NHÌN LẠI MỘT NĂM THỰC HIỆN QUYẾT TÂM XÂY DỰNG
CHÍNH PHỦ KIẾN TẠO, LIÊM CHÍNH, HÀNH ĐỘNG
PGS. TS. Vũ Cương
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
ThS.NCS. Nguyễn Tuấn Anh
Thanh tra Chính phủ
Tóm tắt
Ngay từ Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020, cải cách thể
chế đã được xác định là một trong ba mũi đột phá chiến lược nhằm thực hiện thành
công nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mơ hình tăng trưởng. Cải cách thể chế
bao hàm nhiều nội dung, nhưng trọng tâm vẫn là đổi mới hoạt động quản lý, điều hành
của bộ máy Nhà nước. Nhiệm kỳ Chính phủ mới đã xác định xây dựng Chính phủ kiến
tạo, phục vụ, liêm chính và hành động là cam kết hành động để tạo sự chuyển biến thực
sự về thể chế. Thực tế, năm 2016 đã đánh dấu những thành công bước đầu của Chính
phủ trong nỗ lực này, và đã nhận được nhiều dấu hiệu phản hồi tích cực từ dư luận
trong và ngoài nước.
Bài viết xác định nội hàm của Nhà nước kiến tạo; đánh giá những hành động cụ
thể của Chính phủ trong năm 2016 và những kết quả ban đầu của việc cải cách thể chế
theo hướng xây dựng Nhà nước kiến tạo ở Việt Nam; và xác định những nhiệm vụ cần
tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo để tiếp tục duy trì động lực của đổi mới.
Từ khóa: Nhà nước kiến tạo, phục vụ, liêm chính, hành động; thể chế
1. Nội hàm của Nhà nƣớc phục vụ, hiệu quả và kiến tạo
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng C. Johnson là người đầu tiên sử dụng
thuật ngữ Nhà nước kiến tạo phát triển vào năm 1982, khi ông nghiên cứu về sự
phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Theo Johnson (1999), Nhà nước kiến tạo phát
triển là một mơ hình quản lý trong đó Nhà nước khơng đứng ngồi thị trường
và cũng khơng làm thay thị trường, mà chỉ can thiệp chủ động vào thị trường để
thúc đẩy phát triển và đạt các mục tiêu phát triển đã đề ra. Cách hiểu này khá
tương đồng với quan điểm về vai trò của Nhà nước mà nhiều nghiên cứu khác
về thể chế và quản trị cơng đã chỉ ra. Chẳng hạn, từ góc độ kinh tế học thể chế,
D.
cemoglu và J. Robinson (2012) cho rằng chỉ có thể chế dung hợp
(inclusive institution) mới có thể mang lại sự thịnh vượng và phúc lợi cho đông
193
đảo quần chúng nhân dân. Trong đó, thể chế dung hợp có đặc điểm là thu hút sự
tham gia của mọi chủ thể trong xã hội, thúc đẩy sự sáng tạo, củng cố niềm tin, và
qua đó tạo dựng một môi trường đầu tư và kinh doanh lành mạnh để thúc đẩy
tăng trưởng. D. North (1990) cũng kết luận: Thể chế dân chủ đóng vai trị quan
trọng trong việc duy trì một chính quyền tốt, hạn chế tham nhũng; những nước
có thể chế chính trị dân chủ và quyền tự do dân sự sẽ có lợi cho phát triển kinh
tế; và những thành quả kinh tế đạt được to lớn hơn là do có mơi trường kinh tế tự
do hơn. Trong thể chế dân chủ, Nhà nước phục vụ hiệu quả đóng vai trị trung
tâm để kiến thiết và duy trì các thể chế chính thức, tức là chính sách, pháp luật,
cơ chế và phương thức tương tác giữa các chủ thể trong xã hội.
