MỤC LỤC
1
1
Theo số liệu thống kê của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFP), dân số thế giới đã lên
đến 7,8 tỷ người (năm 2020). Mỗi ngày có hơn 70 000 nữ thanh thiếu niên kết hôn vào
khoảng 40 000 phụ nữ sinh con. Ở Việt Nam theo số liệu thống kê năm 2020, dân số Việt
Nam đã lên tới 97,58 triệu người, tăng 1,14% so với năm 2019. Trong đó, phụ nữ chiếm
50,2% dân số. Tuy nhiên, sự mất bình đẳng nam – nữ trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng trong nhiều lĩnh vực vẫn đang là một vấn đề đáng lo ngại.
Ở nước ta hiện nay, tuy đã bước vào một thời đại mới, bước vào một kỷ nguyên mới,
nhưng hiện tượng phụ nữ bị đánh đập, bị lạm dụng… vẫn đang diễn ra khá phổ biến. Vấn đề
bất bình đẳng giới cũng như vấn đề giải phóng phụ nữ được nhà nước ta, các ban ngành và
tồn xã hội quan tâm sâu sắc.
Đây khơng phải là một vấn đề cịn mới mẻ, nhưng cũng khơng phải là vấn đề cũ kỹ và
có lẽ sẽ khơng bao giờ là một vấn đề bị coi là “lỗi thời”. Khi chọn đề tài này chúng em muốn
đi sâu vào nghiên cứu tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, và xin đưa ra một số
giải pháp nhằm hạn chế tình trạng này.
2
2
I. Một số khái niệm
1. Giới
Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ vọng liên
quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trị quyết định đến cơ hội cuộc
sống của con người, xác định vai trò của họ trong xã hội và trong nền kinh tế. Giới chỉ khác
biệt về xã hội và quan hệ về quyền lực giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa phụ nữ và nam giới
được hình thành và khác nhau ngay trong một nền văn hóa, giữa các nền văn hóa và thay đổi
theo thời gian.
2. Bất bình đẳng
Bất bình đẳng là sự khơng bình đẳng, sự không bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích
đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội.
3. Bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ hội bất
lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người đóng góp và hướng thụ từ sự phát triển
của gia đình của đất nước.
II. Vấn đề bất bình đẳng giới thời xưa
Bất bình đẳng giới ở nước ta đã xuất hiện từ rất xa xưa ngay từ khi
lịch sử Việt Nam bắt đầu. Khi mới khai hoang lập quốc, nhân dân ta đã từng
thuộc chế độ “ mẫu hệ”. Đó là thời kỳ mà người phụ nữ được coi trọng hơn
rất nhiều người đàn ông, trong thời kỳ mẫu hệ , người mẹ hay nữ giới nói
chung nắm quyền cai quản gia đình, xã hội cịn nam giới “khơng có quyền,
khơng có trách nhiệm”. Ngun nhân là do , khi con người cịn hoang sơ,
chức năng chính của người phụ nữ là sinh con đẻ cái, hái lượm và ni sống
gia đình, điều này dẫn đến quyền lợi thuộc về chị em và vai trị người đàn
ơng mờ nhạt hơn. Điển hình ở nước ta có thể thấy vào cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng vào những năm 40TCN với hai nữ tướng lãnh đạo tài ba và tất cả
các qn lính lúc đó đều là nữ giới xơng pha ra chiến trường. Việc này có thể
thấy vai trị của người phụ nữ lớn mạnh như thế nào trong thời kỳ này.
Nhưng sau khi chuyển từ đời sống hái lượm săn bắt sang định canh định cư với nông
nghiệp làm chủ đạo, vai trị người đàn ơng dần lớn lên. Dẫn đến hiện tượng “ trọng nam khinh
nữ”- một tư tưởng đáng sợ trong lịch sử 3000 năm dân tộc Việt Nam ta. Điển hình như trong
hơn 1000 năm thời kỳ phong kiến ở nước ta, tiếng nói của người phụ nữ cực kỳ thấp, hầu như
là khơng có.
Vấn đề bất bình đẳng giới đã xuất hiện từ rất lâu ở Việt Nam, mà biểu hiện rõ nhất là
tư tưởng “trọng nam khinh nữ”.
