Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Nha van Viet Nam TK XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.77 KB, 44 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CHUYÊN MỤC NHÀ VĂN VIỆT NAM THẾ KỶ XX </b>


I. Khái quát Văn học Việt Nam thế kỷ XX


<b>1. Giới thiệu tổng thể đề cương </b>


<b>1.1. Những biến động lịch sử của đất nước </b>


Thực tiễn lịch sử cho chúng ta biết thời gian đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp cơ bản đã thực
hiện xong cơng cuộc bình định tại Việt Nam và bắt đầu chuyển sang khai thác thuộc địa. Kinh tế
hàng hố kích thích sự phát triển của cơng thương nghiệp làm cho thành thị phát triển, làm xuất
hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển nhiều nghề mới, tầng lớp thị dân phát triển. Sự phát triển các đô
thị dẫn đến sự phá sản nông nghiệp, làm cho nông thôn tiêu điều xơ xác. Nông dân kéo ra thành
thị ngày càng đông. Tầng lớp tiểu tư sản nghèo ngày càng phát triển , sống bấp bênh ở thành thị.


Trong thời gian này, giai cấp công nhân Việt Nam đã hình thành, họ có mối liên hệ chặt chẽ
với nông dân. Giai cấp phong kiến, vốn đã hình thành lâu đời trong xã hội Việt Nam, lung lay đến
tận gốc rễ, cấu kết với giặc đàn áp các phong trào yêu nước


Ðảng Cộng sản ra đời ngày 03- 02- 1930 đã tạo ra một bước ngoặt quyết định cho lịch sử
cách mạng Việt Nam. Từ đây, đã chấm dứt tấn bi kịch của những người yêu nước mà không tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn. Do vai trò độc quyền cách mạng của Ðảng, do đường lối chiến
lược sách lược vững vàng sáng suốt của Ðảng đã đoàn kết và phát huy được mạnh mẽ tính tích
cực, tính sáng tạo của quần chúng nhất là công nông.


Về mặt quốc tế, tháng 9- 1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ, phong trào cách mạng lên cao, cả
nước sục sôi chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 8- 1945 dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cách mạng
Việt Nam giành được thắng lợi. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập mở ra một kỷ
nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên độc lập, tự chủ.



Để chống lại âm mưu xâm lược của Pháp, Việt Nam bắt đầu cuộc kháng chiến trường kỳ 9
năm. Đến năm 1954, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, đất nước
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là hậu phương vững chắc cho miền Nam.


Ở miền Nam, cuộc dấu tranh chống các thế lực ngoại xâm vẫn tiếp tục. Từ năm 1965 đến
năm 1975, cả nước có chiến tranh, miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, miền
Nam luôn phải đối mặt với kẻ thù hung bạo. Đến năm 1975, Việt Nam đã giành được độc lập,
thống nhất đất nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

đã đạt được nhiều thành tựu trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội… và đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển của nền văn học Việt Nam.




<i><b>1.2. Các mốc lịch sử trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam Tk XX </b></i>
<b> Giai đoạn 1: từ đầu thế kỷ XX đến năm 1930 </b>


<b> Giai đoạn 2: từ năm 1930 - năm 1945 </b>


<b> Giai đoạn 3: từ năm 1945 - năm 1954 </b>


<b> Giai đoạn 4: từ năm 1954 - năm 1975 </b>


<b> Giai đoạn 5: từ năm 1975 - những năm cuối thế kỷ XX </b>




<i><b>1.3. Các khuynh hướng văn học chủ yếu </b></i>


Thời gian những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1930, văn học Việt Nam chủ yếu vẫn chịu ảnh


hưởng của tư tưởng nho giáo tuy không nặng nề như trước nữa, thể hiện rõ nhất trong các tác
phẩm của các tác gia nổi tiếng như Phan Bội Châu, Tản Đà… Thời gian này thể loại thơ vẫn được
ưa chuộng nhưng văn thơ viết bằng chữ quốc ngữ đã bắt đầu được nhiều người dùng. Việc xuất
hiện những quan niệm sáng tác mới thể hiện tính chính trị, tính kinh tế… đánh dấu sự phát triển
cho trào lưu văn chương thế kỷ XX. Trong những năm sau đó, nhiều khuynh hướng văn chương
mới xuất hiện làm phong phú đời sống văn chương Việt Nam.


<i><b>a) Khuynh hướng Văn học lãng mạn </b></i>


Xu hướng văn học này phát triển mạnh vào những năm 1930 – 1945, với các đại diện tiêu
biểu là:


<i><b>Nhóm Tự lực văn đồn </b></i>


Nhóm “Tự lực văn đồn” chính thức thành lập năm 1933 gồm các nhà văn: Nhất Linh, Khái
Hưng, Hoàng Ðạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Về sau thêm hai nhà văn Xuân Diệu, Trần Tiêu.


Thể loại tiểu thuyết của nhóm “Tự lực văn đoàn” chủ yếu đi vào khai thác một số vấn đề
chính:


- Đề tài chống lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh
phúc cá nhân. Các tác phẩm tiêu biểu của văn đoàn này là: "Nửa chừng xn",
"Ðoạn tuyệt", "Lạnh lùng", "Ðơi bạn", "Gia đình", "Thốt ly", "Thừa tự"...


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Đề tài bình dân:


-Đây là thời kỳ mặt trận dân chủ, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thời kỳ này quan tâm đến cuộc
sống của tầng lớp dân nghèo. Nói chung, “xu hướng bình dân" của họ chủ yếu mang
tính chất cải lương. Các tác phẩm của đề tài này là: “Hai vẻ đẹp" của Nhất Linh,
"Con đường sáng" của Hồng Ðạo, Gia đình" của Khải Hưng,..





<i><b>Phong trào Thơ mới </b></i>


Để nhìn rõ tiến trình phát triển trong phong trào thơ mới ta có thể xem qua 3 thời kỳ phát
triển như sau:


Thời kỳ 1932- 1935, trong thời kỳ này có các tên tuổi tiêu biểu như:


- Lưu Trọng Lư: Thơ Lưu Trọng Lư là một lối thơ quen thuộc của dân tộc, Lưu Trọng
Lư đến với thơ bằng cả tâm hồn sầu mộng của mình. Trong thơ ơng, mọi hình ảnh mọi
âm thanh của cuộc sống đều được vào thế giới mộng tưởng. Thơ Lưu Trọng Lư diễn tả
một cái tơi đang say sưa thốt li vào mộng tưởng.


- Thế Lữ: Thơ Thế Lữ thời kì đầu say sưa thốt li hiện thực. Nhưng những sự kiện lớn
lao của lịch sử vẫn cịn âm vang, thơ ơng ấp ủ tinh thần dân tộc và khát khao tự do, là
tiếng vọng xa xôi của phong trào 1930-1931.


Thời kì 1936-1939:


- Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn địa vị độc tơn trên thi đàn. Hồi Thanh đã lên tiếng
khẳng định vị trí của Xuân Diệu: “Câu văn tuồng bỡ ngỡ ấy chính là Xuân Diệu hơn
người. Dịng tư tưởng q sơi nổi, khơng thể đi theo đường có sẵn. Ý văn xơ đẩy, khiến
câu văn phải lung lay”, “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở
chốn nước non lặng lẽ này” (“Thi nhân Việt Nam”).


- Nguyễn Bính: nhà thơ chân quê với những vần thơ lục bát tài hoa diễn tả hồn quê đất
nước



- Hàn Mặc Tử: nhà thơ của những vần thơ “điên” mãnh liệt...


Thời kì 1940- 1942:


- Thơ mới rơi vào bế tắc. Mỗi nhà thơ thoát li một cách, và càng thoát li lại càng lạc
lối, một số xu hướng chủ yếu là: Nhóm Dạ Ðài (Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Ðinh
Hùng); nhóm Xuân Thu Nhã Tập (Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm Văn
Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc, Ðồn Phú Tứ); xu hướng thốt li siêu thốt vào triết lí thần
bí (Huy Cận, Chế Lan Viên).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>b) Khuynh hướng Văn học hiện thực phê phán </b></i>


Khuynh hướng Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh vào thời kỳ đầu thế kỷ XX đến
năm 1945 với các nhà văn:


<b>Ngô Tất Tố: </b>


Ơng có tập phóng sự “Việc làng” viết về những hủ tục nặng nề ở nông thôn Việt Nam: nạn
xơi thịt, chạy chức tước làm bao gia đình phải điêu đứng, tha phương cầu thực,..Tiểu thuyết “Lều
chõng” đi vào trình bày về chế độ khoa cử phong kiến một cách tỉ mỉ, có nhiều giá trị tư liệu. Xuất
sắc nhất là tác phẩm “Tắt đèn” khai thác đề tài thuế khoá: chủ yếu là thuế thân, một thứ tai họa
khủng khiếp của nông thôn, làm điêu đứng bao số phận người nông dân.


Ngô Tất Tố là cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945, ơng có
đóng góp ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, khảo cứu, dịch thuật,..


<b>Vũ Trọng Phụng: </b>


Ông viết nhiều thể loại khác nhau, đặc biệt thành cơng ở phóng sự và tiểu thuyết. Vũ Trọng
Phụng được tôn vinh là “ông vua phóng sự đất Bắc”.



Trong các tác phẩm của ông hiện lên sắc nét bộ mặt xã hội Việt Nam cả nông thôn và thành
thị với tiếng cười châm biếm sắc sảo, sâu cay. Về tiểu thuyết, các tác phẩm tiêu biểu nhất của Vũ
Trọng Phụng là: "Giơng tố", "Số đỏ", "Vỡ đê",..


Về phóng sự, có thể kể đến các tác phẩm: "Cạm bẫy người", "Kỹ nghệ lấy Tây",..


Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của giai đoạn văn học
này, ông để lại nhiêù tác phẩm văn học có giá trị bền vững với thời gian.


<b>Nam Cao: </b>


Các sáng tác của ông tập trung vào hai mảng đề tài:


- Đề tài người trí thức tiểu tư sản: Hầu hết các nhân vật đều ít nhiều là hình ảnh bản thân
Nam Cao. Ðó là những học sinh thất nghiệp, những giáo khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất
đắc chí ... Họ "phải bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi chết" (“Quên điều độ” ). Nam Cao viết
về những nỗi đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có tính bi kịch của họ. Họ thường ơm ấp
hồi bão về sự nghiệp tinh thần nhưng ước mơ mâu thuẫn với hiện thực: hàng ngày họ bị “chuyện
áo cơm ghì sát đất” và đau đớn nhận ra rằng mình chỉ là một con người thừa. Tác phẩm tiêu biểu
của mảng đề tài này là tiểu thuyết "Sống mòn" và một số truyện ngắn như: "Đời thừa", "Trăng
sáng", "Quên điều độ”, “Bài học quét nhà”,..


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tám, ít có nhà văn nào hiểu được một cách sâu xa ngõ ngách sâu kín những hy sinh thầm lặng,
những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn người nông dân như Nam Cao. Các tác phẩm chính ở đề
tài này là: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Một đám cưới”, “Một bữa no”...


<i><b>c) Khuynh hướng Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa </b></i>


Trước Cách mạng tháng Tám, đây là dịng văn học vơ sản với sự góp mặt của các nhà nho


có tư tưởng tiến bộ, các nghệ sĩ - chiến sĩ: những người coi văn chương là vũ khí chiến đấu, dùng
để tuyên truyền cách mạng. Các đai diện tiêu biểu là: Tố Hữu với tập thơ ”Từ ấy”, Hồ Chí Minh
với tập thơ “Nhật ký trong tù”.


<b> Giai đoạn 1945 - 1975: </b>


Ðội ngũ sáng tác gồm những cây bút đã khẳng định tên tuổi từ trước. Trừ một số ít tỏ ra lạc
lõng, hầu hết tự nguyện đứng vào hàng ngũ văn nghệ sĩ mới, họ hăng hái đi theo kháng chiến bằng
lương tâm và trách nhiệm cao nhất của người nghệ sĩ chân chính. Thời kỳ này, xuất hiện kiểu nhà
văn - chiến sĩ, trưởng thành từ quân đội, từ phong trào sáng tác quần chúng. Sáng tác của họ mang
đậm hơi thở đời sống, tạo nên sức trẻ cho nền văn học, có sức động viên, khích lệ tinh thần rất
mạnh mẽ.


Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp
đã khẳng định được phong cách thơ của mình. Ngồi ra cịn xuất hiện đơng đảo các nghệ sĩ trẻ
giàu tài năng và tâm huyết với đời, với thơ.


Văn học tập trung vào một số đề tài chính sau:


- Ngợi ca thắng lợi vĩ đại của Cách mạng và bộc lộ niềm phấn khởi, tự hào của toàn
dân: “Vui bất tuyệt”, “Hồ Chí Minh” - Tố Hữu, “Ngọn quốc kỳ” - Xuân Diệu, kịch
“Bắc Sơn” - Nguyễn Huy Tưởng.


- Tái hiện lại thực trạng xã hội tăm tối trước Cách mạng để tố cáo tội ác dã man của
thực dân và tay sai, đánh tan những ảo tưởng cuối cùng đối với chúng. Từ đó, giáo dục
ý thức trân trọng chế độ mới: “Mò sâm banh” - Nam Cao, “Lò lửa và địa ngục” -
Nguyên Hồng, “Một lần tới thủ đô” - Trần Ðăng, “Chùa Ðàn” - Nguyễn Tuân).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

- Đấu tranh thống nhất nước nhà: Đất nước bị chia cắt đã tạo nên nỗi đau lớn và bao
niềm trăn trở thao thức cho mỗi con người Việt Nam.Đặc biệt, ở đề tài này, tiếng thơ


của các nhà thơ cách mạng và của quần chúng yêu nước cách mạng ở miền Nam vẫn
luôn ngân vang trong gian khổ, mất mát, hi sinh, vẫn luôn vững tin vào Đảng và Bác,
vẫn hướng về một ngày mai thống nhất. Tóm lại, các nhà thơ đã thể hiện chân thật, gợi
cảm những tâm tư tình cảm nguyện vọng của cả dân tộc về một đất nước thống nhất và
khẳng định niềm tin mãnh liệt vào điều đó.


- Ra trận: Thơ viết về đề tài ra trận đã thể hiện được sự ra quân hùng mạnh của dân
tộc với khí thế “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / mà lòng phơi phới dậy tương lai”,
bằng sức mạnh “bốn mươi thế kỉ cùng ra trận.Tình cảm gắn bó sâu sắc, máu thịt, niềm
tự hào của con người Việt Nam về Tổ quốc, về Đảng và Bác Hồ vĩ đại được các nhà
thơ ngợi ca, khẳng định. Có thể nói, hiện thực hào hùng của cuộc kháng chiến chống
Mĩ đã “tỏa nắng cho thơ ”, góp phần làm nên sức sống mãnh liệt cho thơ. Có thể xem,
những vần thơ ra đời trong hoàn cảnh này là những bông hoa nở dọc chiến hào điểm tô
thêm vẻ đẹp tâm hồn tính cách của con người Việt Nam.


<b> Giai đoạn sau năm 1975: </b>


Cả nước ta bước vào cơng cuộc đổi mới, văn học cũng có những bước chuyển mình sâu sắc.
Văn học Việt nam thời kỳ này có điều kiện nhìn lại để phản ánh toàn diện và sâu sắc hơnhiện thực
hào hùng nhưng rất khốc liệt của 30 năm chiến tranh, đồng thời đi sau khai thác những vấn đề xã
hội của cuộc sống bình thường hàng ngày của con người, vào số phận cá nhân, hạnh phúc cá nhân.
Văn học giai đoạn này ghi nhận đóng góp của một số tên tuổi như: Nguyễn Minh Châu với “Phiên
chợ Giát”, “Khách ở quê ra”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, Nguyễn Khải với “Gặp gỡ
cuối năm”, “Thời gian của người”, Lê Lựu với” Thời xa vắng”, “Đại tá không biết đùa”, Nguyễn
Huy Thiệp với nhiều truyện ngắn gây xôn xao dư luận. Thơ ca giai đoạn này cũng phát triển
phong phú, phức tạp nhưng chưa có sự định hình những tên tuổi lớn.