Từ góc độ quản trị cơng, cuối những năm 50 của thế kỷ trước đã chứng
kiến một làn sóng chuyển đổi mơ hình quản lý Nhà nước từ mơ hình thư lại
(bureaucracy) sang mơ hình Quản lý công mới (New Public Management) với
đặc trưng là áp dụng các nguyên tắc quản lý mang tính thị trường để tạo động lực
cải thiện kết quả trong khu vực cơng. Trong Nhà nước điều hành bằng mệnh lệnh
hành chính của mơ hình thư lại, Nhà nước sẽ xác lập cho mình vị thế “bề trên”,
coi các chủ thể khác là đối tượng bị quản lý. Hệ quả của tư duy đó là Nhà nước
nhấn mạnh đến các cơng cụ kiểm tra, giám sát và trừng phạt. Trái lại, khi Nhà
nước chuyển sang “phục vụ” trong mơ hình quản lý cơng mới, Nhà nước sẽ có
vị thế bình đẳng, với chức năng chính là đồng hành với các chủ thể khác trong
quá trình sáng tạo và gia tăng giá trị cho xã hội.
Báo cáo Phát triển Thế giới năm 1997 của Ngân hàng Thế giới (1997) cũng
đã chỉ rõ, để có một Nhà nước hiệu quả cần thực hiện một chiến lược hai phần.
Trước hết, cần “làm cho vai trò của Nhà nước tương xứng với năng lực của nó”,
sau đó là “nâng cao năng lực của Nhà nước bằng cách củng cố lại các thể chế
công”. Muốn vậy, Nhà nước cần nâng cao năng lực thể chế của mình, thông qua
việc: (i) Tăng cường các quy định, biện pháp để kiểm sốt hoạt động của Nhà nước
(liêm chính); (ii) Duy trì áp lực cạnh tranh từ bên ngồi và bên trong Nhà nước (thúc
đẩy môi trường kinh doanh); và (iii) Tạo điều kiện cho tiếng nói và sự tham gia của
các chủ thể khác từ bên trong và bên ngoài Nhà nước (mở rộng dân chủ).
Ở Việt Nam, tư tưởng xây dựng một Nhà nước có chức năng kiến tạo và
thực hiện tốt chức năng này là quan điểm chỉ đạo nhất quán của Nhà nước trong
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Điều đó được thể hiện rõ ngay
194
trong Hiến pháp năm 2013 với việc đề cao quyền của nhân dân, cho đến nhiều
phát biểu của người đứng đầu Chính phủ qua các thời kỳ. Tuy nhiên, đến nhiệm
kỳ 2016-2021, Nhà nước kiến tạo đã trở thành quyết tâm đổi mới về thể chế, tổ
chức và phương thức hoạt động của Chính phủ nói riêng và bộ máy Nhà nước
nói chung. Bên cạnh đó, yếu tố kiến tạo cũng trở thành tiêu chí đánh giá mức độ
hiệu quả và thành công trong hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ.
So sánh quan điểm của các học giả Việt Nam với cách hiểu của thế giới về
Nhà nước kiến tạo, có thể hiểu nội hàm của việc xây dựng Nhà nước kiến tạo ở
Việt Nam bao gồm những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, về quan điểm: Nhà nước phục vụ, kiến tạo là Nhà nước hoạt
động hướng tới mục tiêu vì sự phồn thịnh quốc gia và nâng cao phúc lợi cho tất
cả mọi người. Để thực hiện sứ mệnh đó, Nhà nước có vai trị là “bệ đỡ”, với
nhiệm vụ tạo môi trường thuận lợi nhất cho các chủ thể đó cống hiến, sáng tạo và
đảm bảo họ được thụ hưởng xứng đáng. Vì thế, Nhà nước kiến tạo luôn phải
hành động trên tinh thần phục vụ, với một vị thế bình đẳng, tơn trọng và hợp tác
với các chủ thể còn lại của nền kinh tế.
Thứ hai, về tính chất: liêm chính và hành động là thuộc tính của Nhà nước
kiến tạo. “Liêm chính” có nghĩa là cơng tâm, khách quan, có trách nhiệm giải trình
và khơng bị chi phối bởi lợi ích nhóm. Rõ ràng, sự phát triển chỉ có được khi có
được một môi trường thể chế tốt, công khai, minh bạch. Bên cạnh đó, “hành động”
là điều kiện để biến các chủ trương, cam kết của Nhà nước thành các kết quả kiến
tạo cụ thể, có sức sống trong thực tiễn. Có hành động và hành động một cách liêm
chính thể hiện được rõ cam kết và qua đó mới tạo dựng được niềm tin của doanh
nghiệp và người dân, và là cơ sở nền tảng để kiến tạo phát triển.
