Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và bảo toàn tinh dịch chó berger

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 90 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
trường đại học nông nghiệp hà nội
.

lê thị huệ

nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và bảo
tồn tinh dịch chó berger

luận văn thạc sĩ nông nghiệp

Chuyên ngành
MÃ số

: thú y
: 60.62.50

Người hướng dẫn khoa học: ts. đỗ văn thu

hà nội 2008


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đà chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn


Lê Thị Huệ

i


Lời cảm ơn

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn
nhận được sự hướng dẫn trực tiếp của Thầy hướng dẫn: TS. Đỗ Văn Thu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới sự chỉ bảo tận tình của Thầy.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tơi toàn bộ các thầy cô
thuộc khoa Thú y Trường ĐHNN Hà Nội, những người trực tiép truyền
dạy cho tôi những kiến thức cơ bản, bổ ích trong suốt quả trình tôi học tập
tại khoa.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Sinh học tế bào sinh sản,
Viện Công nghệ Sinh học Viện Khoa học & Công nghệ Việt Nam, Trung
tâm Huấn luyện chó nghiệp vụ (C32)- Bộ Công an.
Xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè, đà tạo điều kiện
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày tháng năm

ii


Mục lục
STT
1.
1.1.
1.2.

2.
2.1.

Mở đầu
Đặt vấn đề
Mục đích nghiên cứu
Tổng quan nghiên cứu
Tình hình phát triển và sử dụng chó nghiệp vụ ở Việt Nam

2.2.

Tình hình nghiên cứu trên thế giới

6

2.3.

Một số đặc điểm sinh học tinh dịch chó Berger

7

2.4.

Môi trường pha loÃng và đông lạnh tinh dịch chó

16

2.5.

Sơ lược về quá trình giao phối và phóng tinh


23

3.

Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu

25

3.1.

Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiªn cøu

25

3.2.
3.2.1

Néi dung nghiªn cøu
Nghiªn cøu mét sè chØ tiªu sinh học tinh dịch và các yếu tố ảnh
hưởng lên phẩm chất tinh dịch
3.2.2. Pha loÃng, bảo tồn tinh dịch chó ở 50C
3.2.3 Đông lạnh tinh dịch chó ở - 1960C
3.2.4. Thụ tinh nhân tạo chó
3.3.
Phương pháp nghiên cứu
4.
Kết quả và thảo luận
4.1.
Sinh học tinh dịch chó và các yếu tố ảnh hưởng

4.2.
Pha loÃng, bảo tồn tinh dịch chó ở 50C
4.3.
Đông lạnh tinh dịch chó ở - 1960C
4.4.
Thụ tinh nhân tạo chó
5.
Kết luận và đề nghị
5.1.
Kết luận
5.2.
Đề nghị
Tài liệu tham kh¶o

iii

Trang
1
1
3
4
4

25
25
26
26
26
26
46

46
57
68
74
78
78
79
80


Danh mục các bảng

Bảng 1

Một số chỉ tiêu sinh học tinh dịch chó Berger

46

Bảng 2

Tính chất lý hóa của tinh dịch chó Berger

52

ảnh hưởng của mùa vụ lên chất lượng tinh dịch

54

Bảng 4


ảnh hưởng của chu kỳ khai thác lên phẩm chất tinh dịch

56

Bảng 5

ảnh hưởng của môi trường pha loÃng lên phẩm chất tinh
dịch trong quá trình bảo tồn
ảnh hưởng của nhiệt độ bảo tồn lên phẩm chất tinh dịch

58

Bảng 3

Bảng 6
Bảng 7

60

ảnh hưởng của tỷ lệ lòng đỏ trứng gà trong môi trường lên
phẩm chất tinh dịch
Bảng 8 ảnh hưởng của một số loại đường trong môi trường lên phẩm
chất tinh dịch
Bảng 9 So sánh ảnh hưởng của glycerol và Dimethyl sulfoxide lên
phẩm chất tinh dịch
Bảng 10 ảnh hưởng của thời gian cân bằng tinh dịch trước đông lạnh
lên phẩm chất tinh dịch đông lạnh
Bảng 11 ảnh hưởng của thời điểm bổ sung glycerol lên chất lượng
tinh dịch đông lạnh
Bảng 12 ảnh hưởng của tốc độ giải đông lên phẩm chất tinh đông

lạnh

62

Bảng 13 Kết quả thụ tinh nhân tạo bằng tinh bảo tồn dạng lỏng ở 5 0C

75

Bảng 14 Kết quả thụ tinh nhân tạo bằng tinh đông lạnh

77

iv

64
67
69
71
72


1. Mở đầu
1.1 Đặt vấn đề

Từ lâu chó là động vật gần gũi, thân thiện với con người và được con người
nuôi dưỡng thuần hóa, là con vật thông minh hiểu ý và trung thành với chủ.
Ngoài ra chó còn có những khả năng đặc biệt mà các loài vật khác không
có: mắt có khả năng nhìn xuyên trong bóng tối, mũi có khả năng phân biệt
19000 mùi khác nhau. Chính vì thế mà ngày nay một số giống chó đà được
huấn luyện, biệt hóa để trở thành chó nghiệp vụ phục vụ trong công tác an

ninh, quốc phòng.
Năm 1960 chúng ta đà xây dựng đàn chó nghiệp vụ từ các nguồn giống
nhập và lai tạo. Hiện nay có 5 giống chó ngoại (chó Berger, Cocker,
Rottweiler, Bốc sơ và Labrador) được sử dụng vào công tác nghiệp vụ của
ngành Công an và Quân đội. Hai giống chó đang được sử dụng nhiều và có
khả năng nhất là chó Berger Việt Nam và chó Cocker (Tây Ban Nha).
Giống chó Berger Việt Nam là con lai hỗn hợp từ chó Berger Trung Quốc
(được nhập từ những năm 1960), Berger Liên Xô và CHDC Đức (nhập từ
những năm 1970, 1980). Đây là hai giống chó chủ lực, được huấn luyện trang
bị cho các đơn vị, quản lý sử dụng chó nghiệp vụ của Công an các tỉnh, thành
phố và các cơ sở giam giữ thuộc ngành Công an và các đồn biên phòng. Giống
chó này hiện tại ở nước ta có hàng mấy nghìn con được nuôi tại Trung tâm
Huấn luyện chó nghiệp vụ của Bộ Công an và trường D24 Bộ đội biên phòng.
Tại Trung tâm Huấn luyện chó nghiệp vụ có một đàn chó tương đối thuần,
nhưng số lượng rất ít. Trong khu vực nhân dân, chúng khá phổ biến và được
nuôi dưỡng dùng trong việc bảo vệ và làm kinh tế, nhưng lai tạp khá nhiều và
không được chọn lọc do việc nhân giống tự phát. Chó Cocker (Tây Ban Nha)
được nhập từ Liên Xô, Cu-ba trong những năm 1980, thường sử dụng vào mục
đích huấn luyện để phát hiện hơi đặc định (ma tuý và chất nổ). Đây là giống
chó dễ nuôi, tính thích nghi cao, dễ phát triển. Còng nh­ gièng chã Berger,