<i><b>1.4. Sự phát triển của các thể loại văn học thế kỷ XX </b></i>



Văn học Việt Nam thế kỷ XX trải qua nhiều biến động lịch sử nên có nhiều biến động,
những biến động mạnh chịu ảnh hưởng của thực tiễn lịch sử đất nước. Văn chương cũng phát triển
nhiều thể loại văn học mới, theo những cách phân chia thể loại rõ rệt gồm: tự sự, trữ tình, kịch, kí,


văn chính luận và kịch (cùng quan điểm với các nhà nghiên cứu phương Tây).


Trong khuôn khổ Đề cương này, chỉ xin trình bày một cách khái quát thể hiện của một vài
thể loại văn chương gồm: Thơ, Truyện ngắn, Tiểu thuyết, Kịch, Ký, Lý luận phê bình là những thể


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

một quan niệm nhất định nhưng cách phân chia này là hợp lý và cân đối với nền văn học nước nhà
trong thế kỷ 20 và nhất là nó tạo điều kiện đễ dàng trong quá trình tìm kiếm, xử lý và đối chiếu tư


liệu trong chuyên mục xây dựng.


Để minh chứng cho cách phân loại này, quá trình phát triển của hai thể loại lớn trong nền
văn học Việt Nam thế kỷ XX (thể loại thơ và tiểu thuyết) có thể tóm lược như sau:


<i><b>a. Thể loại thơ </b></i>


Những năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn giao thời, dấu vết thơ ca trung đại vẫn rõ nét, các bài
thơ luật gị bó được thay dần bằng những biến thể thơ ca dân tộc. Năm 1932 là mốc bắt đầu thời
kỳ Thơ mới, các nhà thơ đả kích thơ cũ, khẳng định cái tôi cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật.
Phong trào Thơ mới là sự bừng nở của nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo, trong đó có những
phong cách sẽ sống mãi với thời gian. Có thể kể đến một loạt các tên tuổi như: Thế Lữ, Lưu Trọng
Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,.. Trong Thơ mới, con người
cá nhân được tự do bộc lộ mình, phơi trải lịng mình, âm điệu buồn là âm điệu chủ đạo trong các
bài Thơ mới. Thơ mới đã có nhiều đóng góp về mặt cách tân nghệ thuật đối với nền thơ ca dân
tộc.



Thơ ca cách mạng thời kỳ này cũng phát triển mạnh và đạt nhiều thành tựu nhưng chủ yếu
đóng góp là về mặt nội dung, tư tưởng.


<b> Giai đoạn 1945 – 1975: </b>


Hầu hết thể thơ quen thuộc trong thơ ca truyền thống và hiện đại đều được các nhà thơ ở
thời kì này đã sử dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt, thể thơ nào cũng có những thành công rực rỡ.
Trong đó, đặc biệt phải kể đến thể thơ tự do, thể thơ văn xuôi và thể trường ca. Ngôn ngữ thơ thời
kì 1955 - 1975 xuất phát từ ngơn ngữ đời sống xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống
Mĩ của dân tộc. Cho nên, trong thơ xuất hiện một hệ thống từ ngữ khơng có ở thơ ca trước đó. Sức
gợi cảm, gợi liên tưởng của ngơn ngữ thơ thời kì này ngày càng đậm nét. Về giọng điệu thơ, xuất
hiện nhiều giọng điệu đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ của thời đại, đó là giọng hào sảng, lạc quan, giọng
tâm tình, giọng châm biếm, mỉa mai,... Tuy nhiên, điểm chung mà các nhà thơ đều hướng đến là
khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của con người Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b> Thơ sau năm 1975: </b>


Nét nổi bặt của thơ sau 1975 là sự khẳng định con người cá tính, trong đó con người khơng
tự thoả mãn, tự bằng lịng mà ln trên hành trình tìm kiếm các giá trị tinh thần


Giai đoạn này có sự xuất hiện của nhiều bài thơ theo xu hướng hiện đại chủ nghĩa hoà nhập
với nền thơ hiện đại của thế giới, đem lại cho thơ nhiều phảm chất mới: thơ có thực nhưng cũng có
ảo, có ý thức và cả vơ thức, tiềm thức, tâm linh.


Thời kỳ này, xuất hiện nhiều bài thơ rất ngắn, thơ văn xuôi, ngôn ngữ vừa đi gần hơn với đời
sống vừa giàu sức gợi, hàm ngôn.


Sau hai mươi năm, thơ Việt Nam hiện đại đã có sự vươn lên khơng ngừng. Trong bất cứ
hoàn cảnh nào của đời sống, các nhà thơ vẫn ln tìm tịi, thể nghiệm ở nhiều phương diện, có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, để ngày càng đạt được những thành tựu rực


rỡ, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo nên vẻ đẹp
phong phú, đa dạng, nhiều hương sắc mới cho thơ ca Việt Nam hiện đại


<i><b>b. Thể loại tiểu thuyết </b></i>


Trước cách mạng tháng Tám, tiểu thuyết có sự góp mặt của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và
các nhà tiểu thuyết hiện thực. Tiểu thuyết “Tự lực văn đoàn” chủ yếu đi vào khai thác đề tài chống
lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh phúc cá nhân và đề tài bình dân. Tiểu
thuyết Tự lực văn đồn đã có những đóng góp nhất định về nghệ thuật: xây dựng tác phẩm, sáng
tạo nhân vật, phân tích tâm lí, hành văn.


Tiểu thuyết hiện thực khai thác đề tài liên qua mật thiết đến đời sống nhân dân với nhiều
cách tân nghệ thuật đáng kể. Các tên tuổi chủ yếu là: Ngô Tất Tố- Vũ Trọng Phụng- Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan, Mạnh Phú Tư, Nguyên Hồng,..


- Hoàn cảnh ra đời của Đề cương:


Xuất hiện trong thời kỳ với những biến cố thực tiễn như vậy đòi hỏi văn chương phải như
một cơng cụ hỗ trợ hồn chỉnh, làm đẹp lại đời sống tinh thần con người xã hội chủ nghĩa. Thơng
tin nhiều chiều, thật có, giả có, đúng sai lẫn lộn, những người có kiến thức về văn chương cố gắng
nỗ lực nhằm thực hiện một cơng trình văn hố với mục đích chính là sắp xếp, hồn thiện hệ thống
thơng tin tư liệu đã và đang phát hành tràn lan trên thị trường. Nhiều nhà văn khi được hỏi ý kiến
đã ủng hộ việc thực hiện kế hoạch khó khăn này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>



<b> II. Văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX - 1930 </b>
<b>1. Tổng quát văn học Việt Nam giai đoạn đầu Tk XX- 1930 </b>


<i><b>1.1. Những tiền đề lịch sử, xã hội và tư tưởng, thẩm mỹ của giai đoạn văn học đầu thế kỷ XX </b></i>


<i><b>đến năm 1930 </b></i>


<i><b>a. Tình hình chính trị, kinh tế trong nước </b></i>


Ðầu thế kỉ XX, Pháp cơ bản đã thực hiện xong cơng cuộc bình định trên đất nước ta và
chuyển sang khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự mới. Kể từ sau cái chết của Phan Ðình Phùng
(1896), phong trào chống Pháp theo ngọn cờ Cần Vương xem như đã thất bại hoàn toàn. Cả bộ
máy thống trị của nhà nước phong kiến từ triều đình đến tỉnh, huyện, làng, xã đều trở thành tay sai
cho bọn xâm lược. Mọi quyền hành đều nằm trong tay Pháp. Bộ máy cai trị của Pháp được tổ chức
lại theo lối hiện đại hơn, chặt chẽ hơn, có quyền lực hơn và phá dần thế tự trị làng xã ngày trước.


Trong bối cảnh chính trị phức tạp và đen tối như thế, thanh niên Việt Nam cảm thấy bi quan
tuyệt vọng vô cùng. Họ quyết định bỏ lối học từ chương, đi tìm đến những tri thức hiện đại mà họ
biết được qua sách vở và báo chí nước ngồi được bí mật đưa vào Việt nam lúc này. Trong số đó
tiêu biểu là tân thư, tân văn. Cũng từ sách vở nước ngoài, họ được tiếp xúc với các luồng tư tưởng
tiến bộ, hiểu được tình hình cách mạng trên thế giới từ đó chọn cho mình một con đường cứu nước
khác trước.


Về kinh tế, đầu Tk XX nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Thực dân Pháp thực
hiện chính sách kinh tế thực dân, kéo nước ta vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản nhưng khơng
được cơng nghiệp hố mà lại biến thành thị trường tiêu thụ cho Pháp.


<i><b>b. Tình hình xã hội </b></i>


Xã hội nước ta trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến phương Ðơng. Khi có mặt
thực dân Pháp trên đất nước thì mọi cái đã thay đổi. Kinh tế hàng hố kích thích sự phát triển của
cơng thương nghiệp làm cho thành thị phát triển, làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển
nhiều nghề mới, tầng lớp thị dân phát triển. Giai cấp tư sản Việt Nam hình thành trong hồn cảnh
hết sức đặc biệt nên có những đặc trưng riêng. Ðiều đó cũng ảnh hưởng đến ý thức của giai cấp
này. Giai cấp tư sản Việt Nam nhiều tính chất mại bản, nặng thương nghiệp hơn cơng nghiệp,


khơng lìa bỏ được lối bóc lột phong kiến. Tầng lớp tư sản Việt Nam thời bấy giờ cũng khơng có
một tinh thần dân tộc vì họ khơng có một cơ sở kinh tế hùng hậu, khơng có kinh nghiệm đấu tranh
và khơng có ý thức giai cấp rõ rệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Đầu thế kỉ XX, giai cấp cơng nhân Việt Nam đã hình thành. Do q trình bần cùng hố và
phá sản của nơng dân, thợ thủ cơng, giai cấp cơng nhân có điều kiện để hiểu được nông dân, liên
minh được chặt chẽ với nông dân. Và ngược lại, cũng trên điều kiện hiểu biết ấy, do vị trí lịch sử
của giai cấp vơ sản mà nơng dân đi theo nó làm cách mạng, bền bỉ và lâu dài.


Trong tình hình xã hội đầy phức tạp và có nhiều đổi mới như thế thì giai cấp phong kiến,
vốn đã hình thành lâu đời trong xã hội Việt Nam cũng lung lay đến tận gốc. Ðể bảo vệ quyền lợi
ích kỉ cho giai cấp mình, giai cấp phong kiến đã quỳ gối đầu hàng giặc, làm tay sai cho giặc. Hơn
thế nữa, họ còn cấu kết với giặc để quay trở lại đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta.
Tuy nhiên , trong số họ cũng cịn có những người yêu nước, tự tách mình ra khỏi hàng ngũ đó để
đi làm cách mạng theo xu hướng dân chủ tư sản.


Nhìn chung, xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX có nhiều biến động. Cơ cấu xã hội thay đổi
hoàn toàn.


<i><b>c. Tình hình văn hố </b></i>


Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến chuyên chế tập quyền
cao độ. Nho giáo được coi là quốc giáo, Nho giáo dùng luân thường đạo lí để giáo dục xã hội. Mặc
dù ý thức phong kiến đã tỏ ra thoái hoá, nhưng trong thực tế, ở giai đoạn 1900 - 1930, nó vẫn cịn
cơ sở tồn tại. Ở nơng thơn, gốc rễ của nó vẫn cịn rất sâu. Ở thành thị thì nó bắt đầu va chạm với ý
thức tư sản vừa mới xuất hiện. Tuy nhiên, phạm vi còn nhỏ hẹp, chỉ giới hạn trong quan hệ đạo
đức gia đình và tình cảm cá nhân.


Vào đầu thế kỉ XX, giai cấp tư sản ra đời, tư tưởng tư sản cũng xuất hiện. Xã hội Việt Nam
đã có những chuyển biến mạnh mẽ từ ý thức hệ phong kiến sang ý thức hệ tư sản. Ở giai đoạn 30


năm đầu thế kỉ, ý thức hệ tư sản chưa đủ sức làm thay đổi nền văn hoá phong kiến Việt Nam
nhưng trong một mức độ nhất định nó đã góp phần tạo ra những nhân tố thúc đẩy cho sự đổi mới
hoàn toàn ở giai đoạn sau, giai đoạn 1930 – 1945.


Trong những năm 20, 30, ý thức vô sản đã bắt đầu xuất hiện. Nhưng ảnh hưởng của ý thức
hệ vô sản chủ yếu mới chỉ là trên đời sống tư tưởng chính trị. Ðối với văn học, nhất là văn học giai
đoạn này, dĩ nhiên nó có ảnh hưởng, hơn nữa còn tạo ra những thành tựu đáng kể nhưng chưa có
điều kiện để phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

của dân tộc. Văn hoá Việt Nam chuyển dần sang nền văn hoá hiện đại chịu ảnh hưởng của văn hoá
phương Tây.


Trước kia ở Việt Nam tồn tại ba tôn giáo được du nhập từ nước ngồi. Ðó là Phật giáo, Nho
giáo và Ðạo giáo. Kitô giáo vốn đã xuất hiện ở Việt Nam từ các thế kỉ trước (XVI - XVII), đến
giai đoạn 1900- 1930 đã có nhiều ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người Việt
Nam


<i>Chữ quốc ngữ: Chữ quốc ngữ ra đời từ thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước </i>
trong phong trào Duy Tân nhận thấy những ưu điểm của chữ quốc ngữ đã cổ động sử dụng chữ
quốc ngữ. Việc đổi mới chữ viết đã mang nhiều ý nghĩa lớn, nó khơng chỉ tạo điều kiện dễ dàng
trong việc học, viết, đọc mà còn cung cấp phương tiện hiện đại cho nền văn học mới.


<i>Về văn học: Việc phổ biến sử dụng chữ quốc ngữ cũng góp phần thúc đẩy việc xây dựng và </i>
phát triển nền văn xuôi Việt Nam. Sang đầu thế kỉ XX , văn xuôi Việt Nam mới thể hiện những
tiến bộ rõ rệt. Bên cạnh đó, do có sự tiếp xúc với văn học phương Tây mà nền văn học Việt Nam
giai đoạn này đã xuất hiện thể loại mới: Thể loại tiểu thuyết hiện đại, vốn là đặc thù của văn hoá
phương Tây. Khởi đầu là quyển tiểu thuyết in bằng chữ quốc ngữ, xuất hiện ở Nam kì năm 1887
với tựa đề Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Nhưng đến giai đoạn 1900-1930
thì thể loại tiểu thuyết hiện đại mới phát triển trong phạm vi cả nước. Những tên tuổi tiêu biểu là
Hồ Biểu Chánh, Trần Thiên Trung, Trương Duy Toản, Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm, Nguyễn


Trọng Thuật... Chất văn xi, tính cách cá nhân phương Tây cịn ảnh hưởng đến cả lĩnh vực sáng
tác lâu đời trong văn học Việt Nam, đó là thơ. Thơ Tản Ðà, thơ Trần Tuấn Khải trong giai đoạn
này đã mang những giai điệu mới.


<i>Nghệ thuật sân khấu thời này cũng xuất hiện các hình thức mới: Kịch, cải lương. Kịch nói ra </i>
đời do có sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Lúc đầu xuất hiện những vở kịch dịch từ tiếng
Pháp, dần dần về sau các nhà viết kịch đã tự sáng tác và hình thành nên một phong trào sáng tác
kịch.


Văn học giai đoạn này nổi bật ba xu hướng: Xu hướng yêu nước, xu hướng lãng mạn, xu
hướng hiện thực .


