chiến đấu cơ tiêm kích chiến thuật, cùng sự hỗ trợ
của 5 tàu sân bay tấn cơng Hà Nội, Hải Phịng với mục đích: "Đưa miền Bắc trở về thời
kỳ đồ đá”.


Từ ngày 18-29/12/1972, 12 ngày đêm Hà Nội rực lửa, với "đất rung, ngói tan, gạch
nát". Nhưng, quân và dân Hà Nội hiệp đồng tác chiến, với những cách đánh mưu trí,
dũng cảm, sáng tạo làm lưới lửa của tên lửa phịng khơng, pháo phịng khơng các loại,
bủa vây máy bay Mỹ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Hình ảnh của Hà Nội những ngày cuối năm 1972 được mô tả
bằng các cụm từ hiên ngang, ngẩng cao đầu trực diện với kẻ thù.
“Điện Biên Phủ trên không” là cụm từ mà báo chí phương Tây
ngày ấy đã "giật tít” như thế để diễn tả thất bại cuộc tấn công
chiến lược của Mỹ ở Hà Nội. Và cùng với những thắng lợi trên
chiến trường miền Nam, Mỹ bắt buộc phải ngồi vào bàn đàm
phán ngày 27/1/1973 ở thế của kẻ thua trận.


<i><b>Những người thầm lặng</b></i>


Trong chiến dịch "Linebacker 1”, Mỹ đã đưa máy bay chiến lược B.52 rải bom xuống
chiến trường miền Nam. Như đã dự liệu trước, ta đã có chỉ thị cho các nhà nghiên cứu
khoa học quân sự nghiên cứu cách bắn hạ B.52. Đồng thời, kết hợp với những chiến sĩ
tình báo chiến lược của ta tìm tài liệu về loại máy bay này.


Đến tháng 9/1972, tài liệu “Cách đánh B.52”- hay còn gọi là “Cẩm nang đỏ”, sau nhiều
lần bổ sung, hoàn chỉnh đã góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu của các
đơn vị phịng khơng. Đặc biệt, ngày 22/11/1972, ta bắn hạ 1 chiếc B.52 ở phía tây Nghệ
An, đã bổ sung thực tế về cách đánh B.52 hay là "pháo đài bay" của đối phương.


Chiến thắng 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”, cịn có một phần đóng góp
thầm lặng của các chiến sĩ tình báo, đã mưu trí, dũng cảm, ẩn thân giấu mình ngay trong
lịng địch, cung cấp các thơng tin quý giá, kịp thời chuyển về để


Hà Nội chủ động đánh địch.


35 năm sau, đó vẫn là những chiến cơng thầm lặng của các
chiến sĩ tình báo âm thầm cống hiến cho Tổ quốc. Những bản báo
cáo ngày đó thật sự là thông tin đặc biệt giá trị.



Đầu tháng 12/1972 tin báo về: "Mỹ điều động tăng cường thêm
<i>2 hàng không mẫu hạm ở Biển Đông thành 4 cái. Trong đó hàng</i>
<i>khơng mẫu hạm Saratoga từ Philippines và Interprise từ Nhật Bản</i>
<i>đã áp sát bờ biển Thanh Hóa… Số máy bay chiến lược B.52 đến</i>
<i>sân bay Utapao - Thái Lan tăng đột ngột, chật chỗ. Các xe chở</i>


<i>bom đi lại liên tục. Thêm 3 chiếc KC.135, máy bay tiếp dầu đã đến sân bay Ubon, 5</i>
<i>chiếc KC.135 ở căn cứ Subich - Philippines cũng sẵn sàng. Một bộ chỉ huy quân sự về</i>
<i>không quân chiến lược mới thành lập để điều hành 2 căn cứ Utapao và Guam.”</i>


Ngày 14/12/1972, báo cáo khẩn, từ Văn phịng Nhà Trắng: ”Ngày 14/12/1972, Tổng
<i>thống Mỹ Nixon chính thức ra lệnh 17/12/1972 tiếp tục rải thủy lôi phong tỏa các cảng</i>
<i>và cửa sông Bắc Việt. Ngày 18/12/1972, không qn chiến lược B.52 tấn cơng vào Hà</i>
<i>Nội, Hải Phịng. Bắt đầu chiến dịch Linebacker 2”.</i>


<b>Fireworks without </b>
<b>celebration: A B-52 </b>
combat plane is shot down
over Ha Noi at 11pm on


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Sáng ngày 18/12/1972, thông tin báo về: "6 giờ sáng, hàng khơng mẫu hạm America
<i>đậu ở phía đơng Hà Tĩnh điện hỏi Sở Chỉ huy không quân chiến lược - trực thăng hôm</i>
<i>nay làm nhiệm vụ cấp cứu ở đâu? 10 giờ, 11 giờ 30, 2 lần máy bay trinh sát khơng người</i>
<i>lái bay vào Hà Nội, Hải Phịng.</i>


14 giờ, tin khẩn: "Một chiếc RF-4C, máy bay trinh sát vũ trang, điện về căn cứ - thời
<i>tiết Hà Nội bảo đảm cho không quân hoạt động tốt".</i>


14 giờ 30, tin khẩn tiếp tục báo về: "Tất cả các máy bay B.52 ở 2 căn cứ Guam và
<i>Utapao đã được tiếp xăng cho 4-5 giờ bay. Đã lắp bom theo cơ số. Các máy bay chiến</i>


<i>thuật cường kích, tiêm kích đang khởi động chuẩn bị…".</i>


19 giờ - Rada của Đại đội 6, Trung đồn Ba Bể nhận được tín hiệu B.52 đang bay từ
Nam Lào lên phía Bắc, hướng về Hà Nội. 19 giờ 15, tồn Qn chủng Phịng khơng
-Khơng qn và tồn bộ lực lượng dân qn, tự vệ, các lưới phịng khơng tầm trung, tầm
thấp của Hà Nội, Hải Phòng nhận lệnh: Sẵn sàng chiến đấu với B.52!


20 giờ 30, Tiểu đoàn tên lửa 59, Trung đoàn 261, Sư
đoàn 361 bắn rơi chiếc B.52 đầu tiên, Tiểu đoàn 77,
Trung đoàn 257, Sư đoàn 361 bắn rơi tại chỗ một chiếc
B.52 trên vùng trời Hà Nội.


Những bản tin khẩn của các chiến sĩ tình báo trong
lịng địch lặng lẽ gửi về, với những thơng tin chính xác
gần như tuyệt đối, góp phần vào chiến thắng “Điện Biên
Phủ trên không”.


<i><b>Cuộc họp báo gây bàng hoàng</b></i>


Đêm 18/12/1972, mở đầu chiến dịch “Linebacker 2” nhằm “đè bẹp Việt Nam, buộc Hà
Nội phải chấp nhận mọi điều kiện của Mỹ trên bàn đàm phán Hiệp định hịa bình…”, Mỹ
đã đưa máy bay chiến lược “pháo đài bay” B.52, máy bay cường kích chiến thuật “tàng
hình - cánh cụp cánh xịe” F111A hiện đại nhất của Không lực Mỹ, cùng hàng trăm máy
bay tiêm kích các loại như: "Người nhà trời” - AD6, “Thần sấm”-F105, "Con ma”- F4,
"Thập tự quân”- F8, "Kẻ đột nhập”- A6, "Ngơi sao chiến đấu”- F104, “Cướp biển”- A7,
“Chim ó nhà trời”- A4… mang hàng chục ngàn tấn bom phá, bom sát thương, rocket…
thảm sát, hủy diệt Thủ đô Hà Nội và các vùng lân cận.


Hà Nội, với danh hiệu “

<i>Thủ đơ của lương tri lồi</i>




<i>người</i>

”, quân và dân Hà Nội đã đồng lòng, hiệp sức,


kiên cường, dũng cảm bảo vệ vùng đất, vùng trời thiêng
liêng của Tổ quốc Việt Nam. Cái giá đầu tiên Mỹ phải trả
khá đắt: 2 chiếc máy bay B.52G, in huy hiệu hình nắm
đấm, tia chớp và cành ơliu cùng hàng chữ Strategic Air
Command, phơi xác ở Phù Lỗ - Sóc Sơn - Hà Nội và


<b>Steel resolve: Soldiers surround the </b>
remains of a B-52 on Hoang Hoa Tham
Street, Ha Noi, on December 27, 1972.
During the bombardment of Ha Noi, Hai
Phong and other northern cities from
December 18 to 30, 81 of the US Air
Force’s planes were shot down,
including 34 B-52s. — VNA/VNS Photo
Minh Truong


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Thanh Oai - Hà Tây. Khơng dừng lại thế, cịn có những bằng chứng “sống”: Fernando
Alexander - Thiếu tá, hoa tiêu; Hause Cilson - Đại úy, lái chính; Richard Tomat
Simson-Đại úy, điều khiển điện tử; Robert Clenxartel, Henrie Charbaron, Character Browels - ba
viên Đại úy hoa tiêu…


24 giờ Hà Nội đêm 18/12/1972, các nhà báo phương Tây và báo chí Việt Nam đã dự
một cuộc họp báo lịch sử tại Câu lạc bộ Quốc tế giữa lòng Hà Nội trong tiếng ầm ầm của
bom rền đạn nổ… Hà Nội thông báo với cả thế giới việc B.52 mang bom hủy diệt Thủ đô
Việt Nam và thất bại của Mỹ trên bầu trời Hà Nội.


Cả nước Mỹ bàng hoàng khi chứng kiến sự thảm bại của “uy lực Mỹ” - B.52, bị bắn
rơi tại Thủ đô nhỏ bé của đất nước bé nhỏ bên bờ Thái Bình Dương.



Những “niềm tự hào” của nước Mỹ, những “quân nhân ưu tú” trong lực lượng không
quân chiến lược, những phi công “pháo đài bay” đầy kiêu hãnh, là niềm mơ ước, thần
tượng của các phi công Mỹ khác, nay khiếp sợ cúi đầu run rẩy thốt lên trong ánh mắt cịn
vương nỗi kinh hồng khi trả lời các phóng viên báo chí: "sợ lắm”, “rất sợ”, “thật khủng
khiếp”, “tơi khơng ngờ hỏa lực phịng khơng của Hà Nội mạnh và bắn chính xác đến
thế”…


Lúc này, thiếu tá, chỉ huy điện tử Fernando, người Texas cay đắng thốt lên: "Mọi sự
tính tốn của chúng tơi đã bị đảo lộn hết. Cấp chỉ huy và các kỹ sư điện tử của chúng tôi
đã khẳng định như đang nắm trái ngọt trong tay... Phương án bay và tất cả các máy điện
tử đủ loại này rất tuyệt vời. Không một loại tên lửa và máy bay Mig nào của Bắc Việt có
thể bám, bắt được B.52 của ta… Tơi đã thực hiện đúng quy trình thao tác để bịt mắt đối
phương… thế mà… như các ông thấy… tôi đang ở đây và là tù binh”.


Đại úy Henrie Charbaron: "Khi được phổ biến nhanh ở căn cứ Guam trước lúc bay, tôi
sửng sốt bởi nghĩ rằng Hiệp định Hịa bình sắp ký kết như ơng Kissinger tun bố cách
đó ít ngày. Đến trước lúc nhảy dù, tôi biết máy bay của tôi lọt vào một ổ dày đặc tên lửa
SAM 2 và cao xạ. Máy bay bị trúng đạn, rung lên dữ dội, khói mù mịt… Tôi rơi xuống
một đám ruộng và thấy nhiều người chạy tới. Tơi khơng kịp làm gì theo hướng dẫn nếu
máy bay rơi… Tôi cúi đầu giơ 2 tay đầu hàng”.


Cả nước Mỹ và thế giới còn được tận mắt thấy những quân nhân ưu tú của quân đội
Mỹ đã đánh mất uy lực của mình ra sao trước đối phương. Họ đã không đủ can đảm để
thực hiện bài học quy định - quân lệnh khi thành tù binh: Chỉ khai tên, tuổi, cấp bậc, chức
vụ, đơn vị, số hiệu. Họ đã khai cả bí mật kỹ thuật, cả lệnh của cấp trên phải ném bom ở
đâu, đổ tội cho chỉ huy: "Chúng tôi là quân nhân, phải tuân lệnh chỉ huy. Chúng tơi biết
B.52 có sức chứa bom và thả bom rải thảm tạo sự hủy diệt rât lớn, nhưng phải theo lệnh
và chấp nhận tội ác của mình”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Buổi họp báo lịch sử là một “đòn” tử huyệt đối với Mỹ. 12 ngày đêm Hà Nội đã quyết
tử cho một “Điện Biên Phủ trên không”, chấn động cả nước Mỹ và lương tri nhân loại
u chuộng hịa bình trên thế giới.


Hồi Hương, VietNamNet, ngày 6/4/08
NDVN, ngày 13/4/08


Chủ tịch nước gặp mặt nhân chứng lịch sử trận ‘Điện Biên Phủ


trên không’



Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tiếp Đoàn đại biểu Nhân chứng lịch sử
và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đã tham ra chiến đấu trong suốt
12 ngày đêm máy bay B52 của đế quốc Mỹ đánh phá Thủ đô Hà Nội.
Ảnh: Nguyễn Khang- TTXVN


<i><b>Nhân kỷ niệm 35 năm đánh thắng máy bay B52 trên bầu trời Hà Nội, chiều nay</b></i>
<i><b>13/12, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã gặp mặt gần 100 nhân</b></i>
<i><b>chứng lịch sử đã góp phần làm nên chiến công vĩ đại 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện</b></i>
<i><b>Biên Phủ trên không” tháng 12/1972. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh, chiến thắng 12 ngày đêm “Hà Nội
-Điện Biên Phủ trên khơng” tháng 12/1972 thể hiện trí tuệ, bản lĩnh, tầm nhìn xa trơng
rộng của Đảng, của Bác Hồ. Nhờ đó, Quân đội nhân dân Việt Nam đã có sự chuẩn bị tốt
cả về con người lẫn điều kiện kháng chiến.


Tinh thần chiến tranh nhân dân, lịng mưu trí, dũng cảm, sự linh hoạt, sáng tạo của bộ
đội phịng khơng - khơng qn, lực lượng dân quân tự vệ đã làm nên chiến thắng lịch sử.
Chiến thắng này thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của Quân đội, của nhân dân Việt Nam Anh
hùng.



Chủ tịch nước khẳng định, chiến thắng 12 ngày đêm "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên
khơng" đã góp phần vào thắng lợi của Hội nghị Pa-ri năm 1973, đưa đến thắng lợi toàn
cục của cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hồn tồn miền Nam,
thống nhất Tổ quốc.


Nhiều nhà chiến lược, lịch sử quân sự ngày nay vẫn đang nghiên cứu về chiến lược
đánh thắng máy bay B52 của quân và dân Việt Nam.


Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết mong các đại biểu tiếp tục phát huy truyền thống
anh bộ đội cụ Hồ, nêu gương sáng giáo dục thế hệ con cháu, góp phần cùng nhân dân cả
nước thực hiện công cuộc CNH-HĐH, đưa đất nước phát triển vững mạnh.


<i>TienphongOnline, trích TTXVN, ngày 13/12/07</i>
<i>NDVN, ngày 14/4/08</i>


Bệ phóng và tên lửa bắn hạ 4 máy bay B52 Mỹ


trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên khơng”


Bệ phóng và tên lửa SA-75 của Tiểu đoàn 77, Trung đoàn 257, từ năm 1966 - 1972,
đã bắn rơi 25 máy bay hiện đại của Mỹ như F-105, F-4C, A-6A... Đặc biệt, trong chiến
dịch “Điện Biên phủ trên không”, 12 ngày đêm tháng Chạp năm 1972, bệ phóng này đã
bắn hạ 4 máy bay B52 của Mỹ, trong đó có 3 chiếc rơi tại chỗ. Sau khi lập nhiều chiến
cơng xuất sắc, nó được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.


Khách quốc tế, trong nước khi đến xem phần trưng bày ngoài trời của bảo tàng,
nhiều người rất muốn biết về lịch sử chế tạo, nguồn gốc xuất xứ, chiến công của những
người đã tham gia điều khiển bệ phóng này, đặc biệt về sự kiện bắn rơi tại chỗ nhiều máy
bay B52, loại máy bay chiến lược được gọi là pháo đài bay của Mỹ trong “Trận Điện
Biên Phủ trên không”, tháng 12 năm 1972.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Lương. Kíp trắc thủ đến dự hội nghị có các đồng chí Đinh Thế Văn - ngun Tiểu đồn


trưởng, Nguyễn Văn Đức - nguyên sĩ quan điều khiển, Đỗ Đình Tân - nguyên trắc thủ
phương vị, Phạm Hồng Hà-nguyên trắc thủ cự ly, Nguyễn Văn Quyền - nguyên trắc thủ
chuẩn bị đạn, Nguyễn Văn Đang - nguyên Đại đội trưởng Đại đội 2, tham gia kíp trắc
thủ… Tham dự hội nghị cịn có cán bộ ở Cục kỹ thuật, Qn chủng Phịng khơng-Khơng
qn, Bảo tàng Phịng khơng-Khơng qn… Những tài liệu thu thập qua các nhân chứng
cùng với những tài liệu nghiên cứu từ Lịch sử Trung đoàn 257, Lịch sử Sư đồn phịng
khơng Hà Nội, Cục kỹ thuật Qn chủng Phịng khơng- Khơng qn được trình bày tại
hội nghị đã cung cấp nhiều thông tin thú vị.


Tên lửa phịng khơng SA-75 (Đvina) là loại tên lửa đất đối không thế hệ đầu tiên
của Quân đội Xô-viết (phương Tây gọi là SAM-2), do Viện thiết kế tên lửa KB-1 nghiên
cứu chế tạo năm 1953. Ngày 7-11-1957, tên lửa này xuất hiện trong lễ duyệt binh trên
Hồng trường Mát-xcơ-va. Tên lửa được sử dụng lần đầu trong chiến đấu vào ngày
1-5-1960, tiêu diệt chiếc máy bay trinh sát chiến lược U-2 của Mỹ xâm phạm vùng trời Liên
Xô ở độ cao gần 20km.


Ngày 7-2-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt vấn đề với Liên Xơ giúp Việt
Nam tên lửa phịng khơng khi Đồn đại biểu Đảng và Chính phủ Liên Xơ do đồng chí
Cơ-xư-gin, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô,
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô dẫn đầu, sang thăm hữu nghị nước ta. Trong
chuyến đi này, Liên Xô đã đồng ý viện trợ cho Việt Nam bệ, đạn tên lửa, đủ trang bị cho
2 Trung đoàn tên lửa phịng khơng.


<i>Các nhân chứng và cán bộ Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Phịng </i>
<i>khơng-Khơng qn bên bệ phóng và tên lửa SA-75</i>


Tháng 4 năm 1965, tồn bộ khí tài trang bị tên lửa đã được chuyển đến Việt Nam an
toàn bằng đường biển. Kể từ đó tên lửa SA-75 đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, nhất là trong cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam. Sau khi quân đội ta tiếp


nhận khí tài, chỉ sau hai tháng rưỡi huấn luyện, tên lửa SA-75 đã xuất trận. Ngày
24-7-1965, hai Tiểu đoàn 63 và 64 (Trung đồn 236), mỗi tiểu đồn phóng 2 tên lửa đã bắn rơi
tại chỗ chiếc F-4C của Mỹ. Ngày 24-7 ra quân đánh thắng trận đầu đã trở thành ngày
truyền thống của bộ đội tên lửa phịng khơng Việt Nam. Dưới sự điều khiển của Tiểu
đoàn 77, Trung đồn 257, bệ phóng và tên lửa SA-75 này đã lập thành tích bắn rơi 25
máy bay của Mỹ từ năm 1966-1972, đặc biệt đã bắn rơi 4 máy bay B52 trong Chiến dịch
“Điện Biên Phủ trên không”, được Nhà nước tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân ngày 3-9-1973.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Bài và ảnh: TRẦN THANH HẰNG, QĐND, ngày 13/12/08


VỀ TRẬN THẮNG LỊCH SỬ 5/8/64



Thượng Tướng Phùng Thế Tài



<i><b>Niềm ham muốn tột bậc của Bác:</b>“Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm</i>
<i>sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có</i>
<i>cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi</i>
<i>có non xanh nước biếc, sớm chiều làm bạn với cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, khơng</i>
<i>dính gì đến vịng danh lợi”.</i>


Chủ tịch Hồ Chí Minh tại buổi lễ tuyên dương công trạng các đơn vị chiến thắng ngày 2
và 5/8/1964.


<i><b>Anh Đặng Tính và tơi cũng như tập thể Đảng ủy Qn chủng Phịng khơng - Không</b></i>
<i><b>quân cứ suy nghĩ mãi về lời dặn của Bác: “Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch”.</b></i>
<i><b>Chúng tôi cho đây là mệnh lệnh của vị Tổng Tư lệnh tối cao đối với toàn quân ta, đối</b></i>
<i><b>với Quân chủng Phịng khơng - Khơng qn...</b></i>


<b>I- Mệnh lệnh của Bác Hồ giữa ngày mồng một Tết Giáp Thìn</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Khi 2 máy bay địch bay vào vùng trời Hà Nội lần thứ hai, Đại đội 109, Trung đoàn 220,
bắn được 11 viên, Đại đội 130, Trung đoàn 260 bắn được 4 loạt (34 viên). Máy bay địch
cơ động, tránh hỏa lực và bay thoát.


