Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

sinh hoc co the dong thuc vat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.94 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Vị thành niên là những người không còn là trẻ con nhưng cũng chưa
phải là người lớn. dù là con trai hay con gái, diễn biến tình cảm và tâm lý
cũng có những điểm giống nhau do lứa tuổi, tất nhiên ở mỗi giới có thể có
các biểu hiện ít nhiều khác nhau.


Ở tuổi vị thành niên sớm (10-13 tuổi):


Về mặt tâm lý và tình cảm, các em bắt đầu có tư duy trìu tượng; các
em ý thức được mình khơng cịn là trẻ con nữa, và hành động, muốn thử sức
mình và muốn khám phá những điều mới lạ. Các em thường quan tâm, đến
những thay đổi của cơ thể, nhất là các em gái; dễ băn khoăn; lo lắng, buồn
rầu về những nhược điểm ở cơ thể mình khi so sánh với các bạn cùng lứa.
Các em cũng bắt đầu quan tâm đến bè bạn, muốn tách khỏi sự bảo hộ của bố
mẹ, tuy nhiên các em vẫn cịn q trẻ, chưa có kinh nghiệm và vẫn phụ
thuộc vào bố mẹ và gia đình.


Ở tuổi vị thành niên sớm (14-16 tuổi):


Các em phát triển mạnh tính độc lập, muốn tách khỏi sự quản lý, kiểm
sốt của gia đình, phát triển mạnh cá tính và muốn tìm kiếm những mối quan
hệ bạn bè cùng lứa. Nhu cầu về tình bạn trở nên quan trọng và dễ chịu ảnh
hưởng (tốt cũng như xấu) của nhóm bạn đó; đặc biệt chú ý đến người bạn
khác giới và dễ nhầm lẫn tình bạn với tình yêu. Các em tiếp tục phát triển
mạnh về tư duy trìu tượng, tuy vậy các em lại thường thay đổi tình cảm một
cách dễ dàng, khi vui, khi buồn kiểu “sớm nắng chiều mưa”. Khi mong
muốn điều gì, các em muốn được thoả mãn nhu cầu ngay và có thể hành
động bất chấp hậu quả, trong khi về mặt tư duy các em chưa phát triển đầy
đủ khả năng tự phê phán. Cũng ở nhóm tuổi này các em thường muốn tìm
hiểu về khả năng hoạt động tình dục của mình.


Ở nhóm tuổi vị thành niên muộn (17-19 tuổi):



Cơ thể và chức năng sinh lý của các bộ phận trong cơ thể các em đã
gần như hồn chỉnh. Về mặt tâm lý, tình cảm đã có cách suy nghĩ, ứng xử
khá chín chắn giống như người trưởng thành. Có suy nghĩ kế hoạch cho
tương lai, về sự lựa chọn nghề nghiệp một cách thực tế hơn. Ảnh hưởng của
nhóm bạn bè giảm bớt, thường kén chọn bạn thích hợp với mình (bạn tâm
giao). Tình yêu ở nhóm tuổi này thực tế hơn, đã phân biệt tình bạn và tình
u chứ khơng cịn mơ hồ như những năm trước đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Việc phân đoạn quá trình phát triển tâm lý người phác họa cho chúng</i>
<i>ta thấy rõ những nét tâm lý đặc trưng cho từng lứa tuổi. Trong mỗi giai</i>
<i>đoạn phát triển các nét tâm lý đặc trưng nảy sinh trên cơ sở kết hợp các</i>
<i>điều kiện khách quan và chủ quan. </i>


Trong số các điều kiện khách quan, vị thế xã hội của chủ thể có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng. Những thay đổi vì thế xã hội sẽ làm nảy sinh nhu
cầu phát triển mới. Trình độ phát triển của các chức năng tâm lý trong giai
đoạn trước cũng như trong giai đoạn hiện thời sẽ là điều kiện chủ quan đảm
bảo cho những nhu cầu phát triển mới nảy sinh trở thành hiện thực. Như vậy
quá trình phát triển tâm lý con người là một q trình liên tục. Nói cách khác
mỗi giai đoạn phát triển vừa mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển.
Điều đó cũng có nghĩa là việc phân đoạn quá trình phát triển tâm lý người
chỉ có ý nghĩa tương đối. Khơng có gì đáng ngạc nhiên khi cùng một độ tuổi,
ví dụ độ tuổi 14 - 15 có người gọi là giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên,
có tác giả lại cho đó là giai đoạn cuối của lứa tuổi thiếu niên.


