Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

đặc trưng thể loại tản văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.61 KB, 15 trang )

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Khoa Ngữ văn
Lớp C-K63
Họ và tên: Đặng Thị Thanh Tâm
Mã sinh viên: 635601109
Học phần: Thể loại văn học với các loại hình nghệ thuật
Đề bài: Từ đề tài của nhóm, chọn và phân tích tác phẩm cụ thể hoặc nhóm tác
phẩm theo đặc trưng thể loại.
Bài làm
Tản văn là một tiểu kí ngắn gọn, hàm súc, bố cục tự do, theo tùy hứng của
tác giả có thể bộc lộ trữ tình, tự sự hoặc nghị luận, thường các yếu tố đó đan quyện
vào nhau. Lối thể hiện đời sống trong tản văn thường mang tính chất chấm phá,
khơng nhất thiết địi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hồn chỉnh nhưng có cấu
tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Ở đó người viết có ý thức suy nghĩ độc
lập và mạnh dạn trình bày những suy nghĩ, cảm xúc của riêng mình, đồng thời gửi
gắm nhiều thơng điệp tới độc giả. Chính vì vậy, tản văn mang đậm cách cảm, cách
nghĩ rất riêng của mỗi tác giả.
Lưu Diệu Vân (1979), thạc sỹ chuyên ngành quảng cáo và dịch giả của
nhiều tác phẩm văn chương thế giới. Là một “tài tử” làm thơ, cơ viết để tích lũy hai
điều đáng u nhất từ cuộc sống: tình u và trí tuệ. Lưu Diệu Vân luôn quan niệm
“Viết ngắn để không phải hối tiếc điều gì” khi sáng tác các tác phẩm tản văn, cũng
như truyện ngắn của mình.

1


Nhóm 5 tác phẩm được phân tích “Đêm giáng sinh”, “Ra đi vợ có dặn
dị…”, “Mỗi gia đình chỉ nên có một con”, “Quyền hiến định” và “Chiếc gương tàn
tật” được đăng trong tuyển tập “Màu cỏ xanh trong suốt” của nhà xuất bản Trẻ.
Trong tuyển tập “Màu cỏ xanh trong suốt”, Lưu Diệu Vân cùng bốn tác giả
khác đã khiến người đọc lạc vào một thế giới trừu tượng với những hình ảnh mơ


hồ, mơng lung. Lưu Diệu Vân với những bài tản văn mang hơi hướng ám ảnh
người đọc bởi những câu chuyện phi logic, tưởng chừng như vô nghĩa.
Tản văn là những tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, khơng có cốt
truyện.
Tản văn là những tác phẩm văn xi có dung lượng khơng lớn, phổ biến là
những bài văn ngắn gọn, hàm súc. Đó là những tiểu phẩm được trình bày dưới
dạng một mẩu chuyện nhỏ, một nét chân dung của ai đó có thực trong đời, một vài
kỉ niệm được hồi tưởng, những suy tư và cảm xúc về một điều gì đó, hay những lời
tựa bạt nhấn mạnh những ấn tượng về một sáng tác cụ thể...
Tính chất ngắn gọn là do tản văn thường có cấu tứ dựa trên một tín hiệu
trung tâm ( một hình ảnh, một chi tiết, một tình huống, một nhân vật...) và xoay
quanh một ý tưởng trọng tâm.
Tính ngắn gọn của tản văn còn tùy thuộc vào sự biểu ý đặc thù của nó . Mỗi
tác phẩm tập trung biểu hiện một ý tưởng nhất định. Các hình ảnh, chi tiết thường
cùng loại hay nằm trên cùng một bình diện, chúng vẫn phục tùng một ý tưởng và
quy chiếu trong một định hướng chủ đề.
Tính ngắn gọn cịn thể hiện trong toàn bộ tác phẩm thường chỉ nổi lên một
âm sắc, một tình cảm cơ bản. Sự tập trung cao độ ở tản văn khiến nó có thể dung
nạp cùng một lúc nhiều sắc thái tình cảm khác nhau hoặc tái hiện những quá trình
2


tâm lí phức tạp, nhiều biến động. Mỗi tác phẩm tản văn thường quy tụ chi tiết trong
một trường ngữ nghĩa diễn tả một sắc thái tình cảm nên sự vụn vặt, chi tiết của nó
thực ra lại có một cấu trúc ngầm hết sức chặt chẽ, yêu cầu ngòi bút nhà văn phải
biết tiết chế và giới hạn.
Trong mỗi tác phẩm tản văn, hình ảnh, chi tiết đóng vai trị là thần cốt. Nếu
ở tiểu thuyết hệ thống hình ảnh, chi tiết sức phong phú, bề bộn có khả năng lột tả
nhiều mặt cuộc sống xã hội thì ở tản văn, hình ảnh, chi tiết lại hết sức tinh lọc, đó
là những tín hiệu nghệ thuật mang chứa những mã tinh thần rất hàm súc và giàu