Đây là lần đầu tiên sau 10 năm hịa bình, bầu trời Hà Nội rền vang tiếng súng, gây xôn
xao dư luận cả trong và ngồi nước.


Ngay ngày hơm sau Bác gọi tơi lên. Vừa thấy tôi, Bác đã hỏi ngay:


- Bác nghe báo cáo hôm qua chú dùng mấy chục viên đạn đại cao để bắn chim, có được
con nào khơng mà khơng thấy đưa lên biếu Bác.


Tơi lặng người vì hổ thẹn.
Ngừng một lúc Bác lại hỏi:


- Tất cả bao nhiêu viên chú có nắm được khơng?
- Dạ. 45 viên ạ.


- Bác nghe nói mỗi viên đạn 100 ly mà hơm qua chú cho bắn vung vãi lên trời có thể ni
sống một gia đình trung nơng trong một năm. Vậy với 45 viên thì giá trị là bao nhiêu?
Nước ta còn nghèo, chú cứ lệnh cho bắn lên trời phung phí như vậy mà khơng rơi chiếc
máy bay nào thì có lỗi với nhân dân lắm.


Sáu tháng trơi qua kể từ “mốc nhục” 11/8/1963, sáng ngày 13/2/1964, đúng ngày mồng
Một tết Giáp Thìn, Bác Hồ đến thăm chúc tết Đại đội 130, Trung đồn Phịng khơng 260
bảo vệ Thủ đơ Hà Nội. Cán bộ, chiến sĩ (CBCS) đại đội sung sướng đón Bác ngay tại
trận địa. Sau khi đi một vòng quanh doanh trại kiểm tra nhà bếp, nhà ăn, Bác thân tình
hỏi thăm tình hình sức khỏe và tình hình vui tết của đơn vị, rồi nói:



- Hơm nay, Bác và các đồng chí Trung ương đến thăm các chú. Bác thấy chú nào cũng
khỏe mạnh, vui vẻ, Bác mừng. Đơn vị các chú được thưởng cờ, doanh trại ngăn nắp, vệ
sinh sạch sẽ, như vậy là rất tốt. Bác chúc các chú năm mới mạnh khỏe, thắng lợi và nhờ
các chú chuyển lời chúc tết của Bác và các đồng chí Trung ương tới gia đình các chú.
Bác hỏi:


- Các chú thấy đồng bào miền Nam chiến đấu có giỏi khơng, có dũng cảm khơng?
- Thưa Bác, có ạ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

ta. Muốn làm được như vậy, năm nay các chú phải ra sức rèn luyện kỹ thuật cho giỏi.
CBCS cần đoàn kết chặt chẽ, thương yêu nhau như anh em một nhà.


Bác nhìn một lượt các CBCS thân yêu, rồi căn dặn một lần nữa:


- Các chú phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch nếu chúng xâm phạm miền Bắc nước ta!
Các chú lập được công, tết sang năm Bác lại xuống thăm.


Bác vừa dứt lời, cả đại đội hô vang:
- Quyết tâm làm theo lời Bác dạy.
- Kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu.
Bác rất vui, nói với các chiến sĩ:


- Ngày tết, các chú quên không mời Bác ăn bánh chưng mà chỉ hô khẩu hiệu!


Theo phong tục của dân tộc, đi xông đất vào sáng mồng Một tết là việc làm thiêng liêng.
Bác đã dành thời khắc thiêng liêng này để đến với Bộ đội Phịng khơng - Không quân,
sắp bước vào cuộc chiến đấu mới với Khơng qn Mỹ. Anh Đặng Tính và tơi cũng như
tập thể Đảng ủy Quân chủng cứ suy nghĩ mãi về lời dặn của Bác: “Phải kiên quyết bắn
rơi máy bay địch”. Chúng tôi cho đây là mệnh lệnh của vị Tổng Tư lệnh tối cao đối với


toàn quân ta, đối với Qn chủng Phịng khơng - Khơng qn.


<b>II- Mệnh lệnh của Đại tướng Tổng Tư lệnh</b>


Sau tết Giáp Thìn, đế quốc Mỹ bí mật thực hiện chương trình mang bí danh: “Kế hoạch
tác chiến 34-A”. Nội dung bao gồm tổ chức những chuyến bay do thám miền Bắc Việt
Nam bằng máy bay U2, bắt cóc người Bắc Việt Nam để lấy tin tức tình báo, thả dù tung
biệt kích vào hậu phương miền Bắc, phá hoại các cơ sở kinh tế, quân sự và tiến hành
chiến tranh tâm lý.


Từ tháng 2/1964, đế quốc Mỹ lại cho các khu trục hạm thường xuyên hoạt động tuần tiễu
do thám ở ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ trong một kế hoạch gọi là Đờxôtô (Desoto) do Bộ tư
lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương (Cinpac) điều hành nhằm khống chế miền Bắc Việt Nam từ
đường biển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Ngày hôm sau, 27/3/1964, tại Hội trường Ba Đình, Hồ Chủ tịch đã triệu tập <b>“Hội nghị</b>


<b>chính trị đặc biệt”</b>. Đây là <b>“Hội nghị Diên Hồng”</b> của thời đại mới nhằm chuẩn bị cho


toàn Đảng, toàn quân, toàn dân sẵn sàng bước vào một cuộc chiến đấu.


Tại Hội nghị, Hồ Chủ tịch phân tích: “Tình hình miền Nam Việt Nam hiện nay chứng tỏ
một cách rõ rệt sự thất bại không thể tránh được của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh
đặc biệt này”. Người tuyên bố: “Hiện nay bọn hiếu chiến Mỹ và bè lũ tay sai mới của
chúng lại ba hoa hô hào “Bắc tiến”. Nếu chúng liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định
chúng sẽ thất bại thảm hại”.


Sau đó Người kêu gọi: “Đồng bào và chiến sĩ miền Bắc, mỗi người làm việc bằng hai để
đền đáp đồng bào miền Nam ruột thịt”.



Thường vụ Đảng ủy Qn chủng Phịng khơng - Khơng qn đã họp phiên đặc biệt bàn
biện pháp lãnh đạo toàn Quân chủng đẩy mạnh thi đua thực hiện lời kêu gọi của Bác,
đồng thời mở cuộc vận động: “Phát huy truyền thống quyết chiến quyết thắng, mỗi người
làm việc bằng hai, quyết tâm bắn rơi máy bay địch, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ”.
Trong lúc các đơn vị toàn Quân chủng đang sôi nổi thi đua làm theo lời dạy của Bác thì
đúng 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1964, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Quân ủy Trung ương đến thăm Quân chủng.


Đại tướng chọn đúng thời điểm mà đúng 10 năm trước quân đội ta đã cắm lá cờ Quyết
chiến quyết thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên nóc hầm Đờcát ở Điện Biên Phủ, để
kiểm tra sẵn sàng chiến đấu Đại đội 7, Trung đoàn 220, bảo vệ Hà Nội.


Thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã căn
dặn: “Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh cho máy bay xâm phạm vùng trời Tổ quốc ta, các đồng
chí phải thực hiện bằng được lời dạy của Bác Hồ: “Kiên quyết bắn rơi thật nhiều máy bay
địch”.


Từ Sở chỉ huy Quân chủng đến các trận địa pháo cao xạ, các chế độ trực ban chiến đấu
được CBCS chấp hành nghiêm chỉnh. Các đài rađa đã thay nhau mở máy 24/24 giờ cảnh
giới theo dõi mọi hoạt động của không quân địch. Trong những ngày này, tôi hầu như
không rời Sở chỉ huy, thường xuyên nghe cơ quan quân báo, tác chiến báo cáo tình hình.
Trong 6 tháng đầu năm 1964, Không quân Mỹ đã xâm phạm miền Bắc 202 lần, có 177
lần ban ngày và 25 lần ban đêm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Giữa tháng 6/1964, đế quốc Mỹ đã triệu tập hội nghị ở Hơnơlulu bàn tính kế hoạch dùng
không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam.


Để thực hiện âm mưu này, từ cuối tháng 7/1964, đế quốc Mỹ đã liên tiếp cho máy bay và
tàu chiến xâm phạm vùng trời và vùng biển nước ta.



Ngày 30/7/1964, Mỹ cho Khu trục hạm Marốc vào tuần tiễu sâu trong Vịnh Bắc Bộ. Nửa
đêm ngày 30/7, bọn biệt kích của hải quân quân đội Sài Gòn đột nhập đảo Hòn Mê,
Thanh Hóa.


Ngày 31/7/1964, đế quốc Mỹ cho máy bay T28 từ Lào sang bắn phá Đồn biên phòng
Nậm Cắn. Ngày 1/8/1964, chúng bắn phá làng Noọng Dẻ thuộc huyện Kỳ Sơn, Nghệ An.
Trưa 2/8/1964, chúng lại cho máy bay cánh quạt AD6 và máy bay T28 từ Lào sang bắn
phá Đồn biên phòng Nậm Cắn lần thứ 2.


Từ tối 31/7/1964 cho đến chiều 2/8/1964, tàu khu trục Marốc thuộc Hạm đội 7 của Mỹ
liên tục hoạt động sâu trong vùng biển giữa đảo Hịn Mê và Lạch Trường, khiêu khích,
bắn phá các thuyền đánh cá của ta trên biển.


Trước tình hình đó, để bảo vệ chủ quyền trên biển, 3 tàu phóng lơi của Hải qn ta đã
được lệnh xuất kích trừng trị hành động cướp biển của Hải quân Mỹ.


Ngày 4/8/1964, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ họp tại Nhà Trắng dưới sự chủ tọa của
Giơnxơn chính thức, thơng qua kế hoạch ném bom miền Bắc. Theo kế hoạch này, các
máy bay ném bom của Hải quân Mỹ sẽ đánh vào một kho xăng, 4 bến cảng và các tàu
Hải quân của ta.


Đêm 4 rạng ngày 5/8, nhiều tốp máy bay Mỹ liên tiếp hoạt động trên không phận của
Vịnh Bắc Bộ và dọc theo bờ biển các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.


Sáng ngày 5/8, chúng dựng lên câu chuyện tàu chiến Mỹ đang ở hải phận quốc tế bị Hải
quân Việt Nam tấn công lần thứ hai để đánh lừa và kích động nhân dân Mỹ và nhân dân
thế giới.


<b>III- Trận đọ sức đầu tiên</b>



Trưa ngày 5/8/1964, tại Sở chỉ huy Qn chủng Phịng khơng - Khơng qn, đồng chí
Nguyễn Quang Bích, Tham mưu trưởng Quân chủng đang làm nhiệm vụ trực chỉ huy thì
nhận được thơng báo từ Cục Tác chiến: “Tổng thống Mỹ Giônxơn đã ra lệnh cho bọn
không quân của hải quân vào đánh phá miền Bắc nước ta. Quân chủng Không quân sẵn
sàng tiêu diệt địch”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Cùng lúc đó, tại TP Vinh, các phương tiện quan sát của Trung đoàn 280 đã phát hiện thấy
nhiều tốp máy bay địch đang từ biển bay vào. Chúng bay sát mặt biển từ cửa Sót theo
dịng sơng Cả rồi đột ngột vọt lên dãy núi Hồng Lĩnh, bổ nhào đánh phá TP Vinh.


Mục tiêu của chúng là ném bom vào kho dầu trong thành phố, bắn rốckét xuống các trận
địa pháo cao trung 90 ly và các hạm tàu của Hải quân ta tại biển cửa Hội.


Ngay từ phút đầu, bom địch đã đánh trúng kho xăng ở trung tâm thành phố làm một số
bể nổi bốc cháy. Tiếng súng đánh trả của các đơn vị Trung đoàn pháo cao xạ 280 gầm lên
đĩnh đạc. Một chiếc AĐ6 bị trúng đạn, bốc cháy vào lúc 12 giờ 40 phút, lao ra phía biển
rơi cách bờ hơn 10km.


Về phía ta, một trận địa pháo bị trúng đạn rốckét, 2 chiến sĩ bị thương nhẹ.


Cùng một lúc với cuộc tập kích vào Vinh, Bến Thủy, nhiều tốp máy bay phản lực Mỹ đã
bay vào bắn phá cửa sơng Gianh, Mũi Rịn (Quảng Bình). Bộ đội phịng không và pháo
cao xạ của Hải quân hiệp đồng với lưới lửa phịng khơng các địa phương đã bắn rơi 1
máy bay địch ở vùng biển Lý Hòa.


Cuộc chiến đấu với máy bay địch ở TP Vinh và Quảng Bình kết thúc lúc 12 giờ 50 phút.
Buổi chiều vào lúc 14 giờ 2 phút, các đài rađa thuộc Trung đoàn 290, 291 phát hiện nhiều
tốp máy bay địch bay lên vùng ven biển phía Bắc.


Một tốp AĐ5 và F48 bay thẳng tới Lạch Trường, Thanh Hóa. Chúng bay thấp, lợi dụng


các vật che khuất để cơng kích vào một số hạm tàu của Hải quân ta. Nhưng khi vừa bay
tới gần Sầm Nưa, chúng đã bị hỏa lực súng máy cao xạ của Đại đội rađa 19 do Khẩu đội
trưởng Đinh Trọng Nhưỡng tiêu diệt 1 chiếc.


Các khẩu đội pháo cao xạ của bộ đội hải quân cùng phối hợp với các cỡ súng trên bờ bắn
mãnh liệt, tiêu diệt thêm 1 chiếc.


Sau 30 phút chiến đấu, quân và dân Lạch Trường đã bắn rơi 2 máy bay Mỹ, (1 cánh quạt,
1 phản lực) , tiêu diệt 2 giặc lái.


Cùng thời gian này, các phương tiện quan sát của Tiểu đồn pháo cao xạ 217 bảo vệ Hịn
Gai phát hiện địch ở ngoài khơi cách bờ hơn 10 km đang bay vào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Hai đợt đầu do hiệp đồng thiếu chặt chẽ, bắn khơng tập trung nên tồn tiểu đồn khơng
bắn rơi được chiếc nào. Tuy nhiên, lưới lửa phịng khơng của ta đã làm địch hoang mang,
thả bom trượt mục tiêu.


Địch mở đợt cơng kích lần thứ 3. Do phán đoán đúng đường bay của chúng, khẩu đội
súng máy 14ly 5 do Trung đội phó Trương Thanh Luyện chỉ huy đã đón lõng ở khe núi
khi địch từ biển bay vào.


2 chiếc A4Đ cùng 2 chiếc F4H đã bay vào tầm bắn có hiệu quả. Trương Thanh Luyện
cho khẩu đội nổ súng. Đường đạn thẳng căng găm đúng 1 chiếc AĐ4. Nó bốc cháy dữ
dội rồi đâm sầm xuống cửa Giữa cách bờ hơn 1 cây số. Tên giặc lái Mỹ Anvơrét nhảy dù
xuống biển đã bị quân và dân Hịn Gai bắt giữ. Đó là tên giặc lái đầu tiên bị bắt sống trên
miền Bắc.


Đợt cơng kích cuối cùng vào vùng mỏ Hòn Gai kết thúc lúc 15 giờ 5 phút. Thêm 1 chiếc
máy bay nữa đền tội. Trận chiến đấu vừa kết thúc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có mặt
ở trận địa, nhiệt liệt biểu dương quân và dân khu mỏ và chiến sĩ Tiểu đồn 217. Đồng chí


Vương Đình Nạp, Chính trị viên tiểu đoàn đã báo cáo với Thủ tướng diễn biến trận chiến
đấu.


Thủ tướng căn dặn CBCS: “Thắng lợi của chúng ta rất lớn nhưng mới chỉ là trận đầu.
Địch có thể quay trở lại với lực lượng lớn hơn. Các đồng chí cần nhanh chóng rút kinh
nghiệm, ln luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu để giành thắng lợi to lớn hơn
nữa”.


16h30', 8 chiếc AĐ4 chia làm hai tốp nhỏ đánh vào khu
vực Vinh - Bến Thủy lần thứ 2 (ANTG, Kỳ I, ngày
5/9/07)


* * * * *



<i><b>...Chiều tối ngày 5/8/1964, sau khi tổ chức rút kinh</b></i>
<i><b>nghiệm xong, tôi cứ ngồi mãi ở Sở chỉ huy. Niềm vui</b></i>
<i><b>chiến thắng đang ngấm dần vào từng tế bào trong</b></i>
<i><b>người tôi...</b></i>


Rút kinh nghiệm của cuộc chiến đấu buổi trưa, lần này
Trung đoàn 280 đã chủ động đánh địch từ đầu. Tất cả các
đại đội đều phát hiện được địch ở cự ly trên 10km và nổ
súng kịp thời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

chiến đấu. Anh đã anh dũng hy sinh ngay trên mâm pháo và là liệt sĩ đầu tiên của bản anh
hùng ca đánh thắng không quân đế quốc Mỹ.


Sau trận đánh, tôi đã được nghe kể lại câu chuyện này mà không cầm được nước mắt.
Buổi trưa ngày 5/8/1964, Phan Đăng Cát đã cầm giấy phép tạm biệt đơn vị để về nhà
cưới vợ. Mới đi được nửa đường, nghe tiếng súng bắn máy bay địch, anh đã tự nguyện


quay lại trận địa, nhảy lên mâm pháo, chỉ huy khẩu đội chiến đấu. Và anh đã hy sinh khi
mới 21 tuổi đời, 2 tuổi qn.


Cuộc tập kích đường khơng đầu tiên của đế quốc Mỹ vào một số vùng ven biển miền Bắc
ngày 5/8/1964 mang mật danh “Mũi tên xuyên” đã bị quân và dân ta trừng trị đích đáng.
8 chiếc phản lực bị bắn rơi trong tổng số 64 chiếc tham chiến. Ấy là tỉ lệ bắn rơi cao nhất
trong lịch sử chiến tranh kể từ sau Đại chiến thế giới thứ II tới thời điểm đó. Có một điều
lý thú là trong số máy bay


Mỹ bị bắn rơi lần này có những chiếc lại do chính những khẩu pháo cỡ 90 ly, của Mỹ sản
xuất trong Đại chiến thế giới thứ II, bắn. (Mỹ viện trợ cho Liên Xơ, sau đó Liên Xơ viện
trợ cho ta).


<b> IV- Nửa đêm đi tìm giặc lái</b>


Chiều tối ngày 5/8/1964, sau khi tổ chức rút kinh nghiệm xong, tôi cứ ngồi mãi ở Sở chỉ
huy. Niềm vui chiến thắng đang ngấm dần vào từng tế bào trong người tôi.


Tôi nhớ lại trận thắng oanh liệt đánh vào sân bay Bạch Mai năm 1950, khi tôi là Chỉ huy
trưởng Mặt trận Hà Nội, tôi cũng cảm giác sung sướng lâng lâng như thế. Tất nhiên tầm
vóc của chiến thắng lần này to lớn hơn nhiều, có ý nghĩa hơn nhiều, và vì thế niềm vui
của tơi cũng to lớn hơn nhiều.


Tơi cịn nhớ hồi đó, sau chiến thắng, Bác Hồ ở tận Việt Bắc, đã gửi điện biểu dương và
khen ngợi quân và dân Hà Nội, khen ngợi chú Hữu Tài, đến nỗi đồng chí Trần Quốc
Hồn lúc đó là Chính ủy Mặt trận cũng phải "ghen" với tơi...


Cịn lần này, Bác ở ngay Hà Nội, Sở chỉ huy Quân chủng chỉ cách chỗ Bác vài cây số,
nên tôi cứ ngồi lại sở chỉ huy, mắt trân trân nhìn vào chiếc máy điện thoại liên lạc với cấp
trên, chờ đợi...



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Bỏ máy xuống, tôi bảo trực ban tác chiến chuẩn bị xe cho tơi đi Hịn Gai ngay. Có một
việc rất quan trọng mà vì say sưa với chiến thắng tơi qn khuấy mất. Đó là giặc lái. Ý
nghĩa chiến thắng này sẽ được nhân lên gấp nhiều lần vì có tên giặc lái Mỹ bị bắt...
Lần đầu tiên một tên giặc lái Mỹ kiêu binh bị bắt sống ở Việt Nam. Đây sẽ là một sự
kiện làm chấn động thế giới. Và chính Bác Hồ với tầm nhìn xa, rộng và sâu sắc đã nhìn
thấy trước tầm quan trọng này, trong lúc tôi chỉ nhăm nhăm ngồi chờ để được Bác khen.
Lẽ ra tôi phải đi Quảng Ninh ngay sau khi trận đánh kết thúc.