1


do việc nhân giống tự phát, cho nên đàn chó Cocker đang có nguy cơ bị
thoái hoá và tạp pha. Tuy đàn chó Berger và Cocker có số lượng lớn, nh­ng do
ch­a cã mét hƯ thèng nh©n gièng theo quy hoạch, do đó đà làm mất đi những
đặc điểm, khả năng vốn có của giống chó nghiệp vụ.
Mặc dù chó nghiệp vụ có vai trò lớn trong việc giữ gìn an ninh, quốc
phòng nhưng do số lượng còn ít vì ®a sè c¸c gièng chã nghiƯp vơ ®Ịu nhËp

gièng tõ nước ngoài và giá thành nhập nội từ 5000USD - 8000USD.
ở Việt Nam, hiện nay mạng lưới thụ tinh nhân tạo bằng tinh pha loÃng
bò, lợn, trâu, ngựa, đà phổ biến trên toàn quốc, ngoài ra chúng ta đà xây
dựng được ngân hàng tinh đông lạnh phục vụ cho công tác thụ tinh nhân tạo
và lưu giữ gen quí.
Bởi vậy, việc nghiên cứu để nhân giống chó nghiệp vụ là một việc cần
thiết và cấp bách. Vấn đề đặt ra là cần có những biện pháp cụ thể để nhân
giống, lai tạo giống chó.
Thụ tinh nhân tạo là phương pháp tối ưu để sử dụng có hiệu quả đực
giống tốt, có khả năng di truyền cao, nhằm cải tạo giống, giảm số lượng đực
giống, cùng với công nghệ gen di truyền, thụ tinh nhân tạo đà đưa được công
nghệ sinh sản đạt đến đỉnh cao.
Nghiên cứu đặc điểm sinh học tinh dịch là cơ sở khoa học để đánh giá chất
lượng tinh dịch, từ đó giúp xác định pha loÃng bảo tồn tinh đạt chất lượng cao.
Chỉ khi nào tinh dịch có chất lượng tốt mới đưa vào pha loÃng bảo tồn và
đông lạnh. Nếu biết được lượng tinh dịch, nồng độ, hoạt lực, sức sống, kỳ
hình, kỳ hình acrosome của tinh dịch thì có thể xác định được tỷ lƯ pha lo·ng
thÝch hỵp.
HiƯn nay, ë n­íc ta viƯc thơ tinh nhân tạo và đông lạnh tinh dịch chó còn
là vấn đề mới và ít được quan tâm, kể cả các Trung tâm Huấn luyện chó
nghiệp vụ vẫn sử dụng hình thức phối tự nhiên, trong khi đó thì thế giới đà có
từ lâu.

2


Để tạo ra được chó nghiệp vụ có phẩm giống tốt, đồng thời lưu giữ
bảo tồn được quỹ gen quí của các giống chó nghiệp vụ chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài: Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và bảo tồn tinh
dịch chó Berger

1.2. Mục đích nghiên cứu

- Xác định một số chỉ tiêu sinh học tinh dịch chó Berger làm cơ sở khoa
học để đánh giá phẩm chất tinh dịch và tuyển chọn đực giống.
- Bảo tồn tinh dịch chó.
- Thụ tinh nhân tạo chó nghiệp vô.

3


2. tổng quan nghiên cứu
2.1. Tình hình phát triển và sử dụng chó nghiệp vụ ở Việt Nam

Năm 1960 chúng ta đà xây dựng đàn chó nghiệp vụ từ các nguồn giống
nhập và lai tạo. Hiện nay, chúng ta có 5 giống chó ngoại được sử dụng vào
công tác nghiệp vụ của ngành Công an và Quân đội (chó Berger, Cocker,
Rottweiler, Bốc sơ và Labrador). Hai giống chó đang được sử dụng nhiều và
có khả năng nhất là chó Berger Việt Nam và chó Cocker (Tây Ban Nha)
Giống chó Berger Việt Nam là con lai hỗn hợp từ chó Berger Trung Quốc
(được nhập từ những năm 1960), Berger Liên Xô và CHDC Đức (nhập từ
những năm 1970, 1980). Đây là hai giống chó chủ lực, được huấn luyện trang
bị cho các đơn vị, quản lý sử dụng chó nghiệp vụ của công an các tỉnh, thành
phố và các cơ sở giam giữ thuộc ngành Công an và các đồn biên phòng, cửa
khẩu của lực lượng Bộ đội biên phòng. Giống chó này hiện tại ở nước ta có tới
hàng mấy nghìn con được nuôi tại Trung tâm Huấn luyện chó nghiệp vụ của
Bộ Công an, trường D24 Bộ đội biên phòng. Ngay từ những năm đầu chúng ta
đà tiến hành giữ giống thuần, lai tạo cho sinh sản và phát triển. Cho tới nay,
chúng đà có ngoại hình, thể chất và năng lực làm việc không kém so với giống
gốc ban đầu, chúng đà thích nghi tốt trong điều kiện khí hậu, nuôi dưỡng ở
nước ta và đà có những thành tích xuất sắc trong phục vụ chiến dấu. Tại Trung

tâm Huấn luyện chó nghiệp vụ có một đàn chó tương đối thuần, nhưng số
lượng rất ít. Trong khu vực nhân dân, chúng khá phổ biến và được nuôi dưỡng
dùng trong việc bảo vệ và làm kinh tế, nhưng lai tạp khá nhiều và không được
chọn lọc do việc nhân giống tự phát. Chó Cocker (Tây Ban Nha) được nhập từ
Liên Xô, Cu-ba trong những năm 1980, thường sử dụng vào mục đích huấn
luyện để phát hiện hơi đặc định (ma tuý và chất nổ). Đây là giống chó dễ nuôi,
tính thích nghi cao, dễ phát triển. Cũng như giống chó Berger, do việc nhân
giống tự phát, cho nên đàn chó Cocker đang có nguy cơ bị thoái hoá và tạp
pha. Tuy đàn chó Berger và Cocker có số lượng lín, nh­ng do ch­a cã mét hƯ

