Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.47 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN</b>
<b>A-CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP</b>
<b>1. Tiểu sử:</b>
Nguyễn Khuyến hiệu là Quế Sơn sinh 1835 ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định, nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, trước kia thường
gọi là làng Và hay Cầu Đổ, một nơi hẻo lánh ở huyện Bình Lục, Hà Nam. Chính tên là
Nguyễn Văn Thắng, sau vì thi rớt khố Hội thi năm 1865 mới đổi tên là Nguyễn Khuyến.
Cuộc đời ông có thể chia làm ba giai đoạn:
<b>a. Hàn vi (1835 - 1871)</b>
Từ nhỏ nổi tiếng là thông minh và chăm học. 12 tuổi đã thông thạo kinh sử. Năm 15 tuổi
đỗ đầu kỳ thi phúc khảo hàng tỉnh, nhưng chưa kịp thi Hương thì thân phụ mất phải ở nhà
cư tang. Gia cảnh từ đó sa sút dần. Nguyễn Văn Thắng lại trượt mấy khoa thi Hương, nên
phải dạy học một thời gian. Năm 1864 đỗ giải nguyên kỳ thi Hương tại trường Hà Nội.
Nhưng lại hỏng thi Hội khoá tiếp, cụ đổi tên thành Nguyễn Khuyến và ở lại kinh học với
cụ nghè Vũ Văn Lý. Năm 1871 đỗ đầu cả thi Hội lẫn thi Đình nên được gọi là Tam
Ngun.
<b>b. Xuất chính (1871 - 1885).</b>
Đỗ xong cụ được bổ ngay làm Đốc học Thanh Hố, rồi thăng lên án sát Quảng Bình, bố
Chánh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Vì liêm khiết lại tài ba nên được giữ những chức vụ
trọng yếu trong triều. Nhưng cụ khơng nhận vì nhận thấy quan lại lúc bay giờ thối nát,
tranh giành lẫn nhau. Cụ xin từ chức nhưng vua Tự Đức không cho lại cử làm Tuần Phủ,
rồi triệu về kinh làm Sử quán Toản tu. Sau đó được cử làm Thiên Tân Hậu Mệnh để giải
quyết ngoại giao với Trung Hoa. Năm 1882 khi quân Pháp uy hiếp Hà Nội cụ được phái
làm thượng biện để lo việc ngoại giao với họ rồi được tăng Tổng Đốc Sơn Tây, Hưng
Hoá và Tuyên Quang. Nhưng người pháp ngày càng lấn át triều đình Huế, chuyên quyền
<b>c. Quy ẩn (1885 - 1910).</b>
Về ở ẩn nhưng cụ nhưng cụ vẫn không được yên ổn vì Pháp muốn mượn thanh thế cụ để
thu phục lòng người, nên đã dùng nhiều cách mời mọc, cưỡng ép cụ tham chính trở lại
nhưng cụ đều tìm cách khước từ. Thấy vậy Tây lệnh cho Hồng Cao Khải kiểm sốt cụ
gắt gao. Để họ khỏi nghi ngờ cụ nhận lời dạy học riêng tại nhà họ Hoàng và cho con là
Nguyễn Hoan ra làm quan. Có lẽ trong giai đoạn này cụ đã sáng tác các bài thơ kí gởi
tâm sự và tỏ bày lập trường riêng.
bình dị ở đây. Và do sự bình dị của một ơng quan Tổng Đốc về hưu mà dân làng kính yêu
quý mến cụ. Cuộc đời cụ êm ả trôi đến ngày 15/1/1910 cụ qua đời tại làng yên đổ thọ 76
tuổi.
<b>2. Sự nghiệp: </b>
Thi ca Nguyễn Khuyến còn để lại khá dồi dào và gồm đủ loại:
- Về Hán văn: có “Quế Sơn thi văn tập”.
- Về chữ Nơm có rất nhiều bài thuộc các thể thơ luật, hát nói, lục bát, văn tế……
Có bài ơng viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm. Sáng tác của ông chủ yếu xoay
quanh ba nội dung:
- Bộc bạch tâm sự của mình.
- Viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương – một vùng đồng bằng chiêm
trũng Bắc Bộ.
- Chế giễu đã kích những kẻ tham lam, ích kỉ, tuỳ thời, cơ hội lúc bấy giờ.