Thứ ba, về nội dung: Nhà nước phục vụ, kiến tạo phải tập trung vào các
nhiệm vụ chính sau: (i) Thay đổi triệt để từ tư duy đến phương thức điều hành từ
“Nhà nước điều hành bằng mệnh lệnh hành chính” sang “Nhà nước phục vụ”;
(ii) Củng cố năng lực thể chế Nhà nước để xây dựng một nền hành chính phục vụ
với các đặc trưng Nhà nước liêm chính, trọng dụng nhân tài và không tham
nhũng; (iii) Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng để thúc đẩy sự phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân; (iv) Phát huy dân chủ để đưa Nhà nước đến gần dân hơn.
Thứ tư, về điều kiện: để thực hiện được sứ mệnh đó cần sự chuyển biến
đồng bộ và mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị. Trong đó, nhiệm vụ tiên phong
195
thuộc về bộ máy Hành pháp, bởi lẽ cơ chế, chính sách do Chính phủ và Ủy ban
nhân dân các cấp ban hành và thực hiện có tác dụng trực tiếp đến mọi mặt của
đời sống nhân dân và sự phát triển của doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ bài viết, chúng tơi sẽ tập trung đánh giá những cơng việc
mà Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã thực hiện trong một năm
vừa qua để kiến tạo một Chính phủ phục vụ, liêm chính, hành động.
2. Đánh giá kết quả xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển trong năm 2016
2.1. Về thay đổi tư duy và phương thức điều hành nền kinh tế
Sự thay đổi về tư duy được thể hiện rất rõ qua thơng điệp của Thủ tướng
Chính phủ trong rất nhiều phiên làm việc: phương thức chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ là phải chuyển từ phương thức mệnh lệnh hành chính sang Nhà nước
kiến tạo, phục vụ; chính quyền khơng được trở thành gánh nặng của người dân,
doanh nghiệp; đồng thời, cần phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức
năng thị trường, hạn chế, tiến tới xóa bỏ cơ chế xin - cho; cái gì thị trường làm
được thì để thị trường làm, Chính phủ tập trung vào cơng tác xây dựng thể chế,
chính sách, tạo mơi trường cho đầu tư kinh doanh phát triển. Rõ ràng, quan điểm
này hoàn toàn nhất quán với nội hàm về Nhà nước kiến tạo đã phân tích ở trên.
Tư duy về xây dựng Nhà nước kiến tạo đã được chuyển thành những thay
đổi trong phương thức điều hành kinh tế vĩ mô của Thủ tướng. Trước hết, Chính
phủ nhấn mạnh đến tăng trưởng thực chất, bền vững, khơng đánh đổi bằng những
thành tích ngắn hạn. Chẳng hạn, Thủ tướng đã quyết định không điều chỉnh hạ
thấp chỉ tiêu tăng trưởng của năm 2016 để làm mục tiêu phấn đấu. Kết quả thực
hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 cho thấy, mặc dù không đạt
được chỉ tiêu kế hoạch về tăng trưởng (6,21% so với 6,7%), nhưng trong bối
cảnh cịn nhiều khó khăn (thời tiết diễn biến không thuận ở cả ba miền, sự cố ô
nhiễm môi trường biển, giá dầu thô, than đá giảm mạnh,...) thì nó đã phản ánh
những nỗ lực “vượt khó” rất đáng ghi nhận trong điều hành kinh tế vĩ mơ của
Chính phủ.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã chú trọng nhiều hơn đến các mục tiêu, chỉ tiêu
liên quan đến cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia và đã có những điều chỉnh phù hợp hơn so với các mục tiêu, chỉ tiêu đề
ra. Đây là những chỉ tiêu phản ánh về mặt chất lượng của tăng trưởng, và việc
ngày càng chú trọng đến nhóm chỉ tiêu này cho thấy định hướng điều hành kinh
196
tế vĩ mơ của Chính phủ đã thực sự chuyển sang hướng dài hạn và tăng trưởng
thực chất hơn.