Hiện nay tồn tại nhiều cách phân đoạn quá trình phát triển của con
người tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu. Có thể xuất phát từ đặc điểm phát
triển sinh lý, cũng có thể đi từ góc độ xã hội học dựa vào sự thay đổi các
dạng hoạt động xã hội... Nếu so sánh ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ


khoa học thì nội dung các khái niệm thể hiện giai đoạn phát triển lại càng
khác xa nhau. Riêng trong tâm lý học nếu loại trừ sự khác biệt trong quan
điểm phân đoạn do tính liên tục của các q trình phát triển. tạo ra, nhìn
chung có thể chấp nhận xác định lứa tuổi thanh niên là giai đoạn lừ 14 - 18
tuổi. Việc xác các định lứa tuổi thanh niên như vậy tương đối tương đồng
với việc phân đoạn từ góc độ sinh lý học hay xã hội học. Tuy nhiên, các
ngưỡng tuổi trên và ngưỡng tuổi dưới có thể dịch chuyển chút ít (độ 1,2
tuổi) tùy thuộc vào đặc điểm phát triển lịch sử - xã hội, đặc điểm giới và cả
đặc điểm phát triển cá nhân.


<b>1) Hình thành biểu tượng "cái tơi” có tính hệ thống </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cầu về hiểu biết thế giới hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ người
-người, hiểu mình và tự khẳng định mình trong xã hội...


Bước sang tuổi thanh niên, các chức năng tâm lý của con người cũng
có nhiều thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư
duy. Các nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng hoạt động tư duy của thanh
niên rất tích cực và có tính độc lập tư duy lý luận phát triển mạnh. Thanh
niên có khả năng và rất ưa thích khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh
của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Nhờ khả năng
khái qt thanh niên có thể tự mình phát hiện ra những cái mới. Với họ điều
quan trọng là cách thức giải quyết các vấn đề được đặt ra chứ khống phải là
loại vấn đề nào được giải quyết. Học sinh cấp III đánh giá các bạn thông
minh trong lớp không dựa vào điểm số mà dựa vào cách thức giải bài tập.
Họ có xu hướng đánh giá cao các bạn thơng minh và những thầy cơ có
phương pháp giảng dạy tích cực, tơn trọng những suy nghĩ độc lập của học
sinh, phê phán sự gị ép, máy móc trong phương pháp sư phạm.


Trên cơ sở các điều kiện khách chủ quan nêu trên tự ý thức phát triển.