* Nguyễn Khuyến là nhà thơ được đào tạo ở “cửa Khổng sân Trình”, đối với ơng, con
người sinh ra phải học hành, đỗ đạt và ra làm quan để “thờ vua giúp nước”, thực hiện
nghĩa vụ “trí quân trạch dân”. Nhưng trong thời buổi bấy giờ, thực dân Pháp đang đánh
chiếm nước ta, triều đình bạc nhược đã lần lượt đầu hàng giặc. Cuối cùng một nhà nho
chân chính như Nguyễn Khuyến đã quyết định từ quan về ở ẩn. Ông cảm thấy buồn cho
những kẻ cơ hội, tuỳ thời đã tiếp tay cho giặc. Ơng viết về tiếng cuốc kêu và đó cũng là
tiếng lịng của ơng đối với non sơng đất nước:
<i>Năm canh máu chảy đêm hè vắng,</i>
<i>Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.</i>
<i>Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,</i>
<i>Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.</i>
* Phần lớn cuộc đời Nguyễn Khuyến sống ở nơng thơn. Ơng có quan hệ thân tình với mọi
người. Ơng viết nhiều về con người, về thiên nhiên, cảnh vật ở nơng thơn. Dưới ngịi bút
của Nguyễn Khuyến, dường như cuộc sống ở nông thôn lúc nào cũng khó khăn, túng
thiếu:
<i>Sớm trưa dưa muối cho qua bửa,</i>
<i>Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.</i>
<i>(Chốn quê).</i>
Và khi gặp năm mất mùa thì tết nhất lại càng thê thảm:
<i>Dở trời mưa bụi còn hơi rét,</i>
<i>Nợ nần năm hết hỏi lung tung.</i>
<i>(Chợ đồng).</i>
* Là một nhà nho đã từng làm quan, Nguyễn Khuyến thấy khá rõ cái xấu của xã hội
đương thời. Vậy nên, trong thơ ơng đã vạch trần tất cả những thói hư tật xấu của đủ mọi
hạng người trong xã hội. Trước hết là bọn quan lại, ông gọi họ là “Tiến sĩ giấy”, là
“phỗng đá” …. Ông đả kích thói rởm đời, lố lăng, thứ con đẻ của xã hội thực dân. Ngịi
bút đả kích của Nguyễn Khuyến trở nên chua xót, cay đắng khi ơng tả cảnh ngày “Hội
Tây”:
<i>Khen ai khéo vẽ trò vui thế</i>
<i>Vui thế bao nhiêu nhục bay nhiêu.</i>
<b>B. NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN.</b>
Ngồi những thái độ thơng thường, lập đức, lập cơng nho sinh cịn có thái độ lập ngơn.
Thật vậy mỗi lần hồ mình trong xã hội thối nát, chứng kiến những trò lố lăng của người
đời, nhà nho khơng có quyền khoanh tay n lặng, họ có bổn phận dùng lời để hồn
lương xã hội. Nguyễn Khuyến, bậc túc nho làng Yên Đổ, hơn ai hết nhìn sâu vào cuộc
đời, thấy rõ sự đổ nát của xã hội Việt Nam trong buổi giao thời, cho nên dù bản tính điềm
đạm, thi nhân cũng biến mình thành nhà thơ trào phúng. Mỗi nụ cười châm biếm của mỗi
nhà thơ đều có sắc thái riêng biệt.
<b>I. Đối tượng trào phúng:</b>
Nguyễn Khuyến biết rằng, ở con người của ta và của kẻ khác bao giờ cũng có những
hành động sai lầm, những tư tưởng lệch lạc. Nho sinh trước tiên phải sửa cái sai xấu xa
của mình để cải thiện cuộc sống trước khi lên tiếng chống báng thế sự đảo điên. Thái độ
đó biểu lộ sự tự trọng của nhà nho. Vì vậy thi ca trào phúng của Nguyễn Khuyến đã biểu
lộ hai thái độ tự trào và thế trào.
<b>1. Tự trào: </b>
Mang danh là một bậc tam Nguyên đáng lẽ thi nhân phải là một kẻ hoàn toàn từ đức tính,
tài ba cho đến bổn phận nhưng Nguyễn Khuyến nhận thấy mình cịn nhiều khiếm khuyết
cần phải đem ra để chỉ trích.