Phong cách điều hành hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và
các thành viên Chính phủ đã có sự thay đổi mạnh mẽ. Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc được đánh giá là vị Thủ tướng có mật độ đến các tỉnh làm việc dày đặc nhất
trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ. Ơng cũng là vị lãnh đạo có nhiều chỉ đạo cụ
thể nhất, cùng với Tổ Cơng tác của Chính phủ làm việc với các bộ, ngành về
thực thi nhiệm vụ được giao, nhằm cố gắng rút ngắn khoảng cách từ lời nói đến
việc làm. Theo phong cách đó, nhiều nơi đã ký cam kết về tạo môi trường và
thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, nhiều văn bản chính sách, pháp luật cũng đã
được ban hành nhanh chóng theo hướng này; tình trạng chậm trễ, nợ đọng văn
bản, nhiệm vụ cũng có chuyển biến rõ nét.
2.2. Về xây dựng, củng cố năng lực thể chế Nhà nước
Hoạt động xây dựng và củng cố năng lực thể chế Nhà nước trong năm 2016
tập trung vào việc xây dựng Chính phủ và bộ máy chính quyền liêm chính với
nhiều hành động đã được triển khai để xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 123/2016/NĐ-CP, đưa ra những quy
định mang tính nguyên tắc cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy và đổi mới hoạt
động của các Bộ, ngành Trung ương. Theo đó, nhiều nơi đã triển khai việc kiện
tồn bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là việc sáp nhập, cắt
giảm các đầu mối và biên chế trực thuộc. Ví dụ, tại Bộ Cơng Thương đã cắt giảm
7 đầu mối trực thuộc (từ 35 xuống còn 28 đầu mối); Hà Nội đã cắt giảm 55
phòng ban, giảm 130 đơn vị sự nghiệp và giảm 171 trưởng phó phịng ban; Đà
Nẵng triển khai Đề án Giới thiệu bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý dưới 35 tuổi;
Bộ Nội vụ tiến hành rà soát các địa phương có tình trạng bổ nhiệm người thân
giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý ở địa phương,…
Chính phủ cũng tăng cường xiết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong
đội ngũ cán bộ, công chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và chính quyền địa
phương các cấp, cụ thể bằng việc ngày 05/9/2016, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chỉ thị số 26/CT-TTg về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan
hành chính Nhà nước các cấp. Chính phủ cũng đã phản ứng rất kịp thời, nghiêm
minh và hợp lòng dân khi đưa ra các biện pháp xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi
197
phạm của cơng chức ở tất cả các cấp chính quyền, từ những vụ việc nhỏ như
trong vụ Café Xin chào tại huyện Bình Chánh cho đến vụ ơ nhiễm môi trường tại
Formusa và nhiều trường hợp khác.
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan Nhà nước,
doanh nghiệp Nhà nước cũng được đẩy mạnh. Trong năm 2016, Chính phủ đã
yêu cầu khẩn trương điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án tham nhũng xảy ra tại
Công ty ALCII, NHTM Cổ phần Công thương Việt Nam, NHTM cổ phần Đại
Dương,… Qua việc chủ động thanh tra, kiểm tra, Chính phủ và chính quyền các
cấp đã kịp thời phát hiện và chuyển cơ quan có thẩm quyền nhiều vụ án tham
nhũng lớn, qua đó giúp củng cố niềm tin của người dân, cộng đồng doanh nghiệp
về xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển.
Cải cách hành chính với trọng tâm là đơn giản hóa và cơng khai thủ tục
hành chính trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương
đã được đặc biệt quan tâm. Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính
phủ đã có nhiều chỉ đạo, qn triệt nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính, kiên
quyết tháo gỡ những điểm nghẽn cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh; nâng
cao sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan Nhà nước.