Chiều tối hơm đó, mặc dầu bữa cơm đã dọn ra với những món xào thơm nức do bà Yến
vợ tôi chuẩn bị để bồi dưỡng cho tôi sau một ngày chiến đấu căng thẳng, tôi vẫn nhịn đói,
lên xe đi ngay xuống Quảng Ninh. Vấn đề quan trọng nhất của tôi lúc này là tên giặc lái
Mỹ, ngày mai đã phải lên báo cáo với Bác rồi mà đến lúc này tôi vẫn chưa trông thấy mặt
mũi nó ra sao cả.


Biết tính tơi, bà Yến lặng lẽ tiễn tơi ra tận cổng, móc túi đưa cho tơi ít tiền để tiêu pha dọc
đường. Cậu Bốc lái xe nhìn thấy nói với tơi nửa đùa nửa thật:


- Chỉ có chừng ấy làm sao đủ một bữa RTC (rượu thịt chó), thủ trưởng?


- Cái thằng này! Lúc nào cũng RTC cái gì! Nội đêm nay đưa tơi xuống tới Hịn Gai rồi
đưa tơi về Hà Nội an tồn, nếu khơng đừng có trách!


Xe đến Phả Lại trời bỗng đổ mưa như trút, nước sông cuồn cuộn chảy, phà không sang
được. Lúc này đã hơn 10 giờ đêm. Biết làm sao bây giờ?


Mưa càng to, gió thổi càng mạnh. Đứng bên bờ sơng nhìn sang bờ bên kia mù mịt mà
lịng tơi như lửa đốt. Bác hẹn 8 giờ sáng mai lên báo cáo mà đã gần nửa đêm tơi vẫn cịn
ngồi đây. Chưa nhìn thấy xác máy bay, chưa nhìn thấy giặc lái thì sẽ báo cáo với Bác ra
sao?



- Đi tìm đị, bỏ ơtơ lại!


Tơi bỗng thét to lên với cậu Định, thư ký riêng của mình.
Cậu Định bỗng trố mắt lên nhìn tơi:


- Báo cáo anh! Đêm hôm khuya khoắt thế này, lại đang mưa to gió lớn tìm đâu ra đị.
Tơi rút trong túi số tiền bà Yến đưa cho lúc chiều, nói với cậu Định:


- Tiền đây, bằng bất cứ giá nào cũng phải tìm cách đưa tơi sang sơng đêm nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

chủ đị khơng lấy tiền, cịn đi liên hệ mượn cho chúng tôi một chiếc xe tải GAZ-51 để đi
ngay xuống Bãi Cháy.


Bến phà Bãi Cháy vắng ngắt. Có lẽ anh em cơng nhân cho rằng mưa to, đêm khuya
khơng có khách nên đã về nhà hết. Chúng tơi lại phải th đị sang sơng.


Rất may, mọi chuyện đều suôn sẻ. Tôi vào cơ quan Tỉnh đội thấy anh em đang ngồi kháo
chuyện rất rôm rả bên ấm nước chè và mấy gói kẹo. Họ đang vui mừng vì chiến thắng
hơm nay. Lần đầu tiên qn và dân Quảng Ninh bắn rơi máy bay Mỹ, bắt sống giặc lái
ngay trên đất mỏ anh hùng.


Vừa vào, tôi hỏi đồng chí Tỉnh đội trưởng Quảng Ninh:
- Giặc lái đâu?


- Báo cáo anh, chúng tơi đang nhốt ở phía sau.


Tơi lao ngay ra phía sau nhà. Tỉnh đội trưởng dẫn chúng tôi đến một nhà kho. Tên
Anvơrét đang nằm trên một tấm phản, nét mặt lo lắng, có vẻ sợ hãi. Người nó nhỏ bé, có
lẽ thấp hơn tơi.



Đồng chí trợ lý quân báo Tỉnh đội báo cáo với tôi một số thông tin đầu tiên về tên giặc
lái: Tên đầy đủ: ALVAREZ EVERETT; Cấp bậc: Trung úy hải quân; Ngày sinh:
23-12-1937; Số quân: 644124; Quê quán: Salinas, bang California, Mỹ.


Tơi nói với Tỉnh đội trưởng:


- Chuẩn bị cho nó lên Hà Nội ngay!


Tơi cũng khơng qn dặn lấy cho tơi một mảnh xác máy bay có ký hiệu để đưa về Hà
Nội, báo cáo với Bác.


Cơ quan Tỉnh đội chuẩn bị cho chúng tôi một bữa cơm khá thịnh soạn. Tỉnh đội trưởng
nói:


- Báo cáo Tư lệnh, bia rượu là do nhân dân địa phương khao mừng chiến thắng đấy ạ!
Các trận địa phịng khơng của Tư lệnh chia phần cho chúng tơi nhiều lắm.


Tơi nói:


- Cơng là công của chung cả, các cậu không giúp đỡ phối hợp thì Phịng khơng làm sao
hồn thành được nhiệm vụ...


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

- Nhờ chiến thắng của Phịng khơng mà quân và dân địa phương chúng tôi cũng được
thơm lây. Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Thọ Chân và cả Đại sứ
Cuba cũng đến thăm, nhiệt liệt khen ngợi và tặng nhiều quà lắm.


Đang ăn thì đồn cán bộ cơ quan qn báo cũng đội mưa từ Hà Nội xuống đến nơi. Tôi
giao tên giặc lái cho các cậu quân báo và dặn: “Đúng 7 giờ sáng mai phải giao nó cho
Hỏa Lị. Tơi vừa gọi điện cho anh Trần Quốc Hoàn chuẩn bị "đón" nó ở Hà Nội. Khi bàn


giao phải cụ thể tỉ mỉ, kể cả cân nặng, chiều cao của nó. Vẫn chưa yên tâm, khi tên giặc
lái đã ngồi lọt thỏm trong chiếc Com-măng-ca, tơi cịn dặn thêm hai cán bộ quân báo:
- Đi đường phải hết sức cẩn thận, cảnh giác, khơng để xảy ra chuyện gì đấy.


Khoảng 4 giờ sáng, tôi rời Quảng Ninh về thẳng Hà Nội. Tơi bảo Tỉnh đội trưởng tìm
cách điện cho lái xe của tôi đang ở Phả Lại quay về Hải Dương đón tơi.


<b> V- Suy nghĩ trên sàn nhà của Bác</b>


Đúng 7 giờ 30 phút sáng ngày 6/8/1964, tơi đã có mặt ở cổng đỏ lối vào Phủ Chủ tịch.
Phải gần nửa tiếng nữa mới được gặp Bác theo hẹn. Sau suốt một đêm thức trắng, vất vả,
lẽ ra tôi phải về nhà tắm giặt, nghỉ ngơi chốc lát, nhưng tôi không thể làm thế được vì
trong người tơi đang nơn nao, đang sung sướng, hồi hộp được gặp Bác để báo công.
Tôi ngồi trong xe, tay cứ mân mê mảnh xác máy bay A4D vừa lấy ở Hịn Gai về. Đang
ngồi đợi thì anh Kinh Chi, Cục trưởng Cục Bảo vệ đến cùng Mạc Lâm, một cán bộ Cục 2
tài năng, rất giỏi tiếng Anh đến. Các anh giao cho tôi biên bản bàn giao tên giặc lái đầu
tiên với Hỏa Lò và toàn bộ hồ sơ về tên giặc lái mà các anh vừa tranh thủ hỏi cung. Tôi
cầm lấy, mừng hơn cả vớ được vàng.


Tơi nghĩ, Bác mà nhìn thấy hồ sơ này chắc Bác vui lắm.


Rất nhiều đoạn bằng tiếng Anh loằng ngoằng, nói về quê quán của tên giặc lái. Những
năm sau này, nhất là khi tôi trở thành Phó tổng tham mưu trưởng phụ trách chống chiến
tranh phá hoại, tôi càng biết rõ quan điểm của Bác đối với tù binh Mỹ chứa đầy chất nhân
văn.


Bác khơng nhất trí việc đưa giặc lái Mỹ đến gần các mục tiêu quan trọng dự kiến Không
quân Mỹ sẽ đánh phá, như biến khu nhà của điện ảnh Quân đội ở 17 Lý Nam Đế thành
trại giam giặc lái vì nơi này gần cầu Long Biên. Bác bảo: “Thiếu gì cách mà phải làm
thế”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Lúc này, Bác đang nghỉ dưỡng bệnh ở nước ngoài. Bác điện về bắt phải dừng lại ngay và
hỏi cơ quan nào chủ trương việc này, vừa vi phạm chính sách tù binh, vừa vi phạm nhân
phẩm con người. Bác bảo: “Họ là tù binh, nhưng trước hết họ là con người”. Bác cịn
gọi điện riêng cho đồng chí Hồng Tùng lúc bấy giờ là Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng
biên tập Báo Nhân dân nhắc cần phải viết một bài báo như thế nào đó để <i><b>chữa cháy</b></i> việc
này.


Vào thời điểm đó ít ai nghĩ được xa như Bác. Đến cuộc đàm phán Paris sau này mà mấy
<i><b>trăm tên giặc lái là lợi thế lớn cho phái đồn ta. Có thể nói nếu khơng có mấy trăm tên</b></i>
giặc lái đó, là biểu hiện của thất bại nặng nề, chưa chắc đã có cuộc hội đàm Paris và chưa
chắc Mỹ đã chịu ký.


Thằng Mỹ, nó khá coi trọng phi cơng. Tồn là bọn con ơng cháu cha. Có lẽ khơng ai tin
chuyện này. Một bà mẹ tỉ phú Mỹ từng gửi thư riêng cho tôi, người phụ trách cao nhất
<i><b>về giặc lái, hứa chuyển tới tôi 1 triệu USD nếu con bà được thả ra...</b></i>


Đồng chí Vũ Kỳ ra tận cổng đón tơi, ghé vào tai tơi nói nhỏ: “Hơm nay Bác sẽ tiếp cậu
ngay trên nhà sàn”.


Tôi hồi hộp bước nhẹ chân lên cầu thang, rồi im lặng đi đến phịng Bác.


Khác với lần trước, lần Bác “cạo tơi” đã vung vít đạn lên trời để “bắn chim”. Bác bắt tơi
đứng ngồi cửa gần nửa tiếng đồng hồ mới cho vào. Lần này vừa thấy tôi xuất hiện ở
cửa, Bác đã ra tận nơi cầm tay kéo vào, trên bàn đã thấy một bát phở thơm nức:


- Bác biết đêm qua chú thức cả đêm, nhịn đói, đưa được cả xác máy bay, cả giặc lái về,
thế là rất tốt, Bác biểu dương. Việc làm của chú đúng là Hữu Tài. Bác đã gọi điện cho
chú Văn, chú Tô, cả chú Thận, ngày mai tổ chức thật trọng thể lễ tuyên dương công
trạng.



Rồi Bác chỉ tay vào bát phở: Bây giờ thì ăn đi cho khỏi đói. Chỉ một lống tơi đã giải
quyết xong bát phở. Sau đó Bác pha cho tôi một cốc cà phê rất giống hương vị cà phê của
chị Việt Hoa cách đây 20 năm ở Côn Minh vẫn pha cho Bác và tôi uống mỗi sáng. Rồi
Bác rút cho tôi một điếu thuốc lá thơm, âu yếm nói:


- Uống cà phê đi, hút thuốc đi, rồi chuẩn bị báo cáo tình hình với Bác. Càng tỉ mỉ càng
tốt. Nhưng chủ yếu là khuyết điểm. Ưu điểm, Bác biết rồi. Bác nghe nói kho dầu ở Vinh
bốc cháy rồi các chú mới nổ súng. Hóa ra ta chậm hơn nó à?


Nói rồi, Bác ung dung trở lại bàn làm việc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Căn phòng của Bác giữa lịng thủ đơ Hà Nội hơm nay chẳng khác căn phịng mà gia đình
anh Tống Minh Phương và chị Nguyễn Việt Hoa dành cho Bác hồi cuối năm 1944 đầu
năm 1945 ở Côn Minh là mấy. Cũng khoảng 10m2<sub> thế này thôi, cũng chiếc bàn gỗ cũ kỹ</sub>


và chiếc giường gỗ cá nhân giản dị đơn sơ.


Nhưng hồi đó Bác là cụ Hồng, gầy gị ốm yếu đang phải hoạt động bí mật. Cịn bây giờ
là vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước Việt Nam độc lập, có tên tuổi trên tồn thế giới mà
Bác vẫn ở như thế này sao?


Cịn tơi, người lính cận vệ của Bác cách đây 20 năm, nay mới là Đại tá Tư lệnh một Quân
chủng nhưng nhà tôi ở hiện nay là biệt thự của một thằng Tây, tuy xây từ đầu thế kỷ cùng
với việc xây dựng sân bay Bạch Mai nhưng vẫn rất hiện đại và tiện nghi, gồm 6 phịng
chưa kể các cơng trình phụ, liên kết với nhau bằng một hệ thống cửa, cầu thang, ban
cơng... rất hợp lý. Mùa hè thì rất mát cịn mùa đông lại ấm.


Tôi được nghe kể, từ Việt Bắc trở về Hà Nội, các anh đề nghị Bác vào ở Dinh toàn quyền
để phù hợp với cương vị của một Chủ tịch nước, để bù đắp những ngày gian khổ Bác ở


nhà sàn Việt Bắc, nhưng Bác không đồng ý.


Bác chọn gian nhà cấp 4 của người thợ điện ở phía sau nhà Phủ Tồn quyền, mùa hè thì
nóng nực, mùa đơng thì rét buốt và Bác đã ở đây suốt 4 năm. Cho đến năm 1958, Bác
mới chuyển sang ở ngôi nhà sàn hiện nay. Bác đã cho cải tạo cái ao trước đây làm nơi
uống nước của ngựa và hươu của tên Toàn quyền thành ao cá ngay trước cửa nhà sàn,
Bác cho trồng cây xung quanh ao, những cây bụt mọc, những hàng liễu rủ và đặc biệt là
dâm bụt thì ở đâu cũng có, đứng sát bên nhau thành một hàng rào bằng cây tự nhiên rất
đẹp mắt...


Và cũng từ đây xuất hiện một hình ảnh đẹp của đất nước, của dân tộc, mà các nhà văn,
nhà thơ, các nhà điện ảnh trong nước và nước ngồi có dịp ghi lại, một cụ già tóc trắng
như tiên, sớm chiều vác cuốc tăng gia ngồi vườn, cho cá ăn trong ao... góp phần làm nên
một huyền thoại Hồ Chí Minh trong thời đại chúng ta (Kỳ II, ngày 10/9/07)


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Đoàn 280 bộ đội pháo cao xạ bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trên miền Bắc ngày
5/8/1964.


<i><b> Tơi cứ vừa nhấm nháp ly cà phê vừa nhìn Bác ngồi chăm chú làm việc mà suy</b></i>
<i><b>nghĩ.Đúng là Bác đang dồn tồn bộ trí tuệ, cơng sức để thực hiện bằng được những</b></i>
<i><b>điều Bác nói vào những ngày đầu cách mạng:</b></i>


<i>“Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc</i>
<i>lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học</i>
<i>hành. Riêng phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, sớm chiều</i>
<i>làm bạn với cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, khơng dính gì đến vịng danh lợi”.</i>


Theo tơi, đây chính là “Tun ngơn Hồ Chí Minh”, sau Tun ngơn Độc lập mồng 2/9 tại
vườn hoa Ba Đình.



<b> VI - Lễ tuyên dương công trạng</b>


Ngày 7/8/1964, tại thủ đô Hà Nội, Bộ Quốc phịng tổ chức lễ tun dương cơng trạng các
lực lượng vũ trang nhân dân đã lập thành tích vẻ vang trong các cuộc chiến đấu chống
những hành động khiêu khích và gây chiến của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta. Hồ
Chủ tịch, vị Tổng tư lệnh tối cao của dân tộc, đến dự buổi lễ long trọng này.


Bác đến sớm và rất vui. Bác ân cần hỏi thăm các đại biểu về dự lễ.
Nhìn thấy tôi, Bác hỏi:


- Chú Hữu Tài đấy à? Lên đây! Lên đây! Bác vừa gọi vừa vẫy tay. Tôi bồi hồi xúc động
khi nghe Bác gọi mình bằng tên cũ hồi đi theo bảo vệ Bác.


Thấy tơi cịn chần chừ, Bác lại gọi:


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Tơi cùng đồng chí Nguyễn Bá Phát, Tư lệnh Hải quân, sung sướng bước lên đứng bên
Bác giữa tiếng vỗ tay ran ran của cả hội trường.


Cho đến nay đã hơn 40 năm trôi qua mà tơi vẫn cịn nhớ như in lời dạy của Bác:


- Bác rất vui mừng thay mặt Đảng và Chính phủ khen ngợi các chú đã lập được thành tích
lớn trong các cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ vừa qua.


Các chú đã chiến đấu rất dũng cảm, đã bắn rơi 8 chiếc máy bay Mỹ và bắn hỏng 3 chiếc,
vừa rồi lại nghe tin 4 chiếc máy bay Mỹ đến Biên Hòa bị hỏng. Các chú đã bắt sống phi
công Mỹ, đánh đuổi tàu chiến Mỹ ra khỏi vùng biển nước ta. Như vậy là rất tốt.


Nhân dịp này, Bác gửi lời thân ái hỏi thăm các đơn vị phịng khơng, hải qn, các đơn vị
bộ đội và đồng bào ta ở các đơn vị bị giặc khiêu khích đã nêu cao truyền thống quyết
chiến quyết thắng và đã trừng phạt đích đáng kẻ địch...



Tiếp đó Bác căn dặn:


- Chúng ta phải biết đế quốc Mỹ và tay sai “chết thì chết, nết khơng chừa”. Chúng cịn
nhiều âm mưu hung ác. Trong trận này, chúng ta đã cho đế quốc Mỹ một bài học đích
đáng. Đồng thời chúng ta đã thấy rõ hơn những ưu điểm và nhược điểm của ta.


Các đơn vị bộ đội, công an nhân dân vũ trang, dân quân tự vệ và các địa phương cần rút
kinh nghiệm để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Các chú phải tiếp tục đẩy mạnh
mọi mặt công tác và luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Nhân dân ta rất u chuộng hịa bình. Nhưng nếu đế quốc Mỹ và tay sai xâm phạm đến
miền Bắc nước ta, thì tồn dân ta nhất định sẽ đánh bại chúng.


Tiếp lời Hồ Chủ tịch, Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phịng Tổng tư lệnh Võ Ngun
Giáp nói:


-...Chiến cơng vẻ vang của các chiến sĩ bộ đội phịng khơng, hải quân và các Lực lượng
vũ trang nhân dân ta có ý nghĩa lớn. Đó là ý chí sắt đá của toàn quân và toàn dân ta kiên
quyết bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ cơng cuộc lao động hịa
bình xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ở miền Bắc nước ta.


Đó là một sự trừng phạt đích đáng, dạy cho bọn kẻ cướp xâm lược Mỹ biết rằng: liều lĩnh
xâm phạm đến an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhất định chúng sẽ chuốc
lấy thất bại nhục nhã...


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

- ...Các đồng chí đã làm tốt nhiệm vụ vinh quang bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã
hội.


- Các đồng chí đã xứng đáng với đồng bào và Quân giải phóng miền Nam anh dũng hiện
đang chiến đấu và chiến thắng trên tuyến đầu của Tổ quốc...



Nhắc đến hành động xâm lược của đế quốc Mỹ, Đại tướng nghiêm khắc cảnh cáo:


- Đế quốc Mỹ hãy coi chừng! Mọi hành động khiêu khích xâm lược đối với nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa nhất định sẽ bị sức mạnh của toàn thể nhân dân Việt Nam đánh
bại...


Trước khi buổi lễ kết thúc, Hồ Chủ tịch cịn căn dặn:


- Vừa rồi, các cơ, các chú làm nhiệm vụ như vậy là rất tốt, nhưng không được chủ quan
khinh địch, phải đoàn kết cảnh giác, giặc đến là phải đánh được ngay, mà đã đánh là phải
thắng.


Bác vui vẻ giơ từng ngón tay lên nói tiếp:


- Thi đua một người làm việc bằng hai, vừa qua ta bắn rơi 8 chiếc phản lực, lần sau hai
tám mười sáu, rồi ba tám hai mươi bốn.