4


thống nhân giống theo quy hoạch, việc nuôi dưỡng tự phát, do đó đà làm mất
đi những đặc điểm, khả năng vốn có của giống chó nghiệp vụ.
Chó nghiệp vụ hiện đang sử dụng tại Bộ Công an, không có nguồn gốc từ
Việt Nam mà được nhập từ Nga, Đức, Cuba và Trung Quốc (với giá 5000 8000 USD/con). Các giống chó này đang được bảo tồn và phát triển tại Việt
Nam, đà và đang được sử dụng trong các lĩnh vực bảo vệ, truy tìm dấu vết hơi,
phát hiện ma tuý. Hàng năm chúng thực hiện trên 10.000 nhiệm vụ khác nhau.
Hiện nay, chúng ta đà sử dụng chó nghiệp để vụ kiểm tra, phát hiện chất ma
tuý tại cửa khẩu Tân Sơn Nhất (Quang Khải, 2004). Tuy chó nghiệp vụ có vai
trò rất lớn trong công tác an ninh, quốc phòng, truy tìm ma túy, nhưng vì số
lượng chó còn ít nên chỉ đáp ứng được cho cấp tỉnh và thành phố. Bộ Công an
đà có kế hoạch trang bÞ chã nghiƯp vơ tíi cÊp hun nh­ng khã khăn hiện nay
là sự khan hiếm về con giống.
Sử dụng chó nghiệp vụ là một biện pháp công tác quan trọng của công tác
bảo vệ an ninh trật tự và luôn được thể hiện trong các chỉ đạo của ngành Công
an xuyên suốt lịch sử công tác, chiến đấu của ngành. Cụ thể: chỉ thị số
312/CT- BNV ngày 18/6/1982 về việc tăng cường hiệu quả công tác nuôi dạy
và sử dơng chã nghiƯp vơ; ChØ thÞ sè 13/CT- BNV ban hành kèm theo quyết

định số 178/QĐ- BNV ngày 29/9/1992 về việc tăng cường hiệu quả công tác
huấn luyện, sử dụng chó nghiệp vụ trong lực lượng Công an nhân dân; và gần
đây là chỉ thị số 09/CT- BCA(C12) ban hành kèm theo quyết định số 564/QĐBCA (C12) của Bộ trưởng Bộ Công an ngày 16/6/2004 về tăng cường hiệu quả
công tác quản lý, sử dụng chó nghiệp vụ trong lực lượng Công an nhân dân.
Trong đó đặc biệt nhấn mạnh các nội dung:
- Xác định chó nghiệp vụ là một công cụ hỗ trợ quan trọng trong công tác
đấu tranh ngăn chặn và phòng chống tội phạm của lực lượng Công an nhân
dân.
- Quản lý sử dụng chó nghiêp vụ là một nhiệm vụ của công tác Công an.

5


- Định hướng phát triển đến năm 2010: phải đảm bảo Công an các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, các đơn vị của Bộ, các trại giam đều được
trang bÞ chã nghiƯp vơ.
Thêi gian võa qua, cã mét sè công ty của nước ngoài (Cộng hoà Pháp, Cộng
hoà Liên Bang Đức, Liên bang Nga) khi thăm Trung tâm Huấn luyện chó
nghiệp vụ đà đạt vấn đề bảo tồn tinh dịch và thụ tinh nhân tạo cho chó nghiệp
vụ, nhưng vẫn chưa thực hiện được. Vì vậy việc nghiên cứu bảo tồn tinh dịch
và thụ tinh nhân tạo đối với chó nghiệp vụ là việc làm cần thiết.
Với vai trò quan trọng của chó nghiệp vụ, các nhà khoa học trên thế giới đÃ
quan tâm đến nhiều lĩnh vực như chăm sóc, nuôi dưỡng, huấn luyện và đặc
biệt là công tác giống và bảo tồn nguồn gen các giống chó q. Trong thêi
gian võa qua, ViƯn C«ng nghƯ Sinh häc đà được giao nhiệm vụ thực hiện đề
tài: Nghiên cứu công nghệ bảo tồn tinh dịch và thụ tinh nhân tạo chó nghiệp
vụ của ngành Công an. Kết quả của đề tài đà bảo tồn được tinh dịch ở dạng
pha loÃng và đông lạnh, thành công trong thụ tinh nhân tạo chó góp phần phát
triển đàn chó có chất lượng cao phục vụ cho công tác an ninh và Quốc phòng.
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới


Hiện nay trên thế giới có hơn 400 giống chó khác nhau (Youko, 1999), tuy
nhiên quân đội và công an các nước chỉ sử dụng một số giống chó nhất định
cho công tác huấn luyện để sử dụng làm chó nghiệp vụ cho các công tác đặc
thù như: xác định nguồn hơi cá nhân (mùi người), công tác bảo vệ (dùng chó
để tấn công), xác định hơi (tìm ma tuý, thuốc nổ, ...), công tác truy tìm, cứu
hộ. Một số nước như Trung Quốc, Nga, Đức, Canada đà trang bị chó nghiệp
vụ đến cấp huyện (Nghiêm Xuân Dũng, 2003). Năm 1991, do lo ngại các tổ
chức khủng bố tấn công vào các cơ sở của mình khi xẩy ra cuộc chiến tại
Vùng Vịnh, cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) quyết định thành lập lực
lượng chó nghiệp vụ có số mà hiệu K-9. Các con chó này được huấn luyện để
phát hiện chất nổ (chó biết cách ngửi, phân loại và phát hiƯn ®Õn 19.000 mïi

6


chất nổ). Mũi chó có thể nhậy cảm gấp ngàn lần so với mũi con người, chính
nhờ khả năng đặc biƯt nµy mµ chã nghiƯp vơ cã thĨ hoµn thµnh tốt nhiệm vụ
phát hiện chất nổ. Bên cạnh việc canh gác và bảo vệ các cơ sở chính của CIA,
trong trường hợp cần thiết, K-9 còn thực hiện nhiệm vụ cùng với các lực lượng
bảo vệ pháp luật khác trên lÃnh thổ nước Mỹ như cơ quan bài trừ ma tuý, lực
lượng đặc nhiệm chống khủng bố Liên bang, lực lượng cảnh sát kiểm tra giao
thông đường bộ (theo Excelsior, 2003). Gần đây các nhà khoa học Nhật Bản
đà phát hiện thấy chó có khả năng dự báo động đất. Người ta nhận thấy trước
khi xảy ra động đất khoảng một tháng thì chó sống trong vùng động đất và
vùng xung quanh sđa rÊt nhiỊu. Trong chiÕn tranh thÕ giíi lần thứ hai, Hồng
Quân Liên Xô đà thành lập sư đoàn quân khuyển để tấn công xe tăng của bọn
phát xít Đức trong điều kiện con người không thể làm được, kết quả đà tiêu
diệt được trên 300 xe tăng của địch
2.3. Một số đặc điểm sinh học tinh dịch chó Berger


Tinh dịch gồm 2 phần: tinh trùng chiếm 3 - 5% vµ tinh thanh chiÕm 95 97%.
- Tinh trïng được sinh ra từ ống sinh tinh ở dịch hoàn và được giữ lại ở mào
tinh.
- Tinh thanh gồm rất nhiều các chất hoá sinh học như: đường, axit hữu cơ,
các chất hoàn nguyên, các loại mỡ và các kim loại,... Tinh thanh do các tuyến
sinh dục phụ tiết ra.
Dịch tiết của mỗi tuyến có chức năng và thành phần hoá học khác nhau:
Dịch tiết của tuyến củ hành trong suốt, pH trung tính, có tác dụng chủ yếu
để bôi trơn niệu đạo trước khi phóng tinh.
Tuyến tinh nang tiết ra dịch tiết màu trắng có chứa enzym Vegikilasa, tạo
thành các búi lớn hơn gọi là keo phèn có tác dụng nút cổ tử cung trong quá
trình giao phối trực tiếp. Nhưng trong thụ tinh nhân tạo, ta phải loại bỏ keo
phèn càng nhanh càng tốt vì nó làm cho tinh trùng bị kết dính. Ngoài ra, còn