Người phụ nữ Việt Nam xưa luôn là tấm gương sáng về lòng vị tha, đức hy sinh cao
cả nhưng về quyền lợi người phụ nữ phong kiến lại chịu những thiệt thòi mất mát quá lớn.
3
3
1. Quan điểm của người xưa về phụ nữ
Việt Nam là nước bị ảnh hưởng mạnh bởi tư tưởng phong kiến và Nho giáo. Nó
ăn sâu bén rễ vào đời sống nhiều thế hệ. Có câu “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” với ý
nghĩa là "một con trai thì là có nhưng mười con gái vẫn là khơng có", thể hiện cách đánh giá
con là nam hay nữ trong Nho giáo. Theo đó, các gia đình hay dịng họ từ xưa (và thậm chí cả
ngày nay) vẫn có tư tưởng coi trọng việc sinh con trai. Tư tưởng trọng nam khinh nữ, bắt buộc
phải sinh được con trai để nối dõi tông đường gây áp lực nặng nề cho những người phụ nữ
trong xã hội phong kiến. Không hiếm gia đình có tư tưởng chỉ đầu tư, vun vén cho con trai mà
thờ ơ, lạnh nhạt với con gái. Nếu khơng có con cháu trai nối dõi vẫn bị xem là tuyệt tự và khi
bố mẹ hoặc ông bà chết đi sẽ khơng có người và nơi thờ cúng.
Lớn lên, đến tuổi đi học, người con gái không được đến trường, không được đi
thi bởi theo quy định của Nhà nước phong kiến về thi cử: chỉ có nam giới mới được học hành,
thi cử, ra làm quan, chỉ có nam giới mới làm chủ lễ cúng bái ở đình làng, cúng lễ gia tiên. Đến
tuổi trưởng thành, đời sống người phụ nữ càng bị ràng buộc chặt chẽ của lễ giáo phong kiến
với những trói buộc, theo chuẩn mực “Tam tòng”, “tứ đức”.
2. Người phụ nữ xưa phải chịu nỗi khổ bởi “ đạo Tam tòng”
Ðiều bất bình đẳng của người phụ nữ xưa chính là việc họ bị "gạt" ra khỏi cuộc
sống thênh thang của xã hội và "dồn" vào khuôn khổ chật hẹp của đời sống gia đình. Xã hội
phong kiến, dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo đã thể chế hóa điều này bằng
"đạo Tam tịng": Tại gia tịng phụ; Xuất giá tòng phu; Phu tử tòng tử. (Ở nhà theo cha; lấy
chồng theo chồng; chồng chết theo con trai).
“Tại gia tịng phụ”: Người cha có quyền uy tuyệt đối trong gia đình. Người con gái
phải nghe theo cha, phục tùng mệnh lệnh của cha mẹ mà ít có những chính kiến cá nhân.
4
4
Trong giai đoạn tòng phụ, người con gái được học đủ thứ. Học nhiều nhưng không
phải để tiến thân bằng con đường khoa cử, mà học để chuẩn bị lấy chồng. “ Cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy”. Vì thế, người con gái khơng có quyền quyết định hạnh phúc của chính bản
thân mình. Tục tảo hơn trong xã hội phong kiến xưa sớm dồn ép người con gái phải nhận cái
thiên chức làm mẹ sát với lẽ tự nhiên nhất. Gái thập tam, nam thập lục - người con gái 13 tuổi,
trai 16 tuổi là đến độ dựng vợ gả chồng. Vì vậy khi cịn tại gia, người cha, người mẹ thường
dạy con gái ăn ở làm sao cho tử tế, cho được tiếng gái lành. Tứ đức đặc biệt được chú trọng
đưa vào giáo dục con gái trong giai đoạn này. Với tứ đức, bao giờ người con gái cũng phải thu
mình với cơng, dung, ngơn, hạnh, ln ln phải giữ gìn tiết hạnh làm câu sửa mình.
“Xuất giá tòng phu”: Rời nhà cha mẹ đẻ, phụ nữ bước vào cuộc đời xuất giá
tòng phu. Đến khi lấy chồng, người phụ nữ bị mất tên gọi (người ta gọi người vợ theo tên của
chồng). Nếu lấy chồng mà khơng sinh con hay có ác tật là hai trong bảy tội (thất xuất) bị đuổi
khỏi nhà chồng. Còn đàn ông lấy vợ mà không sinh được con trai thì bị coi là “đại bất hiếu”.