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Xu hướng hiện thực mới được manh nha trong giai đoạn này qua một số tác phẩm của Phạm </i>
Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Vũ Ðình Long,... Các tác giả đã phanh phui những
xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến, phơi bày cảnh khổ của nhân dân.


<i>Xu hướng lãng mạn được khơi nguồn từ các tác phẩm của </i>Ðông Hồ, Tương Phố, Tản Ðà,
Hoàng Ngọc Phách. Ðấy là những sáng tác đã gợi lên tiếng lịng sâu kín, những nỗi buồn đau và
những mơ ước hảo huyền của lớp người đang bi quan, chán nản trước cuộc sống. Sự xung đột giữa
lễ giáo phong kiến cũ và chủ nghĩa cá nhân bắt đầu xuất hiện.


<i><b>d. Vấn đề thẩm mĩ văn chương </b></i>


Giai đoạn 1900 - 1930, tình hình chính trị xã hội Việt Nam có nhiều biến động làm cho môi
trường thẩm mĩ cũng thay đổi. Lối sống tư sản đã tấn công quyết liệt vào xã hội phong kiến Việt
Nam, cùng với nó là sự du nhập ồ ạt của nền văn hoá phương Tây. Trạng thái tâm lí của con người
thay đổi trước những biến động xã hội, cho nên ý thức thẩm mĩ của con người tất yếu cũng đổi
thay. Quan niệm về cái đẹp của cuộc sống, của con người, cũng như cái đẹp trong nghệ thuật đã
có nhiều thay đổi.



Ðối với sáng tác văn chương, trước đây, người ta quan niệm cái đẹp toát lên từ sự hài hoà
cân đối của một bài thơ Ðường luật, từ sự hoàn chỉnh của phép đối, của cách gieo vần... Giờ đây,
những yếu tố đó đang chịu sự lấn át dần bởi chất phóng khống , tự do vừa tìm thấy được từ văn
học phương Tây.


<i><b>1.2. Vài nét chính về văn học giai đoạn này </b></i>
<i><b>a. Nền văn học có sự phân hố </b></i>


<i>Phân hoá trong lực lượng sáng tác: Lực lượng sáng tác của văn học viết thời trung đại chủ </i>
yếu là nhà nho, những trí thức phong kiến. Ðầu thế kỷ XX, trong một giai đoạn lịch sử đầy biến
động, lực lượng sáng tác cũng phân hóa phân hố sâu sắc:


- Nhiều nhà nho vì yêu nước thương dân, không cam tâm làm nô lệ đã tiếp tục đứng lên
chống Pháp như Phan Bội Châu, Ngô Ðức Kế, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh
Thúc Kháng... Họ vừa họat động chính trị vừa sáng tác văn chương. Bằng những cách tân nghệ
thuật họ nhiệt tình thể hiện những vấn đề mới của xã hội, cuộc sống và con người.Ý thức hệ phong
kiến khơng cịn chi phối tư tưởng của họ một cách nặng nề như trước nữa.


Ðến giai đoạn thoái trào của phong trào cách mạng, các nhà nho cảm thấy buồn chán, bi
quan. Họ lại trở về với bản chất của nhà nho trước kia: sống hướng nội, thích bộc bạch tâm sự,
hoài cổ, hay làm thơ thuật hoài. Văn chương của họ lúc này trở về với đặc điểm văn chương ở thế
kỷ trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

việc làm báo, rồi chuyển sang viết truyện ngắn, kịch. Nhìn chung, họ là những người mạnh dạn
đến với cái mới. Tuy nhiên ở họ không tránh khỏi những dằn dặt, trăn trở khi chọn cho mình một
hướng đi để phù hợp với sự phát triển của thời đại.


<i><b>b. Quan niệm sáng tác </b></i>


Trong giai đoạn văn chương từ đầu thế kỷ XX- 1930 vẫn tồn tại quan niệm sáng tác phổ


biến của các nhà nho thời trung đại. Nhà văn Phan Bội Châu cho rằng sáng tác văn chương là để
"lập cơng" "lập chí", "lập ngơn". Tản Ðà là người đã mạnh dạn cách tân phương pháp sáng tác cũ,
tiến hành một cuộc cách mạng trong nghệ thuật thơ ca nhưng vẫn có tư tưởng phân biệt loại văn
"vị đời" và "văn chơi".


Giai đoạn này đã xuất hiện một số quan niệm sáng tác mới:


<i>- Quan niệm văn học phục vụ chính trị: nhà văn phải quan tâm đến đối tượng cơng chúng là </i>
tồn thể nhân dân, trong đó có cả quần chúng lao động. Cho nên văn học khơng cịn thu hẹp trong
một nhóm nhỏ, mà được cơng bố rộng rãi bằng nhiều hình thức. Giờ đây người ta tìm cách in ấn
để xuất bản tác phẩm văn học.


<i>- Quan niệm về thể loại cũng khác trước, tiểu thuyết và kịch được công nhận là một thể loại </i>
văn học. Nho sĩ ngày trước chuộng thơ, gởi gắm tâm hồn của mình trong thơ, bộc bạch tâm sự chí
khí bằng thơ. Lớp nghệ sĩ mới hôm nay lại say mê văn xuôi, hướng về văn xuôi nhiều hơn. Họ
nhận thấy văn xi có nhiều khả năng phản ánh chân thật, cụ thể đa dạng cuộc sống. Ðối với các
nhà nho, vấn đề mô tả hiện thực cuộc sống không phải là điều mà họ quan tâm đến. Ngược lại, nền
văn học mới để hết tâm sức vào phản ánh hiện thực, vai trò nhận thức của văn học đối với cuộc
sống được nâng cao


<i><b>c. Phương thức sáng tác </b></i>


Văn chương thời trung đại là sản phẩm của những cá nhân riêng lẽ nhưng vẫn mang một đặc
trưng chung, bởi nó được tạo nên bằng một phương pháp sáng tác chung, thể hiện qua một số yếu
tố : ngôn ngữ, thể loại, kết cấu, nhân vật...


Ðầu thế kỉ XX, người sáng tác không còn tuân thủ theo một hệ thống phương pháp sáng tác
duy nhất ấy nữa. Tình hình đó đã tạo ra tình trạng phân hóa khơng thể tránh khỏi trong phương
pháp sáng tác.



- Một số nhà nho đã chọn con đường cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho. Họ vẫn theo
phương pháp sáng tác cũ nhưng có những đổi mới đáng kể.


- Một số người thuộc lực lượng trí thức tân học thì chọn con đường học theo phương Tây để
sáng tác. Họ bắt đầu từ công việc dịch thuật, qua phỏng tác và cuối cùng là sáng tác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

và mới được kết hợp nhuần nhuyễn và phổ biến trên khắp các thể loại tạo ra những giá trị đặc biệt,
không thể xếp vào kho tàng văn học trung đại, mà cũng chưa thể cơng nhận đó là một tác phẩm
của nền văn học hiện đại.


<i><b>d. Độc giả văn chương </b></i>


Có thể nói như sau về các thành phần trong nền văn học trung đại: lực lượng sáng tác (chủ
yếu là nhà nho) cũng chính là cơng chúng. Đầu thế kỷ XX, lớp cơng chúng cũ vẫn cịn. Lớp công
chúng mới, bao gồm nhiều loại người khác nhau đang sống trong các đô thị chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Tây, của cuộc sống mới, có nhu cầu thị hiếu mới, đòi hỏi sự đổi mới của văn học.
Quá trình này đặt ra cho các nhà văn nhiệm vụ phải thay đổi quan niệm sáng tác, phương pháp
sáng tác phù hợp với thời đại mới. Hai loại công chúng này mang trạng thái tâm lý khác nhau,
sống trong hai điều kiện khác nhau, cùng tồn tại song song trong xã hội thực dân nửa phong kiến
đầu thế kỷ XX, trong cái thế một bên đã ít nhưng chưa mất hẳn; một bên mới xuất hiện nhưng phát
triển nhanh.


<i><b>1.3. Văn học Việt Nam trên đường đổi mới </b></i>


Đổi mới được hiều là văn học giai đoạn này thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại,
đây là một q trình khơng hề đơn giản bởi nó phải phá bỏ một hệ thống thi pháp đã tồn tại và đã
được khẳng định qua nhiều kiệt tác bất hủ, đồng thời phải xây dựng một hệ thống thi pháp mới
trên cơ sở tiếp nhận ảnh hưởng của văn hoá nhân loại, và kế thừa những tinh hoa của văn hoá
truyền thống.



Trong giai đoạn từ 1930-1945 lại khác, q trình hiện đại hố văn học diễn ra đặc biệt mạnh
mẽ và sâu sắc ở hầu hết các thể loại:


<i>Về tiểu thuyết, sự xuất hiện của nhóm nhà văn Tự lực văn đồn và nhiều nhà văn hiện thực </i>
phê phán.


<i>Các thể loại khác như: truyện ngắn, phóng sư, bút ký, tuỳ bút, kịch cũng có nhiều thành tựu </i>
đáng chú ý.


<i>Về thơ, phong trào Thơ mới khởi xướng từ năm 1932 đã đóng vai trị quyết định trong cơng </i>
cuộc hiện đại hố thơ ca Việt Nam. Cá tính sáng tạo được giải phóng, hàng loạt tiếng thơ trẻ trung
và tài năng ra đời với nhiều màu sắc và giai điệu khác nhau. mảng thơ ca cách mạng cũng có nhiều
đóng góp vào nền thư ca dân tộc.


Vấn đề hiện đại hóa của văn học Việt Nam ở đầu thế kỉ XX đã diễn ra theo hai bước:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

hệ phong kiến; về lý tưởng chính trị xã hội, chủ nghĩa yêu nước đã gắn với lý tưởng cách mạng
dân chủ tư sản, khác với văn học trung đại chủ nghĩa yêu nước không thể tách rời lý tưởng tôn
quân...


Về mặt nghệ thuật, văn học giai đoạn 1900 - 1920, trong phạm vi cả nước, chưa có những
đổi mới đáng kể. Các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho trước
kia. Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều tác phẩm thể hiện những vấn đề
mới của cách mạng bằng hình thức nghệ thuật cũ.


- Từ năm 1920 - 1930 (bước 2): Văn học ở giai đoạn này không chỉ đổi mới về nội dung mà
cả nghệ thuật cũng đã khác trước rất nhiều. Văn học đã mang tính hiện đại rõ rệt nhưng yếu tố
trung đại vẫn còn tồn tại xen kẽ, khá phổ biến từ nội dung đến hình thức. Ví dụ : "Tố Tâm" -
Hoàng Ngọc Phách, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thơ Tản Ðà đều có mang đặc điểm nói
trên.



Mặc dù đây chỉ là chặng đường đầu của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nhưng nó
cũng gặt hái được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở vững chắc cho chặng đường tiếp theo. Trước
hết, nó đã đóng góp tích cực vào cơng cuộc hiện đại hóa văn học bằng sự thay đổi hệ ý thức trong
văn học theo hướng tiên tiến. Nó cũng có vai trị trong việc đổi mới thi pháp văn học. Mặt khác,
công cuộc hiện đại hóa văn chương ở giai đoạn này đã đưa nền văn học nước ta đi vào quỹ đạo
của nền văn học thế giới.


<i><b>1.4. Các xu hướng văn học </b></i>
<i><b>a. Văn thơ yêu nước </b></i>


Lực lượng sáng tác chủ yếu của dòng văn học yêu nước và cách mạng giai đoạn 1900 - 1930
là các nhà có tư tưởng tiến bộ. Họ được tiếp nhận các luồng tư tưởng tiến bộ từ nước ngoài vào,
thông qua sách báo, tiêu biểu là tân thư và tân văn. Họ sáng tác văn chương để phục vụ cho hoạt
động chính trị: Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền,...


Văn học yêu nước đã nêu lên quan niệm mới về đất nước, về u nước. Nước khơng cịn là
của vua, vua và nước khơng cịn là một, nói đến nước là nói đến non sơng, nịi giống, nói đến dân
tộc, đồng bào. Xuất phát từ quan niệm mới về đất nước, yêu nước các tác giả đã đi đến khẳng định
quyền làm chủ của người dân trong xã hội, đồng thời cũng khẳng định vai trò của người dân trong
sự nghiệp cứu nước.


Trong thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX, vấn đề yêu nước còn gắn liền với vấn đề cách
mạng. Ở đây song song với nội dung kêu gọi chống Pháp, cịn có nội dung cải cách xã hội nhằm
làm cho nước giàu dân mạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Lực lượng sáng tác tiêu biểu của văn học hợp pháp là nhà nho và các trí thức tân học. Nhìn
chung, họ là những người dám vứt bỏ cái cũ, lạc hậu. Họ đến với cái mới vì momh muốn phát
triển nền văn hoá dân tộc



Một số nội dung tiêu biểu của văn học hợp pháp là:


- Văn học hợp pháp phản ánh hiện thực xã hội trên con đường tư sản hóa, xã hội được miêu
tả trong văn học hợp pháp là một xã hội náo nhiệt, xô bồ, đồng tiền tư sản, lối sống tư sản, đạo đức
tư sản đang dần dần chiếm địa vị ưu ở thành thị. Trong khi đó, ở nơng thơn bọn cưịng hào, quan
lại, địa chủ cấu kết nhau hà hiếp dân lành. Cuộc sống của người dân nghèo vốn đã lam lũ, lại càng
khốn khó hơn.


- Cái tôi và chủ nghĩa cá nhân trong văn học hợp pháp: Xã hội Việt Nam vào những năm đầu
thế kỷ XX đang trên con đường tư sản hóa. Cái tôi của chủ nghĩa cá nhân được coi trọng và khẳng
định. Thơ văn hợp pháp giai đoạn đầu thế kỷ XX đã bắt đầu nói đến những tình cảm riêng tư, sâu
kín của con người. Chủ nghĩa cá nhân đã xuất hiện nhưng mang một đặc điểm riêng biệt, nó khác
với chủ nghĩa cá nhân trong văn học ở giai đoạn 30-40 và cũng không giống với chủ nghĩa cá nhân
trong văn học giai đoạn 40-45. Nhìn chung, ở vào thời điểm này, cái tơi và chủ nghĩa cá nhân tuy
đã xuất hiện nhưng chưa đủ sức chống đối những ràng buộc của lễ giáo phong kiến như giai đopạn
sau này


- Nội dung yêu nước của văn học hợp pháp:


Các tác giả văn thơ hợp pháp phần lớn đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc. Tuy
nhiên, ở họ vẫn tiềm tàng một tinh thần dân tộc, vẫn phảng phất một tinh thần yêu nước. Chính
những trang viết chất chứa tình cảm đau xót, hay tiếc nuối về đất nước đã cho ta thấy tình u q
hương đất nước của họ. Nói chung, nội dung yêu nước trong văn học hợp pháp được thể hiện một
cách mờ nhạt, bóng gió xa xôi.


- Ðặc điểm nghệ thuật của văn học hợp pháp:


Văn học hợp pháp vừa kế thừa nghệ thuật sáng tác của các nhà nho thời trung đại, vừa tiếp
nhận nghệ thuật hiện đại của nền văn học phương Tây. Các tác giả đã tiến hành một cuộc cách tân
trong nghệ thuật, lấy truyền thống làm cơ sở. Trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là giai đoạn


đặc biệt có hiện tượng đan xen giữa hai hình thức nghệ thuật: nghệ thuật của văn học trung đại và
nghệ thuật của văn học hiện đại, nhiều tác phẩm mang tính chất trung gian, vừa có chất hiện đại
vừa mang dáng dấp truyền thống.