sức gợi. Sự hàm súc trong các hình ảnh, chi tiết khiến cho tản văn cơ đúc song lại
có sức lan tỏa rất lớn giống như hình ảnh và chi tiết của thơ vậy.
Các tác phẩm tản văn đều khơng có cốt truyện, cả 5 tác phẩm đều được xây
dựng cấu tứ xung quanh một hình ảnh, hoặc chi tiết cụ thể để phát triển xung
quanh trục trung tâm. Ở “Đêm giáng sinh” là hình ảnh của một cặp đơi u xa, ở
“Ra đi vợ có dặn dị…” là hình ảnh một người thiếu phụ đang đốt vàng mã cho
chồng, ở “Mỗi gia đình chỉ nên có một con” là một tình huống về gia đình nọ với
khao khát sinh con trai, ở “Quyền hiến định” bắt gặp một cô gái đang đau khổ vì
tình yêu, và ở “Chiếc gương tàn tật” là một câu chuyện nhỏ về chiếc gương nhỏ
mù lòa.
Tất cả các tác phẩm kể trên đều rất ngắn gọn, không có cốt truyện, tình
huống truyện, cao trào, thắt nút mở nút như các truyện ngắn, hay tiểu thuyết. Mỗi
tác phẩm đều có những trục trung tâm để xoay quanh. Qua 5 tác phẩm kể trên,
người đọc có thể nhận thấy một điểm chung là Lưu Diệu Vân có một cách viết rất
lạ, rất “dị”. Cô đưa người đọc vào một thế giới tưởng như thật mà tưởng như
không, khiến người đọc không nắm rõ được nội dung mà cô muốn truyền đạt
nhưng lại có thể hồn tồn hiểu theo ý muốn của bản thân. Cả 5 tác phẩm trên đều
có số lượng nhân vật ít (từ 1-2 nhân vật), xoay quanh một tình huống đơn giản,
3


hoặc được tác giả “bắt” một khoảnh khắc, một hình ảnh nào đó. Nếu như ở hai tác
phẩm “Mỗi gia đình chỉ nên có một con” và “Chiếc gương tàn tật”, người đọc nắm
được phần nào tình huống truyện mà tác giả đặt ra thì ở ba tác phẩm cịn lại, Lưu
Diệu Vân chỉ đưa cho người đọc những hình ảnh, lát cắt của nhân vật. Cô như một
nhiếp ảnh gia ghi lại một khoảnh khắc của cuộc sống qua từng góc độ khác nhau.
Có thể nhận thấy trong các tác phẩm của cơ nói chung và 5 tác phẩm kể trên nói
riêng đều mang một âm sắc rất riêng không thể lẫn được. Sự tập trung cao độ ở các
tác phẩm khiến nó có thể dung nạp cùng một lúc nhiều sắc thái tình cảm khác nhau
hoặc tái hiện những q trình tâm lí phức tạp, nhiều biến động.

Ví dụ như khi đọc “Đêm giáng sinh”, người đọc được chứng kiến hai con
người yêu nhau, từng hành động cử chỉ đến suy nghĩ đều ăn khớp với nhau nhưng
khoảng cách lại chính là thứ khiến họ khơng thể đến với nhau. Câu chuyện tưởng
chừng như rất “nhạt” nhưng lại khiến người đọc trăn trở mãi về hình ảnh hai nhân
vật cùng hướng về nhau nhưng bị ngăn cách. Tác phẩm rất ngắn được xây dựng
xung quanh hình ảnh của hai nhân vật, từng chi tiết đều được tác giả chọn lọc gây
ấn tượng với người đọc.
Tản văn biểu hiện rõ nét cái tôi tác giả
Đặc điểm nổi bật nhất của tản văn so với các thể loại khác là nó bộc lộ rõ
nhất cái tơi tác giả. Cái tơi của nhà tiểu thuyết lẫn vào những hình tượng nhân vật,
vào cách đánh giá, cách nhìn đối với cuộc sống , được toát ra từ sự tương quan
giữa nhiêu cái nhìn, nhiều quan niệm, từ sự phức điệu, đa thanh đặc trưng cho tiểu
thuyết. Ở tản văn, nhà văn là nhân vật duy nhất cất lên tiếng nói trực tiếp của chính
mình về những điều mình quan tâm bởi giữa chủ thể lời nói trong tác phẩm và bản
thân tác giả có một sự thân cận đặc biệt. Tồn bộ tác phẩm được viết dưới ý thức
và giọng điệu của nhân vật- một phiên bản của tác giả. Sự gián cách giữa nhà văn
và nhân vật này không quá lớn, hầu như khó nhận thấy, nó khiến người đọc cảm
4