Kết quả rà sốt thủ tục hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước các cấp đã
đề nghị khơng quy định 252 thủ tục không cần thiết, sửa đổi 901 thủ tục khơng
hợp lý; tổng số thủ tục hành chính được đơn giản hóa lên tới 4.527/4.723 thủ tục
(đạt tỷ lệ 95,85%); các bộ, ngành đã chuẩn hóa 3.589/4.008 thủ tục (đạt 89,5%);
số thủ tục được công bố kịp thời sau khi chuẩn hóa là 3.495/3.589 (đạt 87,3%);
số thủ tục được công khai kịp thời trên Cơ sở dữ liệu quốc gia sau khi công bố là
3.176/3.589 (đạt 88,5%).
2.3. Về cải thiện môi trường kinh doanh: Tạo dựng môi trường hỗ trợ
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
Đây có thể coi là điểm nổi bật nhất trong kết quả điều hành theo định
hướng xây dựng Chính phủ phục vụ trong năm qua, thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, nguyên tắc và trách nhiệm của các cơ quan Quản lý Nhà nước
trong việc tạo dựng khuôn khổ nhất quán để triển khai thực hiện các hành động cụ
thể nhằm cải thiện môi trường kinh doanh đã được xác định rõ. Ngay từ cuối tháng
4, tức là ngay sau khi Chính phủ mới được thành lập, Chính phủ đã có Nghị quyết
09/2016/NQ-CP ngày 28/4/2016, đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm
198
2016-2017, định hướng đến năm 2020. Chỉ một tháng sau, Nghị quyết số 35/NQCP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm
2020 đã được Chính phủ thơng qua. Đây là lần đầu tiên, Chính phủ có riêng một
nghị quyết về phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam, với mục tiêu đến năm 2020, cả
nước có trên 1 triệu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, đã đề ra 09
nguyên tắc và 17 giải pháp hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp.
Trong năm 2016, Chính phủ cũng đã ban hành 50 nghị định quy định về
điều kiện đầu tư kinh doanh với việc loại bỏ khoảng 3.500 điều kiện kinh doanh
được ban hành chưa đúng thẩm quyền; trình Quốc hội thơng qua Luật sửa đổi, bổ
sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện của Luật Đầu tư nhằm xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh; ban
hành Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/1/2017 nhằm điều chỉnh việc thi
hành Luật Đất đai theo hướng tháo gỡ những vướng mắc trong thực hiện pháp
luật về đất đai và tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp tiếp cận đất đai phục
vụ sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, nhiều hành động quyết liệt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh
đã được xúc tiến như: tăng cường trực tiếp đối thoại, tiếp nhận kiến nghị, phản
ánh của doanh nghiệp; yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện chủ trương
“3 đồng hành, 5 hỗ trợ”1 đối với doanh nghiệp mà không trái với điều ước quốc
tế và phù hợp với nguồn lực của đất nước tại Lễ phát động phong trào “Doanh
nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”; u cầu chính quyền địa phương “đừng
nói trước, qn sau” với doanh nghiệp tại Hội nghị xúc tiến đầu tư của Ninh
Thuận; “khởi nghiệp là triết lý sống” khi nói chuyện tại Chương trình “Thanh
niên khởi nghiệp”; “doanh nghiệp phải nói khơng với đưa hối lộ” khi phát động
cuộc vận động “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”; yêu cầu “Chính
quyền phải „3 cùng‟2 với doanh nghiệp” tại Hội nghị xúc tiến đầu tư tại Gia Lai;
“Chấm điểm lãnh đạo địa phương qua phát triển doanh nghiệp” khi làm việc tại
Nghệ n,… Từ ngày 01/10/2016, website: doanhnghiep.chinhphu.vn đã bắt đầu
hoạt động và từ ngày 05/10/2016 đã tiếp nhận phản ánh của doanh nghiệp báo
cáo Thủ tướng Chính phủ.
Những thơng điệp mạnh mẽ và hành động quyết liệt đó của Chính phủ đã
nhận được sự phản hồi tích cực từ khu vực kinh tế tư nhân. Số lượng doanh
1
03 đồng hành là: Đồng hành cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh…; Đồng hành trong
hoàn thiện thể chế pháp luật,…; Đồng hành xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý
kiến của doanh nhân …; 05 hỗ trợ là: Hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; Hỗ trợ nâng cao hiệu quả
hoạt động; Hỗ trợ tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; Hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm gắn
với doanh nghiệp; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
2
03 cùng: Cùng lo, cùng làm, cùng chia sẻ thất bại và thành công
199
nghiệp thành lập mới tăng lên đạt kỷ lục, trong khi số lượng doanh nghiệp phải
giải thể đã giảm đi.