Bàn về tài ba cũng như đức tính, Nguyễn Khuyến đã khơng dấu diếm:
<i>Cờ đang dở cuộc khơng cịn nước</i>
<i>Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.</i>
<i>Mở miệng nói ra gàn bát sách</i>
<i>Gàn mơi chén mãi tít cung thang.</i>
<i>(Tự trào)</i>
<i>Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.</i>
<i>Hay ưa nên nỗi chưa chừa được</i>
<i>Chừa được nhưng ông vẫn chửa chừa.</i>
<i>(Chừa rượu)</i>
Hơn nữa mỗi lần nghĩ đến thái độ bất lực của mình trước thời cuộc đen tối lúc bấy giờ,
Nguyễn Khuyến không thể không cảm thấy tủi nhục, để rồi thi nhân tự lên tiếng bày tỏ sự
hổ thẹn của mình:
<i>Ơn vua chưa chút báo đền</i>
<i>Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời</i>
<i>(Di chúc)</i>
<b>2. Thế trào: </b>
Thái đợ tự trào chỉ để sửa soạn cho sự xoay hướng mũi dùi trào phúng vào xã hội. Cĩ thể
nĩi là Nguyễn Khuyến đã khơng ngần ngại đem tất cả các hạng người xấu xa trong xã hội
để làm đối tượng cho những bài thơ thế trào của mình:
<b>a. Với quan lại: </b>
Xã hội thối nát tận gốc rễ khai sinh ra bọn quan lại bất tài, hống hách, Nguyễn Khuyến đã
điểm mặt chúng. Thi nhân ví bọn này có khác chi những ơng tiến sĩ làm bằng giấy, một
thứ đồ chơi của trẻ con nhân tết Trung thu:
<i>Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,</i>
<i>Cái giá khoa danh áy mới hời</i>
<i>Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh choẹ</i>
<i>Nghĩ rằng đồ thật hố đồ chơi</i>
<i>(Ơng nghè tháng Tám)</i>
Quan lại đã bất tài, việc nước chẳng biết lo mà tham nhũng:
<i>Ai rằng ơng dại với ơng điên</i>
<i>Ơng dại sao ơng biết lấy tiền</i>
<i>(Tặng một viên quan tham nhũng).</i>
Nguyễn Khuyến không ngần ngại tuyên chiến với bọn quan lại này. Vì vậy khi nghe tin
một quan tuần mất cướp, vừa mất của vừa bị đánh đòn, thi nhân đã hả hê bng lời châm
chọc:
<i>Tơi nghe kẻ cướp nó lèn ơng</i>
<i>Nó lại lôi ông đến giữa đồng.</i>
<i>Cướp của đánh người quân tệ nhỉ,</i>
<i>Xương già, da cóc có đau khơng.</i>
<i>Bổng lộc như ông không mấy nhỉ. </i>
<i>Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.</i>
<b>b. Các bậc tu hành:</b>
Thành phần lãnh đạo xã hội đã vậy, các vị lãnh đạo tinh thần đa số lại không xứng đáng.