thấy như đang đối diện trực tiếp với bản thân người viết vậy. Tác giả dường như
thủ thỉ tự nói một mình, tự thổ lộ nỗi niềm, hoặc như trút bầu tâm sự với người
quen cũ lâu ngày gặp lại. Có lẽ cũng chính vì vậy, chủ thể nhà văn được biểu hiện
khá đầy đủ: diện mạo tinh thần, bản lĩnh sáng tạo, cuộc đời riêng...
5 tác phẩm không đủ để người đọc có sự nhìn nhận về con người tác giả
nhưng khiến độc giả phần nào thấy được một khía cạnh tâm hồn của Lưu Diệu
Vân. Mỗi tác phẩm lại như một bức tranh thể hiện được một khía cạnh cái tôi của
tác giả. “Đêm giáng sinh” khiến người ta thấy được nỗi lịng của cơ khi chứng kiến
cảnh u xa của các cặp đơi, “Ra đi vợ có dặn dò…” lại đem đến một nụ cười chua
chát về hình ảnh người vợ đang hóa vàng mã cho người chồng của mình, “Mỗi nhà

chỉ nên có một con” là tiếng kêu cảnh tỉnh về thói trọng nam khinh nữ của xã hội,
“Chiếc gương tàn tật” mang đến một bài học về cuộc sống trong cách nhìn nhận
giá trị của mỗi người trong cuộc sống, còn “Quyền hiến định” lại như một tiếng
kêu xót thương cho những cơ gái bị người yêu ruồng bỏ. Mỗi tác phẩm lại thể hiện
được những điều mà tác giả muốn gửi gắm trong cuộc sống này.
Về phương diện hình tượng tác giả, tự biểu hiện là nguyên tắc được đặt lên
hàng đầu, và do đó sức mạnh của tản văn trước hết là ở nhân cách, bản lĩnh, tầm tư
tưởng, cách nhìn, cách cảm, ở sự uyên bác và lịch lãm của chính người cầm bút.
Nguyên tắc tự biểu hiện khiến cho cái tôi nhà văn không bị khúc xạ qua nhân vật
này hay nhân vật kia. Bởi tản văn như một ống kính soi chiếu những gì tác giả nhìn
thấy được. Tác giả nhìn cuộc sống và bắt lấy khoảnh khắc, tái hiện lại nó theo con
mắt và trí tuệ của chính mình. Các tác phẩm của Lưu Diệu Vân cũng vậy, cô nhìn
nhận cuộc sống dưới con mắt của bản thân và viết lại nó theo một cách rất riêng.
Người đọc hẳn là luôn phải ngỡ ngàng khi đọc đến cuối tác phẩm của cô. Lúc nào
cũng là một cái kết gây ám ảnh với người đọc. Câu chuyện tưởng chừng như đơn
giản, ấy vậy mà phải đi đến hồi kết cùng với tác giả thì người đọc mới bất ngờ, mới
phải đọc lại một lần nữa để hiểu được cái điều mà cô muốn gửi gắm.
5


Ví dụ như ở “Ra đi vợ có dặn dị…”, đọc những dòng đầu, chắc hẳn người
đọc gật gù khen cô vợ tâm lý, chiều chồng, thương chồng. Đi đến một nửa, với chi
tiết “mướn người phụ giúp”, người đọc mới thầm cười trong bụng về một cô vợ
ngây thơ, cả tin. Và cho đến phút cuối, Lưu Diệu Vân mới khiến người đọc bất ngờ
khi vén màn sự thật về tình huống truyện. Các tác phẩm của cơ ln khiến người
đọc phải thốt lên đầy ngỡ ngàng ở phút cuối cùng.
Mỗi tác phẩm lại là một lát cắt tâm hồn của chính tác giả, cả 5 tác phẩm
tưởng chừng như bình dị, có gì đó phi logic nhưng đã phản ánh được những suy
nghĩ đa chiều sâu sắc của cơ về cuộc sống: “Những gì bạn nhìn thấy khơng phải là
tất cả.”