Thực hiện lời dặn của Bác, quân và dân miền Bắc trong 8 năm chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại không chỉ bắn rơi 8x3=24 máy bay mà đã bắn rơi 4.181 chiếc của địch,
<i><b>bắt sống không chỉ một Anvaret mà là hơn 400 tên phi cơng Mỹ, góp phần quan trọng</b></i>
vào thắng lợi chung của tồn dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc (Kỳ III,
ngày 14/9/07)


Thượng Tướng Phùng Thế Tài, ANTG


NNC Nguyễn Đắc Xuân



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>




Cuốn sách <i><b>L’Offensive Générale Des Việt Cộng Au Tet Mau Than 1968 </b></i>


Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968), 650 tr.khổ 21x27, nhà sử học VNCH Phạm Văn Sơn làm chủ biên, với
hàng trăm hình ảnh và sơ đồ, được dịch sang tiếng Pháp, tiếng Anh, phổ biến tại miền Nam Việt Nam
và nhiều nước nói tiếng Pháp tiếng Anh khác. Từ khi người Việt ở nước ngoài mở được các trang Web
riêng, các lực lượng chống đối Việt Nam đưa cuốn sử “


<i>Thân 1968” của Phạm Văn Sơn (PVS) lên nhiều trang Web, xem như một cơng trình sử học tiêu biểu</i>
khi đề cập sự kiện Tết Mậu thân 1968. Nhiều tác giả chống Cộng đã dựa vào thông tin trong sách của
PVS thêu dệt thêm, viết thành nhiều “cơng trình” khác gây nhiễu thơng tin, gây ngộ nhận đối với nhiều
độc giả không am tường lịch sử, hoặc các độc giả ra đời sau tết Mậu thân 1968. Nhiều độc giả gần xa
biết tôi đã từng tham gia cuộc “Tấn công và nổi dậy Mùa Xuân 1968


kiện nầy, trực tiếp hoặc qua thư từ, e-mail họ hỏi ý kiến tôi về nhiều thông tin chiến sự trong cuốn sách
của nhà sử học VNCH Phạm Văn Sơn. Sự thật, từ sau ngày hồ bình lập lại, Việt Nam được thống
nhất, tôi không thuộc các cơ quan được giao nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử sự kiện Tết Mậu thân. Những
gì tơi biết về cuộc “Tấn cơng và nổi dậy Mùa Xn 1968


(trong đó có tơi), tơi tìm hiểu nó giống như tìm hiểu bất cứ sự kiện nào liên quan đến lịch sử của Huế từ
xưa đến nay. Với sự hiểu biết rất hạn chế của mình, nhân 40 diễn ra sự kiện Tết Kậu thân tơi xin bình
luận về một số thơng tin (một số thôi) trong phần 23 và 24 viết về Huế trong cuốn sách


<i>Générale Des Việt Cộng Au Tet Mau Thanh 1968 của Phạm Văn Sơn. (Sách in từ tr.335 đến tr.356). </i>

*



* *





Trận Chiến Mậu ThânTác giả Phạm Văn Sơn



<b>H02.</b>Logo trang Web Trận chiến tết Mậu thâncủa Phạm Văn SơnTrận


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>PVS viết</b> “Cuối cùng vào 5 giờ sáng, Việt Cộng tràn ngập cả khu Đại Nội và tới 8 giờ sáng thì họ chiếm được cột cờ và treo lên đó lá cờ giải phóng (trên
<i>đỏ, dưới xanh, có ngơi sao vàng ngay giữa) rất lớn”. </i><b>(tr.336) </b>(1)


<b>Bình luận</b>: Phải chăng lá cờ treo trên đỉnh cột cờ Kinh thành Huế là cờ “cờ giải phóng (trên đỏ, dưới xanh, có ngơi sao vàng ngay giữa”


việc mà tất cả những ai đã sống qua ở Huế trong Tết Mậu thân 1968 đều biết rất rõ: Đó là lá <i><b>cờ của Mặt trận Liên minh Các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ</b></i>
<i><b>và Hồ bình Thành phố Huế. Lá cơ ấy trên xanh, dưới xanh, ở giữa màu đỏ với một ngôi sao vàng.</b></i> Một chuyện nhãn tiền như thế mà PVS viết sai và sự
sai lầm đó kéo dài gần 40 năm vẫn chưa có người đính chính. Chuyện nhỏ và rõ ràng đến thế mà viết sai, những chuyện lớn mà người đọc khơng thể kiểm
chứng được thì sao?


<b>PVS viết</b>: “Địch làm chủ tình hình thị xã ngay từ đêm mồng một. Trong ngày mồng hai chúng di chuyển trong thành phố kiểm sốt dân chúng như ở chỗ
<i>khơng người”. (tr.348) và “Việt Cộng đã được tự do hành động và đi lại trong các khu phố trong 3 ngày liền từ mồng 2 tới ngày mồng 4 Tết khơng bị một</i>
<i>phản ứng cụ thể nào của phía qn đội chánh phủ” VNCH. </i><b>(tr.337)</b>


<b> Bình luận</b>: Cuộc tập kích của lực lượng giải phóng vào Thành phố Huế bí mật, bất ngờ tuyệt đối khiến cho lực lượng của VNCH và Mỹ hết sức bàn hoàn.
Phải chờ đợi đến ba bốn ngày sau mới hoàn hồn và tổ chức phản kích. PVS khơng thể khơng cơng nhận thực tế đó. Thực tế đó chứng tỏ mạng lưới tình báo
CIA của Hoa Kỳ và tình báo của VNCH bị nện một đòn trời giáng. Nếu người tổ chức cuộc tấn công không giỏi, nhân dân không ủng hộ thì khơng thể giữ
được bí mật cuộc tập kích ấy. Thế mà nhà sử học PVS khơng hề có một lời bình cho kẻ thắng và người thua năm ấy.


<b>PVS viết</b>: “Chúng (tức lực lượng giải phóng) vào từng nhà dân kêu gọi mọi người ra tập hợp, phân loại những người thuộc thành phần công chức, quân
<i>nhân hay cảnh sát được tập trung lại để chúng giải thích giác ngộ và mang giữ lại một chỗ. Tại hữu ngạn sông Hương, những người bị giữ được chúng</i>
<i>mang tập trung vào tồ Đại biểu Chính phủ giam một đêm sáng hôm sau cho ai về nhà nấy.” </i><b>(tr. 348)</b>


<b>Bình luận</b>: Khơng phải chỉ ở Hữu ngạn và bên Tả ngạn việc tập trung dân chúng để nghe phổ biến chủ trương chính sách của Lực lượng giải phóng cũng
làm như thế. Điều đó chứng tỏ các lực lượng tham gia tấn cơng và nổi dậy Tết Mậu thân khơng có chủ trương giết chóc những người chưa đáng tội. PVS
khơng biết rằng nhiều người thuộc “ngụy quân nguỵ quyền” sau khi đã được nghe rõ chủ trương chính sách của Lực lượng giải phóng đã tham gia cơng tác


và sau đó khi các Lực lượng giải phóng rút ra khỏi Thành phố Huế họ lại bị chính quyền VNCH bắt tù, bị đày đoạ đến “thân bại danh liệt”. Tôi xin dẫn
chứng trường hợp Thiếu tá Cảnh sát Nguyễn Văn Cán (Quận Cán) mà tôi đã kể lại trong bài Những điều chưa nói đến


đến 302) ra đời cách đây đúng 20 năm.


2. Tội ác chiến tranh




<b>PVS viết</b>: “Mở đầu trận đánh vào Thành Nội, lực lượng Liên quân Việt-Mỹ đã quyết tâm


<i><b>địch bằng mọi giá</b>. Các khu trục cơ của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ từng đợt một đã đến oanh tạc</i>
<i>vào Thành Nội Huế trong 2 ngày liên tiếp. Hôm 14 tháng 2, lần đầu tiên trong trận đánh 16 ngày tại</i>
<i>Huế, phi cơ đã ném bom vào những bức tường kiên cố. Các loại bom được dùng là bom Napalm, hoả</i>
<i>tiễn 6.8 và bom hơi cay thả vào các vị trí Việt Cộng cùng bức tường đá dày 2 mét. Nhưng qua hôm 15</i>
<i>tháng 2/1968 các phi cơ đã thả các loại bom 250, 500 và 750 cân Anh</i>


<b>Bình luận</b>: Để phản kích lại các lực lượng giải phóng, qn đội Mỹ đã sử dụng tất cả những loại vũ
khí (trừ bom nguyên tử và B.52) mà nước Hoa Kỳ đã sản xuất được đến thời điểm 1968 để đánh chiếm
lại Huế “bằng mọi giá”. Khơng có bất cứ một cơ sở văn hoá lịch sử dân sinh nào được quân đội Mỹ
miễn xạ kích. Cuộc phản kích huỷ diện nầy chưa một lần nghe các lực lượng mệnh danh “quốc gia” lên


<b>H03.</b> Thuỷ quân lục chiến Mỹ tái chiếm Kinh thành Huế với
tất cả sức mạnh của hoả lực của quân đội Hoa Kỳ. <i>Ảnh TL</i>
<i>K. William Nolan</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

án, chưa có một sử gia mệnh danh của VNCH cũ nào thấy đau xót cho dân tộc mình.


<b>PVS viết</b>

:

“Quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Hoa Kỳ đã phải tiếp vận lương thực và đạn
dược vào Thành Nội bằng phi cơ trực thăng vì con đường chuyển vận trên sông Hương từ cầu tàu hữu

ngạn sang bến Bao Vinh thuờng bị Việt Cộng đặt súng tại ngã Đơng Ba và Gia Hội pháo kích hịng
đánh chìm các hải thuyền. Hai xe tăng 124 <b>sáu-nòng ghép Ontos</b>


giật 106 ly bắn sang phía Đơng Ba và Gia Hộị. Phía Đơng Ba và Gia Hội mù mịt khói đen, khói nâu”.


<b>(tr.345)</b>


<b>Bình luận</b>: Sau Tết Mậu thân 1968, trong cơn say thù hận, PVS có thể ghi lại một cách thản nhiên
sự phản kích tàn bạo của quân đội Hoa Kỳ huỷ diệt Thành phố Huế như thế, nhưng bốn mươi năm sau,
chuyện Hoa Kỳ xâm lược Việt Nam đã được chính lịch sử Hoa Kỳ thừa nhận mà các lực lượng thù
địch vẫn lấy làm thích thú đưa những thơng tin tội ác của quân đội Mỹ huỷ diệt Thành phố Huế trên lên
Internet và xem đây như một sự phô trương uy lực của quân đội Hoa Kỳ. Thật là một sỉ nhục dân tộc.


<b> </b>


<b>PVS viết</b>


<i>khá nặng.Hai bên nóc cửa Ngọ Mơn bị pháo kích</i>
<i>trúng gẫy cả cột, xiêu cả mái ngói”.(tr. 351)</i>


<b> Bình luận</b>: Các lực lượng giải phóng đi đến đâu thì hầm hố trú ẩn được triển khai đến đó. Lực


lượng giải phóng lên lầu Ngọ Mơn làm gì để cho lầu Ngọ Mơn trở thành mục tiêu cường kích của qn


đội Mỹ ? Việc quân đội Mỹ phá hủy lầu Ngọ Mơn chẳng qua vì “giận cá chém thớt” mà thơi. Và,


không chỉ Ngọn Môn mà cả Kinh thành Huế đều là nạn nhân của “cơn giận Mậu thân” của quân đội


Hoa Kỳ.



<b> </b>


<b> </b>Tôi nghĩ ngày nay UNESCO nên có một chương trình sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, hình ảnh của


Di sản thế giới hơm nay đã từng bị quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam vi phạm như thế nào. Đây cũng là


một bài học cho hôm nay và mai sau, không những của Việt Nam và Hoa Kỳ mà còn cả thế giới.


<b> </b>


<b>PVS viết</b>


<i>còn nguyên vẹn, nhưng đồ vật xung quanh đổ nát.</i>
<i>Các hoành phi trướng đối đều bị hư hại rách nát</i>
<i>dưới đóng gạch ngói. Các thống choé của các đời vua hầu như bị vỡ hết do tiếng dội cùng các mảnh</i>
<i>đạn của bích kích pháo. Thành nội với một chiều dài 2 cây số rưỡi kể như hoàn toàn bị tàn phá. Khu</i>
<i>đường Nguyễn Thành chỉ còn là một đống gạch vụn. Bức tường thành kiên cố bao quanh cũng bị đổ vỡ</i>
<i>nhiều chỗ...”(tr. 351)</i>


<b> Bình luận</b>:Đoạn tin trên cùng với hình ảnh kèm theo ghi quá rõ về tội ác của quân đội Mỹ phá huỷ
Kinh thành Huế - kinh thành di sản số 1 của dân tộc Việt Nam, một di sản của thế giới. Ngày
14-2-1968, khi quân đội Hoa Kỳ thực hiện cuộc thả bom huỷ diệt ấy đội công tác Thanh niên của tôi đang
núp dưới hầm đào trong nhà Duyệt Thị Đường trong Đại Nội. Tôi và những người sống sót cịn sống
đến hơm nay có Trần Thân Mỹ (Huế), Đặng Văn Sở (Đà Nẵng), Nguyễn Thị Đoan Trinh (TP HCM),


<b>H05.</b> Không lực Hoa Kỳ dội bom lửa phá huỷ Kinh
thành Huế. Ảnh TL Internet


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Lê Hữu Dũng (TP HCM), Hồ Tịnh Tình (TP HCM) .v.v. Chúng tôi hiểu thế nào là tội ác tầy trời của quân đội Hoa Kỳ. Lòng yêu Huế trong tôi ngập tràn
ngay trong những giờ phút nguy nan ấy. PVS là một nhà sử học Việt Nam, tác giả bộ <i>Việt Sử Tân Biên 5 tập rất nổi tiếng, nhưng vì chấp nhận làm “đồng</i>


minh” của Mỹ nên khơng hề có một lời lên án Hoa Kỳ về tội ác huỷ diệt văn hoá Việt. Hơn 30 năm qua, tơi cũng có nhiều dịp gặp những người yêu Huế ở
“bên kia”, tôi hỏi “Các vị chống Cộng, chống kháng chiến quý vị cứ bắn Cộng, bắn kháng chiến nhưng tại sao quý vị lại chấp nhận để cho Mỹ “


<i><b>địch bằng mọi giá</b></i>” mà cái giá cao nhất là huỷ diệt Kinh thành Huế niềm tự hào của dân tộc Việt Nam? Nhiều người phản ứng tôi rất dữ dội. Và, sau nầy đọc
đoạn bình luận nầy chắc cũng cịn nhiều người bất bình quan điểm của tôi nữa. Tuy nhiên tôi cũng gặp được nhiều người dù trước đây ở “bên kia” nhưng
cùng một nỗi căm giận quân đội Hoa Kỳ huỷ diệt Thành phố Huế năm 1968 như tơi.Ví dụ như bác sĩ B. Suốt cuộc tấn công và nổi dậy của các Lực lượng
giải phóng Huế Tết Mậu thân 1968, ơng ẩn mình trong một đống gỗ ở đường Hàng Bè, hằng ngày nghe tin tức chiến sự bằng một cái đài bán dẫn. Khi nghe
Tổng thống Johnson ra lệnh cho quân đội Mỹ đẩy lui lực lượng giải phóng ra khỏi Huế bằng bất cứ giá nào, có thể phá huỷ Kinh thành Huế rồi sau nầy Hoa
Kỳ sẽ viện trợ phục hồi trở lại. B. quá lo lắng nhưng rồi những gì sẽ xảy ra cũng đã diễn ra. Cách đây mấy năm, gặp tôi ở Mỹ, bác sĩ B. cho biết anh đang
vào Thư viện Quốc hội Mỹ sao lại cuốn băng ghi lệnh của Tổng thống Johnosn tháng 2-1968, anh chờ khi nào Hoa Kỳ trở lại hoạt động với UNESCO anh sẽ
yêu cầu Hoa Kỳ thực hiện lời hứa của Tổng thống Johnson tháng 2-1968.


<b> PVS viết</b>: “Sau vụ tổng cơng kích, Huế bị tàn phá tới 80% nhà cửa”. (tr. 351)


<b> </b>


<b>Bình luận</b>: Thủ phạm phá huỷ 80% nhà cửa xứ Huế không ai khác là bom pháo của Hoa Kỳ. Các lực
lượng giải phóng với cơ số đạn rất hạn chế, tồn bộ súng đều vác trên vai không thể nào phá huỷ được
nhà cửa một cách triệt để như thế. Điều đáng quan tâm là dân chúng sở hữu 80% nhà cửa bị phá huỷ ấy
chạy đi đâu? Trong cuốn sử quan trọng nhất của VNCH về Tết Mậu thân không thấy tác giả PVS đề
cập đến số người chết và bị thương do 80% nhà cửa của họ bị bom Mỹ phá sập. Hay số người chết do
bom đạm Mỹ ấy cũng được gộp chung vào con số mà VNCH đã công bố “thường dân Huế bị VC sát
hại


3. PVS ghi lại sự thực nhưng...



<b> PVS viết:</b><i> “Đến ngày 10 tháng 2/1968, người ta mới bắt đầu thu lượm xác chết Việt Cộng và dân</i>
<i>chúng nằm rải rác khắp các khu phố và trong những nhà đỗ nát. Những xác chết này gây nên một mùi</i>
<i>tử khí nặng nề. Người ta phải vội tạm chơn ngay bên đường, không thể dời ra nghĩa địa được”.</i>
<i>(tr339). </i>



<b> Bình luận</b>: Đó là một sự thực. Trong hồn cảnh chiến tranh như thế khơng ai có thể làm gì khác hơn
việc “vội tạm chơn ngay bên đường” những “xác chết Việt Cộng và dân chúng nằm rải rác khắp các khu phố và trong những nhà đỗ nát”.


thanh niên của tôi đã làm việc chôn người chết suốt nhiều ngày đêm dọc đường Nguyễn Thành, và các con đường thuộc P.Thuận Thành ngày nay. Đọc đoạn
thông tin lịch sử nầy người ta không thể không tự hỏi:


- “Ai giết những Việt Cộng và dân chúng chết nằm rải rác” ấy ?
- “Chôn tạm từng xác hay dồn nhiều xác vào trong một hố ?”


- “Sau Tết Mậu thân chính quyền VNCH đào những xác ấy lên có ai xác nhận đó là xác dân, xác Việt Cộng do lính VNCH và Mỹ giết hay lại gộp chung
vào danh sách “dân thường đã bị Việt Cộng sát hại ?”


- Có ai xác nhận là những hố chơn tập thể nào do các lực lượng giải phóng chơn và những hố nào lính VNCH thực hiện ?
- Sau tết Mậu thân có tài liệu nào xác nhận rằng VNCH từng chôn người tập thể không ?


Cuộc phản kích tâm lý chiến một chiều của Mỹ và VNCH sau tết Mậu thân rất dữ dội nhưng tiếc thay việc đấu tranh với cuộc tâm lý chiến ấy để bảo vệ sự
thật của các nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam chưa đúng tầm nên mỗi lần đề cập đến cuộc chiến nầy thường thấy phức tạp nên ngại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<b> PVS viết</b>: “Tính từ ngày 31 tháng 1/ 1968 đến ngày 9 tháng 2/1968, nghĩa là trong 10 ngày, tại hữu ngạn sông Hương, thiệt hại Việ
<i>4 bị bắt, thu 307 súng” (tr.339). </i>


<b> Bình luận: </b>Khơng rõ PVS căn cứ vào hồ sơ thống kê nào để đưa ra con số 934 “Việt Cộng” chết ? PVS sử dụng tài liệu đã công bố của Cảnh sát trưởng
Huế Đồn Cơng Lập ? hay của Douglas Pike - cán bộ tun truyền của sở Thơng tin văn hố Hoa Kỳ USIS ? Giả sử con số đó đúng


“Việt Cộng” hy sinh đó có được các Lực lượng giải phóng đem lên rừng không ? Chắc chắn là không. Vậy chôn ở đâu ? Hay cũng chỉ được chôn tạm vệ
đường hay đã hoàn thành nhiệm vụ nằm lại trên đường phố hay các nhà dân, và được chính quyền VNCH chơn tạm đâu đó rồi sau tết Mậu thân dời lên Ba
Đồn? Ngoài những người mặc quân phục bộ đội giải phóng, VNCH làm sao có thể phân biệt được xác nào là của “Việt Cộng” và xác nào là của “Quốc
Gia” ? Nếu các lực lượng giải phóng là người Âu Mỹ cao lớn thì chuyện phân biệt quá dễ dàng. Ở đây anh là Việt Cộng, em bị bắt đi lính “Quốc Gia”, (hoặc
ngược lại (2), cùng chết trên một chiến trường, lấy tiêu chí gì để phân biệt các cái xác đã sình chương thối rữa của hai người ấy ? Sau tết Mậu thân, VNCH di


chuyển 934 thi thể “Việt Cộng” ấy khỏi thành phố Huế và chôn ở đâu ? Chôn riêng từng người hay chôn chung trong nhiều nấm mộ tập thể ? Hay VNCH
gộp luôn 934 người ấy vào tổng số những người mà Mỹ và VNCH tố cáo là “đã bị Việt Cộng sát hại trong tết Mậu thân”? Bốn mươi năm qua tơi chưa hề
được nghe bên phía “Quốc Gia” trả lời câu hỏi nầy.