Số liệu ở Hình 1 cho thấy, cho thấy năm 2016 đã chứng kiến một con số
“cao kỷ lục” và “chưa từng có” về số lượng doanh nghiệp đăng ký với hơn 110
nghìn doanh nghiệp, tăng 14% về số lượng doanh nghiệp và 48% về vốn đăng ký
kinh doanh so với năm 2015. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp giải thể hoặc
ngừng hoạt động đã giảm đi rõ rệt (với gần 61 nghìn doanh nghiệp). Theo phát
biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Diễn đàn kinh tế mùa Thu năm 2016,
cả Việt Nam hiện có 600 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động và trên 3,5 triệu hộ
kinh doanh cá thể.
Có thể nói, năm 2016 là năm mà Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp đã
dồn sức để vượt qua những điểm nghẽn đã tồn tại từ nhiều năm trước. Sự quyết
liệt hành động của Chính phủ đã thắp lên ngọn lửa niềm tin từ cộng đồng doanh
nghiệp. Dẫn lời của ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI (Thanh Ngọc, 2017),
người dân đã bỏ phiếu cho Thủ tướng bằng sự phản hồi tích cực của mình trong
sản xuất, kinh doanh.
Hình 1: Số lƣợng doanh nghiệp đăng ký thành lập và ngừng hoạt động
giai đoạn 2010 - 2016
Nguồn: Cục Quản lý đăng ký kinh doanh - Bộ KH&ĐT
2.4. Về phát huy dân chủ trong xã hội để đưa Nhà nước đến gần dân hơn
Nguyên tắc công khai, minh bạch và đảm bảo sự tham gia được ghi nhận
trong nhiều đạo luật quan trọng như Luật NSNN, Luật Đầu tư công, Luật Đấu
thầu, Luật Tiếp cơng dân, Luật Phịng, chống tham nhũng,… và tiếp tục được thực
200
hiện nghiêm túc trong năm 2016. Trong các chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ,
phát huy sự tham gia, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp
được ghi nhận như là một giải pháp, nhiệm vụ của các cấp chính quyền nhằm xây
dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, đặc biệt là trong Nghị quyết 35, Chỉ thị 26/CTTTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương
trong các cơ quan Hành chính Nhà nước các cấp,….
Kể từ khi nhậm chức (04/2016) đến nay, Thủ tướng đã có trên 500 hoạt
động cụ thể, trong đó phần lớn là dành ưu tiên cho việc tiếp xúc, lắng nghe, đối
thoại, chỉ đạo, định hướng rất cụ thể để từ đó đưa ra giải pháp xử lý, khắc phục
hoặc thực hiện, đặc biệt là tại các điểm nóng, thời điểm nóng. Nhờ đó, bước đầu
đáp ứng nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp. Ví dụ: việc họp bàn, thị sát
nhằm tìm kiếm giải pháp cho tình trạng xâm nhập mặn ở Đồng bằng sơng Cửu
Long; khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung; tình hình vệ sinh,
an tồn thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội; việc chỉ
đạo, nắm tình hình để đưa ra biện pháp xử lý theo phản ánh về việc bổ nhiệm
người thân của lãnh đạo địa phương vào các vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt tại
một số địa phương; chỉ đạo, xử lý vụ việc liên quan đến Hội tiêu chuẩn và bảo vệ
người tiêu dùng Việt Nam công bố kết quả sai lệch về việc kiểm tra 150 mẫu
nước mắm và nhiều vụ việc khác.
3. Tiếp tục cải cách: Nhiệm vụ đặt ra cho những năm tiếp theo
Mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, cũng cần nhận thức rõ
rằng, quá trình xây dựng Nhà nước kiến tạo mới chỉ là bước đầu. Nhiều vấn đề
cần tiếp tục thực hiện trong những năm tiếp theo.