Các tác phẩm bộc lộ rõ nét cái tôi của người viết, nhưng khác với cái tôi tác
giả ở một số thể loại kí, người viết tản văn có tâm thế nhàn tản, cái nhàn của con
người “ tự ngộ”, biết vượt lên thế cuộc hiện sinh, tìm tới lẽ trường tồn cao diệu của
đời sống nhân loại, cái nhàn của con người biết thoát khỏi những o ép của đời
thường, tìm tới sự thấu triệt sâu sắc của lẽ đời. Nhà văn có thể viết để chơi, khơng
nhất thiết đặt những mục tiêu, mục đích to tát cho ngịi bút, viết khơng nhằm bút
chiến được thua, khơng nhằm những mục đích ngồi văn chương để thực hiện
những chức năng xã hội khác. Tản văn thích hợp với sự ngâm ngợi, chiêm nghiệm,
điềm tĩnh mà đằm sâu. Có lẽ vậy nên giọng điệu chúng ta bắt gặp trong 5 tác phẩm
trên có chút gì đó như đang trị chuyện, tâm sự với người đọc.
Ở “Quyền hiến định”, Lưu Diệu Vân như một người khách quan chứng kiến
sự việc về cô gái, và kể lại với một giọng điệu rất bình thản. Khoảng cách giữa tác
giả và nhân vật khơng cịn lồng ghép như với truyện ngắn hay tiểu thuyết. Tản văn
như một lăng kính soi chiếu cuộc sống.
5 tác phẩm, khơng có tác phẩm nào tác giả đưa luận điểm bản thân vào
nhưng lại luôn khiến người đọc phải suy ngẫm bởi sự xây dựng những hình ảnh,
chi tiết, tình huống của mình. Cái tơi của Lưu Diệu Vân “độc” và “lạ”, cô không

6


thể hiện rõ nét cái tôi như các tác giả tản văn khác, nhưng chính sự lựa chọn chủ đề
đã khiến cơ thể hiện được cái tơi riêng mình.
Qua 5 tác phẩm tản văn ngắn có thể thấy qua được đôi nét về con người tác
giả. Lưu Diệu Vân là một người khá tinh ý trong việc quan sát cuộc sống, cô ghi lại
những điều nhỏ nhặt vào trang văn của mình. Những sự việc rất nhỏ, nhiều khi rất
vơ lý, nhạt nhòa nhưng lại khiến người đọc cứ mãi suy nghĩ, cứ đắn đo, khắc khoải
đuổi theo những gì mà cô đưa đến.
Cấu trúc của tản văn chủ yếu dựa trên mối tương liên giữa hình ảnh,
chi tiết và sự luận giải của cá nhân người cầm bút.

Tản văn về cơ bản là loại tác phẩm biểu lộ thế giới tinh thần của chủ thể.
Sáng tác tản văn đồng nghĩa với việc người viết tự biểu lộ sự chiêm nghiệm, những
suy nghĩ, luận giải của bản thân trước các vấn đề của đời sống. Người viết có thể
tái hiện và mơ tả , có thể hư cấu các nhân vật, các chi tiết, các tình huống… Cấu
trúc của tản văn không dựa trên sự tổ chức hệ thống nhân vật hay sự kiện mà chủ
yếu thiết lập mối liên hệ giữa các hình ảnh và sự luận giải hay giãi bày của tác giả.
Tản văn có “cấu trúc đặc thù mà hạt nhân là cấu tứ dựa trên một hệ thống hình ảnh,
chi tiết đầy gợi mở, hàm súc, có chiều sâu và có khả năng đem lại khối cảm thẩm
mỹ cho người đọc. Hệ thống hình ảnh, chi tiết này được nâng đỡ bằng lý lẽ trực
tiếp của chủ thể, có khi được kết hợp với những cứ liệu xác thực mang tính tư liệu
tạo nên tính khuynh hướng và sự thuyết phục trí tuệ cho tác phẩm.
Tản văn là sự chiêm nghiệm. Và với Lưu Diệu Vân cũng vậy. Cuộc sống qua
lăng kính của cơ như thể hiện những suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc sống của
mình Đọc 5 tác phẩm trên, người ta không bắt gặp những sự kiện rõ ràng, những
chi tiết, tình huống cụ thể mà bắt gặp những hình ảnh xoay quanh một trục duy
nhất mà tác giả muốn gửi gắm. Trong tản văn “Mỗi gia đình chỉ nên có một con”
hay “Chiếc gương tàn tật” là một trong những số ít các tác phẩm của cơ có cốt
truyện để người đọc có thể nắm bắt. Tuy nhiên cô chỉ tái hiện lại sự kiện và nhấn
7