Nghiên cứu khả năng đánh giá con người của thanh niên nhiều nhà
tâm lý học nhận thấy rằng khi đánh giá con người nếu như thiếu niên thường
nêu lên những đặc điểm mang tính nhất thời liên quan đến những hồn cảnh
cụ thể trong các mối quan hệ với bố mẹ hoặc thầy cơ giáo, thì thanh niên chú
ý nhiều hơn đến những phẩm chất nhân cách có tính bền vững như các đặc
điểm trí tuệ, năng lực, tình cảm, ý chí, thái độ đối với lao động, quan hệ với
những người khác trong xã hội… Từ chỗ nhìn nhận được những phẩm chất
mang tính khái quát của người khác dần dần con người tự phát hiện ra thế
giới nội tâm của bản thân mình. Các em ở lứa tuổi thiếu niên cảm nhận được
các rung động của bản thân và hiểu rằng đó là trạng thái "cái tơi" của mình.
Song nhờ tư duy khái quát phát triển trên cơ sở tiếp thu các tri thức chung
mang tính phương pháp luận thanh niên ý thức được các mối quan hệ giữa
các thuộc tính tâm lý và các phẩm chất nhân cách, có khả năng tạo được một
hình ảnh “cái tơi" trọn vẹn và đầy đủ hơn để từ đó xây dựng các mối quan hệ
với người khác và với chính mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Thông thường biểu tượng về cái tôi được hình thành theo hướng các
thuộc tính tâm lý của con người như một cá thể được nhận biết sớm hơn các
thuộc tính nhân cách. ở giai đoạn đầu thanh niên rất nhạy cảm với những đặc
điểm của hình thức thân thể. Họ so sánh mình với người khác qua các đặc
điểm bên ngoài. Một hiện tượng rất thường gặp là học sinh cấp III bắt chước
thầy cô giáo mà họ yêu quý hay một người mẫu lý tưởng nào đó mà họ chọn
cho mình, từ cách ăn mặc, cử chỉ, dáng đi. Trong giai đoạn phát triển tiếp
theo các đặc điểm nhân cách như ý chí, tình cảm, trí tuệ, năng lực, mục đích
sống... ngày càng có ý nghĩa, tạo nên một hình ảnh "cái tơi” có chiều sâu, có
hệ thống, chính xác và sống động hơn.


Ý thức về cái tôi rõ ràng và đầy đủ hơn đã làm cho thanh niên có khả
năng lựa chọn ,con đường tiếp theo, đặt ra vấn đề tự khẳng định và tìm kiếm
vị trí cho riêng mình trong cuộc sống chung.



<b>2) Nảy sinh cảm nhận về "tính chất người lớn" của bản thân.</b>
Cảm nhận về "tính người lớn" của chính 'bản thân mình là một trong
những nét tâm lý đặc trưng xuất hiện trong giai đoạn chuyển từ lứa tuổi
thiếu niên sang tuổi thanh niên. Thực tiễn cho thấy rằng sự nảy sinh cảm
nhận đó ở lứa tuổi thanh niên là một trong những yếu tố tâm lý góp phần tạo
nên những mối quan hệ bất bình ổn giữa cha mẹ và con cái, làm cho tần số
giao tiếp giữa cha mẹ và con cái giảm xuống và thay vào đó là nhu cầu giao
tiếp của thanh niên với bạn đồng lứa tăng lên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

giao tiếp với mọi người (với bạn bè, thầy cô giáo, người lớn…) ở lứa tuổi
thanh niên cao hơn hẳn và đặc biệt cao trong giao tiếp với bố mẹ hay với
những người lớn mà thanh niên cảm thấy bị phụ thuộc. Theo thói quen thông
thường trong quan hệ với con cái đã bước vào tuổi thanh niên, các bậc cha
mẹ vẫn thường xem họ như những đứa trẻ mà ít chú ý đến nhu cầu nội tâm
của họ. Kiểu quan hệ mang tính sai khiến, áp đặt cứng nhắc hoặc những biểu
hiện tình cảm mẹ - con thái quá đối với lứa tuổi này thường gây ra những
hậu quả không mong đợi. A.E.Litrco - một chuyên gia tâm thán học nổi
tiếng của Liên bang Nga về lứa tuổi thanh niên nhận định rằng lứa.tuổi từ 14
đến 18 là lứa tuổi khủng hoảng đối với tâm thần học. Ở lứa tuổi này các biểu
hiện rối loạn nhân cách tăng lên rõ rệt và trong phần lớn các trường hợp,
chúng có nguồn gốc sâu xa trong các quan hệ cha mẹ - con cái, quan hệ thầy
- trị khơng thuận lợi.


Trên cơ sở phát triển sinh lý, mức độ chín muồi của q trình phát
triển các đặc điểm sinh lý giới, sự cảm nhận về tính chất người lớn của bản
thân mình ở thanh niên không phải là một cảm nhận chung chung mà liên
quan chặt chẽ với việc gắn kết mình vào một giới nhất định. Từ nhận thức
đó ở thanh niên nam (nữ) dần dần hình thành những nhu cầu, động cơ, định
hướng giá trị, các quan hệ và các kiểu loại hành vi đặc trưng cho mỗi gia


đình.