Thứ nhất, tạo sự chuyển biến đồng bộ trong cả hệ thống chính trị là một
nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của những năm tới. Diễn biến năm 2016 cho thấy
dường như sự chuyển biến trong hệ thống các cơ quan lập pháp và tư pháp
dường như vẫn chưa theo kịp với sự đổi mới mạnh mẽ trong hệ thống hành pháp.
Vai trị của Đồn đại biểu Quốc hội ở các địa phương chưa rõ nét, đặc biệt trong
việc tiếp xúc, giám sát các vụ việc nóng, địa bàn nóng và vào những thời điểm
nóng. Việc thực hiện quyền sáng kiến lập pháp của các đại biểu Quốc hội còn
hạn chế; kết quả hoạt động chất vấn và giám sát của Quốc hội chưa phản ánh thái
độ rõ nét về hiệu quả làm việc của những chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn,
chưa gắn với những chế tài cụ thể. Bên cạnh đó, hệ thống tư pháp cịn chậm đổi
mới, đặc biệt là việc triển khai các quy định mới của một số đạo luật quan trọng
201
mới được Quốc hội thông qua. Tinh thần cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính tư
pháp chưa được triển khai đồng bộ với các yêu cầu, điều kiện tổ chức thực hiện
cụ thể như nguồn lực con người và cơ sở vật chất, nhất là liên quan đến mô hình
tố tụng điện tử sẽ được triển khai. Cơ chế và hình thức giám sát, xử lý kỷ luật đối
với thẩm phán và các chức danh tư pháp khác có hành vi vi phạm quy tắc ứng
xử, đạo đức nghề nghiệp và pháp luật còn chưa rõ ràng, chưa cụ thể.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ phương thức điều hành phát triển kinh tế - xã
hội truyền thống của Chính phủ, chuyển mạnh sang điều hành theo các chức
năng của Chính phủ kiến tạo. Cách điều hành hiện nay về cơ bản vẫn dựa trên lối
tư duy về cách giải quyết mang tính sự vụ. Khn khổ pháp lý truyền thống
trong điều hành kinh tế - xã hội của chúng ta vẫn là các nghị quyết của Quốc hội,
của Chính phủ, các Chỉ thị và quyết định của Thủ tướng Chính phủ hay các chỉ
đạo, điều hành cụ thể của Chính phủ và các thành viên Chính phủ. Số lượng văn
bản điều hành hàng năm rất nhiều, trong đó chủ yếu là các quyết định hành chính
cá biệt. Trong giai đoạn đầu, việc ban hành những quyết định hành chính cá biệt
để khắc phục sức ì của hệ thống là cần thiết, nhưng về lâu dài cần chuyển dần
sang điều hành bằng cơ chế, chính sách áp dụng chung, phổ biến cho tất cả các
đối tượng trong các trường hợp tương tự.
Thứ ba, nhanh chóng hình thành một cơ quan hoạch định chiến lược phát
triển với sự hội tụ của một đội ngũ chiến lược gia tinh hoa trong các lĩnh vực
trọng yếu. Công việc hoạch định chiến lược hiện nay ở Việt Nam vẫn do các cơ
quan hành chính và đội ngũ cơng chức hành chính đảm nhiệm. Do vậy, tính
chun nghiệp và khơng chi phối bởi lợi ích (của các bộ ngành, vùng miền) rất
hạn chế, nhất là trong lĩnh vực xác định mục tiêu ưu tiên và phân bổ nguồn lực.
Nếu thiếu một bộ máy có tính độc lập tương đối với các cơ quan hành chính thì
Nhà nước khó có thể đảm nhiệm được vai trị chèo lái của Nhà nước kiến tạo.