mạnh vào những hình ảnh, chi tiết cơ cảm thấy cần thiết và từ đó làm bật lên được
nội dung mà mình muốn nhắn gửi. Tác phẩm “Chiếc gương tàn tật” cũng có nội
dung khá tương đồng với một tản văn nổi tiếng của tác giả Giả Bình Ao – “Hịn đá
xù xì”. Cả hai đều là sự chiêm nghiệm về giá trị của con người trong cuộc sống.
Chiếc gương nhưng lại “mù lịa” khơng có khả năng soi chiếu, một chiếc gương
tưởng chừng như sinh ra là thừa thãi trong xã hội này, bị người đời hắt hủi, xô đẩy.
Nhiều lần chiếc gương đã có ý định “quyên sinh” nhưng không thành. Lưu Diệu
Vân viết về chiếc gương – một vật vô tri vô giác, hay là đang viết về con người –
những người đang mất niềm tin về bản thân mình trong cuộc sống này, về cái xã

hội hay “nhìn mặt mà bắt hình dong”… Tác giả khơng đưa ra lập luận hay luận
điểm của bản thân mình mà chỉ tái hiện lại câu chuyện ngắn. Nhưng chính việc tái
hiện lại câu chuyện là mang theo sự chiêm nghiệm về cuộc sống của cô. Cho đến
phút cuối, chiếc gương đã tự nhận ra giá trị bản thân mình, dù đó là cơ hội cuối
cùng chiếc gương được sử dụng. Tác giả vẫn muốn đưa đến cho người đọc những
suy ngẫm về giá trị sống, về giá trị bản thân.
Tản văn “Mỗi gia đình chỉ nên có một con” thì lại là một dạng tản văn cảm
thời. Sống trong xã hội Việt Nam, còn nặng nề tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, nhà
văn đã đưa ra một câu chuyện ngắn, không xung đột, không nút thắt, Diệu Vân chỉ
tái hiện lại với một giọng điệu bình thản, thái độ dường như dửng dưng, khách
quan trước sự việc. Ấy vậy mà từng câu văn dứt khoát, ngắn gọn lại khiến người
đọc cứ đau đáu, ngẫm ngợi về sự việc xảy ra trong tác phẩm, ngẫm về cuộc sống
ngoài kia cũng xảy ra bao nhiêu chuyện tương tự. Tản văn của Lưu Diệu Vân bao
giờ cũng vậy, điều bất ngờ nhất luôn ở phút cuối cùng. Cái kết mới luôn khiến
người đọc phải sững sờ, phải suy ngẫm về những gì mình đã đọc.
Các chi tiết trong tản văn thường là những tín hiệu biểu lộ chủ thể nhà văn,
chúng chỉ có ý nghĩa trong chỉnh thể. Quan hệ giữa chúng thường là quan hệ liên
8


tưởng nhờ sự tưởng tượng phóng túng, bay bổng; từ đó tạo nên ý tưởng độc đáo
cho tác phẩm. Những hệ thống tín hiệu trong mơt tác phẩm tản văn bao giờ cũng
có một quy chế liên tưởng nhất định.Quy chế này tạo tính mạch lạc cho những hỗn
độn, thống nhất những dấu hiệu rời rạc trong một trường nghĩa, đẩy lên phía trước
một ý nghĩa có tính chất bao chùm tồn bộ tác phẩm.
Như đã nói ở trên, các tác phẩm của Lưu Diệu Vân rất hỗn độn, rời rạc
nhưng cuối cùng lại trở nên thống nhất, mạch lạc bởi đoạn kết ln là chìa khóa
xâu chuỗi tất cả những gì đã viết ở trên. Những tác phẩm tưởng chừng như chỉ lơ
lửng, nhẹ bẫng với người đọc nhưng khiến người ta ngẫm nghĩ. Rốt cuộc là mọi
điều trong các tác phẩm ấy đều có thể bắt gặp ngồi đời. Những hình ảnh, chi tiết