Và, trong suốt cuốn sách của PVS tơi khơng đọc thấy ở đâu có đề cập đến việc quân đội Hoa Kỳ bắn
giết dân thường một cách bừa bãi và cuộc trả thù dân chúng một cách khốc liệt của quân đội Hoa Kỳ và
quân đội VNCH sau khi các lực lượng Giải phóng đã rút ra khỏi Huế. Nhiều người có lương tri trên thế
giới đã rất phẫn nộ về việc nầy. Nhà ngôn ngữ sinh thái Noam Chomsky and Edward S. Herman, trong
cơng trình <i><b>“The Political Economy of Human Rights”,</b></i>


tại mục 5.2.3 The Hue Massacre of 1968 đã bày tỏ rằng: “Một sự


<i><b>việc số đông thường dân bị giết chết trong cuộc chiếm lại thành phố Huế bởi đạn pháo kích của Mỹ</b></i>
<i><b>và Nam VN được bắn một cách bừa bãi.</b></i> David Douglas Duncan, một nhà nhiếp ảnh chiến trường nói
về <i><b>cuộc tái chiếm rằng đó là “một sự nỗ lực dốc hết sức để loại bỏ bất cứ một kẻ địch nào. Tâm trí</b></i>
<i><b>tơi bấn loạn trước cuộc tàn sát</b></i>.” Một nhà nhiếp ảnh khác, viết rằng


<i><b>bởi bom đạn được bắn một cách kinh hồng chưa từng thấy của Mỹ”</b></i>


<i><b>“Khơng có gì trong cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam khi nói về sự tàn phá, mà tơi thấy kinh</b></i>
<i><b>hồng bằng những điều tơi thấy được ở Huế năm ấy</b></i>


<i>hồn tồn bị phá hủy và 3.169 ngơi nhà bị thiệt hại khá trầm trọng</i>


Noam Chomsky - một học giả tiêu biểu cho lương tri Hoa Kỳ từ hơn bốn mươi năm qua. Không
những ông phê chuyện đạo đức của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam bốn mươi năm trước mà ngay bây
giờ ở Mỹ ông cũng là người được dân Mỹ tin cậy về những gì ơng nói về sự sai lầm của Mỹ ở Irak.


Nhưng thử hỏi, sau PVS, hơn 30 năm qua ở các nước Âu Mỹ có nhà sử học Việt Nam “quốc gia” nào
nói đã đọc Noam Chomsky? đã nói đến tội ác của quân đội Hoa Kỳ và VNCH tàn sát dân Huế trong và sau Tết Mậu thân? Quá hiếm.


*


* *



Vì giới hạn của một bài viết tơi khơng thể bình luận hết những điều cần phải bình luận trong cuốn sách <i><b>l’Offensive générale des Việt Cộng au Tết Mậu</b></i>
<i><b>thân 1968 </b></i>của Phạm Văn Sơn. Qua bài viết nầy tôi chỉ muốn đặt vấn đề: Sự kiện tết Mậu thân 1968 đã diễn ra đúng 40 năm, nó đã trở thành một sự kiện lịch
sử lớn của dân tộc. Vì thế các nhà sử học phải nhìn sự kiện đó dưới con mắt của khoa học lịch sử. Muốn đưa một thông tin lịch sử cần phải có tài liệu chính
xác, các thơng tin lịch sử có mối quan hệ mật thiết với nhau, nó là <b>quả của một nhân và rồi nó cũng là nhân của một quả khác</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Mỹ trút xuống Huế phá huỷ 80% thành phố mà không đề cập đến dân chúng sống trong 80% nhà cửa bị sụp đổ đó đã bị giết chết như thế nào? Ai đã lên án
hành động huỷ diệt con người đó của quân đội Mỹ ở Huế năm 1968? Không thể viết quân đội Mỹ phá huỷ Kinh thành Huế mà khơng nghĩ đến việc địi Hoa
Kỳ phải bồi thường chiến tranh xây dựng lại Huế? Bốn mươi năm qua tôi chưa hề nghe các nhà sử học trong cũng như ngoài nước lên tiếng về vấn đề nầy.




Cách đây năm năm tôi đã viết một bài đính chính “khơng có sự kiện máy bay miền Bắc tập kích khu Mang Cá trong tết Mậu thân


chí đã đăng. Bài viết mang tựa đề: “Về sự kiện không quân ta ném bom vào căn cứ Mang Cá ở Huế trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968
và được tạp chí Lịch sử Quân sự Việt Nam đăng ngay số 1 (139) tháng 1&2 - 2002 (tr.69-71). Sau đó được đăng lại trên


tr. 30-34 với tựa đề “Trong Tổng Tấn Công Và Nổi Dậy Xn 1968, Có Chuyện Khơng Qn Ta Thả Bom Vào Căn Cứ Quân Sự Mang Cá Của Địch Ở Huế
<i>Khơng ?” Bài viết được độc giả trong và ngồi nước hết sức hoan nghinh. Và, tôi cũng nghĩ rằng, sau khi Việt Nam vào WTO, hàng hoá Việt Nam muốn hội</i>
nhập bắt buộc phải được sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế. Sản phẩm trí tuệ, sản phẩm khoa học xã hội, đặc biệt là sách sử của Việt Nam muốn xuất khẩu và
muốn để lại cho đời sau cũng phải được biên soạn dưới con mắt của khoa học lịch sử thông dụng của thế giới hiện nay. Trong hoàn cảnh hội nhập hiện nay,
các nhà sử học Việt Nam có thể tiếp cận được những nguồn tư liệu của đối phương trước đây. Ví dụ như của Noam Chomsky


hồi ký của Nguyễn Thị Thanh Sung (4) v.v. Trong một phạm vi hẹp, nên chăng các viện nghiên cứu lịch sử của Đảng, của Nhà nước và của Qn đội Việt
Nam cần xem lại những cơng trình, những bài viết về Tết Mậu thân (trên toàn miền Nam Việt Nam): Cái gì nên giữ, cái gì nên bổ sung, cái gì nên sửa và cái


gì nên bỏ đều phải cân nhắc kỹ. Khi chúng ta thực hiện được ý tưởng nầy tôi tin chắc các nhà sử học Việt Nam trên thế giới họ cũng sẽ đọc lại, khơng những
sách của Phạm Văn Sơn mà cịn của nhiều tác giả khác, trong đó có các tác giả ngoại quốc. Hy vọng lắm thay !




Huế, ngày 15-12-2007
NDVN, ngày 19/1/08


Chân dung Tập đồn “Lính Đánh Th” Ngụy qn - Ngụy Quyền



</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Tướng Cao Văn Viên - Tướng Ngô Quang Trưởng - Tướng Đặng Văn Quang


Tướng Nguyễn Văn Toàn - Tướng Lâm Quang Thi - Tướng Vĩnh Lộc - Tướng Lý Tịng Bá


<i><b>(....Ít lâu sau khi họ đến Guam, nhiều tướng bại trận (hay tự sát hay bị giết như NĐD, </b></i>NDVN<i><b> )bị nhốt trong những chuồng sắt</b></i>


tư lệnh Quân khu III, kiệt sức, bị đẩy vào giữa nhóm, ngồi xuống một ghế quay. Tướng Tưởng, người bảo vệ Đà Nẵng đau mắt nặng, khơng cịn trơng thấy
chiếc ghế. Một lúc sau, một sĩ quan hải quân Mỹ vào, bắt ông ta cởi binh phục. Một viên tướng hỏi: <i><b>“chúng tơi có thể đeo hn chương khơng</b></i>


trả lời<b>: </b><i><b>“Khơng! Các anh khơng cịn qn đội, khơng cịn Tổ quốc!”</b></i>(tr 376)….)


30/4/75 DIỄN BIẾN THÁO CHẠY TÁN LOẠN



</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Nói đến diễn biến tình trạng rã đám của chính quyền và quân đội miền Nam là phải nói đến tình trạng này bắt đầu rã đám vào thời điiểm nào? Các nhà viết
sử đều cho rằng việc rã đám của chính quyền và quân đội miền Nam thực sự đã khởi sự vào ngay khi Tổng Thống Nixon thúc ép Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu phải chấp nhận Thỏa Hỉệp Paris được ký kết vào ngày 27/1/1973.


Sau khi bị Hoa Kỳ thúc ép như vậy, tinh thần bỏ chạy đã bắt đầu nhen nhúm trong đầu óc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và tất cả những nhân vật cao
cấp trong chính quyền miền Nam. Họ đều biết rõ là vào thời điểm quân đội Hoa Kỳ bắt đầu rút khỏi miền Nam thì cũng là thời điểm chính quyền miền Bắc
bắt đầu chuẩn bị phát động những chiến dịch quân sự tấn công miền Nam. Họ cũng biết rằng, ở vào tình huống đó, chắc chắn là qn đội miền Nam với tinh


thần đánh thuê sẽ không thể nào đương đầu nổi với quân đội Miền Bắc. Họ cũng biết rằng quân đội miền Bắc không những can trường, thiện chiến và được
võ trang bằng lịng u nước đã có thành tích lẫy lừng đánh bại Liên Quân Pháp – Vatican trong cuộc chiến 1945-1954 và sau đó đã quyết tâm liều chết
chiến đấu để hồn thành sứ mạng giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Biết rõ như vậy, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và tất cả các nhân vật cao
cấp trong chính quyền miền Nam quay ra tìm cách vơ vét cho đầy túi tham, chuẩn bị hành trang khăn gói chờ ngày tẩu thốt ra nước ngồi để hưởng thụ.
Việc mưu đồ muốn tư nhân hóa nhà bưu điện Sàigòn vào năm 1974, vụ còi hụ Long An, và vụ các ông quan lớn quan nhỏ hè nhau tháo gỡ cướp đoạt những
đồ đạc trang bị các cơ sở và căn cứ quân sự của quân đội Hoa Kỳ như ở căn cứ Đồng Tâm [24] chỉ là một vài trong số hàng ngàn bằng chứng nói lên thực
trạng này.


Nói cho rõ hơn, những nhân vật nắm giữ những chức vụ cao cấp trong chính quyền và trong quân đội miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975
chỉ là bọn người vong bản, phản dân tộc, xu thời, tham nhũng, được quan thày Mỹ - Vatican đưa lên phục vụ cho quyền lợi cho chúng. Khi quan thày của
chúng phải cuốn gói ra đi thì chúng cũng tìm cách vơ vét thâu tóm tom góp tiền bạc của cải và cùng vợ con cuốn gói ra đi với quan thày.


Còn về Giáo Hội La Mã, qua vai trò của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, một thế lực đã liên kết chặt chẽ với Hoa Kỳ từ năm 1954 và cùng với Hoa Kỳ
nắm quyền sắp xếp các nhân sự và đưa người lên cầm quyền ở miền Nam để làm tay sai cho cả Giáo Hội và Hoa Kỳ, lúc đó,đã tính tốn như thế nào để
chuẩn đối phó với tình hình và thích nghi với hoàn cảnh mới khi miền Nam Việt Nam đổi chủ?


Nói một cách văn tắt là Giáo Hội La Mã cũng biết rõ là sau khi ký xong Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, đương
nhiên là miền Bắc sẽ tấn công miền Nam, và chắc chắn là quân đội miền Nam sẽ tan rã rất mau. Biết rõ như vậy, Toà Thánh Vatican mới ra lệnh cho Hội
Đồng Giám Mục chuẩn bị tinh thần để đương đầu với tình thế mới bằng cách thay hình đổi dạng từ con cọp hung dữ đã tung hành ở miền Nam từ năm 1954
biến thành con cừu hiền lành để làm ngi ngoai lịng căm phẫn của nhân dân và chính quyền mới ở miền Nam. Có như vậy thì mới hy vọng tránh được
những địn thù của nhân dân miền Nam và những biện pháp trừng trị của tân chính quyền, và như thế mới có cơ may tồn tại.


Tuy nhiên, lời giải thích vắn tắt trên đây sẽ khơng làm hài lịng cho cả<b> giới người có niềm tin vào cái chính nghĩa quốc gia </b>


<b>nhìn xuyên suốt đầy đủ và rõ ràng về vấn đề này</b>. Vì vậy, chúng tơi xin đưa ra phần trình bày dưới đây với hy vọng sẽ làm hài lịng cà hai giới người nói
trên.


* *


*




</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

miền Nam Việt Nam” .[25].


Như đã trình bày ở trên, tại miền Nam, trong những năm 1954-1975, hầu như tất cả các phạm vi sinh hoạt trong chính quyền cũng như ở ngồi xã hội
(hành chánh, quân sự, kinh tế, tài chánh, văn hóa, xã hội, giáo dục, truyền thông) đều bị Giáo Hội La Mã và nhóm thiểu số tín đồ Da-tơ cuồng tín kiểm soát,
thao túng, vơ vét cho đầy túi tham. Ngay cả chương trình học ở bậc tiểu và trung học cũng bị kiềm soát chặt chẽ để phục vụ cho chính sách ngu dân và giáo
dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã. Đặc biệt là môn công dân và môn sử (sử thế giới và sử quốc gia) đều bị kiểm sốt chặt chẽ để bưng bít những việc làm bất
chính của Giáo Hội. Những việc làm bất chính này là những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã đã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua và chống
lại dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỷ 16 cho đến ngày nay. Tất cả những việc làm này cùng với chính sách bách hại Phật Giáo và chèn ép các thành phần các
tôn giáo không phải là đạo Da-tô đã khiến miền Nam nát bấy như tương và khiến cho gần 90% dân chúng miền Nam đều hướng về chính quyền miền Bắc,
cơng khai hay bí mật ủng hộ hay tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam với hy vọng thốt khỏi được móng vuốt của con cọp Da tơ hung dữ. (Xin xem lai
Mục XXIII, chương sách nói về “Thành Phần Nịng Cốt Trong Nhân Dân Được Chính Quyền Tin Cậy”...


Vì thế, việc Hoa Kỳ rút quân ra khỏi miền Nam (theo Hiệp Định Paris 1973) đã làm cho Giáo Hội đứng trước một viễn tường vô cùng đen tối, giống y
như viễn tượng đen tối của Giáo Hội trong biến cố Cách Mạng 1789 và viễn tưỡng đen tối trong biến cố Quốc Quân Trung Hoa dưới quyền lãnh đạo của
Tưởng Giới Thạch bị đại bại trước sức mạnh của Hồng Quân Trung Hoa, phải cuốn gói chạy thốt thân ra Đảo Đài Loan vào mùa thu năm 1949.


So Sánh Đối Sách của Vatican vào Thời Điểm 1950 và Thời Điểm 1950



<b> A.- Thời Điểm 1950:</b> Biến cố Quốc Quân Trung Hoa đại bại trước sức mạnh của Hồng Quân Trung Hoa và chạy thục mạng ra hải đảo Đài Loan vào mùa
thu năm 1949: Biến cố này khiến cho Liên Minh Pháp - Vatican đang thống trị Việt Nam bước dần đến bờ vực thẳm tan rã, và Giáo Hội La Mã phải liệu bề
tính kế:


<b>1</b>.- Tẩu tán những khối bất động sản khổng lồ của Giáo Hội ở Việt Nam đã cướp đoạt của nhân dân ta trong những năm 1862-1950. Những khối bất động
sản khổng lồ này do các ông tu sĩ Da-tô người Pháp đứng tên, bây giờ phải sang tên cho các ông tu sĩ Da-tô người Việt bằng cách ra lệnh cho chính quyền bù
nhìn Bảo Đại ban hành Dụ số 10 vào ngày 6/8/1950. Sự kiện này được ông Da-tô Nguyễn Văn Châu ghi lại bằng xảo thuật ngôn ngữ Da-tô với nguyên văn
như sau:


”Chiếu dụ số 10 do Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành ngày 6 tháng 8 năm 1950 ấn định quy chế các hiệp hội tôn giáo, thật sự là nhằm giúp đỡ Phật giáo
<i>(sic) và miễn áp dụng cho các tơn giáo và giáo phái khác, mặc dù có những điều khoản bênh vực bảo vệ của cải bất động sản của Hội Thừa Sai Ba Lê, của</i>
<i>cải của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nhưng lại do người Pháp đứng tên nên thuộc quyền sở hữu của Pháp. Nhân dịp chuyển giao đất đai Nhà Chung đó</i>


<i>cho hàng Giám Mục Việt Nam, nhiều vấn đề phức tạp đã xẩy ra.”.[26] </i>


<b>2</b>.- Ra lệnh cho Giám-mục Ngơ Đình Thục dẫn ơng Ngơ Đình Diệm đến Hoa Kỳ giao cho Hồng Francis Spellman vận động với chính quyền Hoa Kỳ
thành lập Liên Minh Mỹ - Vatican và đưa ơng Ngơ Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền để duy trì và củng cố quyền lực của Vatican tại Việt Nam.


<b> B.- Thời Điểm 1975:</b> Biến cố Thỏa Hiệp Paris 1973 quy định việc Hoa Kỳ rút hết quân ra khỏi Việt Nam vảo cuối năm 1974: Biến cố này khiến cho Liên
Minh Mỹ - Vatican tan rã và làm cho Vatican (đã thống trị miền Nam từ năm 1954) bước dân đến trên bờ vực thẳm tan rã và Giáo Hội La Mã cũng phải liệu
bài tính kế:


<b>1</b>.- Ra lệnh chuyển hết tiền bạc trong nhà ngân hàng Đại Nam ra khỏi miền Nam Việt Nam. Chuyện này được ông Vũ Trọng Minh nói rõ trong lá thư ngỏ
đề ngày 15/3/1995 gửi Giáo Hồng John Paul II, trong đó có một đoạn với nguyên văn như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i>Năm 1954, Pháp bị Cộng Sản đánh bại, phải rút khỏi Việt Nam, họ liền bí mật bán cho nhà Chung (Giáo Hội La Mã), không ai biết bao nhiêu, nhưng chắc</i>
<i>chắn là rẻ mạt vì Hiệp Định Genève đang tiến hành, trước sau cũng mất. Đất bán cho nhà Chung cứ để y nguyên nên ai cũng tưởng là đất của chính phủ lấy</i>
<i>lại của Tây. Đến năm 1970, nhà Chung Công Giáo chia lô làm nhà bán cho người ta mua làm nhà vì dân số đơ thành lúc đó đã tăng lên gấp năm lần, nhà</i>
<i>bán chạy như tơm tươi. Mỗi lơ bán trung bình hai trăm năm mươi ngàn đồng bạc lúc đó. Số tiền bán nhà đất thu về sơ sơ cả mấy trăm triệu, khơng biết có</i>
<i>gửi về nhà băng Tịa Thánh hoặc các ngân hàng khác không? Chỉ biết một phần số tiền đó các Ngài dùng để mở Ngân Hàng Đại Nam. </i>


<i><b>Sản thống nhất tồn bộ đất nước, có lẽ các Ngài biết rõ tình hình sắp sụp đến nơi nên thu vốn lại, khơng rõ đem đi đâu vì Ngân Hàng Đại Nam không</b></i>
<i><b>kèn không trống biến mất tiêu trước ngày 30/4/1975. Thế là đất nước Việt Nam bị kẻ cướp thực dân lấy khai thác chán chê rồi bán cho bạn chí thiết</b></i>
<i><b>của kẻ cướp là Giáo Hội Công Giáo</b></i>.