<i>Nhân cách sáng tạo là một phẩm chất phát triển của con người, trong</i>
<i>đó, con người, thơng qua hoạt động sống của mình, tạo nên những giá trị</i>
<i>tinh thần, giá trị vật chất có tính mới về chất đối với nhu cầu và lợi ích của</i>
<i>sự phát triển xã hội. Bản chất con người vốn có khả năng sáng tạo, song,</i>
<i>tiềm lực này có được "thực tế hóa" hay khơng, lại phụ thuộc vào điều kiện xã</i>
<i>hội, giáo dục cộng đồng và ý thức cá nhân. </i>


Nhân cách sáng tạo được hình thành trong quá trình con người lao
động và hoạt động thực tiễn nói chung, cùng với sự tiếp nhận những thành
tựu tiến bộ xã hội và giáo dục xã hội. Đồng thời, nhân cách sáng tạo cũng là
năng lực tự phát triển của mỗi cá nhân con người, là khả năng "đổi mới" của
nó được nảy sinh trong hoạt động thực tiễn, học hỏi xã hội và giáo dục nhà
trường. Một nhân cách sáng tạo bao giờ cũng biết tự ý thức, chủ động và tích
cực tạo nên một sản phẩm mới (tinh thần, vật chất), một "hiện thực mới",
nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích và mục đích đa dạng, ngày càng tăng của sự
phát triển con người và xã hội. Bởi, xét tới cùng, như V.I.Lênin viết: "nghĩa
là thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế
giới bằng hành động của mình"


Có thể nêu ra những nhân tố của nhân cách sáng tạo, bao gồm:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

 <i>Hoạt động thực tiễn dưới hình thức thực tiễn vật chất hoặc thực tiễn</i>
tinh thần. Năng lực nắm bắt và thực hành phương pháp "tạo ra hiện thực
mới" từ vật liệu, nguyên liệu, tài liệu do chính hiện thực đã có và đang có
cung cấp.


 <i>Phẩm chất xã hội và lý tưởng trong xã hội của chủ thể sáng tạo phù</i>
hợp với yêu cầu nhân văn hóa con người trong một đời sống cộng đồng đang


hướng tới những giá trị, mục tiêu phát triển bền vững, nhằm thực hiện một
xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một thế
giới tiến bộ, nhân văn.


Như thế, để có được nhân cách sáng tạo, con người khơng phải chỉ có
nỗ lực cá nhân, mà cịn phải được giáo dục, tức là có sự chuẩn bị, trang bị và
hướng dẫn nhân cách trở thành nhân cách sáng tạo, con người sáng tạo. Có
thể đưa ra đây những yêu cầu chủ yếu đối với hoạt động giáo dục hiện nay
để "sản xuất" ra những nhân cách sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững trong thời đại tồn cầu hóa.


Cung cấp những tri thức nhiều mặt mang tính hiện đại do các thành
tựu khoa học mà nhân loại hiện nay đã đem lại với tính cách là tài sản chung
của mọi xã hội. Những tri thức khoa học này không chỉ là mảnh đất ni
dưỡng trí tuệ con người, mà điều chủ yếu hơn, chúng là bàn đạp để mọi sáng
tạo của cá nhân có thể nảy nở, cất cánh. Trong bức tranh sơi động và sinh
động tồn cầu hóa hiện nay, khi mà mọi hoạt động của con người phải mang
tính tri thức, thì sự sáng tạo với tính cách là động lực tối ưu của phát triển
bền vững, tất yếu phải là sáng tạo tri thức, sáng tạo bằng trí tuệ tinh khôn
nhất và hiệu quả nhất. Hiện nay, tri thức đang trở thành một loại tư liệu chủ
yếu của sản xuất xã hội, khoa học, tri thức khoa học - sản phẩm sáng tạo của
con người đang trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", "lực lượng sản xuất
độc lập", như C.Mác từng dự báo (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 4, tr.
<i>187).</i>