Thứ tư, khắc phục tình trạng thể chế “phân mảnh”, nhất là trong khâu xây
dựng và ban hành chính sách, pháp luật. Việc đề xuất, xây dựng các văn bản
chính sách, pháp luật hiện nay vẫn “khép kín” trong hệ thống Nhà nước từ khâu
soạn thảo, thu thập và giải trình việc tiếp thu ý kiến của các cơ quan Nhà nước và
cộng đồng, đến đánh giá tác động của chính sách,… Vì thế, việc đan xen, lồng
ghép lợi ích của bộ ngành soạn thảo trong các văn bản này là không tránh khỏi,
và sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong xây dựng thực thi, luật pháp rất
hạn chế. Kết quả là hệ thống thể chế sẽ mất đi tính trung lập, khách quan cần có
để tạo dựng một mơi trường kiến tạo phát triển, và tình trạng “trên bảo dưới
202
khơng nghe” có nguy cơ triệt tiêu tất cả xung lực của làn sóng cải cách mà Chính
phủ đã rất vất vả dấy lên.
Thứ năm, nhanh chóng xây dựng một cơ chế minh bạch, hữu hiệu để tuyển
dụng người tài vào các cơ quan Nhà nước. Một yếu tố bắt buộc của Nhà nước
kiến tạo, đó là cơ chế tuyển dụng và đãi ngộ người tài. Hệ thống tuyển dụng
thiếu minh bạch, thi tuyển dựa trên các tiêu chí bằng cấp chứ không phải thực tài,
chế độ đãi ngộ thiếu hấp dẫn sẽ tiếp tục là một trở ngại lớn cho việc xây dựng
năng lực thể chế Nhà nước vững mạnh ở nước ta.
Tóm lại, trong một khoảng thời gian ngắn chưa thể kỳ vọng có một sự đổi
mới tồn diện và ngay lập tức ở tất cả các khâu, các bộ phận trong hệ thống.
Những kết quả đạt được trong năm 2016 rất đáng quý, nhưng đó mới chỉ là thành
quả bước đầu. Quá trình xây dựng một Nhà nước kiến tạo cịn nhiều chơng gai,
địi hỏi bản lĩnh và quyết tâm chính trị của cả bộ máy, một đường hướng chiến
lược mạch lạc, bài bản để từng bước tạo ra sự chuyển mình. Trong q trình đó,
liệu Chính phủ có thể vượt qua những cản trở do lợi ích nhóm, tham nhũng, tha
hóa quyền lực hay khơng sẽ quyết định thành công của cải cách. Nhen ngọn lửa
cải cách đã khó, giữ được nhiệt của cuộc cải cách đó cịn khó hơn. Niềm tin của
người dân và doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào những bước đi tiếp theo của Chính
phủ trong nỗ lực xây dựng Nhà nước kiến tạo.
Tài liệu tham khảo
1. Acemoglu, D. và Robinson, JA. (2012), Tại sao các quốc gia thất bại?,
bản dịch của NXB Trẻ năm 2013.
2. Chính phủ (2016), Nghị định số 123/2016/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
3. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ
về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.
4. Chính phủ (2016). Nghị quyết 09/2016/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020.
5. Chính phủ (2016a), Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 7/1/2016 về những nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2016, Hà Nội.
203
6. Chính phủ (2016b), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và
phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Hà Nội.
7. Ngân hàng Thế giới (1997), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi,
Báo cáo phát triển thế giới.
8. Ngân hàng Thế giới (2016), Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng
tạo, cơng bằng và dân chủ.
9. Nguyễn Đình Cung (2017), Đổi mới điều hành phát triển kinh tế - xã hội
hướng tới Nhà nước kiến tạo, Báo cáo đề dẫn hội thảo Đổi mới điều hành
phát triển kinh tế xã hội.
10. Nguyễn Kế Tuấn (2016), Phát triển đất nước thành nước cơng nghiệp theo
hướng hiện đại, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 233, tháng 11/2016.
11. Nguyễn Tấn Dũng (2014), Thông điệp năm mới của Thủ tướng, đăng trên
báo điện tử của Chính phủ.
12. North, D. (1990), Thể chế, thay đổi thể chế và thành quả kinh tế, Cambridge
University Press.
13. Thanh Ngọc, Kỳ vọng Chính phủ kiến tạo, hành động, bài trả lời phỏng vấn
báo Năng lượng của ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI, truy cập ngày
8/2/2017 tại />14. Thủ tướng Chính phủ (2016), Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 28/4/2016 về tăng
cường công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng.
15. Thủ tướng Chính phủ (2016), Chỉ thị số 26/CT-TTg về tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp.
204