7


có đường (fructose, sorbitol), axit béo, một số enzym khác giúp quá trình ôxi
hoá cung cấp năng lượng, dinh dưỡng cho tinh trùng. Trong dịch tiết này còn
có cả đệm phosphate và carbonate là hợp chất quan trọng vì chúng giữ pH tinh
dịch được ổn định.
Tuyến tiền liệt tiết ra dịch tiết có tác dụng trung hoà độ axit có trong cơ
quan sinh dục, niệu đạo con cái khi động dục, và H2CO3 do quá trình trao đổi
chất của tinh trùng tạo ra khi vào cơ quan sinh dục con cái. Dịch tiết của
tuyến gồm nhiều protein trung tính không trong suốt.
2.3.1. Hình thái tinh trùng
Tinh trùng của động vật có hình thái khác nhau đặc trưng và ổn định theo
loài, có nghĩa là mỗi loài gia súc, tinh trùng của chúng khác nhau. Hình thái
của tinh trùng chó có hình con nòng nọc, gồm 3 phần: đầu, cổ và đuôi. Phần

đuôi được chia làm 3 phần nhỏ: trung đoạn, đuôi chính và đuôi phụ.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [2] kích thước của các phần như sau:
Đầu dài: 6,5; rộng: 4; dày: 1,5; cổ thân dài: 10; đuôi: 40-50; dài
tổng số là: 55-65
Phần đầu được tạo thành chủ yếu do nhân tế bào. Đầu dẹt, có hình quả
trứng, chứa AND liên kết với protein, được bao bọc bởi lớp màng, đỉnh đầu có
xoang acrosom, bên trong xoang chøa nhiỊu enzym: Hyaluroridaza, acrosin,
proteaza, axit phosphataza,... cã t¸c dơng phá vỡ màng phóng xạ trong quá
trình thụ tinh. Xoang này rất dễ bị bong ra do nhiệt độ, áp suất, pH,... Nhân
chiếm 76,7 80,3% (về thể tích) phần đầu, nhân là kho duy nhất chứa mật
mà di truyền của đời trước.
Cổ là phần để nối lỏng lẻo với phần đầu, điều này phù hợp với mục đích
nhất định trong quá trình thụ tinh khi xâm nhập vào trứng thì cổ gÃy và đuôi
rời ra. Nhưng vì thế mà cổ tinh trùng dễ bị đứt bởi tác động cơ giới, nhiệt độ, hóa
chất, dẫn đến giảm tỷ lệ thụ tinh hoặc tinh trùng không còn khả năng thụ tinh.

8


Phần đuôi được bao bọc bởi màng chung của tinh trùng. Đoạn đuôi được
tạo bởi những sợi (dây) ở chính giữa có 2 sợi, xung quanh có 9 sợi fibrin nhỏ,
xếp theo những vòng tròn đồng tâm, ở phần trên xếp mau hơn, to hơn và
chúng được duỗi ra ở phần đuôi thành chùm tơ đuôi. Chùm tơ đuôi không
có màng bao bọc, chúng được hoạt động tự do như mái chèo giúp tinh trùng
hoạt động.
2.3.2. Thể tích tinh dịch
Lượng tinh dịch là số ml hỗn hợp tinh trùng và tinh thanh do tuyÕn sinh
dôc phô tiÕt ra trong 1 lần lấy tinh (ml/lần) theo Trần Tiến Dũng và cộng sự
2002 [2].
Theo Salisbury (1987) ( Dẫn từ Đỗ Văn Thu (2001) [4] ) lượng tinh dịch

là chỉ tiêu kiểm tra đánh giá chất lượng tinh trùng trong thụ tinh. Theo Dương
Đình Long (1996) [3] lượng tinh dịch là chỉ tiêu vỊ sè l­ỵng nh­ng cã ý nghÜa
rÊt quan träng vỊ mặt sinh học, kỹ thuật và kinh tế. Lượng tinh dịch có liên
quan tới khả năng thụ thai vì nó có liên quan đến số lượng và chất lượng tinh
trùng.
Lượng tinh dịch còn phụ thuộc vào tuổi, với chó nghiệp vụ, những chó
khoảng 1-3 năm tuổi thì lượng tinh thu được cao hơn so với những con chưa
thành thục về tính hay những con già yếu.
Theo Corteel (1977) ( Dẫn từ Đỗ Văn Thu (2001) [5] ) cho rằng lượng tinh
dịch xuất ra còn chịu ảnh hưởng của phương pháp lấy tinh. Lấy tinh bằng kích
thích xung điện cho lượng tinh nhiều hơn lấy tinh bằng âm đạo giả. Lượng tinh
nhiều hay ít còn phụ thuộc vào tính dục con đực và dụng cụ lấy tinh như: nhiệt
độ, áp lực,...
Mùa vụ thời tiết ảnh hưởng đến lượng tinh dịch của đực giống, nó thể
hiện quan hệ giữa ngoại cảnh và cơ năng tuyến sinh dục vì ảnh hưởng đến
hàm lượng của nội tiết tố. Vào mùa sinh sản, lượng tinh dịch của chó cao hơn
mùa không sinh sản (theo Chemineau (1991) [9]; EvansG (1987) [10]). §iỊu

9


này có thể giải thích là do trong mùa sinh sản lượng Testosteron tăng kích
thích các tuyến sinh dục phụ tiết tinh thanh. Ngoài ra, lượng tinh dịch còn chịu
ảnh hưởng của chế độ quản lý, nuôi dưỡng,...
2.3.3. Hoạt lực tiến thẳng
Hoạt lực tinh trùng là chỉ sự vận động tiến thẳng của tinh trùng, đây là
chỉ tiêu kiểm tra thường xuyên và là chỉ tiêu chất lượng của tinh dịch.
Hoạt lực tinh trùng càng cao thì chất lượng tinh dịch càng tốt. Đỗ Văn Thu
(2001) [4], chứng minh sức sống của đời sau phụ thuộc vào sức sống của tinh
trùng, tinh trùng có sức sống tốt thì khả năng sinh trưởng phát dục, sức đề kháng