<i><b>1.5. Các tác giả lớn của Văn học Việt Nam giai đoạn đầu Tk XX - 1930 </b></i>
<b>Hoàng Ngọc Phách </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Ðạm Thủy giằng co giữa hai con đường chạy theo tình yêu tự do hay chấp nhận lễ giáo phong
kiến. Với "Tố Tâm", người tn thủ đạo đức truyền thống đã khơng có hạnh phúc trong chế độ đại
gia đình phong kiến, mà người muốn sống hết mình cho tình yêu tự do cũng khơng thể đón nhận
hạnh phúc trong tình yêu. . "Tố Tâm" là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện tính giao thời của văn học
giai đoạn này.


<b>Văn chương Hồ Biểu Chánh </b>


Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh nhiều mảng hiện thực khác nhau trong xã hội Nam Bộ
ở những năm đầu thế kỉ XX. Hiện thực cuộc sống được đưa vào trong tác phẩm của ơng thể hiện
rõ tính chất chân thật, cụ thể và đa dạng. Ơng khơng chỉ viết về thành thị mà còn đi sâu vào cuộc
sống ở nông thôn.


Ở nông thôn: Hồ Biểu Chánh đã đề cập đến tầng lớp thống trị ở nông thôn : ông đã xây
dựng hình ảnh những ơng địa chủ độc ác, tham lam, tìm mọi cách để ức hiếp bóc lột dân lành


Bên cạnh địa chủ, ở nông thôn Nam bộ thời đó cịn có một lực lượng khơng nhỏ bao gồm
hương chức, hội tề, những kẻ có quyền thế ở nông thôn... chuyên cấu kết nhau để ức hiếp dân lành
vô tội.


Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn đề cập đến tầng lớp dân nghèo ở nơng thơn : Họ bị bóc lột
về kinh tế, làm lụng vất vả quanh năm nhưng vẫn phải sống trong cảnh đói nghèo vì bị bọn địa chủ
bóc lột nặng nề.



Ở thành thị: Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã khai thác hiện thực cuộc sống sôi động, bề bộn,
với nhiều hạng người khác nhau ở thành thị. Ơng nói đến những người thợ thuyền sống chui rúc
trong các ngõ hẽm tăm tối, nghèo nàn. Ơng đề cập đến giới thơng ngơn ký lục, những kẻ nịnh bợ
Tây, sợ sệt quan trên, thích bắt nạt dân lành, ăn chơi trác táng, ước vọng cao sang, trọng tiền tài
danh lợi xem nhẹ nhân nghĩa. Giới thượng lưu trí thức xuất hiện trong tác phẩm của ông là những
kẻ sống phong lưu, thiếu thực tế


Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh hiện thực trên lập trường đạo đức: Hồ Biểu Chánh đã
tái hiện lại bộ mặt của xã hội Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ XX. Ông đã phê phán những mặt
trái của xã hội trên lập trường đạo đức. Ông không đặt ra vấn đề phải đánh đổ giai cấp địa chủ
phong kiến để giải thốt người nơng dân khỏi cảnh sống bị bóc lột. Ơng chưa tập trung vào những
vấn đề nóng bỏng nhất của thời đại - những biến động đổi thay nhanh chóng của con người, và xã
hội trong cuộc sống trên con đường tư sản hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn ở miền Nam. Ông là người đi tiên phong trong việc đưa
tiểu thuyết mới từ tình trạng phơi thai đến giai đoạn trưởng thành. Tiểu thuyết Việt Nam từ Hồ
Biểu Chánh mới bắt đầu những bước đi vững chắc.


<b>Phan Bội Châu </b>


Thơ văn Phan Bội Châu thể hiện tư tưởng yêu nước tiến bộ. Mặt tiến bộ trong tư tưởng yêu
nước của Phan Bội Châu chính là sự đổi mới trong quan niệm về yêu nước và đường lối cứu nước.
Tiến bộ hơn một số nho sĩ cùng thời như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã đặt ra nhiệm vụ giải
phóng đất nước bằng con đường bạo động cách mạng. Ông từng nêu rõ "Thù dân tộc không lấy
máu rửa không sạch".


Theo quan niệm của Phan Bội Châu nhiệm vụ cứu nước là rất quan trọng và cấp bách trong
hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, vấn đề cải cách xã hội, tiến lên xây dựng một chế độ mới, chế độ
dân chủ tư sản, theo gương Nhật Bản cũng là rất cần thiết, phải thực hiện ngay trong thời điểm bấy


giờ. Phan Bội Châu đã đưa ra quan niệm tiến bộ về người dân trong xã hội. Ông khẳng định đất
nước là của dân, đấu tranh chống giặc cứu nước là để bảo vệ nòi giống, đồng bào Việt Nam.


Ông đã nêu lên mẫu người lý tưởng trong xã hội, đó là người yêu nước, có lịng căm thù
giặc, dám xả thân vì đất nước. Người anh hùng xuất hiện trong sáng tác của Phan Bội Châu là
những con người bình thường nhưng làm được việc phi thường. Với ơng khơng có sự phân biệt
nam nữ, đẳng cấp, tôn giáo, giàu nghèo... trong quan niệm về người anh hùng.


<b>Tản Đà </b>


Tư tưởng yêu nước trong thơ Tản Đà: Tản Ðà là một nhà nho đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu
nước của dân tộc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, ở ơng vẫn tiềm tàng một tình u q hương đất nước
thiết tha. Tản Ðà ln có ý thức lo đời và mong muốn được giúp đời.


Trước hoàn cảnh hiện tại của đất nước, Tản Ðà nhận thấy cần phải có sức mạnh của đồn kết
mới có thể xoay trở được tình thế. Tuy ơng khơng tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
nhưng trong ông vẫn thường trực một nỗi lo lắng muốn giúp ích cho đời. Nỗi lo lắng ấy thể hiện ở
ý thức muốn đem tài văn chương của mình ra giúp đời, muốn làm cho văn chương của mình "Có
bóng mây hơi nước đến dân xã" (Giấc mộng con I).


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

để tìm sự thanh thản cho tâm hồn nhưng cuối cùng đã không quên được và luôn phiền não, lo lắng
cho cuộc đời.




<b>2. Nhận xét chung </b>


Trong giai đoạn từ những năm đầu Tk XX- 1930, văn học Việt Nam chưa có những kiệt tác
nhưng khơng vì thế mà nó khơng có vai trị quan trọng trong lịch sử phát triển. Có giai đoạn văn
học này, dịng chảy văn học liên tục từ thế kỷ thứ X đến nay không tắt mạch hay chia dòng.



Văn học giai đoạn đầu thế kỷ XX có sự hiện diện của cả hai nền văn học truyền thống và
hiện đại, có sự pha tạp cả hai yếu tố cũ và mới, tạo nên những giá trị trung gian. Văn học giai đoạn
này đang ở thời kỳ thử thách, nó khơng phong phú ở đỉnh cao mà phong phú ở khả năng phát
triển, ở tính đa dạng. Ðó chính là "cái lượng" cần có cho tiến trình hiện đại hóa văn học ở bước
đầu, để dần dần về sau "lượng" sẽ biến thành "chất" tạo nên những thành tựu rực rỡ cho văn học
vào giai đoạn 30-45.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>III. Văn học Việt Nam từ năm 1930 - năm 1945 </b>
<b>1. Tổng quát văn học Việt Nam từ năm 1930 - 1945 </b>


<i><b>1.1. Tiền đề của văn học giai đoạn 1930 - 1945 </b></i>


<i><b> </b></i>Đây là giai đoạn chỉ kéo dài 15 năm, nhưng có nhiều sự kiện quan trọng, tác động mạnh mẽ
đến đời sống của con người, đó là:


Sự ra đời của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương 03-02-1930: Sự ra đời của Ðảng cộng sản đã tạo
ra một bước ngoặt quyết định cho lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ đây, đã chấm dứt tấn bi kịch
của những người u nước mà khơng tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Do vai trò độc quyền
cách mạng của Ðảng, do đường lối chiến lược sách lược vững vàng sáng suốt của Ðảng đã đoàn
kết và phát huy được mạnh mẽ tính tích cực, tính sáng tạo của quần chúng nhất là công nông.


Cách mạng theo đường lối tư sản thất bại: Tư sản dân tộc Việt Nam phần lớn là do địa chủ
chuyển thành, thái độ chống Pháp nói chung khơng dứt khoát. Giai cấp tư sản Việt Nam làm cuộc
bạo động Yên Bái ngày 9-2-1930 nhưng thất bại. Tầng lớp tiểu tư sản trí thức hoang mang tới cao
độ, họ cùng với giai cấp tư sản tìm đường thỏa hiệp với thực dân, tìm quên lãng trong văn chương.
Cách mạng theo đường lối vô sản khi cao trào lúc thoái trào: Cao trào cách mạng 1930-1931
mà đỉnh cao nhất là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. bị thất bại. Từ cuối năm 1931, cách mạng Việt
Nam bước vào thời kì thối trào.



Từ cuối năm 1932, phong trào lại dần dần hồi phục.


Tháng 9-1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phong trào cách mạng lên cao, cả nước
sục sôi chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 8-1945 dưới sự lãnh đạo của Ðảng cách mạng Việt
Nam dành được thắng lợi, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.


<i><b>1.2. Các giai đoạn phát triển </b></i>
<i><b>a. Thời kỳ 1930- 1935 </b></i>


Mở đầu là sáng tác thơ văn gắn liền với cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô
Viết Ngệ Tỉnh.


Bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng mạn, bao gồm: tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn và Thơ mới.


Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kỳ này phát triển hơn và xác định rõ
ràng hơn về phương pháp, thể tài.


b. Thời kỳ 1936- 1939


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc:
- Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong nhiều tác phẩm như: “Bước đường cùng”
của Nguyễn Công Hoan, “Vỡ đê” của Vũ Trọng Phụng, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố,…


- Vấn đề phong kiến, thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong một loạt các tác phẩm:
“Số đỏ”, “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố,…


Tác phẩm hiện thực phê phán khơng dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà phát triển mạnh
mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành cơng lớn của văn học hiện thực phê phán thời kì này



Văn học lãng mạn tư sản, tiểu tư sản vẫn tiếp tục phát triển, phân hóa theo các hướng khác
nhau:


Bên cạnh chủ đề cũ chống lễ giáo phong kiến và đề cao hạnh phúc cá nhân, Tự lực văn đoàn
còn nêu chủ đề mới: chủ trương cải cách bộ mặt nông thôn và cải thiện đời sống cho nông dân với
các tác phẩm: “Gia đình” của Khái Hưng, “Con đường sáng” của Hoàng Ðạo,...


Thơ mới giai đoạn 1936-39 phát triển đến đỉnh cao. Thời kì này, tên tuổi Xuân Diệu nổi lên
như một hiện tượng văn học.


c. Thời kỳ 1939- 1945


Văn học vơ sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Nhà thơ Tố Hữu trưởng thành
nhanh chóng với tập “Từ ấy”. Tập “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh cũng ra đời trong thời kì
này.


Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:


Nhiều nhà văn chuyển sang lĩnh vực khác: Ngô Tất Tố quan tâm tới khảo cứu dịch thuật,
Nguyễn Công Hoan viết các tiểu thuyết về đề tài đạo lý


Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi
Hiển… Các nhà văn đã nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với các tầng lớp nhân
dân lao động, cuộc sống tăm tối của người nông dân, cũng như cuộc sống bế tắc, mịn mỏi của
người trí thức tiểu tư sản thời đó.


Văn học lãng mạn cũng phân hóa mạnh mẽ:
+ Văn xi, nhiều nhà văn chuyển hướng sáng tác:


<i>Thạch Lam đi vào miêu tả những sinh hoạt nâng lên thành nghệ thuật như nghệ thuật ẩm </i>


thực trong “Hà Nội 36 phố phường”.


<i>Thế Lữ quan tâm đến mảng truyện trinh thám đường rừng, truyện ma quỷ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

+ Thơ mới:


Thơ mới thời kỳ này khủng hoảng nghiêm trọng: thơ điên, thơ loạn, thơ say phát triển
mạnh.Nhóm “Xuân thu nhã tập” xuất hiện, các thi sĩ làm thơ bằng một thứ ngơn ngữ khó hiểu, cầu
kỳ, xa lạ.


<i><b>1.3. Những đặc điểm chủ yếu của văn học giai đoạn 1930-1945 </b></i>
<i><b>a. Nền văn học được hiện đại hoá </b></i>


Văn học giai đoạn này thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại. Đây là một q trình
khơng hề đơn giản bởi nó phải phá bỏ một hệ thống thi pháp đã tồn tại và đã được khẳng định qua
nhiều kiệt tác bất hủ, đồng thời phải xây dựng một hệ thống thi pháp mới trên cơ sở tiếp nhận ảnh
hưởng của văn hoá nhân loại, và kế thừa những tinh hoa của văn hoá truyền thống.


Giai đoạn văn học Việt Nam 1930-1945, q trình hiện đại hố văn học diễn ra đặc biệt
mạnh mẽ và sâu sắc ở hầu hết các thể loại:


- Về tiểu thuyết, có sự xuất hiện của nhóm nhà văn Tự lực văn đồn và nhiều nhà văn hiện
thực phê phán.


- Các thể loại khác như: truyện ngắn, phóng sự, bút ký, tuỳ bút, kịch cũng có nhiều thành tựu
đáng chú ý.


- Về thơ, phong trào Thơ mới khởi xướng từ năm 1932 đã đóng vai trị quyết định trong
công cuộc hiện đại hố thơ ca Việt Nam. Cá tính sáng tạo được giải phóng, hàng loạt tiếng thơ trẻ
trung và tài năng ra đời với nhiều màu sắc và giai điệu khác nhau. Mảng thơ ca cách mạng cũng có


nhiều đóng góp vào nền thơ ca dân tộc.




<i><b>b. Sự phân hóa phức tạp thành nhiều xu hướng trong quá trình phát triển </b></i>


Trong giai đoạn này, sự phân hoá của văn học Việt Nam dựa trên cơ sở thái độ chính trị của
nhà văn và ở quan niệm về mối quan hệ giữa văn học và chính trị. Từ đó, có thể thấy, văn học Việt
Nam thời kỳ này có thể chia như sau:


<i>Văn học hợp pháp: Nét đặc trưng của bộ phận văn học này là chứa đựng những yếu tố tư </i>
tưởng lành mạnh, tiến bộ, nhưng khơng có tinh thần chống đối trực tiếp chế độ thực dân. Do sự
khác nhau về quan điểm nghệ thuật và khuynh hướng thẩm mỹ, bộ phận văn học này chia làm hai
xu hướng chính:


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>Văn học hiện thực: Xu hướng văn học này quan tâm đến viẹc diễn tả và lý giải một cách </i>
chân thực và chính xác q trình phát triển khách quan của hiện thực khách quan thông qua việc
khắc học những hình tượng điển hình.


<i>Văn học bất hợp pháp: Chủ yếu là tác phẩm của những nhà văn- chiến sĩ, những người coi </i>
văn chương là vũ khí chiến đấu, dùng để tuyên truyền cách mạng. Những tác phẩm này khơng có
nhiều điều kiện gọt giũa về hình thức nghệ thuật nhưng có nhiều đón góp về mặt tư tưỏng.


<i><b>1.4. Xu hướng và các đại diện </b></i>


<i><b>a. Thể hiện của văn chương lãng mạn </b></i>
<b>Nhóm “Tự lực văn đồn” </b>


Nhóm Tự lực văn đồn chính thức thành lập năm 1933, gồm có Nhất Linh, Khái Hưng,
Hoàng Ðạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu.



Tiểu thuyết “Tự lực văn đoàn” chủ yếu đi vào khai thác một số vấn đề chính sau:


- Đề tài chống lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh phúc cá nhân.
Các tác phẩm tiêu biểu của văn đoàn này là: "Nửa chừng xuân", "Ðoạn tuyệt", "Lạnh lùng", "Ðôi
bạn", "Gia đình", "Thốt ly", "Thừa tự"...