Chưa ai thấy ơn cứu rỗi của Chúa và Giáo Hội Công Giáo đâu cả, <b>chỉ thấy tài sản đất nước tôi chuyền từ tay bọn ăn cướp ngày là thực dân sang tay</b>
<b>bọn cướp đêm là công ty bán vé cứu rỗi của quý Ngài</b>.”[27]


<b>2</b>.- Giáo Hội La Mã phải tạm thời từ bỏ lập trường hiếu chiến, chuyển sang chủ trương hịa hỗn với chính quyền Hà Nội bằng cách ngầm ra lệnh cho các
tín đồ đang nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền và quân đội miền Nam thi hành kế sách “tẩu vi thượng sách”, để Hội Đồng Giam Mục
Việt Nam chuẩn bị cho việc “chuyển cái thế đang là con cọp hung dữ ở Mỉền Nam biến thành con cừu hiền hòa để tồn tại


của Giáo Hội La Mã mà sử gia Loraine Boettner đã nói rõ như đã trình bày ở trên. Xin ghi lại lời nói này để độc giả dễ nhìn ra vấn đề:



“Rome in the minority is a lamb (Khi là thiểu số, Giáo Hội La Mã là con cừu).Rome as an equal is a fox (khi ngang số, Giáo Hội La Mã La Mã là con
<i>cáo).Rome in the majority is a tiger (khi chiếm đa số, Giáo Hội La Mã là con cọp.)”[28]</i>


Do đó, chúng ta khơng lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông Tổng Thống Da-tô Nguyễn Văn Thiệu triệu tập buổi họp tại Dinh Độc Lập vào ngày 13/3/1975 để
bàn nhau rút lui khỏi miền Trung và chuẩn bị tẩu thoát. Sự kiện này được Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ghi lại như sau:


“Ngày 13/3/1975, tại dinh Độc Lập tổng thống Thiệu họp với thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên, trung tướng Đặng Văn Quang, trung
<i>tướng Ngô Quang Trưởng và trung tướng Nguyễn Văn Toàn. Trong buổi họp này tổng thống Thiệu cũng đã nhận định rằng không cách nào với ngân khoản</i>
<i>viện trợ Hoa Kỳ bị cắt giảm, chính phủ Việt Nam Cộng Hịa có thể giữ được sự vẹn tồn lãnh thổ miền Nam. Tổng Thống Thiệu lấy viết gạch một đường từ</i>
<i>Ban Mê Thuột xuống Tuy Hịa và nói đó là ranh giới mới của miền Nam. Tổng Thống Thiệu cịn căn dặn tướng Trưởng giữ kín, khơng tiết lộ cho các tư lịnh</i>
<i>Sư Đoàn, các tỉnh trưởng cũng như Hải Quân và Không Quân biết việc bỏ miền Trung.”<b>[29]</b></i>


Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy Giám Mục Phạm Ngoc Chi ra lệnh cho ông Tướng Da-tô Lâm Quang Thi (đang nắm giữ chức vụ Tư Lệnh Tiền
Phương ở Quân Khu II) chuyển <b>đề nghị u cầu Tướng Ngơ Quang Trưởng bỏ ý định phịng thủ Đà Nẵng</b>


<i> “Sáng ngày 28/3(1975), trung tướng Lê Nguyên Khang phụ tá cho đại tướng Viên bay ra Đà Nẵng gặp trung tướng Trưởng. Tướng Trưởng nhắc điện</i>
<i>thoại gọi thẳng tôi (Hồ Văn Kỳ Thoai) và chỉ thị tơi sang Qn Đồn để gặp tướng Khang….</i>


<i> Trung tướng Khang, trung tướng Trưởng và tơi (Hồ Văn Kỳ Thoại) cùng duyệt lại tình hình tại Quảng Nam và Đà Nẵng và trận liệt về phía Hải Qn.</i>


<i><b>Cho đến giờ phút đó khơng ai đề cập đến việc bỏ Đà Nẵng cũng như việc rút lui hai lữ đồn của Thủy Qn Lục Chiến</b></i>


<i>tơi chuẩn bị phương tiện di chuyển Sư Đoàn 2 vừa ra Cù Lao Re về Bình Tuy.</i>


<i> Theo trung tướng Thi, trong quyển sách “The Twenty Five Years Century by Lam Quang Thi – Univsersity of South Texas Press (2001), trang 360” của</i>
<i>ơng, thì trong lúc tướng Trưởng tiếp tướng Khang, thì ơng tiếp Đức Cha Phạm Ngọc Chi. Đức Cha Thi nhờ tướng Thi chuyển lời lại cho tướng Trưởng là</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Cũng nên biết là Giám-mục Phạm Ngọc Chi đã từng là vị lãnh chúa áo đen cực kỳ hiếu chiến và hiếu sát ở Giáo Khu Bùi Chu trong những năm
1947-1954, đã sát hại không biết bao nhiêu bộ đội cụ Hồ và người dân trong các làng kế bên các làng đạo dưới quyền thống trị của ông. Một số trong những tội ác


của ông lãnh chúa áo đen này được ông Charlie Nguyễn kể lại trong lá thư gửi cho ơng Nguyễn Thanh Giản trong đó có mấy đoạn với nguyên văn như sau:
“Nguyên nhân của sự “nổi loạn” của tôi là vào năm 1949, tôi đã chứng kiến thảm cảnh của những người “bên lương” bị Cha tôi và các cha xứ cùng quê
<i>Ninh Cường (nằm trong Giáo Khu Bùi Chu - NMQ) hợp tác với Tây tiêu diệt họ. Có người bị cháy như con chó thui ở tiệm “Cầy Tơ” nhe răng ghê rợn. Có</i>
<i>người bị trói thúc ké để chờ giao lên đồn Tây. Có người bị đốt nhà và bị bắn thả trôi sông. Một vài bạn học của tơi lúc cịn bé tí là con của những người đó,</i>
<i>trong số bạn tơi hồi nhỏ, có những đứa chế nhạo tôi: “Đi đạo ăn gạo té re, ăn chè té rỏng, ăn xơi thủng ruột. Cũng có đứa q xuống trước mặt tơi, chắp tay</i>
<i>và cầu kinh:</i>


Lạy ơn Chúa Giê xu


<i> Nằm trong hang đá thị cu ra ngồi.</i>
<i> Con chó nó tưởng củ khoai</i>


<i> No đớp một cái đứt …. Giê xu.”</i>


<i> Lúc đó, tơi ghét chúng nó vơ cùng. Tơi đã đánh nhau với chúng nó vì chúng nó dám xúc phạm đến Chúa của tơi. Chúng nó phạm những tội mà tơi có thể</i>
<i>giết chúng như giết quỉ. Tôi sẵn sàng tử chiến với chúng để “bảo vệ đức tin”. Nhưng rồi, thời gian trôi qua, tôi dần dần nhận ra những “người bên lương”</i>
<i>đó mới là những đồng bào yêu nước. Cha tôi và bọn cha cố mà tơi trước đây hết lịng kính mến thực ra là Việt gian. Đó là ngun nhân đã làm tơi chuyển</i>
<i>hướng tâm linh từ cực này sang cực khác lúc nào không hay. Cái mà tôi sẵn sàng chết cho nó trước đây là “Đức Tin Cơng Giáo” thì nay lại là cái mà tôi</i>
<i>chỉ muốn “ôm bom” để hủy diệt đức tin đó. Khẩu hiệu của tơi từ năm 1996 đến này là: “Christian by birth:, anti- Christ by choice.”</i>


<i> Tôi tự nguyện dùng mạng sống của mình để làm cái giá chuộc tội sát nhân vì cuồng tín của cha tơi. Những nạn nhân của cha tôi và của các cha cố Việt</i>
<i>gian hầu hết đều là những dân lành vô tội. Họ là những người yêu nước với tinh thần Phật giáo thanh cao, tôi vô cùng ngưỡng mộ. Tôi coi mọi bài viết</i>
<i>chống Kitơ giáo của tơi là những nén hương lịng của tôi dâng lên hương linh của họ….” [31] </i>


Trong những năm 1954-1975, Giám-muc Phạm Ngọc Chi lại trở thành lãnh chúa ở các tỉnh Liên Khu V, và cũng là một trong các giáo chủ đại diện
(prelates) của Tòa Thánh Vatican ở miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những nhân vật ở hậu trường sân khấu chính trị miền Nam có ảnh
hưởng rất lớn đến tất cả chính sách đối nội của chính quyền miền Nam. Đặc biệt là trong những năm 1955-1963, vì chủ trương đẩy mạnh “


<i>miền Nam theo Cơng Giáo hết trong vịng mười năm” do anh em ơng Ngơ Đình Diệm chủ trương[32] ., ơng Gíám-mục này đã trực tiếp liên hệ đến việc tàn</i>
sát khoảng 300 ngàn người dân lương ở vùng này [33]<sub> .</sub>



Về phía chính quyền Hà Nơi, sau khi Hiệp Định Paris được ký kết giữa chính quyền Mỹ và chính quyền miền Bắc vào ngày 27/1/1973, họ tiên đoán rằng
một khi quân đội Hoa Kỳ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam và cắt đứt viện trợ tài chánh, thì chính quyền Sàigịn qn đội miền Nam sẽ bắt đầu rã ngũ tan
hàng vào ngay khi quân đội miền Bắc khởi sự tấn công miền Nam. Để trắc nghiệm lời tiên đoán này, họ quyết đinh phóng ra các chiến dịch tấn cơng vào
một vài cứ điểm chiến lược để thăm dò khả năng chống trả của quân đội miền Nam và cũng là thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ. Sự kiện này được sách Lịch
Sử Đàng Cộng Sản Đảng Việt Nam ghi nhận như sau:


“Sau khi quân ta giải phóng các quận lỵ Thường Đức, Minh Long, Nha Bích, Tống Lê Chân, Mưng Đen Giá Vụt… địch khơng có khả năng phản công để
<i>giành lại.”.[34] </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

“Trước tình hình mới, tháng 10-1974, Bộ Chính Trị quyết định kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976.”
<i>Thuột làm chiến trường và điểm mở đầu.”.[35] </i>


Thực ra, khi quân đội Miền Bắc mở những chiến dịch tấn chiếm các cứ điểm trên đây, về phương diện quân số, hỏa lực, binh chủng và các phương tiện,
quân đội miền Nam vẫn còn có nhiều ưu thế hơn quân đội miền Bắc. Sự kiện này được Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thối (của Hải Quân miền Nam) nói rõ
trong cuốn hồi ký Can Trường Trong Chiến Bại với nguyên văn như sau:


“Quân số của mỗi sư đoàn bộ binh của ta cũng như của địch khơng có nhất định cho nên rất khó mà so sánh một cách tuyệt đối chính xác tổng kết quân
<i>số hai bên. Về thiết giáp, địch phải di chuyển từ ngoài Bắc vào, việc sửa chữa và tiếp tế nhiên liệu rất khó khăn hơn các đơn vị thiết giáp của ta. Về pháo</i>
<i>binh, địch phải di chuyển từ Bắc vào và hàng ngày phải bị sự đe doạ phát giác bởi phi cơ của ta, còn pháo binh ta ở tại những nơi ta lựa chọn. Ta hồn tồn</i>
<i>kiểm sốt khơng phận và hải phận miền Nam trong khi địch không được ưu điểm quan trọng này. Đa số lực lượng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trên biển</i>
<i>được dồn về chiến trường miền Trung mà không sợ hải phận ở nơi khác bị đe doạ. Vì thế khả năng yểm trợ hải pháo tại Quân Khu I rất hùng hậu mà Bộ Tư</i>
<i>Lệnh Tiền Phương không nghĩ tới việc xử dụng để giải tỏa áp lực địch mà chỉ nghĩ tới việc chuyên chở quân.”</i>


Như đã trình bày ở trên, chính quyền miền Nam khơng có lý tưởng và quân đội miền Nam trong thực tế chỉ là quân đội đánh thuê cho Liên Minh Xâm
Lăng Mỹ - Vatican; cả chính quyền lẫn quân đội đều sống nhờ vào sự che chở của quân đội Hoa Kỳ và được nuôi dưỡng bằng tiền việt trợ Mỹ. Giờ đây, cái
Liên Minh Mỹ -Vatican tan vỡ, quân đội Hoa Kỳ rút về nước và tiền viện trợ Mỹ để ni dưỡng chính quyền Sàigịn và qn đội miền Nam cũng bị chấm
dứt. Con cọp Hoa Kỳ đã từng có mặt ở Miền Nam từ năm 1954 để cho con cáo Vatican đội lốt nhầy lên bàn độc tác oai tác quái tàn hại nhân dân. Giờ đây
con cọp Hoa Kỳ phải rút về Mỹ khiến cho con cáo Vatican khơng cịn chỗ dựa, nên phải liệu bài tính kế hố thân thành con cừu để tồn tại bằng cách ra lệnh
cho những tín đồ đang nắm giữ những chức vụ đầu não ở Dinh Độc Lập và các chức vụ trọng yếu trong quân đội phải tìm cách rút lui êm thắm vừa để bảo


toàn nhân sự phịng khi hữu sự, vừa tạo cho Giáo Hội Da-tơ ở miền Nam cái bộ mặt hiếu hòa giống như con cừu đối với chính quyền Hà Nội với hy vọng sẽ
tránh được những biện pháp sắt máu trừng trị của Ha Nội, giống như chính quyền Cách Mạng Pháp 1789 đã trừng trị Giáo Hội trong thập niên 1790.


Với thực trạng này, các nhân vật lãnh đạo chính quyền Sàigịn và các tướng tá nắm giữ những chức vụ chỉ huy và toàn thế quân đội miền Nam mất hết
tinh thần. Một khi đã mất hết tinh thần thì dù cho có chiếm ưu thế về tất cả quân số, phương tiện, vũ khí và hỏa lực, quân đội miền Nam cũng bỏ súng mà
chạy để thoát thân. Thực trạng của quân đội miền Nam vào thời điểm từ cuối năm 1974 là như vậy. Cho nên, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy
quân miền Bắc chỉ cần ra quân khai mào đánh một hai trận là các tướng tá chỉ huy các đơn vị tìm cách lẩn trốn, khơng dám chường mặt ra để cùng với quân
lính dưới quyền đối đầu với Bắc quân. Cũng vì thế mà khi quân đội miền Bắc vừa mới bắt đầu mở chiến dịch tấn chiếm Ban Mê Thuột vào sáng sớm ngày
10/3/1975, thì tồn bộ Qn Đồn II bị tan rã ngay sau đó, và chỉ 3 ngày sau, tức là ngày 13/3/1975, tại Dinh Độc Lập ông Tổng Thống Da-tô Nguyễn Văn
Thiệu tổ chức cuộc họp bàn nhau tìm cách tháo chạy như đã trình bày ở trên.


Thấy rằng chiến dịch tấn chiếm Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên “chỉ có 32 giờ chiến đấu (“từ 2 giờ ngày 10-3 đến 10 giờ 30 phút ngàt 11-3-1975
toàn bộ các sư đoàn và quân đội địa phương của Quân Đoàn II dưới quyền tư lệnh của của Tướng Phạm Văn Phú bị tan rã hồn tồn, Bộ Chính Trị của Đảng
Cộng Sản Việt Nam bèn nhóm họp khẩn cấp vào ngày 24/3/1975 để thay đổi chiến lược, đẩy mạnh chiến dịch tấn chiếm miền Nam, rút ngắn thời gian giải
phóng miền Nam để sớm hoàn thành sứ mạng thống nhất đất nước:


“Hội Nghị Chính Trị ngày 24/3/1975 đã khẳng định: cuộc tổng tiến công chiến lược mùa xuân năm 1975 đã bắt đầu từ chiến dịch Tây Nguyên, mở ra thời
<i>cơ chiến lược lớn… giải phóng miền Nam với thời gian sớm hơn. Bộ Chính Trị xác định: phải thật khẩn trương nắm chắc phương châm “thần tốc, táo bạo,</i>
<i>bất ngờ”, tập trung lực lượng tiến lên giải phóng Sàigịn trước mùa mưa 1975. Kịp nắm lấy thời cơ quân địch đang hoảng hốt mà đánh tiêu diệt qn đồn</i>
<i>1 và bộ phận cịn lại của qn đồn 2, khơng cho chúng rút về cụm lại quanh Sàigòn.”[38] </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

đám. Vấn đề là thời gian mà thôi. Giáo Hội La Mã cũng biết rõ như vậy. Vì thế, Giám-muc Phạm Ngọc


Chi mới nhờ tín đồ Da-tơ Lâm Quang Thi đang nắm giữ chức vụ Tư Lệnh Tiền Phương kiêm Tư Lịnh Phó Qn Đồn I chuyển đề nghị đến Tướng Ngơ
Quang Trưởng lời u cầu “khơng phịng thủ thành phô Đà Nẵng”.


Không biết ông Tướng Da-tô Lâm Quang Thi đã biết trước sách lược mới trên đây của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam hay ông chỉ mới biết vào khi ông
được Giám Mục Phạm Ngọc Chi nhờ chuyền đề nghị “bỏ Đà Nẵng” đến Tướng Trưởng. Dù là ở trường hợp nào đí nữa, thì việc ơng kiếm cớ để lẩn tránh
nhiệm vụ của một vị tướng lãnh ở ngoài mật trận bằng cách xin Tướng Trưởng ra một chiến hạm ở ngoài khơi để thành lập bộ chỉ huy lưu động cho Qn


Đồn I với mục đích là khỏi phải ở lại nơi dầu sơi lửa bỏng có thể nguy hiểm đến tính mạng là một sự kiện lịch sử. Sự kiệnnày nói lên hành động hèn nhát
đáng phỉ nhổ của một người tướng cầm quân ở nơi chiến địa. Sự kiện này cũng được Phó Đề Đốc Thoại kể lại như sau:


“Tướng (Lâm Quang) Thi đề nghị với tướng Trưởng cho ông đi ra một chiến hạm lớn để <i><b>thành lập bộ chỉ huy hành quân lưu động</b></i>


<i>Tướng Trưởng chấp thuận. Tướng Thi và đại tá Sơn ra trực thăng và bay ra và đáp trên dương vận hạm ngồi vịnh. Đó là lần chót mà tướng Trưởng thấy</i>
<i>mặt và nói chuyện với Tướng Thi cho đến khi hai người gặp lại nhau tại Tổng Y Viện Cộng Hòa tại Sàgòn, hai tuần lễ sau. Đúng </i>


<i>28/3/1975), tướng Thi và HQ đại tá Sơn rời căn cứ bằng trực thăng. Lấy lý do là lập bộ chỉ huy lưư động trên chiến hạm cho Quân Đồn, mà tướng Thi</i>
<i>khơng biết là Bộ Tham Mưu và Quân Đoàn đã giải tán từ 5 giờ chiều, tham mưu trường và một số sĩ quan sang Sơn Chà đi tàu dòng dân sự, một số khác thi</i>
<i>tự động về nhà lo cho gia đình.”[39] </i>


Hành động gian manh và lươn lẹo để lẩn tránh khỏi phải ở mặt trận của ông Tướng Da-tô Lâm Quang Thi đã khiến cho Phó Đề Đốc Thoại nêu lên thắc
mắc:


“Ban tham mưu gồm có ai? Máy truyền tin ở đâu? Liên lạc với tướng Trường bằng cách nào? Chỉ huy đơn vị nào và bằng cách nào?”


Như vậy rõ ràng là chuyện ông Tướng Thi đề nghị thành lập bộ chỉ huy lưu động trên một chiến tầu ở ngồi khơi chỉ là cái cớ để cho ơng ta lẩn tránh, khỏi
phải ở lại Huế vì lúc đó Huế đang khẩn trương và rất có thể xẩy ra những trận đánh khốc liệt giống như hồi Tết Mậu Thân. Thế rồi, khi lên một chiến tầu của
Hải Quân ở ngồi khơi, ơng lại tìm cách đi Đà Nẵng. Ơng bỏ đi rồi, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương khơng có người chỉ huy, các đơn vị ở trên bộ đang đụng trận
khơng có người chỉ huy tổng qt, khơng được sự phối hợp để xin pháo binh hay hải pháo yểm trợ. Họ phải chiến đấu lẻ loi trong tuyệt vọng và cuối cùng
phải đầu hàng. Đồng thời, cả một trăm nhân viên trong Bộ Tư Lịnh Tiền Phương của ông cũng rơi vào tình trạng như rắn mất đầu. Trong khi đó, khi về tới
Đà Nẵng, ơng tướng Da-tơ này lại tìm một nơi an tồn để lẩn tránh khỏi phải ở mặt trận cùng với anh em quân nhân dưới quyền để đương đầu với Bắc quân:
“Sau khi có lịnh bỏ Huế, tướng Thi ra lịnh không rõ ràng nên các đơn vị tự động tan hàng và từ đó ơng khơng cịn điều động các đơn vị được nữa nên tự
<i>nghĩ hết trách nhiệm tại tiền phương cho nên khi xuống chiến hạm tại Thuận An ông ra lịnh đưa ông về Đà Nẵng. Ngày hơm sau Liên Đồn Đặc Nhiệm Hải</i>
<i>Qn chỉ định một tuần dương đỉnh WPB đưa tướng Thi về Đà Nẵng. Sau khi tướng Thi về tới Đà Nẵng, Lỉên Đoàn Đặc Nhiệm Hải Quân (ở), Thuận An</i>
<i>của thiếu tá Hy và Hải Đoàn Đặc Nhiệm của trung úy Uyển vẫn còn tiếp tục vớt quân dọc theo bờ biển Bắc Vĩnh Lộc. Việc rước người của các chiến hạm</i>
<i>Hải Quân tại cửa Thuận An đã xẩy ra trong sự hỗn loạn vì qn trên bờ khơng có người chỉ huy. Ngoài ra, Bộ Tư Kịnh Tiền Phương cũng không thấy xin</i>
<i>phi vụ nào oanh tạc hoặc được pháo binh làm chậm sự tiến quân của địch, cho nên các chiến hạm khi rước quân bị địch pháo thường xun. Hải Đồn Đặc</i>
<i>Nhiệm Hải Qn khơng nhận được lịnh yểm trợ hải pháo. Chính vì lý do đó mà 4 (bốn) tiểu đoàn tác chiến của Thủy Quân Lục Chiến không được sự yểm</i>