Những người phụ nữ không sinh được con trai đôi khi phải ngậm ngùi cho chồng “nạp thiếp”
(lấy vợ lẽ) hoặc chủ động lấy vợ lẽ cho chồng để rồi âm thầm chịu cảnh “kẻ đắp chăn bông,
kẻ lạnh lùng” Bên cạnh trách nhiệm người vợ, người phụ nữ còn làm thêm nghĩa vụ của
người con trong gia đình mới. Thử thách đầu tiên người phụ nữ phải vượt qua là cáng đáng
những công việc ngổn ngang phức tạp của gia đình nhà chồng. Có thể nói, cơ con dâu mới
phải qn xuyến hầu hết những công việc, vừa tham gia lao động sản xuất dưới con mắt dò
xét của nhà chồng. Ðiều này tạo cho phụ nữ xưa có rất nhiều ý chí và nghị lực. Song thực tế
phũ phàng hơn lại đẩy họ tới cảnh "cam chịu".
“Phu tử tòng tử” : Người phụ nữ xưa bị tước mất quyền thừa kế tài sản, tất cả
tài sản đều thuộc sở hữu của người con trai, từ đó người phụ nữ bị rơi cảnh phụ thuộc, nương
nhờ vào con trai để sống.
Không những thế quan niệm tịng tử cịn trói buộc hạnh phúc của nhiều người
phụ nữ. Trong khi "trai năm thê bảy thiếp" thì "gái chính chun chỉ có một chồng". Ðơi khi
sức sống, niềm khát khao của họ bị cái "chính chuyên" kiềm tỏa mà khơng thể thốt ra được.
Tái giá được xem là "phản bội", vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội. Người tái giá đa số cũng
chỉ làm tôi thiếp, bị thiệt thịi, hiếm có được ý nghĩa thật sự của hai từ hạnh phúc.
3. Người phụ nữ xưa phải sống trong những hủ tục, tư tưởng lạc hậu
Người phụ nữ xưa nếu phạm phải 1 trong 4 tội trạng sau sẽ bị làng phạt vạ là tội bỏ
con, tội "ăn non đòng đòng" (chửa hoang), tội bỏ chồng và tội thơng gian. Người chịu tội sẽ bị
trói chặt tay chân, bỏ vào chiếc rọ nhốt heo, quăng xuống sông và không cho phép ai bơi ra
cứu vớt, nếu không sẽ xử chung tội. Thả bè trôi sông hay cạo đầu bơi vơi cũng là một trong
những hình thức khác nhau để xử những tội trạng trên.
5
5
Mặc dù thời nào thì việc ngoại tình cũng là sai, thế nhưng những hình phạt tàn khốc
như cạo đầu bôi vôi, thả cho trôi sông quả thực đã trở thành nỗi ám ảnh cũng như biểu tượng
của sự trọng nam khinh nữ bởi lẽ người phải chịu những hình phạt này đa phần là phụ nữ.
Cịn người đàn ơng thông gian, vượt quá giới hạn cùng người phụ nữ đó được cho là bị dụ dỗ
mà thơi.
Đây mới chỉ là một trong nhiều những hủ tục lạc hậu mà người phụ nữ xưa phải chịu
đựng
Có thể thấy, bất bình đẳng xưa đã tồn tại lâu đời, người phụ nữ phải cam chịu, nhẫn
nhục trong khi người đàn ông lại được xem trọng, có quyền định đoạt cuộc sống của người
phụ nữ.
III. Vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhiều bước đột phá về
nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều
thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia
xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng hơn 20 năm qua. Điểm nổi bật trong việc bảo
đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hồn thiện khung luật pháp, chính sách về bình
đẳng giới. Ngay từ năm 1946, trong Hiến pháp đầu tiên của chế độ mới, mục tiêu bình đẳng
giới đã được ghi nhận. Tiếp đó, trong các lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, việc bảo đảm bình
đẳng giới đều được quy định rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 quy định “cơng dân nam, nữ bình
đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và
“nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Bên cạnh đó, Luật Bình đẳng giới (năm 2006), Luật
Phịng, chống bạo lực gia đình (năm 2007) được triển khai thực hiện. Nhiều bộ luật khác có
liên quan mật thiết đến quyền lợi của nam giới và nữ giới như Luật Phòng, chống mua bán
người (năm 2012), Bộ luật Lao động (năm 2012), Luật Việc làm (năm 2013) … đều được
lồng ghép vấn đề giới. Bên cạnh đó, có nhiều Nghị định và văn bản dưới luật được ban hành
để cụ thể hóa các nội dung của Luật Bình đẳng giới và Luật Phịng, chống bạo lực gia đình.