với bệnh tật,... của đời sau cao. Hoạt lực của tinh trùng là đặc điểm cơ bản của
tinh trùng, chúng có liên quan đến khả năng thụ tinh của tinh trùng. Theo Corteel
(1977) (Dẫn từ Đỗ Văn Thu (2001) [5]) tinh trùng có hoạt lực tốt thì tỷ lệ thụ
tinh cao.
Hoạt lực tinh trùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố nội, ngoại cảnh như: nhiệt
độ, môi trường, độ ẩm môi trường, giống, lứa tuổi,... Nhiệt độ môi trường thích
hợp để tinh trùng vận động là 35 - 370C. Nếu nhiệt độ cao thì làm cho tinh trùng
bị chết, nhiệt độ thấp thì hoạt lực của tinh trùng giảm thậm chí là ngừng hoạt
động, đây là cơ sở để bảo tồn và đông lạnh tinh dÞch chã.
Theo Chemineau. and Caynie (1991) [9]; Evans (1987) [10], ở động vật
hoạt động sinh sản diễn ra theo mùa, vì vậy vào mùa sinh sản hoạt lực của tinh
trùng cao hơn hẳn so với hoạt lực tinh trùng của mùa không phải là mùa sinh
sản.
2.3.4. Nồng độ tinh trùng
Nồng độ tinh trùng là chỉ tiêu đánh giá chất lượng và số lượng của tinh
dịch. Salisbury (1987) (Dẫn từ Đỗ Văn Thu (2001) [4]) cho rằng nồng độ tinh
trùng là chØ tiªu quan träng trong thùc tiƠn TTNT, nã liªn quan mËt thiÕt víi
tû lƯ thơ thai vµ sè con đẻ ra. Nồng độ tinh trùng liên quan mật thiết và thường
tỷ lệ thuận với hoạt lực tiến thẳng và ho¹t tÝnh cđa enzym dehydrogenase.

10


Hazop (1945) (Dẫn từ Đỗ Văn Thu (2001 [5]) cho rằng nồng độ và sức
kháng của tinh trùng là những chỉ tiêu có ý nghĩa cho khả năng thụ tinh của
tinh trùng, vì vậy để có được tinh dịch thích hợp cần phải lưu ý tới hai chỉ tiêu
này. Theo Nguyễn Tấn Anh, Nguyễn Quốc Đạt (1997) [1] chứng minh rằng
nồng độ là tham số cần thiết giúp ta quyết định tỷ lệ pha loÃng tinh nguyên
với môi trường bảo tồn và định liều phối thụ tinh nhân tạo. Nồng ®é tinh trïng
trong tinh pha lo·ng cã ¶nh h­ëng ®Õn kết quả bảo tồn tinh dịch.

Corteelz (1977) (Dẫn từ Đỗ Văn Thu (2001 [5]); Dương Đình Long
(1996) [3] cho rằng lượng tinh dịch tỷ lệ nghịch với nồng độ tinh trùng. Nghĩa
là lượng tinh dịch lớn thì nồng độ tinh trùng giảm. Nồng độ tinh trùng là chỉ
tiêu về sức sản xuất sinh học nên phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Nồng độ tinh trùng cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng cách lấy tinh,
Chemineau và caynie (1991) [9] nhận thấy khoảng cách giữa hai lần lấy tinh
là một ngày cho nồng độ tinh trùng (180 triệu/ml) thấp hơn so với khoảng
cách là trên hai ngày (220 triệu/ ml). Theo Đỗ Văn Thu thì nồng độ tinh trùng
của chó nghiệp vụ chịu ảnh hưởng của phương pháp lấy tinh, tần số phối giống
và chế độ chăm sóc nuôi dưỡng,..., sự thay ®ỉi mïa vơ lÊy tinh cã ¶nh h­ëng
®Õn nång ®é tinh trùng. Trong mùa sinh sản, nồng độ tinh trùng loÃng, không
phải mùa sinh sản thì nồng độ tinh trùng cao.
Khi nghiên cứu về nồng độ tinh trùng Corteel (1977) (Dẫn từ Đỗ Văn
Thu (2001 [5]) cho rằng các giống khác nhau cho nồng độ tinh trùng khác
nhau và trong cïng mét gièng, cïng mét løa ti nh­ng c¸ thĨ khác nhau cho
nồng độ tinh trùng khác nhau. Ngoài ra, nhiệt độ, độ ẩm, lứa tuổi,... đều ảnh
hưởng tới nồng ®é tinh trïng .
2.3.5. Tỉng sè tinh trïng tiÕn th¼ng trong một lần lấy tinh
Tổng số tinh trùng tiến thẳng trong một lần xuất tinh là chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá chất lượng đực giống.
Theo Corteel (1977) (Dẫn từ Đỗ Văn Thu (2001 [5]) thì V.A.C thay đổi

11


theo mùa vụ lấy tinh, ở mùa sinh sản thì V.A.C cao hơn mùa không sinh sản.
Ngoài ra, giống khác nhau cho V.A.C khác nhau. Tình trạng sức khoẻ, tuổi
con vật cũng ảnh hưởng đến chỉ số V.A.C
Một đực giống tèt nÕu nh­ chØ sè V.A.C cao. Shamsuddin (1997) (DÉn
tõ Đỗ Văn Thu (2001) [4] ) cho rằng tổng số tinh trùng trong mỗi lần lấy tinh

khác nhau nhiều giữa lÇn lÊy tinh thø nhÊt so víi lÇn lÊy tinh thứ hai, nếu
khoảng cách giữa hai lần lấy tinh là 20 phút. Khoảng cách hai lần lấy tinh là
một ngày cho chỉ tiêu V.A.C thấp hơn khoảng cách lấy tinh là hai ngày trở
lên. Lấy tinh bốn lần trong một tuần sẽ làm giảm V.A.C, lấy tinh hai lần trong
một tuần là hợp lý.
2.3.6. Tỷ lệ tinh trùng kỳ hình
Tinh trùng kỳ hình là những tinh trùng có hình dạng khác thường so với
tinh trùng bình thường. Tỷ lệ tinh trùng kỳ hình là chỉ tiêu đánh giá chất lượng
tinh dịch và là chỉ tiêu có tính định lượng. Tỷ lệ tinh trùng kỳ hình cao thì chất
lượng tinh dịch kém. Tinh trùng kỳ hình có ảnh hưởng xấu đến khả năng thụ
thai. Chỉ những tinh trùng khoẻ mạnh có hình dạng bình thường mới tham gia
vào quá trình thụ tinh. Tinh trùng kỳ hình không tham gia vào quá trình thụ
tinh, vì nó liên quan đến khả năng phá màng phóng xạ của tế bào trứng.
Tinh dịch có tỷ lƯ tinh trïng kú h×nh d­íi 20% míi sư dơng trong TTNT
hay sư dơng ®ùc gièng trong giao phèi tù nhiên. Tỷ lệ tinh trùng kỳ hình cao
trong mỗi lần phóng tinh là triệu chứng có liên quan đến sự rối loạn trong quá
trình sinh tinh, trạng thái sức khoẻ cđa ®ùc gièng hay cã thĨ do kü tht lÊy tinh
chưa phù hợp... nên việc nghiên cứu hình thái tinh trùng kỳ hình được áp dụng
rộng rÃi trong việc chuẩn đoán hiện tượng mất khả năng sinh sản của đực
giống, cịng nh­ viƯc ¸p dơng kü tht khai th¸c tinh cho phù hợp.
Ngay cả với con đực khoẻ mạnh, sức sinh sản bình thường thì trong tinh
dịch vẫn có tinh trùng kỳ hình. Bằng phương pháp nghiên cứu so sánh tinh
hoàn và tinh dịch của những cá thể chó khác nhau. Theo Lagerlof (1939),