<i>trợ cần thiết để lên chiến hạm và đầu hàng địch sau khi cạn đạn. Sau khi các đơn vi Bắc Hải Vân tan rã, tướng Trưởng ra lịnh tướng Thi dùng một lữ đoàn</i>
<i>TQLC để trấn giữ đèo Hải Vân. Nhưng thay vì ở đèo Hải Vân, ông lại bay lên đài kiểm báo Không Quân (người Mỹ thường gọi là đài Panama) trên đình</i>
<i>núi Sơn Chà, ở tại đó và từ đó ơng gọi điện thoại cho đại tá Lê Bá Khiếu, trưởng phịng 3 của Bộ Tư Lịnh Qn Đồn I gởi lên cho ơng một sĩ quan thuộc</i>
<i>phịng 3 và một máy PRC 25 để làm Bộ Tư Lịnh Hành Quân của Quân Đoàn I. Một trăm nhân viên của Bộ Tư Lịnh Tiền Phương lên chiến hạm tại Thuân</i>
<i>An về đến Đà Nẵng không ai rõ số phận ra sao.”[41]</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Quang Thi tới hai ngày. Đó là Thiếu Tường Hoàng Văn Lạc đang nắm giữ chức Tư Lệnh Phó Qn Khu I. Ngay từ ngày 26/3/1975, ơng tướng Da-tơ này đã
tìm cách lẩn trốn ra khỏi mặt trận để về Sàigon rồi ở lại đây cho đến ngày ông chuồn ra ngoại quốc. Thời điểm này cho chúng ta thấy rõ là ơng Tướng Da-tơ
Hồng Văn Lạc đã tính bài cao chạy xa bay trước ngày Giám Mục Phạm Ngọc Chi nhờ ông Tướng Da-tô Lâm Quang Thi chuyển đề nghị yêu cầu Tướng
Trưởng “bỏ ý định phòng thủ thành phố Đà Nẵng”. Như vậy, ta có thể kết luận rằng hoặc là bản chất hèn nhát của cá nhân ơng Tướng Hồng Văn Lạc đã
khiến cho ơng phải tính bài trốn chạy khỏi mặt trận càng sớm càng tốt, hoặc là ông đã biết rõ là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chuyển sang lập trường
chủ hịa để làm hồ với chính quyền Hà Nội. Có thể là cả hai. Chuyện ơng Tướng Da-tơ Hồng Văn Lạc bỏ chạy được Phó Đề Đốc Thoại kể lại với nguyên
văn như sau:


“Người phụ tá quan trọng thứ hai của tư lịnh Quân Đoàn I là tư lịnh phó Qn Khu I, thiếu tướng Hồng Văn Lạc… Khi tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín
<i>bắt đầu bị áp lực địch, tướng Lạc đề nghị tướng Trưởng để ơng về Sàigịn trình Tổng Tham Mưu về tình hình Quân Khu I để xin tăng viện. Tướng Trưởng</i>
<i>nghĩ rằng ông đi và về trong (một) ngày nên chấp thuận. Tướng Lạc về Sàigòn ngày 26 (tháng 3 năm 1975). Sau khi xong công tác, tướng Lạc báo cáo</i>
<i>không có phương tiện để trở về Đà Nẵng và ở lại Sàigòn cho đến khi Đà Nẵng thất thủ.” [42] </i>


“Trung tướng Trưởng biết là ông khơng cịn hy vọng gì về sự có mặt của tướng Lạc ở bên ông trong những giờ phút quyết định sắp tới, khi trung tướng Lê
<i>Nguyên Khang bay ra Đà vào ngày cuối, trước khi Đà Nẵng bắt đầu bị địch tấn cơng, và cho tướng Trưởng biết (có sự hiện diện của tác giả) là ơng có gặp</i>
<i>tướng Lạc tại Bộ Tổng Tham Mưu chiều ngày hôm trước (tức ngày 27/3/1975) và có mời tướng Lạc cùng đi với ông cùng máy bay ngày hôm sau (tức ngày</i>
<i>28/3/1975) để ra Đà Nẵng, tướng Lạc đã trả lời là vì “cịn chút việc phải giải quyết ở Sàigịn nên không đi theo tướng Khang được.”</i>


Tướng Da-tô Lâm Quang Thi là Tư Lịnh Tiền Phương kiêm Tư Lịnh Phó Qn Đồn I và Tướng Da-tơ Hồng Văn Lạc là Tư Lịnh Phó Quân Khu I. Với
những chức vụ quan trọng như vậy, hai ông tướng này giống như hai cánh tay của Tướng Trưởng. Từ khi hai ông tướng này bỏ đi rồi, Tướng Trưởng như
mất ln cả hai cánh tay, khơng cịn cựa quạy được gì nữa. Việc này được coi như ngun nhân chính (vòng khoen gốc) gây ra những hậu quả dây chuyền
(những vòng khoen kế tiếp) với diễn biến như sau:


<b>1</b>.- Tướng Trưởng buộc lòng phải cho giải tán Bộ Tham Mưu Qn Đồn I của ơng:



“Tư Lịnh Quân Đoàn I đã ra lịnh Bộ Tham Mưu Quân Đoàn tan hàng từ chiều ngày 28. Vì khơng cịn Bộ Tham Mưu Qn Đồn nên các đơn vị quân đội
<i>cũng như tiểu khu như rắn mất đầu, khơng cịn biết phải làm gì và cứ mỗi khi liên lạc không được với cấp chỉ huy trực tiếp là quân sĩ tự động bỏ súng và tìm</i>
<i>cách thốt thân. Theo tơi, số phận miền Trung đã được định đoạt vào lúc 5 giờ chiều ngày 28.”[44] </i>


<b>2</b>.- Hậu quả trực tiêp là qn lính theo gương hai ơng tướng Da-tơ Lâm Quang Thi và Hồng Văn Lạc cũng bỏ đơn vị tìm cách thoát thân, rõ rệt nhất và
trước nhất là ở Sư Đồn 1 Bộ Binh. Tình trạng này đã khiến cho vị tướng tư lệnh sư đoàn là Tướng Nguyễn Văn Điểm ra lệnh giải tán sư đồn của ơng:
“Với 4 trung đoàn đã từ từ bỏ vị trí phịng thủ chung quanh Huế và đa số các đơn vị đã tan hàng từ sáng sớm trước khi có lịnh di tản vào buổi chiều
(Trang 269) “Tại Bộ Tư Lịnh Sư Đồn 1 phía Nam thành phố Huế, tướng Điềm họp các đơn vị trưởng và ra lịnh tan hàng. Kể từ đó các qn nhân khơng
<i>cịn giữ được kỷ luật cần thiết để lên chiến hạm hoặc di chuyển một cách có trật tự về hướng Nam theo đường bộ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Lê Nguyên Khang- Trần Văn Nhật - Đề đốc Lâm Ngươn Tánh - Nguyễn Văn Hinh


Trần Văn Trung - Bùi Thế Lân - Hoàng Xuân Lãm - Phạm Văn Phú




<i><b>(....Ít lâu sau khi họ đến Guam, nhiều tướng bại trận (hay tự sát hay bị giết như NĐD, </b></i>NDVN<i><b> ) bị nhốt trong những chuồng sắt</b></i>


tư lệnh Quân khu III, kiệt sức, bị đẩy vào giữa nhóm, ngồi xuống một ghế quay. Tướng Tưởng, người bảo vệ Đà Nẵng đau mắt nặng, khơng cịn trơng thấy
chiếc ghế. Một lúc sau, một sĩ quan hải quân Mỹ vào, bắt ông ta cởi binh phục. Một viên tướng hỏi: <i><b>“chúng tơi có thể đeo huân chương không</b></i>


trả lời<b>: </b><i><b>“Không! Các anh không cịn qn đội, khơng cịn Tổ quốc!”</b></i>(tr 376)….


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<b>3</b>.- Sư Đoàn 2 dưới quyền tư lệnh của Tướng Trần Văn Nhật, với quân số trên mười ngàn quân mà khi rút lui khỏi Chu Lai để ra Cù Lao Re chỉ còn lại
khoảng 4 ngàn người. .[46]


<b>4</b>.- Sư Đoàn 3 dưới quyền tư lệnh của Tướng Nguyễn Duy Hinh với quân sồ khoảng 14 ngàn quân nhân tại ngũ vào ngày 23/3/1975 đóng ở Hồ Khánh
cịn hiện diện đủ, một tuần lễ sau khi rút về tới Bà Rịa chỉ cịn lại khồng một ngàn.[47] 5.- Sư Đồn 1 Khơng Qn dưới quyền tư lệnh của Chuẩn Tướng


Nguyễn Đức Khánh với nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị bạn hành quân trong vùng để yểm trợ, nhưng viên tướng này đã theo gương hai ơng tướng Da-tơ
Lâm Quang Thi và Hồng Văn Lạc lẩn tránh nhiệm vụ, tìm nơi an tồn để ẩn mình, cho nên sau đó ơng mới bị Bộ Trường Quốc Phịng là Tướng Trần Văn
Đơn bắt nhốt giam ở Bộ Tổng Tham Mưu cùng với Tướng Lâm Quang Thi:


“Theo lời Khơng Đồn Trưởng đại tá Vượng thì khu trục cơ phản lực A-37 khiển dụng cũng cịn lại ít nhất là 40 chiếc. Như thế mà Qn Đồn khơng có
<i>điều động một phi vụ oanh kích nào để giải tỏa áp lực của địch, có thể vì khơng có vị tướng nào có mặt trong trung tâm hành qn Qn Đồn, chỉ cịn sĩ</i>
<i>quan tham mưu, khơng có thẩm quyền quyết định.”[48] </i>


“Sau khi gởi phúc trình đi, tơi đi thăm trung tướng Trưởng đang nghỉ tại Tổng Y Viện Cộng Hịa. Tướng Trưởng bắt tay tơi rồi hai tay ơm chồng lấy tơi,
<i>hai mắt ơng rướm nước mắt. Sau đó tơi có đến Bộ Tổng Tham Mưu, và đến nơi giam giữ một số tướng lãnh với mục đích thăm tướng Lâm Quang Thi và</i>
<i>tướng Nguyễn Đức Khánh. Lúc đó tơi khơng biết ai ra lệnh giữ các tướng này. Sau này gặp lại trung tướng Trần Văn Đơn thì tơi được biết đó là lịnh của</i>
<i>tướng Đơn.” [49] </i>


<b>6</b>.- Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến dưới quyền chỉ huy của tướng Bùi Thế Lân cũng như 4 Liên Đoàn Biệt Động Quân và 1 Lữ Đồn Thiết Giáp khơng
được sự phối hợp hành động từ Bộ Tham Mưu Của Quân Đoàn I cho nên phải hoạt động đơn độc không được các phi pháo yểm trợ. Tình trạng này khiến
cho qn lính rơi vào cảnh chiến đấu đơn phương trong tuyệt vọng. Cuối cùng, họ, mất hết tinh thần và phải tìm đường tháo chạy và mạnh ai người ấy chạy,
chạy càng mau càng có hy vọng thốt khỏi nơi nguy hiểm. Thế là các đơn vị này hoàn tàn rã ngũ.


<b>7</b>.- Căn Cứ Yểm Trợ Đà Nẵng Tiếp Vận có quân số trên một ngàn người, nhưng khi tập họp (vào chiều tối ngày 28/3/1975?) chỉ cịn lại có 70 người:
<i> “Căn cứ có quân số trên một ngàn người nhưng khi tập họp chỉ còn 70 người. Sáng sớm ngày 29, khi chiến đỉnh của đại tá Thiều rời căn cứ ra vịnh Hàn,</i>
<i>thì đã có nhiều ghe trong Vịnh treo cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.”[50] .</i>


<b>8</b>.- Tất cả các đơn vị địa phương quân và các tiểu khu tại các tỉnh trong Quân Khu I theo gương hai ông Tướng Da-tô Lâm Quang Thi và Hồng Văn Lạc
cũng tìm cách lẩn trốn nhiệm vu, rời bỏ hàng ngũ để về với gia đình hay tìm nơi an tồn để ẩn thân.


Phân Tích Bản Chất của Các Tướng Tá Da Tô


Trở lại chuyện hai ông Tướng Da-tơ Lâm Quang Thi và Hồng Văn Lạc lẩn trốn nhiệm vụ khi đang phải đụng trận, người viết không biết rõ hai ông
tướng Da-tô này hành động như vậy là ở vào trường hợp nào trong hai trường hợp:



<b>a</b>.- Họ đã được Hội Đồng Giám Mục rỉ tai, ra lệnh không nên chống cự nữa để Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cịn có thể dễ dàng xoa dịu lịng căm phẫn
của chính quyền Hà Nội đối với Giáo Hội La Mã.


<b>b.</b>- Do bản chất hèn nhát khiếp đảm, sợ phải đụng trận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

trú đóng).


Có người cho rằng các ơng tướng, tá và sĩ quan Da-tô lẩn trốn như vậy là ở vào trường hợp B. Đặc tính hèn nhát khiếp sợ phải đụng trận đã có sẵn trong
những người mang dịng máu tham lam ích kỷ, úy tử tham sinh của những người “đi đạo lấy gạo để ăn “ và “theo đạo để tạo danh đời”.


Căn bệnh ích kỳ, tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực là cha đẻ ra những chứng bệnh hèn nhát, tham sống sợ chết và đội trên đạp dưới. Chính vì
vậy mà khơng bao giờ họ nghĩ đến chuyện đi ra khỏi văn phòng của bộ chỉ huy để dấn thân lăn lộn với quân nhân dưới quyền trong những khi giải trí cũng
như trong những giờ phút gay go phải đối đầu với hỏa lực tấn công của địch quân. Trường hợp Trung Tá Da-tô Trần Thanh Chiêu tư lệnh Sư Đồn 21 trú
đóng trong vùng Tây Ninh bị tấn công và bị tổn thất nặng nề vào tháng 1/1960 cũng vì lẽ này. Thảm bại này được sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 ghi
lại với nguyên văn như sau:


“26/1/1960: TÂY NINH, 02G30: Trận Tua Hai (Trảng sập hay sụp). “Tua Hai” tức tháp canh thứ hai, kể từ Tây ninh, trên Quốc lộ 22, cách tỉnh lỵ
<i>khoảng 7 cây số. Đêm 25 rạng 26/1 (27 tháng chạp âm lịch) khoảng 200 VC độ kích Bộ Chỉ Huy Trung đồn 32 của Sư Đồn 21 VNCH (ngun là Trung</i>
<i>địn 39, Sư đoàn 13 khinh chiến). Lực lượng đồn trú có khoảng 250 người. Tấn cơng từ hướng Bắc, VC vượt qua các trạm gác, xuyên qua doanh trại của</i>
<i>các Tiểu đoàn 1 và 2, và chỉ bị chặn lại ở Tiểu đoàn 3. Giao tranh diễn ra trong khoảng một tiếng đồng hồ. 23 quân nhân VNCH chết, mất một số lớn vũ khí</i>
<i>(2000?) (Gravel, 1:338; Báo cáo của Williams, 20/3/1960; FRUS, 1958-1963, I:342-4)</i>


<i> Tư Lệnh Sư Đoàn là Trung-tá Trần Thanh Chiêu, bị cách chức, Thiếu-tá MẪN (?), trung đoàn trưởng bị giáng xuống đại úy, khơng được thăng thưởng</i>
<i>trong vịng 5 năm.”[51] </i>


Đại Tá Da-tơ Bùi Đình Đạm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 dưới quyền Tư lệnh Quân Đoàn IV của Thiếu Tướng Da-tô Huỳnh Văn Cao trong trận Ấp Bắc xẩy ra
vào tháng 1/1963 cũng ở trong tình trạng giống như vậy. Trận đánh này được sách sử ghi nhận như sau:


“2/1/1963: MỸ THO: Trận Ấp Bắc.- Hai đại đội VC giữ một ấp chiến đấu, khoảng 14 cây số Tây Bắc Mỹ-tho, và 35 dặm Tây Nam Sàigịn, khiến qn lực
<i>VNCH, có thiết vận xa M.113, phi cơ, pháo binh, và quân số gấp 4 lần bị thiệt hại nặng. Dù chết 19 chết, 33 bị thương, kể cả một đại úy và 1 trung sĩ cố</i>


<i>vấn Mỹ, 5 trực thăng bị bắn rơi. (FRUS 1961-1963, III:1-2; Sheehan 1988, tr. 261-2)</i>


<i> Trong đêm, lực lượng Việt Cộng an toàn rút khỏi Tân Thới về Đồng Tháp Mười.</i>


<i> Phía VNCH, khoảng 80 binh sĩ chết, 100 bị thương, 3 cố vấn Mỹ chết và 8 bị thương. [Tin chính thức của VNCH: 63 chết, 109 bị thương]. Xem báo cáo</i>
<i>của Trung Tá John P. Vann ngày 9/1/1963: Kennedy Library, NSF, Vietnam country Series, 1/63)</i>


<i> Đây là trận đánh được cơ quan tuyên truyền Cộng Sản và giới báo chí Mỹ - điển hình là NEIL SHEEHAN, phóng viên của hãng thơng tấn UPI – coi như</i>
<i>một chiến thắng lớn và kiểu mẫu của Cộng Sản trong cuộc chiến Việt Nam. Theo Sheehan, người tự nhận là học trò của Trung Tá Vann, Cố Vấn Sư Đồn 7</i>
<i>BB lúc đó, <b>các sĩ quan VNCH hèn nhát, không chịu tấn công</b>. Cấp tư lệnh - đặc biệt là Đại Tá Bùi Đình Đạm, tư lệnh Sư Đoàn 7 và Thiếu Tướng Cao, tư</i>
<i>lệnh Quân Đoàn IV từ tháng 12, 1962, những người mà Vann và Sheehan gọi là “raggedy- ass little bastards” (1988, tr.262) – đã chủ trương tránh chạm</i>
<i>trán với Việt Cộng; và khi đụng trận, chỉ bày vẽ sao cho Việt Cộng rút lui êm thắm. (Sheehan 1988, tr. 271-7)”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Chỉ có một trường hợp duy nhất là khi quân đội miền Bắc tiến tới Xuân Lộc (Long Khánh) vào ngày 9/4/1975 mới gặp sức kháng cự mãnh liệt của Sư
Đoàn 18 dưới quyền tư lệnh của Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo (khơng phải là tín đồ Da-tơ). Nhờ có pháo binh loại 130 ly từ căn cứ Biên Hồ và khơng qn
yểm trợ hữu hiệu, cho nên sư đoàn này đã cầm cự được khoảng một tuần lễ. Nhưng rồi tới ngày 16/4/1975 (theo Wikipedia, the free encyclopedia nói về
Trận Đánh Xuân Lộc - Battle Of Xuân Lộc), ngày đó, các ổ trọng pháo cũng như 6 chiến đấu cơ F-5 và 14 phản lực A-37 tại căn cứ Biên Hịa bị hư hại nặng
vì bị pháo kích. Tình trạng này khiến cho khả năng yểm trợ của không quân và của pháo binh bị tê liệt. Vì thế mà sức kháng cự của Sư Đồn 18 suy yếu lần
cho đến ngày 20/4/1975 thì tồn bộ sĩ quan và qn lính cịn lại phải bng súng đầu hàng.


Kể từ ngày này, hầu hết những cấp chỉ huy cao cấp trong chính quyền cũng như trong quân đội miền Nam chỉ còn biết lo thu vén tiền bạc, của cải và dìu
dắt vợ con để chạy cho thốt thân. Chức vụ càng lớn càng lo chạy trước:


Ngày 21/4/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố từ chức để chuẩn chạy trốn. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương được đôn lên làm
tổng thống. Tiếp theo là Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm cũng từ chức để chuẩn bị “chuồn”. Chủ Tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn được đưa lên làm thủ tướng
thay thế. Ngày 25/4/1975,Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm vội vã lên máy bay chuồn ra ngoại quốc. Thủ Tướng Nguyễn
Bá Cẩn và các tướng lãnh như Cao Văn Viên (Tổng Thâm Mưu Trưởng), Đặng Văn Quang (Cố Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống), Nguyễn Văn Toàn (Tư
Lệnh Quân Khu 3 kiêm Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô), Nguyễn Khắc Binh (Tổng Giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia), Đỗ Kiến Nhiễu (Đơ Trưởng Sàigịn), Ngơ
Quang Trưởng (Tư Lênh Vùng 1 kiêm Quân Khu 1), Lâm Quang Thi (Tư Lệnh Phó Quân Đòan I Kiêm Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Tiền Phương), Hồng Văn Lạc
(Tư Lệnh Phó Qn Khu I) Trần Văn Minh (Tư Lệnh Không Quân), Lê Quang Lưỡng (Tư Lệnh Nhẩy Dù), Dư Quốc Đống, Vĩnh Lộc, Đồng Văn Khuyên,


Phạm Quốc Thuần, Vĩnh Lộc, Ngô Du, Lữ Lan, Lê Nguyên Khang, Bùi Đình Đạm, Nguyễn Văn Minh (Minh Đờn), Trần Văn Trung (Chiến Tranh Chính
Trị), Nguyễn Cao Kỳ, Huỳnh Bá Tĩnh, Nguyễn Hữu Tần, Võ Xuân Lành, Nguyễn Ngọc Oánh, v.v... đều lũ lượt kéo nhau đào ngũ chạy ra hải ngoại. Các
thượng nghị sĩ và dân biểu quốc hội như Nguyễn Văn Chức, Hùynh Văn Cao, Nguyễn Văn Ngải, Phạm Nam Sách, Trương Tiến Đạt, Hoàng Xuân Tửu,
Trần Văn Đơn, Tơn Thất Đính, Nguyễn Bá Lương, Nguyễn Văn Ngải, Nguyễn Gia Hiến, . v.v.., bỏ cờ, bỏ lính, bỏ Thượng Viện, bỏ Quốc Hội, bỏ dân
chúng, kẻ trước người sau theo nhau vắt chân lên cổ đào tẩu, giống như tàn quân Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch tranh nhau chạy khỏi Hoa Lục vào
mùa Thu năm 1949.