Cùng với việc hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, bộ máy quốc gia về bình
đẳng giới cũng được củng cố. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao nhiệm vụ là
cơ quan chủ trì giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên
6
6
phạm vi toàn quốc. Để thực hiện chức năng này, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thành
lập Vụ Bình đẳng giới. Các bộ, ngành khác phân cơng đầu mối tham mưu công tác quản lý
nhà nước về bình đẳng giới. Ở địa phương, các tỉnh, thành phố đã thành lập phịng bình đẳng
giới hoặc bố trí 1 cán bộ đầu mối làm cơng tác bình đẳng giới. Đối với cấp huyện và cấp xã,
hầu hết cán bộ phòng lao động - thương binh và xã hội và cán bộ văn hóa xã hội được phân
cơng làm kiêm nhiệm cơng tác này. Ngồi ra, Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam - một tổ chức phối hợp liên ngành thành lập từ năm 1993, vẫn tiếp tục được kiện toàn và
nâng cao chất lượng, gồm các thành viên là đại diện của nhiều bộ, ngành và cơ quan Trung
ương, giúp phối hợp hoạt động có hiệu quả từ các ban, ngành vì mục tiêu bình đẳng giới.
Có thể nói, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới đạt được nhiều thành tựu lớn. Hệ thống
chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ngày càng hồn thiện. Cấp ủy, chính quyền các cấp có
chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động về thực hiện bình đẳng giới. Quyền bình
đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, bảo vệ sức khỏe, đời sống gia đình… được thực
hiện đầy đủ hơn.
Tuy nhiên, khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống.
Trước hết là sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị cịn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ
sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm cơng tác quản lý, lãnh đạo cịn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo
nói chung và so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ. Định kiến giới truyền thống về vai
trò của phụ nữ, gắn phụ nữ với công việc chăm sóc gia đình và nam giới với việc kiếm tiền
giúp gia đình vẫn cịn tồn tại. Chính sách, cơ chế công tác cán bộ nữ chưa triển khai đồng bộ,
thiếu một lộ trình tạo nguồn cán bộ cụ thể.
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao và các
nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ tiêu đặt ra ở Chiến lược quốc
gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo… vẫn chưa đạt được. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ
thuật đạt 11,8% năm 2013, bằng gần một nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tỷ lệ phụ nữ
tham gia vào các công việc dễ bị tổn thương cao hơn nam giới; phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn
trong khu vực phi chính thức của thị trường lao động. Họ kiếm được ít thu nhập hơn và ít
được pháp luật về lao động bảo vệ và ít được tiếp cận trực tiếp với sự bảo trợ xã hội.
Về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ
nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ suất tử vong mẹ còn cao so với một
số nước trong khu vực. Định kiến giới, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn khá phổ biến.
Phụ nữ vẫn được coi là người đảm nhận chính cơng việc chăm sóc gia đình, nam giới vẫn
được kỳ vọng trở thành người thành đạt, bảo đảm kinh tế cho gia đình. Mặc dù phụ nữ tham
gia ngày càng nhiều hơn vào các quyết định trong gia đình, song nam giới vẫn là người ra các
quyết định chính. Điều này đang tạo ra những rào cản đối với sự lựa chọn các cơ hội phát
triển của cả nam và nữ. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng. Nhận
thức về pháp luật của cán bộ và người dân về phòng, chống bạo lực gia đình cịn hạn chế. Tại
khơng ít địa phương, các cấp chính quyền, cộng đồng coi bạo lực gia đình là chuyện riêng tư
của mỗi gia đình. Chế tài thực hiện Luật Phịng, chống bạo lực gia đình chưa mạnh, chưa xử
lý nghiêm các hành vi bạo lực gia đình.