Giai đoạn sau, trong các tác phẩm của Tự lực văn đoàn, vấn đề chống phong kiến đã khơng
cịn được quan tâm nhiều, xuất hiện các nhân vật do dự, giỏi chịu đựng hơn, ít đấu tranh như
Hồng, Nhung,..


- Đề tài bình dân: Đây là thời kỳ mặt trận dân chủ, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thời kỳ này
quan tâm đến cuộc sống của tầng lớp dân nghèo. Nói chung, “xu hướng bình dân" của họ chủ yếu
mang tính chất cải lương. Các tác phẩm của đề tài này là: “Hai vẻ đẹp" của Nhất Linh, "Con
đường sáng" của Hồng Ðạo, Gia đình" của Khải Hưng,..


Nghệ thuật tiểu thuyết Tự lực văn đoàn:


Tiểu thuyết Tự lực văn đồn đã có những đóng góp nhất định về nghệ thuật: xây dựng tác
phẩm, sáng tạo nhân vật, phân tích tâm lí, hành văn, trong cách kết cấu tiểu thuyết hiện đại (đó là
lối kết cấu khơng theo trật tự thời gian, câu chuyện có thể phát triển theo tâm lý nhân vật và cũng
có thể đột ngột chuyển từ nhân vật này qua nhân vật khác).


Các nhà văn có nhiều thành cơng trong xây dựng nhân vật. Họ đi sâu vào tâm lý nhân vật,
chú trọng đến cuộc sống nội tâm nhân vật. Đây là đóng góp rất đáng chú ý của tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn


<b>Phong trào Thơ mới </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i>Lưu Trọng Lư: Thơ Lưu Trọng Lư là một lối thơ quen thuộc của dân tộc, Lưu Trọng Lư đến </i>


với thơ bằng cả tâm hồn sầu mộng của mình. Trong thơ ơng, mọi hình ảnh mọi âm thanh của cuộc
sống đều được vào thế giới mộng tưởng. Thơ Lưu Trọng Lư diễn tả một cái tơi đang say sưa thốt
li vào mộng tưởng.


<i>Thế Lữ: Thơ Thế Lữ thời kì đầu say sưa thoát li hiện thực. Nhưng những sự kiện lớn lao của </i>
lịch sử vẫn cịn âm vang, thơ ơng ấp ủ tinh thần dân tộc và khát khao tự do, là tiếng vọng xa xôi
của phong trào 1930-1931.


Thời kì 1936-1939:


Thời kì này, Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn địa vị độc tôn trên thi đàn. Hồi Thanh đã lên
tiếng khẳng định vị trí của Xuân Diệu: “Câu văn tuồng bỡ ngỡ ấy chính là Xn Diệu hơn người.
Dịng tư tưởng q sơi nổi, khơng thể đi theo đường có sẵn. Ý văn xô đẩy, khiến câu văn phải lung
lay”, “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ
này” (“Thi nhân Việt Nam”).


Một số tên tuổi tiêu biểu khác như Nguyễn Bính (với các tác phẩm chân quê viết bằng những
vần thơ lục bát tài hoa diễn tả hồn quê đất nước), Hàn Mặc Tử (nhà thơ của những vần thơ “điên”
mãnh liệt).


Thời kì 1940- 1942:


Thơ mới rơi vào bế tắc. Mỗi nhà thơ thoát li một cách, và càng thoát li lại càng lạc lối, một
số xu hướng chủ yếu là: Nhóm Dạ Ðài (Vũ Hồng Chương, Trần Dần, Ðinh Hùng); nhóm Xn
Thu Nhã Tập (Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc,
Ðoàn Phú Tứ); xu hướng thốt li siêu thốt vào triết lí thần bí (Huy Cận, Chế Lan Viên).


<i><b>b. Văn học hiện thực phê phán </b></i>


<i>Ngơ Tất Tố với tập phóng sự “Việc làng” viết về những hủ tục </i>nặng nề ở nông thôn Việt


Nam: nạn xôi thịt, chạy chức tước làm bao gia đình phải điêu đứng, tha phương cầu thực,..Tiểu
thuyết “Lều chõng” đi vào trình bày về chế độ khoa cử phong kiến một cách tỉ mỉ, có nhiều giá trị
tư liệu. Xuất sắc nhất là tác phẩm “Tắt đèn” khai thác đề tài thuế khoá: chủ yếu là thuế thân, một
thứ tai họa khủng khiếp của nông thôn, làm điêu đứng bao số phận người nông dân.


Ngô Tất Tố là cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945, ơng có
đóng góp ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, khảo cứu, dịch thuật,..


<i>Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại khác nhau, đặc biệt thành công </i>ở phóng sự và tiểu
thuyết. Vũ Trọng Phụng được tơn vinh là “ơng vua phóng sự đất Bắc”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Về phóng sự, có thể kể đến các tác phẩm: "Cạm bẫy người", "Kỹ nghệ lấy Tây",..


Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của giai đoạn văn học
này, ông để lại nhiêù tác phẩm văn học có giá trị bền vững với thời gian


<i>Nam Cao: Sáng tác của ông tập trung vào hai mảng đề tài: Đề tài người trí thức tiểu tư sản </i>
và đề tài viết về người nông dân.


Hầu hết các nhân vật đều ít nhiều là hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những học sinh thất
nghiệp, những giáo khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí ... Họ "phải bán dần sự sống
để giữ cho mình khỏi chết" (“Quên điều độ” ). Nam Cao viết về những nỗi đau quằn quại trong
tâm hồn, nhiều khi có tính bi kịch của họ. Họ thường ơm ấp hồi bão về sự nghiệp tinh thần
nhưng ước mơ mâu thuẫn với hiện thực: hàng ngày họ bị “chuyện áo cơm ghì sát đất” và đau đớn
nhận ra rằng mình chỉ là một con người thừa. Tác phẩm tiêu biểu của mảng đề tài này là tiểu
thuyết "Sống mòn" và một số truyện ngắn như: "Đời thừa", "Trăng sáng", "Quên điều độ”, “Bài
học quét nhà”,..


Nam Cao chú ý đến những người nông dân thấp cổ bé họng, bị áp bức bất công, chịu số
phận đen đủi, hẩm hiu. Ông đã đanh thép lên án xã hội chà đạp người nông dân lương thiện và


dõng dạc bênh vực nhân phẩm của họ. Có thể nói, trước Cách mạng tháng Tám, ít có nhà văn nào
hiểu được một cách sâu xa ngõ ngách sâu kín những hy sinh thầm lặng, những phẩm chất tốt đẹp
trong tâm hồn người nông dân như Nam Cao. Các tác phẩm chính ở đề tài này là: “Chí Phèo”,
“Lão Hạc”, “Một đám cưới”, “Một bữa no”...


<i><b>c. Văn chương cách mạng </b></i>


Tên tuổi tiêu biểu nhất là “Hồ Chí Minh” với tập “Nhật ký trong tù”.


Tập thơ ghi lại những sự việc Bác đã chứng kiến, quang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi bị
giam hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, chuyện người tù cờ bạc bị chết, cảnh trốn lính,
vợ phải tù thay chồng… Tồn bộ những cảnh đã xảy ra trong “Nhật ký trong tù” là hình ảnh thu
nhỏ của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Những thối nát, bất công, tàn bạo của chế độ Tưởng Giới
Thạch đè nặng lên cuộc sống của dân lành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Nói tới tâm hồn cao đẹp ở Hồ Chủ tịch không thể quên tình yêu thiên nhiên của Người. Giữa
bao nhiêu khổ cực Bác vẫn vui, vẫn cảm thấy niềm vui tràn đầy trong thiên nhiên, cuộc sống.
Người vui với trời đất, dõi theo một cánh chim, một làn mây, một xóm ven sông.


“Nhật ký trong tù” canh cánh nỗi nhớ nước thương dân của người tù Hồ Chí Minh. Chân
bước đi trên đất Bắc mà lòng Bác vẫn hướng về Nam, nhớ thương đồng bào trong hoàn cảnh lầm
than, hoạn nạn.


Tác phẩm cũng đã thể hiện tinh thần bất khuất kiên cường và ý chí sắt đá của Hồ Chí Minh.
Sống trong tù lúc nào Bác cũng có phong thái ung dung, bình tĩnh, tự tin trước mọi thay đổi của
hoàn cảnh.


Tập thơ “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy viết bằng chữ Hán nhưng về mặt
nội dung và cả về mặt phong cách nghệ thuật rõ ràng là một tác phẩm văn học Việt nam đậm đà
tính dân tộc. Tập thơ đưa ta đi sâu vào những cảm xúc, những suy nghĩ, những băn khoăn của một


con người cộng sản vĩ đại trong một hồn cảnh khó khăn.


III. Văn học Việt Nam từ năm 1945 - 1954


<b>1. Tổng quát Văn học Việt Nam từ năm 1945 - 1954 </b>


Trong quá trình 30 năm phát triển của văn học cách mạng (1945-1975), giai đoạn 1945-1954
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ðây vừa là thời kỳ mở đầu, đắp nền cho văn học mới vừa là bước
chuyển tiếp lịch sử ghi nhận nhiều thay đổi triệt để và sâu sắc, từ quan niệm nghệ thuật cho tới
thực tế sáng tác. Vượt qua những thử thách khắc nghiệt của hồn cảnh chiến tranh, văn học chín
năm kháng chiến chống Pháp đã khẳng định sự tồn tại và phát triển với tầm vóc xứng đáng. Tuy
những thành tựu cịn ở mức độ ban đầu nhưng đóng góp chính của nó là mang đến một sắc thái
độc đáo, làm bừng lên khí thế mới chưa từng có trong đời sống văn học dân tộc.


<i><b> a. Tình hình xã hội </b></i>


Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ
nguyên độc lập, tự chủ. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Ðình, Hồ Chủ Tịch đọc bản Tun
ngơn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ách nô lệ bị đập tan, con người Việt
Nam được giải phóng như kết quả tất yếu từ khát vọng tự do và quyết tâm cứu nước của cả dân
tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Vượt qua mọi khó khăn, chính quyền dân chủ nhân dân khơng những được giữ vững mà còn
ngày càng củng cố, mạnh mẽ hơn. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Ðảng và Hồ Chủ Tịch, bằng nhiều
biện pháp kịp thời nhân dân ta đã chặn đứng nạn đói, phát động một cao trào bình dân học vụ diệt
giặc dốt và phong trào tình nguyện nhập ngũ để bảo vệ nhà nước Cách mạng, bảo vệ sự toàn vẹn
của tổ quốc. Ngày 6-1-1946, quốc hội đầu tiên được bầu qua tổng tuyển cử. Hiếp pháp được công
bố. Những thế lực thù địch lần lượt bị khuất phục bằng chính sách ngoại giao kiên quyết về
nguyên tắc nhưng uyển chuyển về sách lược của ta.



Khi mọi biện pháp ngoại giao khơng cịn hiệu quả trước dã tâm của Pháp nhằm áp đặt chế
độ thuộc địa lên nước ta một lần nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.


Từ năm 1947, liên tiếp những chiến thắng quan trọng đã làm thay đổi cục diện, tương quan
lực lượng giữa ta và địch. Cuối cùng, chiến thắng Ðiện Biên Phủ (7-5-1954) làm lịm tắt ý đồ xâm
lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải chấp nhận thương lượng và ký kết hiệp định Giơnevơ về
Ðông Dương (20-7-1954).


Cuộc kháng chiến chín năm đã kết thúc thắng lợi. Một nửa nước được giải phóng. Chính
quyền kiểu mới ở các cấp từng bước được củng cố. Tổ chức Ðảng vững mạnh hơn nhiều. Nền
kinh tế tự túc đảm bảo được những nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân trong kháng
chiến. Trong hoàn cảnh chiến tranh hết sức khó khăn, văn hóa giáo dục vẫn khơng ngừng
được nâng cao. Nạn mù chữ cơ bản được thanh tốn (phổ cập cấp 1 trong tồn dân).


Tất cả những phương diện của tình hình lịch sử - xã hội nêu trên đã có ảnh hưởng trực tiếp,
tạo nên những thuận lợi và khó khăn riêng cho sự phát triển, quyết định diện mạo của văn học giai
đoạn này.


2. Hoạt động văn học


<i><b>a. Thuận lợi </b></i>


- Cách mạng tháng Tám đã giải phóng dân tộc, đồng thời cũng giải phóng cho văn học khỏi
những trói buộc của quan niệm cũ. Quan niệm nghệ thuật tiến bộ được khẳng định, đưa văn học
trở về với ngọn nguồn đích thực là đời sống rộng lớn của nhân dân, hứa hẹn một sự khởi sắc rực
rỡ.


- Lực lượng sáng tác được tập hợp đông đảo dưới ngọn cờ của Đảng, có sự góp mặt đầy đủ
và bổ sung lẫn nhau giữa các thế hệ. Nhân dân là đối tượng phản ánh, là độc giả và cũng chính là
người trực tiếp sáng tạo nghệ thuật. Mặt khác, chín năm kháng chiến khổ nhục mà vĩ đại là nguồn


đề tài phong phú cho sáng tác. Cuộc sống mới, quan hệ xã hội mới với bao nhiêu cung bậc tình
cảm của con người Việt Nam tự do đã gợi lên những cảm hứng mãnh liệt trong các sáng tác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

chống Pháp có đầy đủ điều kiện để tiếp nhận phần tinh hoa, thành tựu cũng như loại trừ những yếu
tố khơng có lợi cho sự nghiệp chung. Ðặc biệt, phải kể đến những cách tân về phương diện nghệ
thuật của văn chương lãng mạn, giá trị hiện thực và nhân đạo của văn học hiện thực phê phán, tính
chiến đấu mạnh mẽ của văn học Cách mạng (chủ yếu là thơ ca trong tù của Bác Hồ, Tố Hữu, Sóng
Hồng, Lê Ðức Thọ,...)


<i><b>b. Khó khăn </b></i>


Trong bối cảnh chung thời chiến tranh, văn học chín năm chống Pháp phải đương đầu với
những khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt. Nhiều cây bút đang độ sung sức đã ngã xuống, gây nên
mất mát khơng gì bù đắp được (Trần Ðăng, Nam Cao, Thôi Hữu,...)


Mặt khác, về phía chủ quan, tuy hầu hết văn nghệ sĩ đã tán thành quan niệm sáng tác mới,
nhưng để biến nhận thức ấy thành xúc động nghệ thuật, thành hình tượng nghệ thuật có sức lay
động lịng người thì quả khơng phải chuyện giản đơn một sớm một chiều. Khơng ít lần, nhất là ở
những khúc quanh của lịch sử, hàng ngũ sáng tác có biểu hiện hoang mang, dao động. Ðây chính
là lý do giải thích vì sao mãi đến gần cuối cuộc kháng chiến, văn học Cách mạng mới có được
những thành tựu đáng kể.


<b>3. Quá trình phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 </b>
<i><b>3.1. Thời kỳ từ năm 1945- 1946 </b></i>


Ðây là năm bản lề, văn học chuyển mình hịa vào dịng thác Cách mạng. Nhìn chung, sáng
tác thời kỳ này tập trung vào hai chủ đề lớn. Thứ nhất, ngợi ca thắng lợi vĩ đại của Cách mạng và
bộc lộ niềm phấn khởi, tự hào tột độ của tồn dân (Vui bất tuyệt, Hồ Chí Minh - Tố Hữu, Ngọn
quốc kỳ - Xuân Diệu, kịch Bắc sơn - Nguyễn Huy Tưởng). Thứ hai, tái hiện lại thực trạng xã hội
<i>tăm tối trước Cách mạng để tố cáo tội ác dã man của thực dân và tay sai, đánh tan những ảo tưởng </i>


cuối cùng vào sự lừa mị của chúng ; từ đó, giáo dục ý thức trân trọng, thiết tha với chế độ mới
(Mò sâm banh - Nam Cao, Lò lửa và địa ngục - Nguyên Hồng, Một lần tới thủ đô - Trần Ðăng,
Chùa Ðàn - Nguyễn Tuân).