12


những thay đổi sinh lý trong biểu mô tạo tinh trùng phát triển không hoàn hảo
sẽ làm cho tinh trùng phát triển không bình thường.
Milovanov (1962) (Dẫn theo Dương Đình Long (1996) [3], có hai loại kỳ

hình: kỳ hình sơ cấp và kỳ hình thứ cấp.
- Kỳ hình sơ cấp có thể xảy ra ở bất kỳ quá trình nào của quá trình sinh
tinh, điều này xảy ra thường bắt nguồn từ nguyên nhân có liên quan đến bệnh
lý. Kỳ hình sơ cấp có thể xảy ra ở đầu tinh trùng như hai đầu, đầu méo... và ở
đuôi như đuôi gập, cụt đuôi, đuôi dài, đuôi xoắn lại.
- Kỳ hình thứ cấp: xảy ra sau quá trình sinh tinh, thường liên quan đến
tác nhân ngoại cảnh và kỹ thuật không đúng khi sử lý hoặc kiểm tra tinh dịch.
Các kỳ hình thứ cấp có khả năng xảy ra ở mào tinh do kéo dài sự phóng tinh
làm đầu tinh trùng gẫy, long rời khỏi thân.
Một số tác giả đưa ra giả thiết tinh trùng kỳ hình xuất hiện do rối loạn
gián phân trong biểu mô. Theo Chemineau và Caynie (1991) [9] tinh trùng kỳ
hình có các dạng sau:
- Tinh trùng không bình thường ở phần đầu như: 2 đầu, đầu nhỏ, đầu to,
đầu vẹo,...
- Tinh trùng kỳ hình ở phần đuôi: cụt đuôi, đuôi dài, đuôi ngắn, đuôi
gấp khúc,...
- Tinh trùng có giọt tế bào chất ở giữa thân. Tinh trùng có giọt tế bào
chất ở xa điểm giữa của tinh trùng.
- Tinh trùng kỳ hình còn phụ thuộc vào mïa vơ, tÇn sè lÊy tinh..., tû lƯ
tinh trïng kú hình vào mùa sinh sản thấp hơn ở mùa không sinh sản.
Chemineau và Caynie (1991) [9] cho thấy nhiệt độ môi trường cao làm
tăng tỷ lệ kỳ hình ở phần đầu, cổ, thân, đuôi,... Nhiệt độ môi trường cao có
ảnh hưởng tới sự tăng nhiệt độ của dịch hoàn dẫn đến kích thích sự thoái hoá
hình dạng tinh trùng ở phÇn cuèi trong chu kú sinh tinh, Samsuddin (1997)
(DÉn tõ Đỗ Văn Thu (2001) [4] ) nhận thấy nhiệt độ b¶o qu¶n cã ¶nh h­ëng

13


®Õn tû lƯ tinh trïng cã acrosom b×nh th­êng, nÕu tăng tần suất lấy tinh sẽ làm

tăng tỷ lệ tinh trùng kỳ hình. Tỷ lệ tinh trùng kỳ hình tăng nếu lấy tinh với
khoảng cách một ngày so với khoảng cách lấy tinh là trên hai ngày.
2.3.7. Tỷ lệ kỳ hình acrosome
Trong màng, trên cùng của đầu tinh trùng là hệ thống acrosome. Phần
trước của đầu được bao phủ một mũ mỏng, tức bao đầu (Galea capitis). Dưới
lớp này có thĨ ngän. Cã thĨ nh×n thÊy thĨ ngän qua kÝnh hiển vi điện tử. Trong
bao đầu tập trung enzym Hyaluronidaza, nhưng ý nghĩa sinh lý của bao đầu và
thể ngọn hoàn toàn chưa được rõ. Ngày nay người ta cho rằng sự vẹn toàn của
chúng giữ vai trò quan trọng như là chỉ số xác suất về khả năng thụ tinh của
tinh trùng.
Số phận của bao đầu khi tinh trùng xâm nhập vào đường sinh dục con cái
vẫn còn chưa rõ. Enzym Hyaluronidaza giúp tinh trùng chui qua màng phóng
xạ của trứng. Màng Mucopolysacarit của tế bào trứng bị hòa tan.
Khi bảo tồn, hệ thống acrosome dễ bị trương phồng lên, dời khỏi đầu tinh
trùng và làm mất khả năng thụ tinh, nhất là trong môi trường nhược trương.
Mặt khác, men Hyaluronidaza lại rất dễ bị thấm suất ra ngoài. Đây cũng
là vấn đề cần nghiên cứu và quan tâm trong quá trình pha chế, bảo tồn và sử
dụng tinh dịch nhằm nâng cao tỷ lệ thụ tinh.
2.3.8. Tỷ lệ tinh trùng sống
Chỉ tiêu này liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ thụ tinh của tinh trùng. Mào tinh
là nơi cuối cùng của quá trình sinh tinh, là nơi dự trữ tinh trùng. ở đây, tinh
trùng ở trạng thái không hoạt động nên hai tháng vẫn có khả năng thụ tinh,
nếu quá thời gian này tinh trùng sẽ bị chết và được hấp thụ. Khi tác nhân nào
đó tác động bất lợi đến quá trình sinh tinh, tình trạng sức khoẻ của đực giống
thì tỷ lệ tinh trùng sống sẽ giảm. Tỷ lệ sống của tinh trùng phụ thuộc vào
nhiều u tè nh­ chÕ ®é dinh d­ìng, chÕ ®é lÊy tinh,...