7
7
Về mặt luật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể chế hóa quy định của pháp luật liên
quan đến bình đẳng giới chậm được ban hành. Việc triển khai quy định lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đạt kết quả
chưa cao.
Nhìn chung, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
có tiến bộ vượt bậc so với trước. Phụ nữ và nam giới có sự bình đẳng về thực chất trên các
lĩnh vực cuộc sống, tuy nhiên, việc thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ cịn nhiều hạn
chế.
1. Thực trạng bất bình đẳng giới
Ở Việt Nam, bên cạnh các thành tựu đạt được về bình đẳng giới, chúng ta vẫn phải
thừa nhận một thực tế là tình trạng bất bình đẳng giới cịn diễn ra trên một số lĩnh vực, tồn tại
dưới một số hình thức khác nhau.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, bất bình đẳng giới còn thể hiện trên một số lĩnh vực xã
hội quan trọng, phụ nữ vẫn chịu nhiều gánh nặng công việc, thu nhập, phân biệt đối xử...
2.
Bất bình đẳng giới về cơ cấu quản lý, tổ chức
Một trong những vấn đề bất bình đẳng giới là sự tham gia của phụ nữ trong cơ cấu tổ
chức, quản lý xã hội còn hạn chế, đặc biệt ở cấp cơ sở.
Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo cịn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh
đạo nói chung, so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ nói riêng. Mặc dù tỷ lệ này tăng
nhẹ qua các năm song chưa đồng đều, chưa ổn định, vẫn ở mức thấp so với mục tiêu đặt ra.
3.
Bất bình đẳng giới về kinh tế.
Ở một số nơi vấn đề chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ cùng một vị trí cơng việc
vẫn diễn ra, cơ hội để phụ nữ tiếp cận những việc làm có thu nhập cao vẫn thấp hơn so với
nam giới, lao động nữ chưa được đánh giá cao như lao động nam, là đối tượng dễ bị rủi ro và
tổn thương hơn khi doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm nhân lực…
Khi tiếp nhận một lao động nữ trẻ thì các chủ doanh nghiệp thường e ngại về thời gian
6 tháng nghỉ thai sản. Nhiều doanh nghiệp buộc lao động nữ ký thêm một phụ lục trong hợp
đồng lao động là không được mang thai trong thời gian 2 năm đầu làm việc.
=> Từ đó dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp thích tuyển lao động nam dù khả năng làm
việc của họ thua kém nữ giới.
4.
Bất bình đẳng giới về thu nhập
Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội)
năm 2017, mức lương bình quân hằng tháng của lao động nữ khoảng 4,58 triệu đồng, thấp
hơn so với lao động nam (5,19 triệu đồng). Lý do chính là vì phụ nữ phải chăm sóc con, đảm
đang việc gia đình nên ngày công không cao bằng nam giới.
8
8
5.
Bất bình đẳng giới về dân số - kế hoạch hóa gia đình
Vai trị của nam giới tham gia KHHGĐ còn hạn chế, phụ nữ được coi là người phải
chịu trách nhiệm thực hiện KHHGĐ.
Thực tế, mang thai khi nào và sinh bao nhiêu con lại thường do người chồng hoặc gia
đình chồng quyết định, có hay khơng sử dụng biện pháp tránh thai để giãn khoảng cách sinh
hoặc không sinh con cũng thường do người chồng, gia đình chồng quyết định.
6.
Tình trạng phân biệt đối xử giữa bé trai và bé gái
Theo số liệu của Bộ Y tế, nếu như năm 2015 tỷ số giới tính khi sinh tại nước ta là
112,8 bé trai trên 100 bé gái thì đếm năm 2016, tỷ lệ này đã tới 113,4/100.
Nếu tỷ số giới tính tiếp tục gia tăng và ngày càng lan rộng như hiện nay thì vấn đề về
mất cân bằng giới của Việt Nam trong 20-25 năm sau là hết sức nghiêm trọng.
IV. NGUYÊN NHÂN GÂY RA BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.
Nguyên nhân khách quan
Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo với nhiều phong tục, tập quán tạo nên
khát vọng phải có con trai và tư tưởng “trọng nam khinh nữ” dường như đã ăn sâu vào trong
suy nghĩ và tư tưởng của người Việt.
Phụ nữ Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn đảm nhiệm các công việc chính trong gia đình.