Họ lợi dụng cửa thiền ché thực sự không phải muốn tu hành. Nguyễn khuyến tuy trọng
vọng những bậc chân tu nhưng cũng không quean đùa cợt với các nhà sư khơng trọn đạo:
<i>Đầu trọc tếch bình vơi,</i>
<i>Nhảy tót lên chùa ngồi</i>
<i>Y, a kinh một bộ,</i>
<i>Lóc cóc mõ ba hồi</i>
<i>(Vịnh sư)</i>
Ngay đến những cô tiểu nơi cửa thiền cũng bị thi nhân đem ra trêu cợt khi thấy dáng điệu
cơ nằm ngủ thật là gợi cảm:
<i>Ơm kinh gối mõ gáy khị khị,</i>
<i>Gió lọt buồng thiền mát mẻ cô.</i>
<i>Then cửa từ bi gài nửa cánh,</i>
<i>Nén hương tế độ đốt đầy lị. </i>
<i>(Cơ tiểu ngủ ngày)</i>
<b>c. Thầy đồ: </b>
Sự suy sụp của đạo lýkhông chỉ lan đến cửa chùa, mà cịn làm bại hoại cả tầng lớp trí
thức. Tiêu biểu nhất là các thầy đồ. Mang danh nhà mơ phạm, nhưng sự đời đảo điên,
tình dục đã làm mờ ám lương tri để rồi Nguyễn Khuyến lên tiếng:
<i>Ở goá thế gian này mấy mụ,</i>
<i>Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy.</i>
<i>Yêu con cũng muốn cho thầy dạy,</i>
<i>Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.</i>
<i>(Thầy đồ ve gái)</i>
Nếu có những “Thầy đồ ve gái” thì cũng có những “Thầy đồ bị gái lừa”:
<i>Cùng nhau chửa được mấy ngày,</i>
<i>Cô tiêu cũng lắm thầy vay cũng nhiều.</i>
<i>Yêu người, người lại chẳng yêu,</i>
<i>Chiều hoa, hoa lại chẳng chiều mới căm.</i>
<i>(Thầy đồ bị gái lừa)</i>
<b>d. Cô đầu: </b>
châm biếm:
<i>Cô đầu sen là người thi liệu,</i>
<i>Cớ làm sao õng ẹo với làng nho.</i>
<i>Bóng đâu mà đến đè cơ,</i>
<i>Bỗng thấy chuyện nhỏ to đâm thắc mắc.</i>
<i>( Cơ đầu bị bóng đè)</i>
<b>e. Những người tham dự Hội Tây: </b>
Lời chỉ trích của thi nhân lại nhắm đến hạng bình dân. Người Pháp đến Việt Nam thường
<i>Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,</i>
<i>Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.</i>
<i>Khen ai khéo vẽ trò vui thế,</i>
<i>Vui thế bao nhiêu nhục bay nhiêu.</i>
<i>(Hội Tây)</i>
Như vậy chúng ta có thể ghi nhận rằng Nguyễn Khuyến đã cười, đã mĩa mai rất nhiều đối
tượng.
<b>II. Đặc tính nghệ thuật:</b>
Thái độ trào phúng của thi nhân bao giờ cũng biểu lộ những sắc thái nghệ thuật đặc biệt.
Sinh trước tú xương hơn 30năm, được chứng kiến sự biến chuyển của xã hội trong buổi
giao thời một cách trọn vẹn, Nguyễn Khuyến không vội vàng hấp tấp. Thi nhân là một
nho sinh cho nên không ưa lối biểu lộ tình cảm một cách ồ ạt, suống sã. Khi châm biếm,
đùa cợt Nguyễn Khuyến vẫn giữ được cái cười kín đáo tế nhị và sâu xa.
<b>a. Lối chỉ trích kín đáo: </b>
Khi chỉ trích người, nhà thơ bao giờ cũng giữ sự kín đáo. Chỉ trích quan lại bất tài thi
nhân chỉ ví bọn này như Tiến sĩ giấy:
<i>Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng</i>
<i>Nét son điểm rõ mặt văn khơi.</i>
Lời lẽ kín đáo được xem là một đặc tính nghệ thuật trong thi ca trào phúng của Nguyễn
<i>(Tiến sĩ giấy)</i>
Đôi lúc lại dựng lên một hoạt cảnh, một vở kịch như “Lời vợ phường chèo” để gián tiếp
mạt sát vua quan lúc bấy giờ:
<i>Vua chèo còn chẳng ra gì.</i>
<i>Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.</i>
(Lời vợ phường chèo)
<b>b. Lời chỉ trích nhẹ nhàng: </b>
Khơng những thế, vì hấp thu đạo đức Nho giáo lại thêm bản tính hiền hồ, lời chỉ trích
của Nguyễn Khuyến không phải là nhứng lời trắng trợn, sỗ sàng, thi nhân cho rằng lối