Miền Nam, đặc biệt là dân chúng thành phố lớn ở miền Nam, như "rắn đã mất đầu". Vào những ngày trong tuần lễ chót của tháng 4/1975, từ Phan Rang
trở vào Sàigịn, qn lính lang thang lếch thếch cởi bỏ quân phục, liệng bỏ vũ khí và qn trang, lo chạy thốt thân. Cảnh sát, cơng an, mật vụ cũng biến
dạng. Chỉ cịn lại đám dân đen ngơ ngác, lặng nhìn giang sơn đổi chủ. Tình trạng thảm thương này được ơng Da-tơ Nguyễn Văn Lục ghi lại với nguyên văn
như sau:


<i> "Sàigòn 30 tháng 4, bề ngòai cũng như một Baghdad ngày nay. Người đi bỏ chạy lấy người, kẻ ở lại lợi dụng cơ hội vơ vét. Cứ nhìn xem những người ra</i>
<i>đi đủ để bắt mạch được miền Nam đang hấp hối. </i>


<i> Trước đó ông Thiệu đã gửi tài sản gia đình của ông bằng đường tầu thủy sang Đài Loan và Canda, gửi vàng sang Paris giá trị 5 triệu đô la. Tối ngày 25</i>
<i>tháng 4, Polgar ra lệnh cho mật vụ đi ba xe đến đón ơng Khiêm ở Bộ Tổng Tư Lệnh đi Tân Sơn Nhứt. Ít phút sau, ơng Thiệu tới trên một xe Mercedès.</i>
<i>Timmes ngồi cạnh ông Thiệu và u cầu ơng ngồi thụp xuống sàn xe, vì sợ lính nổ súng. Timmes hỏi xã giao ơng Thiệu: Phu nhân và tiểu thư khỏe khơng ạ?</i>
<i>Ơng Thiệu trả lời, "Nhà tơi và cháu đi Ln Đơn mua ít đồ cổ" (Trích Frank Snepp, Decent Interval, trang 167). Nhớ lại, trước đó gần một tháng, Thủ Tướng</i>
<i>Hồng Thân Sirik Matak biên một lá thư từ chối tỵ nạn. Bức thư này còn lưu trữ trong Văn Khố Thượng Viện Hoa Kỳ. Sau đó, Hịang Thân Matak đã hy</i>
<i>sinh cùng với Phó Thủ Tướng Long Beret . (Trích bài của Trung Tá Nguyễn Tuệ trên Tiếng Sông Hương, 2000). Lá thư của Hịang Thân Sirik Matak có</i>
<i>đọan viết như sau: "Rất tiếc là trong hồn cảnh này, tơi khổng thể ra đi một cách hèn nhát như vậy.... (Trích Tiền Phong số 658, trang 20)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<i>Tiếp Vận nên đem toàn bộ hố sơ tại Trung Tâm Quản Trị gửi sang căn cứ Utapao (Thái Lan) của Không Quân Mỹ. Phía Việt Nam, hình như khơng quan</i>
<i>tâm đến vấn đề này. Nói chung, tồn bộ tài sản của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa để rơi vào tay Cộng Sản. </i>


<i> Về phía CIA, họ đã chuyển hồ sơ mật đi trước. Cái gì không chuyển được đã kịp thời đốt. Theo Frank Snepp, họ đã thiêu hủy 14 tấn hồ sơ liên quan đến</i>
<i>hoạt động tình báo và hồ sơ nhân viên.</i>


<i> Phía Tịa Khâm Sứ (của Giáo Hội La Mã) ở Sàigòn, họ đã chuyển về Vatican 24 thùng liên quan đến tình hình Việt Nam và 3 thùng liên quan đến Hội</i>


<i>Đồng Giám Mục Việt Nam (chứng từ của Linh-mục Thụ, thư ký Tòa Khâm Sứ.) </i>


<i> Tòan bộ hồ sơ từ miền Trung đến Sàigịn xuống lục tỉnh, chính quyền Việt Nam Cộng Hịa chuyển đi được mấy thùng?.Tồn bộ hồ sơ của Bộ Quốc</i>
<i>Phịng, của qn đội nói chung được mấy thùng? Tồn bộ hồ sơ của các bộ, văn phịng Thủ Tướng, văn phòng Tổng Thống chuyển đi được mấy thùng? Hay</i>
<i>ít lắm cũng đốt đi được mấy thùng? Xin Đại Tướng Cao Văn Viên, Tướng Trần Thiện Khiêm lên tiếng. Xin các tướng lãnh, các cựu bộ trưởng lên tiếng.</i>
<i> Về phía dân chúng, cảnh xơ bồ náo loạn như đến ngày tận thế. Người người hốt hoảng chạy, chạy xi, chạy ngược. Thật khác xa với hình ảnh ra đi vĩ</i>
<i>đại, thong thả như đi du lịch, đi tắm biển. Taxi, xe nhà, xe gắn máy chở đầy người, chất đày của cải phóng như lao trên đường phố. Bàn ghế, giấy tờ, xe cộ</i>
<i>ngổn ngang vứt bừa bãi dọc đường. Vợ con sĩ quan, công chức lạc nhau, chồng, vợ, con cái bị bỏ lại. Xô nhau mà chạy, chạy bán sống bán chết. Ai là người</i>
<i>có can đảm, có lịng ở lại đương đầu với tình thế? Ai là người lúc bấy giờ làm kẻ hốt rác miền Nam? Kẻ ra đi hay kẻ quyết tâm ở lại? Tướng Dương Văn</i>
<i>Minh là người cuối cùng ở lại cúi xuống đất nhặt một quyền chính bỏ rơi ngoài đường. Để trong 48 tiếng đồng hồ sau đó đứng ra nuốt nhục cứu độ quần</i>
<i>chúng thủ đơ miền Nam (chữ của Vân Xưa, bút hiệu của cụ Hồ Sĩ Khuê)...</i>


<i> </i>


<i> Ngày 20 tháng 3, Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Đòan I, rời bỏ thành phố Huế, di tản chiến thuật. Bộ Tổng Tham Mưu mất lỉên lạc. </i>


<i>tháng 3, Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Đại Tá Duệ, Đại Tá Kỳ và các sĩ quan Bộ Tham Mưu (Quân Đòan 1) đã lên tầu Hải</i>
<i>Quân 404, dời Đà Nẵng vào Cam Ranh. Đà Nẵng bị bỏ ngỏ để mặc cho quân lính mạnh ai nấy chạy. Đến Cam Ranh, các tướng lãnh giữ kín việc về Sàigòn.</i>
<i>Chuẩn Tướng X. lên bong tầu ra lệnh cho Thủy Quân Lục Chiến dời tầu, nói dối là sẽ quay lại Vùng 1 Chiến Thuật. Khi người lính cuối cùng rời khỏi tầu</i>
<i>xuống Cam Ranh thì chiến hạm vội chặt neo chạy về Sàigòn vào lúc 7:30 tối ngày 31/3/1975. Thủy Quân Lục Chiến đã bị lừa phản bội vào phút chót.</i>
<i> Ngày 27/4/1975, Đại Tướng Cao Văn Viên bỏ chạy, chỉ để lại một lá thư từ chức trên bàn làm việc và đề nghị Tướng Đồng Văn Khun thay thế ơng</i>
<i>(Trích bài của Trung Tá Nguyễn Tuệ, Tiếng Sông Hương, 2000) </i>


<i> Ngày 28/4/1975, tất cả những vị tướng sau đây đã bỏ trốn: Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (Biệt Khu Thủ Đơ), Trung Tướng Nguyễn Văn Tồn (Tư Lệnh</i>
<i>Qn Địan 3), Trung Tướng Trần Văn Minh (Tư Lệnh Không Quân), Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Đại Tá Nguyễn Văn Lung.</i>


<i> Sài Gòn bị bở ngỏ trước khi Cộng Quân tiến vào ngày 30/4/1975. Ông Thiệu bỏ đi đầu tiên và cứ thế tùy theo cấp bậc lớn nhỏ chuồn theo.</i>


<i> Trong khi đó, theo lệnh Tòa Nhà Trắng bắt buộc Đại Sứ Martin phải lên máy bay. Ông là một trong những người Mỹ cuối cùng đã lên máy bay vào lúc 5</i>
<i>giờ sáng ngày 30/4/1975. 10 giờ 30 ngày 30/4/1075, Cộng Sản vào chiếm Dinh Độc Lập. Cuộc chiến kết thúc</i>



Cho mãi đến 8 giớ tối ngày 28/4/1975, Đai Tướng Dương Văn Minh mới được Đại Sứ Hoa Kỳ Graham A. Martin và Đại Sứ Pháp Mérillion vận động và
làm áp lực với Thổng Thống Trần Văn Hương phải thoái vị để nhường chức vụ tổng thống cho ông. Vào lúc này, quân đội miền Bắc đã tiến vào tới Tân
Cảng, Gò Vấp và nhiều ngả khác mà không gặp một sự kháng cự nào. Như vậy là việc đưa Đại Tương Dương Văn Minh lên ngơi vị tổng thống vào lúc đó
chỉ có một mục đích duy nhất là để chuẩn bị một cái thế chuyển quyền cho chính quyền Hà Nội một cách êm thắm hầu tránh khỏi xẩy ra cảnh bom đạn làm
hao tổn sinh mạng và tài sản của hàng triệu người dân Sàigịn một cách vơ ích, đúng như cụ Vân Xưa Hồ Sĩ Khuê đã nhân định:


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

<i>nuốt nhục cứu độ quần chúng thủ đô miền Nam.”.</i>


Trong tình huống này, những người thấu hiểu lịch sử thế giới đều cho rằng việc hai ông đại sứ Hoa Kỳ và đại sứ Pháp cố gắng giàn xếp đưa ông Dương
Văn Minh lên cầm quyền thì cũng giống như việc giàn xếp những người có thầm quyền cịn lại trong chính quyền Đức Quốc Xã vào đầu tháng 5/1945 trong
việc đưa Tướng Gustav Jodt lên với danh nghĩa Tổng Tư Lệnh Quân Đội và nhân dân Đức để sáng sớm ngày 7/5/1945 ông phải thân hành đến Bộ Tổng
Hành Dinh của Đại Tướng Eisenhower tại Reims (Đông Bắc nước Pháp) ký nhận đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện.


Tất cả những việc làm trên đây của nhóm tín đồ Da-tơ và nhóm thiểu số tàn dư phong kiến phản động ở hải ngoại cho chúng ta thấy rõ quyền lợi cũng như
niềm vui mừng và nỗi lo âu của họ hoàn toàn trái ngược với quyền lợi cùng niềm vui mừng và nỗi lo âu của đại khối dân tộc Việt Nam ta….


Có một điều thắc mắc là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng* không phải là tín đồ Da-tơ, với tư cách Tư Lệnh Qn Đồn I và Qn Khu I, vào lúc dầu sơi
lửa bỏng lại ở trong tình trạng thì giờ hết sức quý báu và vô cùng eo hẹp mà TẠI SAO ông lại dành ra tới cả một giờ đồng hồ thân hành đến Toà Tổng Giám
Mục để báo cáo cho Đức Giám-mục Phạm Ngọc Chi biết là ông đã cho lịnh Quân Đội rút khỏi Đà Nẵng?


<i>Tướng Trưởng quyết định ở lại một mình trong trại Thủy Quân Lục Chiến ở Non Nước. Ông đưa phương tiện di chuyển duy nhất cịn</i>


<i>lại của ơng cho tướng Khánh. Sau đó tướng Trưởng lấy một jeep có tài xế, quân cảnh và đi ra khỏi doanh trại và đến tòa Tổng Giám Mục</i>


<i>Địa Phận Đà Nẵng để thăm Đức Cha Phạm Ngọc Chi và trở về khoảng một tiếng sau.</i>



<i><b> Tướng Trưởng cho Đức Cha Chi biết là ông đã cho lịnh Quân Đội rút khỏi Đà Nẵng. Trước khi bỏ Huế tướng Thi cũng đi từ giã</b></i>


<i><b>Đức Cha Điền, địa phận Huế</b></i>

.” [56]


Khơng thấy nói Tướng Truởng đi thăm một ơng Sư nào cả. Sự kiện này chỉ có thể giải thích được rằng chính quyền miền Nam mà tướng Trưởng đang
phục vụ lúc bấy giở là một chế độ đạo phiệt Da-tô nằm dưới quyền chỉ đạo của các ông giám-mục trong Hội Động Giám Mục Việt Nam. Kinh nghiệm lịch


sử cho thấy rằng quốc gia nào có tín đồ Da-tơ được Giáo Hội La Mã đưa lên cầm quyền thì ở đó:


<b>1</b>.- Có vấn nạn Giáo Hội La Mã hay tệ nạn lãnh chúa áo đen,


<b>2.</b>- Chính quyền trung ương phải thường xuyên báo cáo tình hình và những việc làm của họ cho Hội Đồng Giam Mục tại quốc gia đó.


<b>3</b>.- Các nhà chức trách địa phương khi nhận nhiệm sở phải đến trình diện vị Giám mục cai quân địa phận địa phương hay linh mục tai họ đạo nơi nhiệm sở
của họ, và


<b>4</b>.- trong thời gian phục vụ tại địa phương, họ phải thường xuyên báo cáo tình hinh trong phạm vi trấn nhậm cùng những việc làm của họ cho các vị chức
sắc Da-tô của Giáo Hội tại địa phương họ làm việc.


Miền Nam Việt Nam trong thời ơng Ngơ Đình Diệm và ông Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền ở vào tình trạng này. Vì thế mới có chuyện giữa lúc tình hình
đang vô cùng khẩn trương và thi giờ hết sức eo hẹp vào chiếu tối ngày 28/8/1975 mà Trung Tướng Ngô Quang Trưỡng vẫn phải dành ra cả một giờ đồng hồ,
bất chấp cả nguy hiểm ở dọc đường, thân hành đến Tồ Tổng Giám Mục để tường trình lên Giám-mục Phạm Ngọc Chi rằng


<i>rút khỏi Đà Nẵng</i>

.”, và chuyện, ông Tướng Da-tô Lâm Quang Thi cũng phải đến từ giã ơng Giám Mục Điền rồi mới co giị chạy khỏi Huế.


<i>Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, sachhiem.net, ngày 5/4/08</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<b>Ghi chú</b>:


Ngụy Tướng Ngô Quang Trưỡng vẫn phải dành ra cả một giờ đồng hồ, bất chấp cả nguy hiểm ở dọc đường, thân hành đến Tịa Tổng Giám Mục để tường
trình lên Giám-mục Phạm Ngọc Chi rằng

<i>“ông đã cho lịnh Quân Đội rút khỏi Đà Nẵng</i>

.”, là nhiệm vụ của các Tư lệnh Vùng I, ỊI, III, và IV, tỉnh
trưởng, quận trưởng…nhậm chức hay rời nhiệm sở hay bỏ chạy, phải trình diện linh mục, giám mục gần nhất, của thời Diệm – Thiệu Cần Lao Công Giáo.
Giám mục Phạm Ngọc Chi và linh mục Hoàng Quỳnh, đã <i><b>ngụy hàng</b><b> </b></i>để cứu mạng sống của chúng, chứ chúng đâu có thực lịng theo cách mạng, chúng
biết là chúng có <i><b>đại tội tu di tam tộc</b></i> làm tay sai Việt gian phản quốc cho thực dân đế quốc Pháp-Mỹ, tàn hại đất nước và sát hại bao nhiêu dân lành và Việt
Minh Cộng Sản Đảng.



Hai tên đại Việt gian này, bàn tay đẫm nhiều máu sát hại nhân dân ta, tưởng rằng sẽ được cách mạng tha cho, là ra lệnh cho các chỉ huy quân đội Ngụy
VNCH, bỏ súng tháo chạy để dân chúng không bị đỗ máu thêm là do binh vận Cách mang Việt Cộng hứa không giết chúng. Những cán bộ binh vận này,
biết rất rõ bọn tướng tá Ngụy VNCH là bọn Việt gian Công giáo và tướng tá hèn nhát đều nghe lệnh linh mục, giám mục địa phương mà thơi! Để rồi Phạm
Ngọc Chi và Hồng Quỳnh phải đền tội chết đói già trong tù


Cũng như tên đại Việt gian TGM Nguyễn Văn Bình “Đại Viêt gian Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, đã từng kêu gọi Mỹ tiếp tục oanh tạc cày nát từng
<i>tất đất miền Bắc, giết sạch dân chúng miền Bắc, để Ác nhân Nguyễn Văn Bình lên Thiên đàng, như sau: “ TGM Nguyễn Văn Bình ở Sàigon, được mọi quan</i>
<i>sát viên Tây phương xem là người ơn hồ nhất trong số những nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, mới đây đã chấm dứt yên lặng khi tuyên bố</i>
<i>chống lại việc Mỹ ngưng oanh tạc miền Bắc “( báo Le Monde ngày 22 – 10- 1968 )”, để bảo toàn lực lượng, hắn nhanh tay thực hiện khổ nhục kế và ra lệnh</i>
toàn thể linh mục tham gia mọi công tác thủy lợi, đào kinh và <i><b>tự động dâng hiến</b><b> (tất cả đều bị trưng thâu , nộp cho nhà nước</b></i>


đất, trường học, nhà thương.v.v..mà Giáo Hội Công Giáo Việt Gian, đã cướp đọat và gầy dựng từ thời thực dân Pháp, Mỹ và Diệm Thiệu, bề mặt tỏ ra hồ hởi
tuân hành những chính sách của Ðảng và nhà nước, thực hiện những đề án của Ban Tôn Giáo trong thời Lê Duẫn và Lê ĐứcThọ, để mua thời gian cũng cố


<i><b>đạo quân thứ năm</b></i> và <i><b>chui sâu trèo</b><b>cao</b></i> xâm nhập chính quyền và đảng, chờ đợi thực dân đế quốc xâm lược Mỹ-Vatican, bật đèn xanh DBHB (


ĐẠO LINH MỤC LƯU MINH HỒNG DỊNG GIUSE NHA TRANG NỔI LOẠN )


<b>KỶ NIỆM 33 NĂM CUỘC CHIẾN: BBC</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>


Lễ diễu binh tên đường phố Xe tăng Bắc Việt tấn công Dinh độc lập


TP Hồ Chí Minh ngày này 30 năm trước


<i><b>Các hoạt động đang diễn ra trong khắp đất nước để kỷ niệm 30 năm ngày kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam</b></i>


Tại Sài Gòn, nay là TP Hồ Chí Minh, các đồn qn nhạc và diễu binh dựng lại cảnh tượng đồn qn miền Bắc tấn cơng vào Sài Gịn.
Ở Hà Nội, trên các sân khấu ngồi trời người ta dàn dựng lại cảnh bắn máy bay Mỹ rơi.



Thủ tướng Phan Văn Khải trong bài diễn văn của mình đã tuyên bố rằng chiến thắng 30/4/1975 "mãi mãi được ghi trong lịch sử dân tộc Việt Nam".
Thế nhưng ông Khải cũng nói thêm rằng Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thử thách và phải rời khỏi q khứ để hướng tới tương lai.


Khơng khí kỷ niệm 30/4 diễn ra trang trọng và hoành tráng.
<i><b>Tự hào dân tộc</b></i>


Chính phủ Việt Nam hy vọng đợt kỷ niệm năm nay sẽ giúp khơi gợi lại lòng yêu nước và tự hào dân tộc trong tầng lớp thanh niên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Thế nhưng ông cũng cảnh báo Việt Nam cần tránh tự mãn và ý thức được về những khó khăn và thách thức mà nhân dân Việt Nam đang phải đối mặt.


Các hoạt động kỷ niệm 30/74 bao gồm các cuộc diễu binh của quân đội và cựu chiến binh, cùng một lễ sinh nhật chung cho những người sinh ra vào ngày 30/4/1975.
Nhóm cựu chiến binh trên chiếc xe tăng số 390 từng húc đổ cánh cổng của Dinh Độc lập 30 năm trước đã có mặt để xem màn hoạt cảnh những giây phút hoành tráng đó.
Ngày này 30 năm trước, chính quyền Sài Gịn đã chính thức đầu hàng, khép lại cuộc chiến tranh đã làm gần ba triệu người Việt Nam thiệt mạng.


Hôm nay trên các phố xá và công sở ở các thành phố đều treo cờ đỏ sao vàng.


Một bức chân dung lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được treo trước Phủ Chủ tịch ở Hà Nội.


Vị khách nước ngoài cao cấp nhất tham dự các hoạt động kỷ niệm 30/4 là Bộ trưởng Quốc phòng Cuba Raul Castro, cũng là người em trai và người kế cận của ông Fidel Castro.
Nhân dịp này, chính phủ Việt Nam cũng có đợt ân xá cho hơn 7.500 tù nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>



Nhiếp ảnh gia Mai Nam, năm 1966, tháng ba năm 1968
tại Vĩnh Phúc, F105, bị bắn rơi


ần Vĩnh Nhiếp ảnh gia Trọng Thanh


</div>

<!--links-->

<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /> Sổ gọi tên và ghi điểm
  • 2
  • 953
  • 11
  • ×