<i><b>3.2. Thời kỳ từ năm 1947- 1949 </b></i>


Kháng chiến tồn quốc bùng nổ. Ðơng đảo văn nghệ sĩ tự nguyện tham gia. Xuất hiện kiểu
nhà văn - chiến sĩ, những người vừa trực tiếp chiến đấu vừa dùng ngòi bút như một thứ vũ khí để
đấu tranh với kẻ thù và động viên, cổ vũ quần chúng (Chính Hữu, Hồng Trung Thơng, Quang
Dũng, Hồ Phương,...)


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Bên cạnh đó,trong khi bộ phận chuyên nghiệp cịn đang loay hoay nhận đường thì, cho dù
chất lượng nghệ thuật còn hạn chế nhưng không thể phủ nhận rằng vào thời điểm bấy giờ, văn
nghệ quần chúng đã đáp ứng thỏa đáng nhu cầu đời sống tinh thần người Việt Nam trong kháng
chiến.


<i><b>3.3. Thời kỳ từ năm 1950-1954 </b></i>


Ðây là những năm văn học gặt hái được nhiều thành tựu rực rỡ, nhất là thơ ca. Các nhà thơ :
Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Hồng Trung Thơng, Chính Hữu, Trần Hữu Thung, Minh Huệ,... đều
có tác phẩm hay. Ở lĩnh vực văn xi, tiểu thuyết đã có những thể nghiệm bước đầu đáng khích lệ
với Con trâu (Nguyễn Văn Bổng), Xung kích (Nguyễn Ðình Thi), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm).


Phong trào văn nghệ quần chúng sôi nổi và ngày càng sâu rộng vẫn là món ăn tinh thần
chính yếu của nhân dân. Thơ bộ đội, thơ của các cây bút dân tộc ít người có một số tác phẩm nổi
bật (Dọn về làng - Nông Quốc Chấn, Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui, Em tắm - Bạc Văn Ùi). Các loại
hình sân khấu truyền thống cũng bước đầu được phục hồi tuy vẫn cịn nặng về hình thức và hiếm
kịch bản có giá trị văn học cao.





<b>4. Thành tựu nổi bật ở các thể loại </b>
<i><b>4.1 Thơ </b></i>


Thành tựu:


Ðây là thể loại phát triển thành cao trào mạnh hơn cả với nhiều thành tựu nổi bật. Thơ ca
tiếp tục gắn bó với đời sống con người Việt Nam.


Có thể nhận thấy sự khởi sắc của thơ giai đoạn này. Từ sau Cách mạng tháng Tám, thơ
khơng cịn là vương quốc riêng của các nhà thơ chuyên nghiệp. Sự gặp gỡ giữa lý tưởng Cách
mạng và lý tưởng thẩm mỹ của dân tộc là điều kiện khách quan cho sự xuất hiện hình mẫu người
nghệ sĩ kiểu mới.


Khơng khí quần chúng sơi nổi, một mặt tạo điều kiện thử thách và khẳng định các tài năng
trẻ, mặt khác, góp sức cùng cao trào cách mạng tác động mạnh mẽ vào tâm tư tình cảm của các
nhà thơ lãng mạn, giúp hồn thơ họ hồi sinh. Với kinh nghiệm và tài năng đã được khẳng định,
đóng góp của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Huy Cận,... tuy chưa thật sự là
hơi thở mãnh liệt của thời đại nhưng vẫn có ý nghĩa sâu sắc : khơi gợi lịng u nước, hào khí đấu
tranh và lòng tự hào dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i>Việt Bắc (Tố Hữu); Ðất nước (Nguyễn Ðình Thi); Bài ca vỡ đất, Bao giờ trở lại (Hồng </i>
<i>Trung Thơng); Ðồng chí (Chính Hữu); Nhớ (Hồng Nguyên); Thăm lúa (Trần Hữu Thung); Ðêm </i>
<i>nay Bác không ngủ (Minh Huệ); Dọn về làng (Nông Quốc Chấn); Nhớ máu (Trần Mai Ninh)... </i>


Một trong những thành tựu thơ ca kháng chiến nổi bật là sáng tác của Bác Hồ. Người làm
thơ vừa để cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân (Thơ tặng các cháu thiếu nhi, Khuyên thanh
<i>niên, Tặng các cụ du kích, Gửi nông dân), vừa nhằm thỏa mãn một phần nhu cầu đời sống tinh </i>
thần phong phú của mình (Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Nguyên Tiêu, Báo tiệp, Thu dạ, Ðăng
<i>Sơn). Những sáng tác này góp phần làm nổi rõ ở Bác một tâm hồn nghệ sĩ hết sức tinh tế, nhạy </i>


cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và con người Việt Nam.


Về nội dung tư tưởng:


Thơ ca 1945-1954 ln gắn bó chặt chẽ, phản ánh chân thực và sinh động hiện thực kháng
chiến hoành tráng. Các thi sĩ đã đưa được khơng khí thời đại mới mẻ, khỏe khoắn vào thơ.
Khuynh hướng sử thi ngày càng nổi rõ. Thơ tập trung thể hiện tâm tình phơi phới tin yêu, lạc
quan, tự tin, tự hào của người Việt Nam được giải phóng ; những ước mơ, khát vọng cháy bỏng ;
những sắc thái tình cảm cao cả trong cuộc chiến đấu tuy gian khó nhưng vơ cùng anh dũng. Các
nhà thơ đặc biệt khơi gợi, đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức làm chủ và quyết
tâm xả thân (Ðất nước - Nguyễn Ðình Thi ; Bao giờ trở lại - Hồng Trung Thơng ; Bên kia sơng
Ðuống - Hồng Cầm ; Ðôi mắt người Sơn Tây - Quang Dũng).


Ðặc biệt, tình u nước cịn được thể hiện đầy xúc động qua lịng kính u Chủ Tịch Hồ
Chí Minh. Rất nhiều bài thơ hay về Bác : Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm (Tố Hữu) ; Ảnh cụ Hồ,
<i>Thơ dâng Bác (Xuân Diệu) ; Bộ đội ông Cụ (Nông Quốc Chấn); Ðêm nay Bác khơng ngủ (Minh </i>
Huệ). Tất cả góp phần xây lên hình tượng cao đẹp về lãnh tụ, đó là một con người tài năng kiệt
xuất, có lịng nhân ái mênh mông và lối sống giản dị, khiêm tốn.


Nghệ thuật biểu hiện:


Thơ ca 1945-1954 cũng có những vận động, biến chuyển mới - trên cơ sở phát huy thành tựu
của thời kỳ trước - để tương ứng với nội dung tư tưởng, tình cảm mới. Thể thơ ngày càng phong
phú. Hình tượng thơ, cảm hứng thơ trở nên gần gũi, bình dị, phù hợp với quan niệm về người anh
hùng thời đại mới.


Ngơn ngữ thơ chuyển dần từ tình trạng hoa mỹ, cầu kỳ, tượng trưng, ước lệ sang đời thường,
tự nhiên, phong phú đến vô cùng.


<i><b>4.2. Ký </b></i>



Các thời kỳ văn chương


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

yếu là ký : Nhật ký (Nguyễn Huy Tưởng) ; Ở rừng (Nam Cao) ; Một đêm vào tề, Tháp Rùa giữa
<i>rừng (Nguyễn Tuân). Một số truyện ngắn nổi bật : Làng (Kim Lân) ; Ðôi mắt (Nam Cao). </i>


Thời kỳ từ năm 1949-1954: Thời kỳ được mùa, đánh dấu bằng nhiều tác phẩm đặc sắc, ở
nhiều thể loại. Ký: Trận phố Ràng (Trần Ðăng) ; Voi đi (Siêu Hải) ; Ðường vui, Tình chiến dịch
<i>(Nguyễn Tuân) ; Ngược sông Thao (Tô Hoài) ; Ký sự Cao lạng (Nguyễn Huy Tưởng); Truyện </i>
ngắn : Thư nhà (Hồ Phương); Truyện Tây Bắc (Tơ Hồi); Xây dựng (Nguyễn Khải) ;... Tiểu
thuyết Xung kích (Nguyễn Ðình Thi) ; Vùng mỏ (Võ Huy Tâm) ; Con trâu (Nguyễn Văn Bổng);....


Truyện ký thời kỳ này thể hiện một khuynh hướng tiếp cận, khám phá đời sống mới mẻ, cả ở
bề rộng lẫn bề sâu. Cuộc sống chiến đấu, nổi bật lên hình tượng người lính cụ Hồ là mảng đề tài
tập trung nhiều tâm huyết của các nhà văn (Một lần tới thủ đô, Trận phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị
<i>- Trần Ðăng; Ðường vui, Tình chiến dịch - Nguyễn Tuân; Ký sự Cao Lạng - Nguyễn Huy Tưởng ; </i>
Xung kích - Nguyễn Ðình Thi ; Thư nhà - Hồ Phương).


Nông thôn và người nông dân kháng chiến được phản ánh trong tầm tư tưởng mới, vừa
truyền thống vừa hiện đại. Con người mới trong sản xuất, xây dựng được chú ý phát hiện và đề
cao (Làng - Kim Lân ; Con trâu - Nguyễn Văn Bổng). Con người khơng cịn là nạn nhân đáng
thương hoặc phản kháng tự phát trước hoàn cảnh mà đã xuất hiện trong tư thế chủ nhân chân
chính, giác ngộ ngày càng sâu sắc, tự giải phóng mình và góp phần giải phóng dân tộc, giai cấp
(Xung kích, Vùng mỏ, Con trâu, Truyện Tây Bắc).


<i><b>4.3. Các tác giả </b></i>
<b>Tố Hữu: </b>


Tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng Phù Lai, huyện Quảng Ðiền,
tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế). Thơ Tố Hữu là đỉnh cao thơ trữ tình chính trị Việt Nam


(Trần Ðình Sử). Có thể tìm thấy ở đó những nét tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật Cách mạng.


Tố Hữu sáng tác các tập thơ: <i>Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận </i>
<i>(1972), Máu và Hoa (1977), Một tiếng đờn (1993). Tiểu luận: Xây dựng một nền văn nghệ lớn </i>
<i>xứng đáng với nhân dân ta, với thời đại ta (1973), Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật </i>
<i>(1981). </i>


<b>Nguyễn Tuân: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Nguyễn Tuân có các tác phẩm chính: (trước 1945) <i>Một chuyến đi (1938), Vang bóng một </i>
<i>thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư </i>
<i>đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hồi (1943), Nguyễn (1945) và </i>
(sau 1945) <i>Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1963), Tùy </i>
<i>bút kháng chiến và hịa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi </i>
<i>(1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994). </i>
<b>Huy Cận: </b>


Là nhà thơ có "cái nghiêng tai kỳ diệu"(Xuân Diệu). Huy Cận cảm nhận được trọn vẹn từ
những mùi vị dân dã của đất đai đồng ruộng đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, để rồi nói lên
linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong trẻo, dễ rung động lòng người.


Tác phẩm tiêu biểu: (trước 1945) <i>Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942), Kinh cầu tự (văn </i>
<i>xuôi triết lý, 1942) và (sau 1945) Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Ðất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc </i>
<i>đời (1963), Hai bàn tay em (1967) </i>


<b>Nguyễn Thi: </b>


Nguyễn Thi là một nhà văn có ý thức trách nhiệm rất cao đối với ngòi bút.Trang viết
Nguyễn Thi thể hiện thái độ dứt khoát, lập trường tư tưởng vững vàng: tất cả vì nhân dân, vì tổ


quốc. Nguyễn Thi thành cơng nổi bật khi xây dựng những điển hình nơng dân Nam bộ, đặc biệt là
nhân vật trẻ con và phụ nữ. Hình như ở đó ln gửi gắm thật nhiều tâm sự, tâm huyết của nhà văn.


Ơng có các tác phẩm lớn được độc giả biết đến: (từ 1950 -1962) <i>Hương đồng nội, hai tập </i>
truyện ngắn: <i>Trăng sáng, Ðôi bạn. (Từ 1963 - 1968) Truyện và ký Nguyễn Thi","Chuyện xóm </i>
<i>tơi"(1964),"Những đứa con trong gia đình"(1966), "Mẹ vắng nhà", và truyện ký "Người mẹ cầm </i>
<i>súng", "Ước mơ của đất" </i>


<b> 5. Nhận xét chung </b>


Có thể nói văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1954 đã phát triển mạnh mẽ và độc đáo theo
cách riêng, với phẩm chất mới về nội dung và hình thức. Văn học thực sự trở thành món ăn tinh
thần, vừa thể hiện khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng vừa bồi đắp thêm niềm tin cho quần chúng
cách mạng.


Trong quá trình phát triển, văn học có sự kết hợp hài hòa giữa phổ cập và nâng cao, giữa
truyền thống và sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật ngày càng phù hợp với cuộc sống chứng tỏ tính
ưu việt của phương pháp sáng tác mới. Văn học vận động theo hướng dân tộc hóa, đại chúng hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

quốc. Trong ý nghĩa của bước khởi đầu, giai đoạn 1945-1954 đặt được nền móng vững chắc, đảm
bảo sự phát triển rực rỡ của văn học cách mạng những năm về sau.


<b>IV. Văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1954 - năm 1975 </b>


<b>1. Tổng quát văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1954 - năm 1975 </b>
<i><b> 1.1. Thuận lợi </b></i>


Thời gian này tại miền Bắc Việt Nam, cuộc sống mới xây dựng chủ nghĩa xã hội cịn khơng
ít những gian trn, thử thách, nhưng từ trong cuộc sống đó các nhà văn luôn giữ được niềm tin
vào chế độ. Trên cơ sở đó, họ có được cách nhìn, cách khám phá mới mẻ để nhận thức sâu sắc hơn


về Tổ quốc, dân tộc.


So với thới kì 1946 - 1954, các nhà văn có nhiều thuận lợi hơn trong việc học tập, kế thừa và
phát huy những tinh hoa của văn học nhân loại, cũng như trao đổi, học hỏi lẫn nhau về kinh
nghiệm sáng tác. Tại miền Nam, trong đau thương và chiến đấu, đồng bào miền Nam vẫn ngời
sáng những phẩm chất cao đẹp, giữ trọn nghĩa tình, ln khao khát một cuộc sống hịa bình, độc
lập, tự do, mong muốn tự biểu hiện và khẳng định mình trong gian khổ, hi sinh. Hồn cảnh đó đã
khơi nguồn cảm hứng lớn và góp phần tạo nên sức vang vọng sâu bền cho những lời thơ, áng văn.
Từ năm 1965 đến năm 1975, cả nước có chiến tranh. Các nhà văn đã nhanh chóng có mặt ở
những nơi gian khổ quyết liệt nhất của cuộc chiến đấu với tư cách là nhà văn- chiến sĩ . Họ có điều
kiện để chứng kiến và hiểu hơn những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam trong chiến
đấu, tự hào hơn về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của dân tộc.


1.2. Khó khăn


Việt Nam đứng trước những thử thách mất còn, miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu để bảo
vệ Tổ quốc, miền Nam luôn phải đối mặt với kẻ thù hung bạo, thâm hiểm và xảo quyệt. Văn học
thời kì này cũng trải qua những thử thách về nhận thức tư tưởng, về phương pháp sáng tác, về
cách khám phá, phản ánh hiện thực đời sống xây dựng và chiến đấu của dân tộc.Do hoàn cảnh
chiến tranh, nên việc sáng tác, in ấn, xuất bản, cũng như lưu hành ở i nhiều khó khăn, ảnh hưởng
không nhỏ đối với sự phát triển của văn học.


1.3. Thành tựu văn chương


<i><b>a. Thơ ca </b></i>


Đội ngũ các nhà văn, nhà thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

định được vị trí của mình trong cuộc đời mới. Họ có quan niệm thơ đúng đắn, giữ vai trò quan
trọng trong sáng tác và cả trong việc hướng dẫn, dìu dắt thế hệ các nhà thơ trẻ.