răn dạy, sự sửa lỗi phải nhẹ nhàng để người lầm lỗi đủ bình tĩnh nghiệm xét, may ra mà
sửa lỗi chăng? Khi nhắm đến ông đốc Hưng Yên, Nguyễn Khuyến chỉ dùng những lời
thật hiền lành:
<i>Ơng làm Đốc Học mấy năm nay,</i>
<i>Gần đó mà tơi chưa được hay.</i>
<i>Tóc bạc răng ***g chừng bậc cụ,</i>
<i>Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.</i>
<i>(Gửi ông Đốc Học)</i>
<b>c.Ý sâu sắc chua cay:</b>
Nhưng khi những thói hư tật xấu tiếp diễn, nho sinh có bổn phận khơi phục và duy thế
đạo nhân tâm, nho sinh không chấp nhận tội lỗi, vì nếu lời trào phúng nhẹ nhàng hời hợt
thì nhiệm vụ hồn lương xã hội làm sao trọn vẹn được. Lời chỉ trích khơng nặng nề, song
ý tứ phải sâu xa và nếu cần chứa luôn sự chua chát. Cái cười cảu Nguyễn Khuyến đậm
đà, xa xôi. Như khi muốn mắng bọn quan lại hống hách, thi nhân đã dùng những cười cợt
nhẹ nhàng, nhưng khi đi vào chiều sâu chúng ta mới thấy là những mạt sát: :
<i>Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ</i>
<i>Nghĩ rằng đồ thật hố hố đồ chơi.</i>
<i>(Ơng nghè tháng Tám).</i>
Ngắm nghía ơng tiến sĩ giấy, thi nhân thấy giá trị của nó hèn kém có khác chi bọn dốt nát
nhờ nịnh bợ luồn cúi mà đỗ đạt:
<i>Mày râu mặt ấy vang trong nước,</i>
<i>Giấy má nhà bay đáng mấy xu.</i>
<i>(Tiến sĩ giấy).</i>
Đọc qua nghe nhẹ nhàng, nhưng suy kỹ, biết thâm ý của Nguyễn Khuyến mới hay đó là
lời mạt sát.
Tính chất thâm trầm chua cay lại càng rõ ràng hơn chúng ta đọc đoản kịch trào lộng “Lời
vợ phường chèo”. Thật vậy, thái độ ấm ớ, ngớ ngẩn của anh phường chèo:
<i>Đang nửa đêm với vợ chuyện trò.</i>
<i>Rằng ta thường làm quan to, </i>
<i>Sao người xem chẳng ra trò trống chi?</i>
<i>(Lời vợ phường chèo)</i>
Giữa đêm khuya đem chuyện vớ vẩn hỏi vợ thì thiệt là điên. Không những thế, chàng ta
ngu dốt và vô liêm sỉ đến độ:
<i>Vợ giận lắm mắng đi mắng lại,</i>
<i>Tuổi đã già sao dại như di.</i>
<i>Nửa đêm sao chẳng biết gì,</i>
<i>Người ta biết đến thiếp thì hổ thay.</i>
<i>(Lời vợ phường chèo)</i>
Đừng tưởng Nguyễn Khuyến muốn nói đến chuyện phường chèo, lời lẽ trên thi nhân
dành cho bọn quan lại trong triều lúc bấy giờ đấy! Vợ mà mắng chồng thì chồng là kẻ tồi,
lại mắng đi mắng lại vì chồng ngu. Vợ biết hổ thẹn trong khi chồng trơ ra không biết
nhục. Thật là nhứng lời chua cay mà Nguyễn Khuyến đã gửi đến bọn quan bù nhìn.
<b>d. Thái độ quân tử: </b>
Dù sao, Nguyễn Khuyến cũng là bậc túc nho cho nên khi chỉ trích người đời thi nhân
phải bảo vệ tác phong quân tử của mình. Thật vậy, trước khi thế trào, Nguyễn Khuyến đã
tự trọng, đem cái xấu xa của mình ra để mỉa mai:
<i>Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,</i>
<i>Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng.</i>
<i>(Tự trào)</i>
Khe khắt với mình xong mới bắt đầu lên tiếng sửa sai người đời. Lời trào phúng của
Nguyễn Khuyến ln ln có tính cách xây dựng, mang nhiều tính chất giáo dục làm cho
những đối tượng bị thi nhân trêu chọc ngẫm nghĩ và nghiệm xét hành động mình. Họ đã
lĩnh hội lời khuyên nhủ của Nguyễn Khuyến. Sau khi chỉ trích bọn thanh niên nam nữ
bày trò lố lăng, tạo cảnh vong quốc trong ngày Hội Tây, Nguyễn Khuyến đã kết thúc
<i>Khen ai khéo vẽ trò vui thế,</i>
<i>Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.</i>
<i>(Hội Tây).</i>
<b>C- LỜI KẾT</b>