Theo một số nghiên cứu chỉ ra rằng thời gian lao động của phụ nữ thường cao hơn đàn ông từ
3-4h mỗi ngày. Khoảng thời gian này chính là dành cho cơng việc nội trợ khơng tên và khơng
được trả cơng. Về phía nam giới thì vẫn thường có suy nghĩ rằng việc gia đình là mặc nhiên
dành cho phụ nữ. Thực tế cho thấy rằng ngay từ khi cịn bé, trong các gia đình Việt, việc phân
công công việc trong nhà như quét nhà, nấu cơm, … đó là việc của con gái. Qua đó ta có thể
thấy ngay từ khi cịn nhỏ, các bé gái đã dần hình thành suy nghĩ là con gái thì phải biết chăm
sóc, phục vụ, lo toan mọi việc trong gia đình.
Hơn nữa, từ xưa đến nay, người ta vẫn quan niệm rằng hạnh phúc của người phụ nữa
là được hi sinh cho chồng, cho con. Nhiều khi quan niệm này còn khắt khe đến mức nếu ai
thành đạt trong những cơng việc xã hội mà khơng có nhiều thời gian cho việc gia đình thì bị
coi là chưa đủ đức hạnh. Thời xưa, đã hình thành rất nhiều quan niệm khắt khe với người phụ
nữ như là: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” hay “công dung ngôn hạnh”,
…
2.
Nguyên nhân chủ quan
Một nguyên nhân sâu xa nữa xuất phát từ chính những suy nghĩ và quan niệm của bản
thân người phụ nữ.
Họ vẫn thường quan niệm rằng việc ra ngoài kiếm tiền hay đảm nhận những công việc
của xã hội là việc của đàn ông, họ chỉ cần chăm lo và giữ lửa trong gia đình cịn các vấn đề
thế sự hay lao động chính là trách nhiệm của nam giới. Vì thế mà cũng dần hình thành suy
9
9
nghĩ phụ thuộc, họ không mưu cầu cơ hội được khẳng định mình, giải phóng bản thân khỏi
những ràng buộc từ trước đến nay, thậm chí là khơng tin tưởng vào năng lực của bản thân. Để
rồi từ đó hình thành những suy nghĩ tiêu cực hay lo sợ nếu như làm trái lại những quan niệm
từ xưa đến nay.
V. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
1. Trên lĩnh vực giáo dục
Tiếp tục hoàn thiện, đẩy mạnh thực hiện các quy định của pháp luật, các chương trình
hành động quốc gia về bình đẳng giới trong lĩnh vực GDĐT. Chẳng hạn, tại khoản 4 Điều 14
của Luật BĐG có quy định về hỗ trợ cho nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào
tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi, nhưng nội dung này vẫn chưa có hướng dẫn
cụ thể để có thể triển khai trong thực tế. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể để có thể triển khai
nội dung này.
- Thực hiện lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chương
trình, kế hoạch hoạt động của ngành Giáo dục, trong xây dựng và tổ chức thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục của các địa phương. Tăng cường kiểm tra, đánh
giá tình hình thực hiện các chính sách bù đắp thích hợp dành riêng cho phụ nữ theo từng
nhóm như nhóm nữ cán bộ, cơng chức, viên chức, nhóm phụ nữ nơng thơn, nhóm lao động nữ
(nhất là lao động trong khu cơng nghiệp, khu chế xuất, lao động ngồi nhà nước) …
- Rà soát, đánh giá thực trạng và nhu cầu đến trường của trẻ em gái và trẻ em trai ở
một số địa phương trọng điểm. Rà soát tình trạng bỏ học của học sinh phổ thơng, chú trọng trẻ
em gái vùng dân tộc, trẻ em gái có hoàn cảnh đặc biệt dễ bị tổn thương. Đặc biệt, quan tâm
việc triển khai các chương trình hỗ trợ học sinh nữ trong giai đoạn chuyển tiếp từ tiểu học đến
trung học cơ sở; từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông, học nghề, trung cấp chuyên
nghiệp hoặc đại học.
2. Trên lĩnh vực truyền thông
Loại bỏ những ấn phẩm mang tư tưởng cổ xúy cho việc “trọng nam khinh nữ”, phát
hành những tư liệu kêu gọi sự bình đẳng giới trong gia đình và xã hội.