rất lạ, nhưng lại khiến người ta thấy quen và suy nghĩ. À, thì ra đã bắt gặp ở đâu đó
trong quá khứ những chi tiết ấy. Cái hay của Lưu Diệu Vân là từ những hình ảnh
quen thuộc, với giọng điệu bình thản, cơ chắp nối lại khiến người đọc như bước
vào một thế giới mê cung – vừa quen, vừa lạ. Rõ ràng là đã bắt gặp những hình ảnh
chi tiết ấy, nhưng cách tái hiện lạ của Diệu Vân khiến người đọc cứ mãi ấn tượng,
cứ mãi mông lung, mơ hồ bởi ẩn sâu mỗi tác phẩm là sự suy ngẫm của riêng mỗi
người. Diệu Vân để cho cá nhân mỗi người đọc là một người đồng sáng tạo, họ
sáng tạo theo sự trải nghiệm cuộc sống của riêng mình. Đó chính là điểm đặc biệt
của Lưu Diệu Vân.
Tản văn có cách thức biểu hiện tự do
Nhìn từ phương diện cách thức biểu hiện, tản văn là thể loại tương đối tự
do. Tản văn cho phép người viết có thể giải phóng tư tưởng một cách tận độ bằng
nhiều con đường, không bị hạn định trong một cái khung chật hẹp nào. Tính chất
tự do khiến cho tản văn có thể kết hợp nhiều kiểu loại chi tiết trong chỉnh thể của

9


nó. Có thể là những chi tiết phản ánh thơng tin có thực, có thể là những số liệu
chính xác; cũng có thể là những chi tiết hư cấu.
Quan sát cả 5 tản văn của Lưu Diệu Vân. người đọc thấy đó là sự kết hợp
giữa các thao tác tự sự, trữ tình, và chính luận. Tác giả Diệu Vân vừa tái hiện hiện
thực trong một chừng mực có thể, vừa là lời tự bạch của cái tôi chủ thể, vừa là lời
phát biểu trực tiếp những quan điểm triết luận, những lý lẽ sâu sắc của nhà văn về
thế giới và con người. Ở cả 5 tác phẩm đặc biệt là ở “Mỗi gia đình chỉ nên có một
đứa con” và “Chiếc gương tàn tật”, phương thức tự sự kết hợp chặt chẽ với việc
biểu lộ trực tiếp thế giới tâm hồn của nhà văn. Tính chất tự do trong cách thức biểu
hiện một mặt đem lại cho người viết nhiều cơ hội phá cách cho ngòi bút, tạo sự
cuốn hút cho thể loại, một mặt nó là thách thức đối với nhà văn bởi giá trị của một
tác phẩm khơng chỉ là ở thủ pháp. Điều đó đặc biệt được thể hiện rõ trong “Ra đi

vợ có dặn dò” và “Quyền hiến định”, cả hai đều đem đến một lối viết tự do, những
hình ảnh được tái hiện như chắp vá, rời rạc lại ghép thành một mảnh. Lối viết rất
lạ, người ta bắt gặp cái phi logic, những hình ảnh tưởng chừng chẳng có quan hệ
được đặt cạnh nhau. Và Diệu Vân luôn khiến người đọc phải bất ngờ với đoạn kết
của mình – đó là một điểm đặc biệt trong lối viết tản văn của tác giả khiến cô
không bao giờ bị lẫn vào với những nhà văn khác.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Trà My, “Tản văn hiện đại Việt Nam lí thuyết và lịch sử”, 2014, nxb
ĐHQGHN
2. 5 tác giả, “Màu cỏ xanh trong suốt”, 2013, nxb Trẻ
3. Blog của tác giả Lưu Diệu Vân: luudieuvan.net
Phụ lục: 5 tác phẩm tản văn của Lưu Diệu Vân
10


1. Đêm giáng sinh
Anh dựng cây thông xanh thơm mùi tuyết gần cửa sổ. Cô mắc lên nhánh lá
kim những xâu chng ảnh bạc lóng lánh. Cơ thắp lên một ngọn nến trắng. Anh bật
sáng ngọn lửa ấm trong lò sửa. Cô tỉ mỉ buộc ruy băng đỏ chung quanh chiếc hộp
vng. Anh loay hoay trưng bày những gói q sặc sỡ. Cô trút cởi áo quần, ôm
chiếc khăn bông vào nhà tắm. Anh để hơi nóng chảy tràn trong bồn nước. Cơ
chồng áo ngủ màu ngà có những đường viền đăng ten tím. Anh xỏ vội đơi bít tất
bằng len. Cô bỏ đĩa hát Jim Brickman vào máy phát nhạc. Anh tràn ngập tiếng
dương cầm trong tâm trí. Cơ nằm nghiên trên tấm thảm với cốc chocolate trước
mặt. Anh trầm tĩnh ngồi trên ghế sofa với ly rượu vang trong tay. Cô ôm chặt cuốn
sách vào lồng lực và nhắm mắt. Anh hôn lên đôi má thơm mùi sữa trẻ nhỏ.
Cô nhấc ống điện thoại. Anh nhẹ nhàng bấm số. Âm thanh dội lại những tín
hiệu bận bịu. Cơ thở dài gác máy. Anh tiếc nuối buông dây. Họ cùng thì thầm lời
chúc giáng sinh an lành cho nhau. Lúc ấy đồng hồ điểm đúng mười hai giờ.
Anh ở New York và cơ ở Melbourne.