Bất cứ một sáng tạo nào cũng đều bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn
quy định, thúc đẩy, đánh giá, kiểm chứng, định hướng và cuối cùng là hiện
thực hóa mục đích của sáng tạo. Chính vì vậy, mọi nội dung hay mọi
phương thức giáo dục đều phải được tồn tại trong thực tiễn. Một nhân cách
sáng tạo phải được đào luyện trong thực tiễn mà nhân cách đó muốn tham


gia bằng sự sáng tạo của mình. Quá trình hoạt động thực tiễn cũng chính là
mơi trường học tập để sáng tạo, thử nghiệm, thử thách sự sáng tạo và xác
định mục tiêu của sáng tạo. Giáo dục khả năng nắm bắt thực tiễn và hoạt
động thực tiễn là một yêu cầu, một nguyên tắc của giáo dục nhân cách sáng
tạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

tư liệu sáng tạo của cuộc sống hiện thực thành kết quả sáng tạo, sản phẩm
sáng tạo. Nếu phương thức sáng tạo, phương pháp sáng tạo là một cơng cụ
khoa học, thì việc giáo dục, đào tạo con người sử dụng cơng cụ đó có một ý
nghĩa cần thiết và quan trọng. Tính quy định của giáo dục phương thức sáng
tạo phương pháp sáng tạo là ở chỗ:


Chủ thể sáng tạo phải được trang bị các phương thức, phương pháp
sáng tạo đã được xác định cùng với những nguyên tắc chung, nguyên lý phổ
biến của chúng.


Chủ thể sáng tạo phải có năng lực lựa chọn phương thức sáng tạo,
phương pháp sáng tạo sao cho phù hợp với đối tượng sáng tạo và mục tiêu
sáng tạo.


Khả năng chủ quan của chủ thể sáng tạo phải làm chủ được phương
thức, phương pháp sáng tạo có trong tay, đồng thời, tạo ra được những cái
cần thiết chưa có trong chúng để có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cụ thể,
riêng biệt do quá trình thực thi sáng tạo đặt ra.


Kỹ năng, kỹ xảo và công nghệ sử dụng phương thức sáng tạo, phương
pháp sáng tạo là yêu cầu bắt buộc đối với mọi nhận thức và mọi hành động
cụ thể trong quá trình sáng tạo. Rõ ràng là, việc giáo dục nhân cách sáng tạo
bao gồm cả u cầu hồn thiện nhân cách đó bằng các chỉ dẫn, hướng dẫn,
định hướng đối với phương thức, phương pháp sáng tạo.



Như trên đã nêu, nhân cách sáng tạo là một hiện tượng xã hội, mang
giá trị xã hội' nhất định, đồng thời cũng chịu sự qui định của xã hội. Một
nhân cách sáng tạo chỉ thật sự hữu ích đối với đất nước, nhân dân và cộng
đồng nhân loại, khi hoạt động thực tiễn và ý thức con người của nhân cách
đó nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, cho dân tộc, cho xã hội nói
chung. Điều đó địi hỏi một phẩm chất tư tưởng, tình cảm của nhân cách
sáng tạo phải trong sáng, cao đẹp, một phẩm chất của con người XHCN. Ở
đây, việc giáo dục con người có năng lực sáng tạo khơng thể tách rời việc
giáo dục “đạo làm người", giáo dục nhân cách nhân văn, nhân cách "tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", nhân cách của "hiền tài , trong thời đại Hồ Chí
Minh, nhân cách của một thành viên trong hệ thống nhân loại tiến bộ và
nhân văn. Đồng thời, chính phẩm chất tích cực trên đây khơng chỉ là nền
tảng vững chắc mà còn là động lực mạnh mẽ cho mọi sáng tạo đúng đắn,
chân chính của con người. Cần lưu ý rằng, nội dung, mục đích của bất kỳ
một sáng tạo nào cũng đều phải nhằm nhân văn hóa con người và xã hội, cải
thiện môi trường sinh thái tự nhiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