Phê phán những hiện tượng gây bất bình đẳng giới như bạo lực gia đình, nạn bn bán
phụ nữ, … trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như nêu ra các hình phạt thích đáng
cho những hành động trên.
Tun truyền phổ biến kiến thực rộng rãi về bình đẳng giới, đặc biệt là tới các vùng
nông thôn hay vùng sâu vùng xa, các dân tộc ít người, để qua đó nâng cao nhận thức của phụ
nữ về vai trò, quyền lợi, vị trí của mình trong xã hội.
10
10
3. Trên lĩnh vực chính trị - kinh tế - pháp luật
Cải cách các thể chế để xác lập quyền hạn và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ và nam giới
như: Đảm bảo sự bình đẳng về các quyền cơ bản; hạn chế các động cơ gây ra sự bất bình đẳng
giới như mức lương, hiệu suất làm việc hay chế độ đãi ngộ, … giữa nam và nữ.
Phát triển kinh tế, mở rộng cơ hội và nguồn lực, nới lỏng các rang buộc nhất là đối với
phụ nữ và trẻ em gái. Vì việc phát triển kinh tế sẽ làm tăng thu nhập, mở rộng cơ hội việc làm
và giảm đói nghèo dẫn đến giảm sự bất bình đẳng trong giới, khuyến khích các gia đình tăng
đầu tư cho phụ nữ và bé gái trong lĩnh vực giáo dục và y tế để tham gia lực lượng lao động.
Việc phát triển kinh tế đi kèm với việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ,
… điều này giúp giảm bớt gánh nặng chăm sóc gia đình cho người phụ nữ.
Thực hiện những chính sách và giải pháp tích cực khắc phục sự phân biệt giới dai
dẳng nhằm địi thêm nguồn lực và tiếng nói chính trị như: tăng cường tiếng nói và sự tham gia
hoạt động chính trị của phụ nữ; cung cấp bảo trợ xã hội phù hợp về giới; tiếp cận công bằng
và như nhau đến các nguồn lực sản xuất, giáo dục, tài chính, đất đai và cơ hội việc làm, …
11
11
KẾT LUẬN
Vấn đề bất bình đẳng giới là vấn đề không chỉ riêng của một bộ phận, hay một thế hệ
nào mà nó đang là một vấn đề của tồn xã hội Việt Nam cho nên giải quyết được vấn đề bình
đẳng là mục tiêu hang đầu của Đảng và Nhà nước ta là mục tiêu hang đầu. Bình đẳng giới là
một trong những mục tiêu đã khẳng định trong các văn bản, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
trong Hiến pháp và đã được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật, tạo cơ sở pháp lý, tạo
điều kiện và cơ hội trao quyền bình đẳng cho cả nam và nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Qua phân tích ta thấy, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có nhiều
bước phát triển trong vấn đề bình đẳng giới trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhìn chung vấn đề
bất bình đẳng giới ở thế giới mà đặc biệt là ở Việt Nam vẫn cịn tiếp diễn. Mọi người cần có
một cái nhìn đúng đắn về quyền bình đẳng và bảo vệ quyền đó của phụ nữ, xã hội cần chung
tay xóa bớt khoảng cách bất bình đẳng giới vì một xã hội Việt Nam phát triển hơn. Giải quyết
được vấn đề bất bình đẳng cũng đồng nghĩa với việc làm cho đất nước phát triển hơn.
Trong q trình trình bày, do cịn hạn chế về kiến thức khiến cho bài viết còn mang
tính chất sơ lược chúng em mong được nhận nhiều ý kiến đóng góp từ thầy và các bạn để bài
thảo luận sẽ được hoàn chỉnh hơn.
12
12
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM
STT
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
13
HỌ VÀ TÊN
Đỗ Thị Mai Linh
Hồng Thị Mỹ Linh
Phạm Huệ Linh
Trần Ái Linh
Đỗ Hoàng Long
Hoàng Minh Long
Phan Hiền Lương
Hồ Thị Hương Ly
Phạm Thị Hương Ly
Nguyễn Ngọc Mai
CƠNG VIỆC
XẾP LOẠI
Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Làm word (Nhóm trưởng)
Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Thuyết trình
Tìm tài liệu
13
CHỮ KÝ