2. Ra đi vợ có dặn dị…
Người đàn bà thì thầm:
-Anh phải gắng nhớ hết những lời em dặn dò. Số tiền tháng náy em gởi theo
cho anh tiêu vặt. Đừng khư khư cái tật dành dụm như ngày xưa. Cứ tiêu pha thoải
mái, chừng hết em lại gởi thêm cho. Nhân đây, em gởi thêm vài tờ báo cho anh đọc
những lúc nhàn rỗi. Cái điện thoại di động đời mới này là quà tết của em. Mong
anh sẽ thích. Cịn nữa, phải gắng nghỉ ngơi điều độ để giữ gìn sức khỏe đừng quá
vất vả nhé anh. À, con bé người ở hôm trước em mướn về có phụ giúp được việc
khơng? Em biết anh thui thủi một mình, khơng người chăm non săn sóc cơm nước,
11


khơng ai trị chuyện sớm hơm, mà em thì lại chưa thể sống hẳn bên cạnh anh. Em
cứ mãi sợ anh buồn. Nay em lại mướn thêm một đứa ở nữa cho nhà có thêm người
ra người vào. Giờ đã có hai đứa nó, trẻ đẹp, giỏi giang, lại khéo chiều chuộng thay
em lo lắng cho anh, em cũng yên lòng phần nào. Dào này chắc anh vui nhiều nên ít
về thăm em…
Người đàn bà ngồi trước ngọn lửa, vừa huyên thuyên nói, vừa liền tay đốt lia
lịa xấp tiền đô, điện thoại di động, chồng báo cũ, và một con hầu xinh đẹp mua từ
Phố Hàng Mã về.
3. Mỗi gia đình chỉ nên có một con
Ở một xứ sở xa xơi theo chế độ phụ hệ chưa có tên trên bản đồ thế giới, vì
đất chật người đơng nên chính phủ ban lệnh nghiêm ngặt: mỗi gia đình chỉ được
quyền có một đứa con và mỗi khi người vợ mang thai thì gia đình đó phải đăng ký
thời gian thụ thai và ngày tháng lâm bồn để tránh tình trạng các thai nhi gái bị giết
hại.
Hai vợ chồng kia mới cưới nhau được một tháng thì cơ vợ báo tin có thai.
Anh chồng vui mừng khơn xiết, gặp ai cũng khoe sắp có con. Rồi bụng cơ vợ dần
dần lớn, bắt đầu có những triệu chứng sinh gái. Cơ tiềm tàng một sức hút kì lạ đối
với những bé trai và hay thèm những loại thức ăn có vị chua.

Anh chồng thấp thỏm lo lắng bèn rước thầy bói về nhà, dựng giàn làm phép,
tính tốn âm dương chẵn lẻ để đốn giới tính thai nhi. Sau nửa ngày cùng kiến, trị
chuyện với thần linh, thầy bói phán chắc nịch: thai nhi là gái. Ánh mắt người
chồng vụt tắt niềm vui có con nối dịng.
Anh chồng dùng đủ mọi cách năn nỉ vợ phá thai, từ ngon ngọt dụ dỗ đến
hung hăng hăm dọa, cũng không thể thuyết phục được cô vợ đang hân hoan mong
12