tự chuyển hóa chúng thành năng lực cá nhân, thành khả năng bên trong,
thành "do mình, của mình". Mọi sự áp đặt, giản đơn, máy móc, khơ cứng
trong giáo dục nhân cách sáng tạo là hoàn toàn xa lạ, phản tác dụng. Nói
cách khác, đó là sự định hướng, chỉ đường, hỗ trợ, tạo mọi tiền đề cần thiết
để chủ thể sáng tạo tự khẳng định "cái mới" của mình.


Để đáp ứng nhu cầu giáo dục nhân cách sáng tạo trong phát triển bền
vững, ngành giáo dục và xã hội cần có những quan tâm và giải pháp tương
ứng, nhằm tạo ra một "thế hệ vàng" phù hợp với dòng chảy phát triển nguồn
nhân lực của dân tộc ta trong thời đại tồn cầu hóa hiện nay.


Về nhận thức cũng như về chủ trương, chính sách, ngành giáo dục và


đào tạo nên xem việc giáo dục nhân cách sáng tạo nằm trong tầm chiến lược
con người, thuộc phạm vi hạt nhân của nguồn lực phát triển xã hội nói
chung, của phát triển "trồng người" nói riêng. Một sự đầu tư thích đáng về
nhiều mặt cho giáo dục nhân cách sáng tạo là một yêu cầu thực tiễn có giá trị
cấp thiết và bền vững.


Hệ thống giáo dục và nhà trường, từ mẫu giáo đến đại học, sau đại
học, cần tạo mọi điều kiện vật chất và tinh thần để có thể phát hiện, ni
dưỡng, bồi dưỡng những nhân cách sáng tạo. Thừa nhận nhân cách sáng tạo
là động lực tích cực, quan trọng của phát triển đất nước và hội nhập quốc tế
cũng có nghĩa là thừa nhận rằng động lực đó phải do chính xã hội tạo ra,
trong đó trước hết và chủ yếu là từ nhà trường, từ một nền giáo dục có tính
tiên tiến về mặt khoa học và có tính nhân văn về mặt xã hội. Bởi vậy, nhà
trường cần xem việc "đào tạo nhân cách sáng tạo" như là một quá trình được
đầu tư hoàn chỉnh, vững chắc, khẩn trương và lâu dài.


Như mọi hoạt động giáo dục khác, hoạt động giáo dục nhân cách sáng
tạo, với tính cách là một hình thái giáo dục xã hội, cần được xã hội hóa theo
tinh thần đổi mới, định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế phát triển bền vững
của thế giới tiến bộ hiện nay. Tính đặc thù của xã hội hóa giáo dục nhân
cách sáng tạo là ở chỗ: tạo ra một "phong trào" dư luận xã hội, ý thức xã hội
và hành động xã hội đối với giáo dục nhân cách sáng tạo, từ phát hiện, bồi
dưỡng, khuyến khích đến sử dụng, khai thác, như một sự nghiệp và tài sản
quốc gia, cùng với việc đưa đến cho nhân cách đó mọi điều kiện cần thiết về
vật chất và tinh thần để hình thành và phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

thiết yếu để khẳng định giá trị của mình. Đó cũng là một yêu cầu đối với
giáo dục của một quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.


Cơng cuộc đổi mới tồn diện, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


đất nước, xây dựng CNXH, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đang đòi hỏi một nguồn lực
sáng tạo mới. Đó là những sáng tạo trong hoạt động sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội và nhân văn, kỹ thuật, cơng nghệ, văn hóa thẩm mỹ, văn học, nghệ
thuật, quản lý xã hội và hành chính sự vụ, thậm chí trong cả sinh hoạt
thường nhật, vui chơi, giải trí...