Với thơ Xuân Diệu, người đọc cảm nhận được một tâm hồn thơ khỏe khoắn, nhạy bén, tràn
đầy sức sáng tạo, luôn chứa chan tình yêu và hạnh phúc, niềm khát khao mãnh liệt được giao cảm
với đời, được sống hết mình cho cuộc sống.


Chế Lan Viên là nhà thơ thể hiện sâu sắc nhất cuộc hành trình gian khổ “từ chân trời một
người đến với chân trời tất cả”. Thơ ơng giàu chất trí tuệ, đậm đà tính chính luận, thời sự và ln
có những sáng tạo mới mẻ cả về nội dung và hình thức. Tiêu biểu cho thơ Chế Lan Viên ở thời kì
này là: Aùnh sáng và phù sa, Hoa ngày thường, chim báo bão, Đối thoại mới,...


Huy Cận thì đã thực sự quên đi cái sầu vũ trụ để rộng mở tâm hồn đón lấy những âm thanh
của cuộc đời mới với niềm tin yêu thiết tha mãnh liệt, với trăn trở xoáy sâu vào sự đổi thay thân
phận và tầm vóc kì vĩ của con người trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống Mĩ cứu
nước. Biểu hiện rõ cho sự thành cơng của Huy Cận trong thời kì này là các tập thơ : Trời mỗi ngày
<i>lại sáng, Bài thơ cuộc đời, Chiến trường gần đến chiến trường xa,... </i>


Lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp có thể nói đến Nguyễn Đình Thi
với nhiều thể loại khác nhau như : thơ, tiểu thuyết, kịch, phê bình văn học, âm nhạc. Thơ Nguyễn
Đình Thi vừa có sự thâm trầm của suy tư, vừa dạt dào cảm xúc, có sự trăn trở tìm tịi cái mới trong
nghệ thuật biểu hiện. Những bài thơ hay của ông như <i>Đất nước, Khơng nói, Nhớ, Bài thơ Hắc </i>
<i>Hải, Chia tay trong đêm Hà Nội, Lá đỏ </i>


Chính Hữu tuy viết khơng nhiều, chỉ có một tập thơ, song mỗi bài thơ là biểu hiện một sự
tìm tịi, vươn tới, mang bản sắc dân tộc một cách sáng tạo. Ơng đã đóng góp cho thơ Việt Nam
thời kì này nhiều bài thơ hay như : Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Một nửa,...


Hoàng Trung Thông vẫn luôn giữ được sự nhạy bén, sắc sảo và bao quát trong cách nhìn
cuộc sống. Ở đề tài nào Hồng Trung Thơng cũng có được sự thành cơng mà tiêu biểu là các bài
thơ : Ở nông trường cà phê, Bài thơ báng súng, Mẹ Bường,...



Bên cạnh đó, cũng cần khẳng định sự đóng góp của các nhà thơ khác như: Trần Hữu Thung,
Xn Hồng, Lương An, Minh Huệ, Nơng Quốc Chấn và Bàn Tài Đoàn.


Lớp các nhà thơ trẻ xuất hiện đơng đảo, xơng xáo, nhạy cảm, góp phần tạo nên sự phong
phú, đa dạng cho thơ Việt Nam hiện đại.Tiêu biểu có thể nói đến Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly,
Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm


b. Đề tài văn chương


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tuy nhiều gian truân vất vả nhưng cũng
rất sôi nổi, hào hùng. Mỗi một người đều tràn đầy niềm tin yêu, tự hào về những đổi thay kì diệu
trong cuộc sống của dân tộc


Vì thế, từ nhiều góc độ cảm nhận khác nhau, thơ ca về đề tài này đã đem lại cho người đọc
niềm tươi vui, một cảm giác lâng lâng trước những hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ giữa cuộc
đời mới.


Đấu tranh thống nhất nước nhà


Đất nước bị chia cắt đã tạo nên nỗi đau lớn và bao niềm trăn trở thao thức cho mỗi con
người Việt Nam.Đặc biệt, ở đề tài này, tiếng thơ của các nhà thơ cách mạng và của quần chúng
yêu nước cách mạng ở miền Nam vẫn luôn ngân vang trong gian khổ, mất mát, hi sinh, vẫn luôn
vững tin vào Đảng và Bác, vẫn hướng về một ngày mai thống nhất. Tóm lại, các nhà thơ đã thể
hiện chân thật, gợi cảm những tâm tư tình cảm nguyện vọng của cả dân tộc về một đất nước thống
nhất và khẳng định niềm tin mãnh liệt vào điều đó


Ra trận


Thơ viết về đề tài ra trận đã thể hiện được sự ra quân hùng mạnh của dân tộc với khí thế
“xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / mà lòng phơi phới dậy tương lai”, bằng sức mạnh “bốn mươi


thế kỉ cùng ra trận.Tình cảm gắn bó sâu sắc, máu thịt, niềm tự hào của con người Việt Nam về Tổ
quốc, về Đảng và Bác Hồ vĩ đại được các nhà thơ ngợi ca, khẳng định. Có thể nói, hiện thực hào
hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ đã “tỏa nắng cho thơ ”, góp phần làm nên sức sống mãnh
liệt cho thơ. Có thể xem, những vần thơ ra đời trong hoàn cảnh này là những bông hoa nở dọc
chiến hào điểm tô thêm vẻ đẹp tâm hồn tính cách của con người Việt Nam.


c. Vài nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật


Thể thơ


Hầu hết thể thơ quen thuộc trong thơ ca truyền thống và hiện đại đều được các nhà thơ ở
thời kì này đã sử dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt và ở thể thơ nào họ cũng đạt được thành công rực
rỡ. Trong đó, đặc biệt phải kể đến thể thơ tự do, thể thơ văn xuôi và thể trường ca.


Ngôn ngữ thơ


Ngôn ngữ thơ thời kì 1955 - 1975 xuất phát từ ngơn ngữ đời sống xây dựng chủ nghĩa xã
hội và kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Cho nên, trong thơ xuất hiện một hệ thống từ ngữ
khơng có ở thơ ca trước đó. Sức gợi cảm, gợi liên tưởng của ngơn ngữ thơ thời kì này, ngày càng
được thể hiện đậm nét. Có thể nói, các nhà thơ ở những mức độ khác nhau đều có sự cố gắng lựa
chọn, sử dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ thơ để góp phần tăng thêm hiệu quả nghệ thuật, tạo cho
thơ mình có được vẻ đẹp riêng và sức hấp dẫn sâu bền đối với người đọc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Câu thơ có sự dài ngắn khác nhau theo mạch cảm xúc của nhà thơ. Đặc biệt, thơ thời kì này
xuất hiện những câu thơ có nhiều từ, và có những câu thơ 12 từ trở lên. Nhìn chung, sự mở rộng
câu thơ không làm giảm đi vẻ đẹp của thơ mà trái lại tạo cho nó có thêm dáng vẻ mới, góp phần
diễn tả trọn vẹn mạch cảm xúc, sự suy ngẫm của nhà thơ trước những vấn đề sôi động của đời
sống xây dựng và chiến đấu.


Giọng điệu thơ



Việc xuất hiện nhiều giọng điệu thơ trong thơ thời kì này đã đáp ứng kịp thời nhu cầu thẩm
mĩ của thời đại. Người đọc dễ nhận ra thơ có nhiều giọng, đó là giọng hào sảng, lạc quan, giọng
tâm tình, giọng châm biếm, mỉa mai,... Tuy nhiên, điểm chung mà các nhà thơ đều hướng đến là
khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của con người Việt Nam. Hơn lúc nào hết, thơ
mang sức mạnh và sứ mệnh hết sức to lớn.


d. Đặc trưng của thơ Việt Nam


Thơ thể hiện cuộc sống theo hai khuynh hướng: nâng cao tính hiện thực và nâng cao chất trí
tuệ trong thơ. Có thể nói, thơ ca thời kì này vừa có vẻ đẹp chung của cả nền thơ, vừa có vẻ đẹp
riêng của từng khn mặt với những phong cách thơ khác nhau.


Trước hết, thơ đậm đà tính thời sự và tính chiến đấu, gắn liền với cuộc sống của dân tộc,
phản ánh một cách kịp thời, chân thật, sinh động hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ và khí thế
sơi nổi hào hùng của đời sống xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Những vần thơ như những
vũ khí sắc bén góp phần vạch trần bản chất xấu xa của kẻ thù, ngợi ca sự cao đẹp của quần chúng
yêu nước và cách mạng, cũng như tinh thần quyết tâm chiến đấu và niềm tin mãnh liệt vào chiến
thắng của dân tộc Việt Nam.


Bên cạnh đó, thơ 1955 - 1975 cịn giàu chất trữ tình và chất anh hùng ca. Thơ bộc lộ những
cảm nhận chân thành, giản dị mà rất sâu lắng tình yêu, niềm tự hào về quê hương đất nước, về
cuộc sống quá khứ, hiện tại và hướng về tương lai.


e. Truyện và ký


Về đội ngũ các nhà văn


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mĩ. Họ trở thành lực lượng sáng tác quan trọng làm
nên diện mạo của văn xi thời kì này.



Nhìn chung, đội ngũ nhà văn ngày một lớn mạnh, đông đảo, khẳng định được vị trí của mình
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, khẳng định được phong cách sáng tác. Có thể xem, mỗi
nhà văn như là một bơng hoa có hương sắc riêng, góp phần tạo nên một vườn hoa đầy hương sắc,
đa dạng và phong phú trong vườn hoa văn xuôi Việt Nam hiện đại.


<b>Các đề tài lớn </b>


Cuộc sống trước Cách mạng tháng Tám


Nổi bật là bộ tiểu thuyết <i>Cửa biển (4 tập) của Nguyên Hồng, Tranh tối tranh sáng, Hỗn </i>
<i>canh hỗn cư, Đống rác cũ, </i>tập I của Nguyễn Công Hoan...Ở những tác phẩm này, với khả năng
khám phá, bao quát và thể hiện hiện thực rộng lớn, cùng với tầm nhận thức và thể hiện mới, các
nhà văn đã giúp cho người đọc càng hiểu hơn về cảnh sống đau thương của cha ông trong quá
khứ, về bản chất phi lí, bạo tàn, bịp bợm của chế độ thực dân phong kiến. Mặt khác, các nhà văn
đã ngợi ca sự anh dũng quật cường của dân tộc ta trong hồn cảnh đó.


Cuộc kháng chiến chống Pháp


Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, các nhà văn có khoảng cách về thời gian và
tầm nhận thức mới để tiếp tục sáng tạo những gì mà trong hồn cảnh trước đó họ đã ấp ủ, thai
nghén nhưng chưa có điều kiện thực hiện. Bởi thế, chỉ trong khoảng một thời gian ngắn sau kháng
chiến một loạt tác phẩm viết về đời sống kháng chiến đã ra đời, tiêu biểu phải kể đến: <i>Đất nước </i>
<i>đứng lên của Nguyên Ngọc, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm, Một truyện chép ở bệnh viện của </i>
Bùi Đức Aùi, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai,
<i>Phá vây của Phù Thăng. </i>


Cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội


Trên cơ sở sống gắn bó và nhận thức sâu sắc về cuộc sống, các nhà văn nhanh chóng chiếm


lĩnh hiện thực đời sống xây dựng chủ nghĩa xã hội để khám phá và sáng tạo thành công nhiều tác
phẩm. Tiêu biểu cho đề tài này là các tác phẩm: Hãy đi xa hơn nữa, Xung đột của Nguyễn Khải,
<i>Cái sân gạch của Đào Vũ, Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Bão biển của Chu Văn, Những </i>
<i>người thợ mỏ của Võ Huy Tâm, Cái hom giỏ, Gánh vác của Vũ Thị Thường, Vụ mùa chưa gặt của </i>
Nguyễn Kiên, Sông Đà của Nguyễn Tuân, …


Cuộc kháng chiến chống Mĩ


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Thành, Nguời mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, <i>Chiếc lược ngà </i>
của Nguyễn Quang Sáng, Sống như anh của Trần Đình Vân…


g. Kịch


Tuy khơng có nhiều thành tựu nổi bật như thơ, truyện và ký nhưng thể loại kịch nói giai
đoạn này cũng có những đóng góp nhất định cho nền Văn học Việt Nam giai đoạn 1955-1975.
Kịch gồm có: Kịch chuyển thể từ tiểu thuyết và truyện ngắn, và kịch lịch sử.Đặc biệt, kịch lịch sử
đã góp phần khẳng định niềm tin, niềm tự hào, ý chí của ơng cha ta trong lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước


Một số tác phẩm tiêu biểu: <i>Ngọn lửa của Nguyễn Vũ, Nổi gió, Đại đội trưởng của tơi của </i>
<i>Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh… </i>


<i><b>1.4. Các tác giả lớn trong giai đoạn này </b></i>
<b>Xuân Diệu </b>


Thơ của Xuân Diệu gắn với quê hương đất nước. Ơng có khát vọng hiến dâng sức lực và trí
tuệ của mình cho dân tộc, ơng khơng ngại khó khăn, gian khổ, hăng hái, nhiệt tình, đi khắp mọi
nẻo đường Tổ quốc để phục vụ nhân dân.Chính vì lẽ đó, Xn Diệu được tất cả độc giả trong nước
yêu mến, ngưỡng mộ không chỉ ở thơ, mà còn ở tấm lòng say sưa và chân thành của ông trước
cuộc đời. Xuân Diệu ra đi để lại một di sản văn học đồ sộ với nhiều thể loại: thơ, văn xuôi,


tiểu luận, phê bình, dịch.


Xn Diệu có nhiều tác phẩm thơ lớn, được biết nhiều nhất có thể kể đến các tập: Thơ thơ
<i>(1938), Gửi hương cho gió (1945), Hội nghị non sông (1946), Riêng chung (1960), Tôi giàu đôi </i>
<i>mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976)…Về Văn xuôi, tiểu luận, phê bình, ơng có các tác phẩm: </i>
<i>Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng (1958), Ba thi hào dân tộc (1959), Phê bình giới </i>
<i>thiệu thơ (1960), Trị chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Thi hào </i>
<i>dân tộc Nguyễn Du (1966), Đi trên đường lớn (1968), Và cây dời mãi mãi xanh tươi (1971), Mài </i>
<i>sắt nên kim (1977), Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt </i>
<i>Nam ( hai tập, 1981- 1982). </i>Dịch và giới thiệu thơ nước ngoài của các nhà thơ như: <i>Targo, </i>
<i>Puskin, Maiacốpxki, Đimitrơva... </i>


<b>Tơ Hồi </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Các tác phẩm của Tơ Hồi trước Cách mạng tháng Tám phải kể đến <i>Dế mèn phiêu lưu kí </i>
<i>(1941), Quê người (1941), O chuột (1942), Giăng thề (1943), Nhà nghèo (1944), Xóm Giếng ngày </i>
<i>xưa (1944), Cỏ dại (1944). </i>Sau Cách mạng tháng Tám là <i>Núi cứu quốc (1948), Xuống làng </i>
<i>(1950), Truyện Tây Bắc (1953), Khác trước (1957), Vỡ tỉnh (1962), Người ven thành (1972); </i>
<i>Mười năm (1957), Miền Tây (1967), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự truyện (1978), Những </i>
<i>ngõ phố, người đường phố (1980), Đại đội Thắng Bình (1950), Thành phố Lênin (1961), Tơi thăm </i>
<i>Cămphuchia (1964), Nhật kí vùng cao (1969), Trái đất tên người (1978); Một số kinh nghiệm viết </i>
<i>văn của tôi (1959), Người bạn đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp </i>
<i>viết văn (1997). </i>


<b>2. Nhận xét chung </b>


Sau hai mươi năm phát triển trong một hoàn cảnh đặc biệt, văn học Việt Nam đã đạt được
những bước tiến mới cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Cuộc sống xây dựng và chiến đấu
với nhiều gian khổ hi sinh đòi hỏi mỗi một nhà văn phải có ý thức trách nhiệm, gắn bó sâu sắc với
Tổ quốc, để từ đó có được nguồn cảm hứng sáng tạo, viết nên những tác phẩm xứng đáng với thời


đại ta và nhân dân ta.