ngóng ngày con chào đời. Đơi lần anh trói vợ vào cột nhà, bụt mũi, toan ép cô
uống thuốc phá thai nhưng lần nào cơ cũng vùng vẫy thốt khỏi bằng một sức
mạnh kì lạ và đạp đổ đi chén thuốc.
Đêm trở dạ sắp sinh, vật vã trong cơn đau và phía dưới khơng ngừng chảy
máu, cơ vợ ln miệng cầu cứu bác sỹ, bác sỹ. Dẫu biết tánh mạng của thai nhi
đang trong cơn nguy ngập, anh chồng nhất quyết không đưa vợ đến nhà hộ sanh.
Không thể để mất cơ hội cuối cùng này. Nhưng khi cô ngất đi vì mất máu quá
nhiều, anh chồng hoảng sợ đành phải đưa cô vào bệnh viện.
Sau ca giải phẫu khẩn cấp, bác sỹ kêu anh chồng lên nhận xác.
Một bé trai.
4. Quyền hiến định
Nàng cấm tuyệt những dòng nước mắt lăn sau khi đã nhẹ dãk để chúng hùng
hục chiếm đoạt trọn vẹn thân xác nàng một cách bẽ bàng. Nàng kháng cự chật vật.
Không, không thể cho phép sự dối lừa vĩ đại ấy tước đi cuộc sống mình. Nàng tự
nhủ nỗi đau cũng như một viên thuốc quá cỡ, đơi khi uống hai ba bận nước mà nó
vẫn nghẹn ngay ngõ hẹp, nhưng có giằng co vất vả thì cuối cùng nó cũng trơi
xuống đáy và tan chảy theo acid hủy diệt. Nàng muốn để mọi việc súc sắc theo căn
số, bắt viên thuốc gồng gánh trách nhiệm nó đã gây ra. Tim nàng nhói lên tê thấp
và thân thể run rẩy ngồi tầm kiểm sốt. Ai có thể tiếp quản nỗi đau nàng? Phải xử
sao khi trái tim với khối óc giáp chiến và chiến trường la liệt từng mảnh nàng quá
tang thương.

Nàng tìm câu trả lời trong những cuốn sách la liệt trên kệ. Cẩm Nang Sống
Sót Qua Cuộc Chia Tay Dành Cho Bạn Gái của Delphine Hirsh rút vội tấm khăn
giấy chùi nước mắt chực rơi cho nàng. Đừng gọi cho gã đó của Ronda Findling
13


chống nạnh răn đe nàng chớ mềm lịng. Khơng phải vấ đề của anh ta mà là của
bạn của Christie Hartman dịu dàng khuyên nàng hãy bình tâm suy nghĩ lại về cuộc
tình bảy năm. Đàn ơng xấu làm những điều đàn ông tốt mơ của Robert I. Simon
khẳng định nàng phải cắt đứt với người xảo trá phụ bạc kia. Vì sao đàn ơng khơng
lắng nghe và đàn bà khơng biết dị bản đồ của Barbara Pease nhãn nại giải thích sự
khác biệt nam nữ và nài nỉ nàng hãy thứ tha.
Cuối cùng, Quyền hiến định tự tử của G. Steve Neely được nàng chọn lên
giường với một cây bút nhọn.
5. Chiếc gương tàn tật
Có một chiếc gương bẩm sinh đã mù lịa. Nó chỉ có thể thu nhận tiếng động nhưng
không biết phản chiếu. Mọi người chế bai chế giễu nó là vật phế thải, đồ vơ dụng,
Gương mà khơng có đơi mắt tinh anh soi sáng thì chỉ tội làm nhục nhã thân phận
sang trọng của những chiếc gương kiêu kỳ khác. Họ thẳng tay quẳng nó vào sọt rác
không chút tiếc thương. Chiếc gương sống cuộc đời dầm mưa dãi nắng, lang thang
từ sọt rác này sang sọt rác khác và cuối cùng lạc vào một căn nhà hoang tối tăm ẩm
thấp. Tuy khơng cịn phải chịu đựng những âm thanh hằn học, cay độc từ thế giới
bên ngoài nhưng sau bao năm sống trong những lời nguyền rủa, chiếc gương dần
mất lòng tin vào sự tồn tại của chính mình, bắt đầu bị thuyết phục nó là vật tàn tật,
vơ tích sự. Nó nghĩ nhiều đến việc tìm cái chết nhưng có một động lực mơ hồ nào
đó ln ngăn cản kịp thời quyết định quyên sinh.
Vào một đêm mưa trút nước, gió quật mạnh liên hồi làm tung cả những cọng
rơm ướt sũng bên ngoài, chiếc gương bị đánh thức bởi tiếng la thét vật vã của một
bà mẹ trong cơn trở dạ. Âm thanh mỗi lúc một sâu cắt, oằn oại, và cuối cùng là
tiếng kêu trời thảm khốc lần trong tiếng khóc ai ốn, con tơi sao thế này, con tơi

sao tím bầm lạnh ngắt thế kia, con ơi, con ơi. Trong giây phút hoang mang tột độ
14


đó chiếc gương bỗng nhận biết mình phải làm gì. Nó ngã xuống và vứt làm hai
mảnh. Khn mặt người đàn bà ánh lên một tia hy vọng.
Khi một nửa thân thể nó nằm gọn trong bàn tay run rẩy đẩm mẫu của bà mẹ
đang gắng sức cắt đứt dây rốn siết chặt vòng cổ non nớt của đứa bé, chiếc gương
chợt hiểu nó khơng phải là một vật tàn phế.

15



×