14



2.3.9. Đặc điểm lý - hoá học của tinh dịch
áp lực thẩm thấu (posm) của tinh dịch giữ vai trò quan träng víi tinh
trïng. ¸p lùc thÈm thÊu cao hay thấp sẽ ảnh hưởng tới sức sống của tinh
trùng. Mỗi loài khác nhau thì áp lực thẩm thấu của tinh dịch khác nhau. Nếu
áp lực thẩm thấu thấp có thể thấy nhiều tinh trùng kỳ hình ở đuôi.
Năng lực đệm () của tinh dịch, thể hiện khả năng duy trì độ pH của tinh
dịch. Tinh dịch của mỗi loài, cá thể có độ pH khác nhau, năng lực đệm của
tinh dịch có liên quan mật thiết tới thành phần các chất trong tinh dịch.
Độ nhớt () của tinh dịch có khác nhau tùy thuộc vào nồng độ tinh
trùng và thành phần tinh thanh. Độ nhớt của tinh dịch và độ nhớt của môi
trường pha loÃng có ảnh hưởng tới khả năng vận động của tinh trùng. Khi
độ nhớt cao sức căng mặt ngoài lớn tác động lên tinh trùng làm tăng lực ma
sát cản trở tinh trùng vận động.
Tỷ trọng của tinh dịch (d) là một yếu tố quan trọng, dựa trên cơ sở của
pH, đặc điểm sinh học của tinh dịch và một số chỉ tiêu khác chúng ta có thể
tạo được môi trường pha loÃng và bảo tồn tinh dịch thích hợp.
Độ pH tinh dịch là tổng pH của các dịch tiết các tuyến sinh dục phụ. Nếu
độ pH vượt quá mức, chứng tỏ chức năng của những cơ quan này bất thường
hoặc có lẫn những vật lạ nh­ n­íc tiĨu. Theo Mekenzi, Miller vµ Baugues
(1932) (DÉn tõ Dương Đình Long (1996) [3] ) pH của tinh dịch phụ thuộc vào
nồng độ ion H+ có trong tinh dịch, nồng độ ion H+ cao thì pH thấp, môi trường
có tính toan. Độ pH của tinh dịch có tương quan nghịch với nồng độ tinh
trùng, nồng độ tinh trùng cao hay thấp đều làm thay đổi pH của tinh dịch. Độ
pH của tinh dịch có vai trò quan trọng đối víi søc sèng cđa tinh trïng. Khi
m«i tr­êng cã tÝnh kiềm thì sẽ kích thích tinh trùng vận động, làm tăng chất
thải của tinh trùng vào môi trường do quá trình trao đổi chất tạo ra, đồng thời
tinh trùng vận động mạnh thì năng lượng tiêu hao càng lớn, dẫn ®Õn tinh trïng

15



chóng chết. Trong môi trường axít, sự vận động của tinh trùng bị ức chế
(Nguyễn Tấn Anh, Nguyễn Quốc Đại (1997) [1]; Sổ tay thụ tinh nhân tạo
(1971) [6] ). Như vậy, phải pha loÃng tinh dịch trong môi trường có pH toan
yếu để đảm bảo duy trì lâu dài sức sống của tinh trùng.
2.4. Môi trường pha loÃng và đông lạnh tinh dịch chó
Môi trường pha loÃng là môi trường tổng hợp các thành phần chất điện
giải, không điện giải, chất bảo vệ, nhờ đó các đặc tính của chúng thường bổ
sung cho nhau, giúp tinh trùng sống được tốt hơn trong quá trình bảo tồn. Đây
là vấn đề cã ý nghÜa to lín vỊ mỈt sinh häc, kü thuật cũng như hiệu quả kinh
tế. Vì thế, thành phần các chất trong môi trường phải sẵn có, giá thành thấp và
đảm bảo tốt sức sống của tinh trùng.
2.4.1. Cơ sở khoa học xây dựng môi trường pha loÃng tinh dịch
Ivanov chỉ ra rằng: tinh thanh không tham gia vào quá trình thụ tinh
mà chức năng sinh học của tinh thanh là nuôi dưỡng, hoạt hoá tinh trùng.
Từ đó có thể thay tinh thanh bằng môi trường có các đặc ®iĨm gièng tinh
thanh. “Cã thĨ dïng tinh trïng ®· ®­ỵc pha loÃng trong các dung dịch
nhân tạo để dẫn tinh cho súc vật cái mà vẫn sinh ra đời con bình thường
(Dẫn từ Đỗ Văn Thu (2001) [4]). Dùng môi trường để pha loÃng tinh dịch
không chỉ nhằm mục đích thay thế tinh thanh, mà nó còn nhằm mục đích
tránh những hiện tượng xấu của tinh thanh tác động đến tinh trïng, do trong
tinh thanh cã nh÷ng chÊt tiÕt tõ các tuyến sinh dục phụ kích thích tinh trùng
hoạt động làm tiêu hao năng lượng dự trữ của tinh trùng, thay đổi tính chất
màng bọc tinh trùng dẫn đến màng bọc tinh trùng bị trương phồng lên đồng
thời làm mất điện tích trên bề mặt của màng, gây ra hiện tượng tụ dính. Vì
vậy, nghiên cứu môi trường pha loÃng và bảo tồn tinh dịch là rất cần thiết.

16



Nguyên tắc cơ bản để xây dựng môi trường pha loÃng - đông lạnh
tinh dịch
Căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản của Milovanov thì môi trường pha
loÃng cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
p lực thẩm thấu (posm)
áp lực thẩm thấu của môi trường phải tương đương ¸p lùc thÈm thÊu cđa
tinh dÞch. ¸p lùc thÈm thÊu của một chất lỏng phụ thuộc vào nồng độ hoà tan
của các phân tử các ion trong đó. Muốn cho sức sống của tinh trùng được
thuận lợi, ALTT của môi trường phải tương đương với ALTT nội tại của tinh
trùng.
pH của môi trường
Hoạt động của tinh trùng luôn gắn liền với sự thay đổi pH vì quá trình
trao đổi chất của tinh trùng luôn phụ thuộc vào hoạt tính của các enzym. Các
enzym này xúc tiến các phản ứng sinh học chỉ trong một giới hạn pH nhất
định. Mục đích của môi trường pha loÃng là duy trì sức sống của tinh trùng
càng lâu càng tốt, do vậy pH của môi trường thường là môi trường toan yếu.
Trong môi trường toan yếu sẽ ức chế sự hoạt động của các enzym dẫn đến làm
giảm quá trình trao đổi chất của tinh trùng, hạn chế sự tiêu hao năng lượng dự
trữ của tinh trùng, kéo dài thời gian sống của tinh trùng.
Năng lực đệm của môi trường
Môi trường phải có năng lực đệm nhất định để duy trì pH của tinh dịch
luôn ổn định, khử một số chất độc đối với tinh trùng do quá trình trao đổi chất
của tinh trùng tạo ra, đảm bảo sức sống và quá trình trao đổi chất của tinh
trùng được thuận lợi.
Môi trường phải có tỷ lệ các chất điện giải và chất không điện giải
thích hợp
Chất điện giải là những chất cần thiết trong môi trường pha loÃng để tạo
ra môi trường có áp lực thẩm thấu tương đương với áp lùc thÈm thÊu cña tinh