Nâng cao dân trí, xây dựng xã hội học tập, đào tạo công dân tri thức,
tạo lập xã hội văn minh, văn hóa là những tiền đề trực tiếp cho "phong trào
sáng tạo". Trên cơ sở này, nhà trường, giáo dục học đường, đang trở thành
"trung tâm" và "hạt nhân" của việc đào tạo một "thế hệ sáng tạo" nhằm đáp
ứng yêu cầu "tăng trưởng mọi mặt" của dân tộc ta trong bối cảnh hội nhập
quốc tế và tồn cầu hóa hiện nay. Vì thế, xã hội, ngành giáo dục, các cơ sở
nghiên cứu khoa học, cần "Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng
của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước", như
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng đã
xác định (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, tr.7).


Quá trình phát triển bền vững, công cuộc đổi mới là một dịng chảy
của tiến bộ hóa, nhân văn hóa con người và xã hội, trong đó phải đồng thời
bảo đảm sự hài hịa, hồn thiện mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
cộng đồng, giữa lợi ích xã hội và lợi ích tự nhiên, giữa lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài, trên mẫu số chung là sự song hành, thống nhất của sản xuất
lợi ích (nền tảng. điều kiện) và hưởng thụ lợi ích (mục tiêu, tác nhân). "Q
trình lợi ích" này ln ln ở trong "thế vận động" theo chiều hướng ngày
càng đa dạng và rộng mở hơn, sâu sắc và to lớn hơn, triệt để và hợp lý hơn.
Điều đó địi hỏi chủ thể, nhân cách sáng tạo, khơng ngừng "làm mới mình",
"sáng tạo lại mình", nhằm "tái sáng tạo" những thành tựu mới, những hiệu
quả mới đối với “lợi ích". Đây cũng chính là nguồn động lực chủ yếu, tất


yếu và khách quan của sự phát triển bền vững cùng với lợi ích mà nó đem lại
cho mỗi con người và tồn xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>Mục tiêu tổng quát:</b>


Giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển
toàn diện, trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao và phát huy vai trị
xung kích, sáng tạo của thanh niên trong sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.


<b>Các mục tiêu cụ thể:</b>


- <b>Mục tiêu 1:</b> Nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, ý thức trách nhiệm công dân, xây dựng phẩm chất tốt đẹp
và đạo đức cách mạng cho thanh niên;


- <b>Mục tiêu 2:</b> Nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghề
nghiệp, năng lực khoa học, công nghệ cho thanh niên; xây dựng phong cách
làm việc văn minh, khoa học; nhanh chóng hình thành một đội ngũ thanh
niên ưu tú tiêu biểu cho thế hệ trẻ;


<b> - Mục tiêu 3:</b> Phát huy vai trị xung kích của thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;


<b> - Mục tiêu 4:</b> Giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
trong thanh niên, nâng cao thu nhập cho thanh niên;


<b> - Mục tiêu 5:</b> Nâng cao sức khoẻ, đời sống tinh thần, xây dựng nếp
sống văn hoá và ý thức tuân thủ pháp luật, đẩy lùi tệ nạn xã hội, tình trạng
phạm pháp trong thanh niên;



- <b>Mục tiêu 6:</b> Nâng cao năng lực giao lưu, hợp tác quốc tế của
thanh niên, nâng cao vị thế của thanh niên Việt Nam trong hoạt động giao
lưu quốc tế, góp phần bảo vệ, củng cố hồ bình, tăng cường tình hữu nghị và
đồn kết với thanh niên các nước.


Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý
<i>muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một</i>
<i>người. Đơi khi người ta cịn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối</i>
<i>tượng”. Thực ra tâm lý kh6ng chỉ là ý muốn nhu cầu, thị hiếu và cách ứng</i>
<i>xử của mọi người, mà nó cịn bao hàm vô vàn các hiện tượng khác nữa. </i>
<i>Tâm lý con người luôn gắn liền với từng hành vi cử chỉ. Bất cứ một lời nói</i>
<i>cử chỉ hay hành động nào của con người từ đơn giản đến phức tạp nhất</i>
<i>cũng đều có mặt tâm lý cả.</i>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×