Hai mươi năm qua, tuy không tránh khỏi một số hạn chế nhất định, nhưng văn học Việt Nam
thời kì này vẫn giữ một vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của dân tộc,
cũng như tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển của văn học Việt Nam ở những năm về sau.


Thơ Việt Nam hiện đại đã có sự vươn lên khơng ngừng. Trong bất cứ hồn cảnh nào của đời
sống, các nhà thơ vẫn ln tìm tịi, thể nghiệm ở nhiều phương diện, có sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa truyền thống và hiện đại, để ngày càng đạt được những thành tựu rực rỡ, góp phần không nhỏ
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng, nhiều
hương sắc mới cho thơ ca Việt Nam hiện đại.


Nét nổi bật, nét mới của truyện và kí thời kì này đó là vừa nâng cao khả năng bao quát hiện
thực, vừa chú ý đào sâu những vấn đề nằm trong hiện thực đó, vừa miêu tả, vừa phân tích và lí giải
nên tác phẩm có được sức khái qt chính xác và sâu sắc hơn.


Tuy chưa có được tác phẩm mang tầm vóc vĩ đại, nhưng những gì đạt được của thể loại này
là rất đáng tự hào, trân trọng. Nó đã phản ánh và đáp ứng kịp thời nhu cầu thẩm mĩ của thời đại,
góp phần cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ cuộc sống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc trong
những tháng năm đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>



<b>VI. Văn học Việt Nam từ 1975 - cuối 1999 </b>


<b>1. Tổng quát Văn học Việt Nam từ 1975 - cuối 1999 </b>


<i><b> 1.1. Tiền đề ra đời và phát triển văn học Việt Nam giai đoạn này </b></i>


Sau năm 1975, đất nước hồn tồn thống nhất, non sơgn thu về một mối, nhân dân Việt Nam


thực sự bước vào cuộc sống mới, cuộc sống tự do, dân chủ, bình đẳng và công bằng.


Niềm vui thống nhất, anh em Nam - Bắc từ nay được sống chung dưới một mái nhà Việt
Nam tạo nên sức mạnh và niềm hăng say lao động, sự cống hiến hết mình vì tổ quốc thân yêu và
cho toàn dân tộc.


Tất cả mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi từ cụ già tới em nhỏ, từ phụ nữ đến đàn ông, từ thanh niên,
nông dân đến trí thức đều hào hứng trước những biển đổi của đất nước, cùng bước vào giai đoạn
kiến thiết nước nhà, khắc phục hậu quả chiến tranh.


Chính vì vậy, tinh thần hăng hái ấy cũng ảnh hưởng rất lớn tới các sáng tác văn học giai
đoạn này. Văn học thực sự xác định được nội dung tư tưởng chủ đạo trong sáng tác, đó là ngợi ca
hình ảnh tổ quốc những ngày đầu thống nhất, đề cao phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa cũng như động viên tinh thần lao động và xây dựng nước nhà giàu mạnh của
người dân cả nước.


Ngòi bút của các nhà văn trong thời kỳ này cũng lên tiếng phê phán những sai lầm, những
quan điểm lạc hậu, quan liêu, chống đối, bao cấp còn tồn tại trong xã hội, do đó văn chương trở
thành một thứ vũ khí sắc bén đóng góp đáng kể vào cơng cuộc làm đẹp, làm giàu cho đất nước.


Văn học giai đoạn từ 1975 đến cuối thế kỷ XX đã phản ánh một cách chân thực về bức tranh
hiện thực cuộc sống, về những khó khăn vất vả và tinh thần lao động, phấn đấu không mệt mỏi
của người dân Việt Nam, đồng thời nó cũng phản ánh được những bất cập tồn tại trong đời sống
hiện tại để từ đó, văn chương góp phần hồn thiện bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam thời kỳ
này.


1.2. Quá trình phát triển của văn học Việt Nam trong giai đoạn này


Văn học Việt Nam trải qua các thời kỳ quan trọng



Thời kỳ 1975 - 1980: Đây là giai đoạn các sáng tác vẫn còn mang âm hưởng của chiến tranh,
bởi vậy những đề tài chính vẫn xoay quanh những vấn đề về chiến tranh, hậu quả của chiến tranh
để lại, những con người thời hậu chiến, những hồi tưởng về một quá khứ đã qua…


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

thành tựu của đổi mới và những tấm gương sáng trong cơng cuộc kíên thiết nước nhà: những
gương lao động tiên tiến, quên mình vì cơng việc chung, những nhân vật chính trong các tác phẩm
văn học do đó cũng giàu cá tính hơn và đa dạng hơn.


Thời kỳ từ 1985 đến nay: Văn học phát triển song song với những chuyển biến của đất nước.
Các nhà văn cũng mang những quan điểm sáng tác mới, ngôn ngữ trong văn học được hiện đại
hoá cho phù hợp với sự phát triển của thời đại. Con người xuất hiện trong các sáng tác có cái nhìn
chính diện hơn, sâu rộng hơn, trí thức và năng động, ln hướng tới những điều lớn lao và tốt đẹp
cho xã hội.


Đặc biệt, văn học dịch đã có được những bước tiến đáng kể, độc giả Việt Nam ngày càng
được tiếp cận nhiều hơn với những tác phẩm văn học nước ngoài, những nền văn học phương Tây,
những tác phẩm lớn của văn học thế giới. Cạnh đó, nền văn học Việt Nam cũng ngày được củng
cố và đổi mới cả về hình thức nghệ thuật lẫn nội dung sáng tác, tạo nên diện mạo riêng cho văn
học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến cuối những năm 1999.


1.3. Các thể loại văn học chính


<b>Truyện ngắn </b>


Sau năm 1975, đất nước ta bắt đầu đổi mới, ngôn ngữ văn xi đã có một sự chuyển biến
mạnh mẽ theo hướng tiếp tục hiện đại hoá. Chính điều kiện xã hội này đã có tác động tích cực tới
các biến chuyển này trên nguyên tắc mở rộng giao lưu văn hố. Ngơn ngữ văn xi hiện đại ra đời
với một tư duy văn học mới.


Mười năm kể từ ngày thống nhất đất nước, đó là khoảng thời gian rất có ý nghĩa của văn


học. Khơng khí hồ hởi sau khi nước nhà giành được độc lập, hồi ức về những thắng lợi cũng như
những ảnh hưởng chiến tranh để lại, sự đối mặt với nó và đối mặt với những khó khăn trong đời
sống thời gian sau chiến tranh… luôn là vấn đề được các nhà văn quan tâm, trở thành chủ đề chính
trong sáng tác thời kỳ này.


Thống nhất đất nước cũng đồng thời với quá trình tăng tốc thống nhất của ngôn ngữ văn học.
Cuộc chiến tranh qua đi để lại những vết thương trong lịng dân tộc Việt. Văn học giai đoạn này,
vì thế luôn đề cập đến những lo toan đời thường, sự nghèo nàn của nền kinh tế nông nghiệp là
chính, những khó khăn do chưa thốt khỏi tình trạng phụ thuộc kinh tế (do các nước hỗ trợ). Các
nhà văn Việt Nam cũng là những người trong thời cuộc đó, cũng trăn trở, cũng tìm tịi làm sao đưa
nền văn học Việt Nam tiến tới bước phát triển mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

đoạn này cũng đã thoát ly khỏi tuýp nhân vật thời kỳ trước, sự toan tính được đưa nhiều hơn trong
sáng tác, vừa đa dạng, vừa mạnh mẽ.


Các tác phẩm chính có thể kể đến: Duy Khán với Tuổi thơ im lặng (1986), Mã A Lềnh với
Chuyện bây giờ mới kể (1996), Nguyễn Đức Thọ với Hồi ức làng Che (1999), Bảo Ninh với Trại
bảy chú lùn (1987), hay Bão Vũ với Hoang đường…


Tiểu thuyết


Xét về dung lượng và phạm vi hoạt động của nhân vật t rong tiểu thuyết so với truyện ngắn
rộng hơn nhiều, quan hệ giữa các nhân vật cũng phức tạp hơn. Trong khoảng 25 năm cuối thế kỷ
XX, tiểu thuyết đã có sự gia tăng đáng kể cả về số lượng lẫn chất lượng.


Sau chiến tranh tuy cuộc sống cịn nhiều khó khăn song những ngày tháng sống trong hồ
bình đã giúp nhà văn có thời gian tĩnh lặng trong tâm hồn để từ đó chiêm nghiệm về cuộc sống
xung quanh, về con người và những vấn đề xã hội để từ đó cho ra đời những tác phẩm có tầm trí
tuệ và tư duy sâu sắc. Đời sống Chủ nghĩa xã hội với những mâu thuẫn trong sự phát triển đã thực
sự cuốn hút và chinh phục các nhà văn. Tiểu thuyết vì thế cũng trở nên phong phú và đa dạng hơn



Các tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến: Chu Văn với Bão biển, Nguyễn Minh Châu với Mảnh
trăng cuối rừng và Dấu chân người lính, Dương Hướng với Bến không chồng, Nguyễn Khắc
Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chu Lai với Phố, Ăn mày dĩ vãng, hay Ma Văn Kháng
với Đám cưới không giá thú…


<b>Thơ ca </b>


Đây là giai đoạn thơ tiếp tục được đổi mới về ngôn ngữ. Cũng như văn xuôi, ngôn ngữ thơ từ sau
1975 nhất là từ khi Việt Nam bắt đầu bứơc vào cơng cuộc đổi mới đã tiếp tục q trình hiện đại
hố về ngơn từ và phong cách.


Sau năm 1975 - 1986, Nội dung thơ ca cũng được biến đổi mạnh cả về nội dung lẫn hình
thức thể hiện, đặc biệt là trong kết cấu và bút pháp.


Chưa bao giờ số lượng thơ được sáng tác nhiều như thế, một nền dân chủ trong sáng tác thơ
thực sự xuất hiện và tồn tại trong thực tế, hàng nghìn tập thơ của hơn 200 tác giả nghiệp dư được
xuất bản, các nhà thơ giai đoạn này thường thiên về khuynh hướng thơ tự do. Cái tôi thực sự có
chỗ đứng trong thơ Việt Nam. Nó thật và chân thành, không hề đối lập với cộng đồng hay xa rời
thực tế, xa rời cái chung, trái lại, nó cịn làm cho bức tranh cuộc sống được vẽ nên trong thi ca trở
nên chân thực và đầy đủ hơn. Ngôn ngữ thơ tự do đã hoàn toàn chiếm lĩnh nghệ thuật thơ Việt
Nam trong suốt ba thập kỷ cuối thế ỷ XX.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

bề trừu tượng hơn và thêm nhiều phong cách mới mang lại những diện mạo mới cho văn học Việt
Nam. Thơ thực nhưng cũng vẫn có ảo, có ý thức và mang cả vơ thức, có cảm và có nhận…


Các tác phẩm thơ thể hiện phong cách mới không thể thiếu nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
(Sự mất ngủ của lửa), Hoàng Hưng (Người đi tìm mặt), Lê Đạt (Bóng chữ)…


Lý luận, phê bình văn học



Thể loại văn học lý luận phê bình văn học vào thời gian từ năm 1975- 1989, với những đánh
giá văn học, lý luận phê bình văn học đương đại vẫn phần nào phân tán, chưa có được những phân
tích chun sâu, chưa có những đột biến để hình thành xu hướng mới trong thể loại văn học này.
Nhưng nhìn chung nó vẫn cùng đồng hành với tiến trình văn học đổi mới chứ khơng hề tụt lại sau.
Có thể đánh giá những tiến bộ của thể loại văn học này như sau:


Sự thay đổi, bổ sung của lý luận văn học:


Có thể nói, cả hệ thống khái niệm lý luận văn học đang chuyển động theo hướng tiếp cận hệ
thống ngôn ngữ lý luận của thế giới, một quan niệm mới về văn học được hình thành thực sự mở
ra một không gian mới cho tư duy văn học


Sự thâm nhập các lý thuyết về lý luận văn học của nước ngoài


Việc này trước đây chưa được các nhà văn quan tâm đúng mức do quan niệm sai lệch vẫn kỳ
thị với kho tàng lý luận văn học Phương Tây. Tới nay thì quan niệm này đã có nhiều thay đổi do
sự hiểu biết được mở rộng, và nhiều bài dịch, giới thiệu về tác giả văn học nước ngoài cũng đã
được đưa vào Việt Nam và từ Việt Nam được dịch và đưa tới các nước khác trên thế giới.


Việc xây dựng lý luận và hình thành các hướng nghiên cứu mới: Tuy chưa phổ biến và chưa
đồng đều nhưng các hướng nghiên cứu mới này đã thực sự tạo ra sự đa dạng trong cách tiếp cận
văn học và hứa hẹn sự phát triển sau này.


Các nhà lý luận tiêu biểu có thể kể đến: Nguyễn Khải (Thượng đế thì cười), Nguyễn Minh
Châu (Trang giấy trước đèn, tập hợp tất cả các di sản lý luận phê bình văn học của riêng nhà văn),
Văn Tâm (Giảng văn Văn học lãng mạn, Góp lời thiên cổ sự, Vườn khuya một mình…), Trần
Đình Sử (Thi pháp thơ Tố Hữu, Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam), Nguyễn Đăng Mạnh
(Mấy vấn đề phương pháp nghiên cứu phân tích thơ Hồ Chủ Tịch, Nhà văn tư tưởng và phong
cách, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Chân dung và phong cách)



2. Nhận xét chung


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Văn học Việt Nam từ sau năm 1975 đến những năm cuối thế kỷ XX đã thực sự phản ánh rõ
nét tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân thời kỳ đổi mới, đồng thời lên án những thói
xấu, những tiêu cực trong xã hội hiện tại để tạo nên một dòng văn học trung thực và giàu ý nghĩa.
Văn học giai đoạn này không những đổi mới về nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật mà còn cả
trêm mặt quan điểm sáng tác. Cụ thể: thể loại sáng tác đa dạng hơn, hình thức nghệ thuật phong
phú, nhân vật được xây dựng với nhiều nét tính cách điển hình cho con người thời đại mới, tác
phẩm bắt đầu hướng tới độc giả bên ngồi, song song với nó, tư tưởng “mang thế giới tới Việt
Nam” cũng được xác định trong văn học.


Trong giai đoạn này, nhiều nhà văn trẻ cũng xuất hiện với sức viết dồi dào và có nhiều ý
tưởng táo bạo, mới lạ. Họ thực sự là đại diện cho lớp nhà văn mới với cách nhìn mới và cách
khám phá mới. Từ đó đem lại diện mại mới cho nền văn học Việt Nam.


<b>VII. Kết luận </b>


Đến nay, văn học Việt Nam đã trải qua nhiều chặng đường phát triển, mỗi chặng đường gắn
liền với những mốc thăng trầm của lịch sử dân tộc, mỗi giai đoạn văn học lại mang một dấu ấn
riêng, một đặc trưng riêng. Nhiều nhà văn tên tuổi đã đóng góp vào nền văn học này, nhiều tác
phẩm đã đi vào lịch sử thơ ca dân tộc. Chính lẽ đó làm chúng ta không thể quên được: Kho tàng
văn học Việt Nam tới nay là một kho tàng tri thức văn hoá quý giá của Dân tộc Việt. Nó là một giá
trị tinh thần mà mỗi người dân Việt Nam phải giữ gìn, bảo quản và suy ngẫm, chiêm nghiệm, tự
hào.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×