17



dịch, ổn định độ pH của môi trường... Nhưng chính các chất điện giải này lại
là tác nhân chính gây ra mất điện tích trên bề mặt của tinh trùng gây ra hiện
tượng tụ dính. Để ngăn ngừa tình trạng trên, môi trường pha loÃng phải có
chất không điện giải, thông thường tỷ lệ chất điện giải và chất không điện
giải là 2/9.
Tỷ trọng môi trường
Môi trường pha loÃng phải có tỷ trọng tương đương với tỷ trọng của tinh
dịch để tránh hiện tượng tinh trùng bị lực đẩy acsimet làm nổi lên trên hoặc áp
lực thuỷ tĩnh làm ảnh hưởng đến hình thái của tinh trùng.
Độ nhớt của môi trường
Độ nhớt của môi trường phải tương đương với độ nhớt của tinh dịch để
tránh tình trạng sức căng mặt ngoài tác động lên màng bọc tinh trùng và ma
sát nội quá
2.4.2 Vai trò của các chất trong môi trường pha loÃng bảo tồn tinh dịch
Vai trò của đường
Đường đà ảnh hưởng thực sự đến khả năng vận động, sức sống, tính
nguyên vẹn của acrosome trong suốt quá trình bảo quản lạnh. Các disaccarid,
ngoại trừ lactose, làm giảm tỷ lệ tinh trùng chết đồng thời làm giảm tỷ lệ
acrosome bị phá huỷ nhưng không cải thiện khả năng vận động và khả năng
sống sau bảo tồn. Trong khi các monosaccarid, đặc biệt là fructose và xylose
đà cải thiện khả năng vận động và tỷ lệ acrosome nguyên vẹn. Trehalose,
xylose và fructose làm tăng khả năng hoạt động của tinh trùng trong các mẫu
sau khi bảo tồn ở 50C so với các loại đường khác.
Đường hoạt động như một chất bảo quản lạnh, cung cấp năng lượng cho
tinh trùng sống và vận động, duy trì áp lực thẩm thấu của môi trường. Ngoài
ra, đường có tác dụng bảo vệ màng tinh trùng, tránh được hiện tượng mất điện
tích trên bề mặt tinh trùng, do đó tránh được hiện tượng tinh trùng bị tụ dính.
Đường có vai trò như chất khử, khi có ôxy hoá chính nó giữ vai trò là một chất


18


chống ôxi hoá. Milovalov cũng đà phát hiện ra độ nhớt của môi trường có chất
đường cao hơn so với dung dịch muối. Khi pha loÃng bằng dung dịch đường
thì các vi khuẩn gây mủ sinh sản ở mức thấp.
Các loại đường thường được đưa vào sử dụng là:
Đường Lactose: Andersen [8] sư dơng trong m«i tr­êng Tris - lactose;
Evans [10] sử dụng lactose trong môi trường (Lòng đỏ trứng gà, lactose,
glycerol) để đông lạnh tinh chó.
Sử dụng đường Raffinose như: Mathur và cộng sự (1991) [13]; Visser
(1974) [16] ).
Đường fructose và glucose được các nhà nghiên cứu sử dụng, Mathur và
cộng sự (1991) [13].
Trong công trình của El - Gaafary (1990) (Dẫn từ Đỗ Văn Thu [4] )
không thấy cã sù kh¸c nhau mét c¸ch cã ý nghÜa vỊ hoạt lực, tốc độ bơi,
acrosom nguyên vẹn của tinh trùng sau khi bảo tồn ở 370C với hai môi trường
có đường lactose và raffinose, việc sử dụng fuctose trong môi trường pha
loÃng và đông lạnh cho kết quả về sức sống, hoạt lực của tinh trùng tốt hơn so
với môi trường sử dụng các loại đường khác.Các loại đường khác nhau, nồng
độ khác nhau có ảnh hưởng đến sức sống của tinh trùng trong quá trình đông
bảo tồn. Tác giả cho rằng nồng độ disaccharide và trisaccharide khác nhau
cho kết qu¶ vỊ søc sèng cđa tinh trïng sau b¶o tån khác nhau.
Vai trò của cấc chất điện giải và không điện giải
Chất không điện giải (như các loại đường) có tác dụng bảo vệ cho tinh
trùng tránh được hiện tượng mất điện tích trên bề mặt tinh trùng do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Từ đó, giúp cho tinh trùng duy trì sức sống được tốt
hơn. Chất không điện giải còn giữ vai trò là chất chống oxy hóa. Chất bảo vệ
cho chất chống ngưng kết (antiaglutinin) của tinh dịch khỏi bị oxy hóa. Sự

chuyển thế năng oxy hóa khử của tinh dịch sang âm tính do chất đường
tiến hành cũng có lợi cho tinh trùng.

19


Tinh trùng rất mẫn cảm với những dung dịch muối như NaCl, KCl, NaCitrate, tuy vậy, vẫn phải đưa vào môi trường pha loÃng bảo tồn một lượng
muối nhất định, muối không độc và có anion hoá trị cao.
Milovanov nhận thấy trong môi trường pha loÃng nếu tăng các muối có
cation hoá trị cao thì có hại cho tinh trùng. Như các muối có cation +2 (Ca,
Mg...) làm cho tinh trïng bÞ tơ dÝnh, mi cã cation +3, +4 (Al, Fe...) làm cho
tinh dịch bị đông đặc và tinh trùng chết rất nhanh. Đối với anion thì ngược lại,
những muối có anion -2 có tác động lên tinh trùng tốt hơn so với muối có
anion là -1. Theo quan điểm trên thì những muối có anion hoá trị cao, thành
phần các chất có khác nhau nhưng vẫn duy trì søc sèng cña tinh trïng tèt nh­
nhau. Muèi cã anion hoá trị 2, 3, 4 sẽ làm tăng sức sống của tinh trùng, còn sử
dụng muối có anion hoá trị 1 thì sức sống của tinh trùng bị giảm.
Theo Milovanov (1962), Xocolopskaia (1962), (Dẫn từ Dương Đình
Long (1996) [3] ), cho rằng muối trong pha loÃng tinh dịch có các vai trò sau:
- Làm chậm hiện tượng trương phồng chất keo colloid của nguyên sinh
chất và màng tinh trùng, hạn chế tình trạng tự ngộ độc bằng những sản phẩm
toan tính của sự phân giải.
- Duy trì năng lực đệm của môi trường pha loÃng và đông lạnh. Theo
Salisburly (1978) [15] có thể dùng một loại muối vừa để duy trì áp lực thẩm
thấu vừa có tác dụng đệm như muối Natri-phosphat, muối natri-citrate, muối
natri-bicacbonat. Ngoài ra chúng còn cung cấp một lượng CO2 vào môi trường
ức chế sự hoạt động của tinh trùng.
Đỗ Văn Thu (2001) [4] cho rằng muối Tris có tác dụng bảo vệ acrosom ít
bị hư hỏng trong bảo quản, duy trì sức sống của tinh trùng lâu hơn các muối
khác. Theo tác giả, tinh trùng có thể chịu đựng tương đối rộng với khoảng nồng

độ muối Tris. Tuy vậy, để duy trì sức sống lâu dài cho tinh trùng, ngoài nồng độ
muối Tris phù hợp còn có nồng độ đường và loại đường đưa vào môi trường
cũng phải phù hợp.

20


×