TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA HÀNH CHÍNH HỌC
BÀI TẬP CÁ NHÂN
TÊN ĐỀ TÀI
TRÌNH BÀY CÁC YẾU TỐ KHÁCH QUAN ẢNH
HƯỞNG TỚI VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ. LIÊN
HỆ THỰC TIỄN TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ.
Học phần
Giảng viên
Sinh viên
Mã sinh viên
Khoá
Lớp
: Quản lý học đại cương
: Trần Thị Huyền Trang
: Đinh Quang Hùng
: 2005QLNA026
: 20
: Quản lý nhà nước 20A
Hà Nội , năm 2021
1
MỤC LỤC
Phần 1: MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài.................................................................3
1.2.Quyết định quản lý là gì......................................................5
1.3.Kỹ năng ra quyết định quản lý............................................6
1.3.1.Căn cứ khoa học tồn diện............................................6
1.3.2.Bảo đảm tính thống nhất...............................................7
1.3.3.Đúng thẩm quyền..........................................................7
1.3.4.Kịp thời, ngắn gọn, chính xác.......................................7
1.3.5.Có tính pháp lý..............................................................7
1.4.Các phương pháp ra quyết định..........................................7
1.4.1.Phương pháp kinh nghiệm............................................8
1.4.2.Phương pháp phân tích.................................................8
1.4.3.Phương pháp kết hợp....................................................8
1.4.4.Phương pháp thực nghiệm............................................8
Phần 2: CÁC YẾU TỐ KHÁCH QUAN ẢNH HƯỞNG
TỚI VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ
2.1.Yếu tố thông tin.................................................................8
2.2.Yếu tố kinh tế....................................................................12
2
2.3.Yếu tố dân số, lực lượng lao động....................................19
2.4.Yếu tố luật pháp................................................................22
2.5.Yếu tố văn hoá – xã hội....................................................23
2.6.Yếu tố đối thủ cạnh tranh..................................................23
2.7.Yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật......................................23
2.8.Yếu tố khách hàng............................................................24
2.9.Liên hệ thực tiễn trong hoạt động quản lý………………25
Phần 3: KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................27
3
Phần 1: MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Ra quyết định – đó là nhiệm vụ quan trọng nhất của người
quản lý. Thường thì những quyết định của người quản lý có
ảnh hưởng tới hiệu quả của đơn vị mình quản lý. Nếu có thể
tổng hợp thành một từ để nói lên phẩm chất của một nhà quản
lý giỏi , ta có thể nói rằng đó là “tính quyết định “
Quyết định là hành vi sáng tạo của nhà quản lý nhằm định ra
chương trình và chất lượng hoạt động của tổ chức nhằm để
giải quyết vấn đề đã chín muồi. Trên cơ sở sự hiểu biết các
quy luật vận động khách quan của hệ thống quản lý và việc
phân tích các thơng tin về hiện tượng của hệ thống đó
Để ra quyết định nhà quản lý phải hiểu được quy luật để
đưa ra quyết định trên cơ sở khoa học. Lý thuyết quyết định
thống kê trên lý thuyết là một cơ sở khoa học nhất hiện nay
mà các nhà quản lý chưa hiểu hết tác dụng và vận dụng nó làm
cơ sở tiền đề cho việc ra quyết định. Áp dụng lý thuyết quyết
định này sẻ đưa ra việc lựa chọn hành động và cả việc lựa
chọn có ý tưởng hợp lý về các hậu quả kinh tế, xã hội, chính
trị của việc lựa chọn hành động đó.
Từ xưa đến nay quản lý xã hội, quản lý nhân sự là một nghề
nghiệp và công việc quan trọng nhất của những người quản lý
là ra các quyết định. Không phải chỉ có quan chức cấp Chính
phủ hay giám đốc một đơn vị sản xuất kinh doanh là ra các
quyết định, mà các nhà quản lý ở cấp cơ sở, địa phương đều
phải ra các quyết định. Vậy cơ sở của việc ra các quyết định ở
những con người này là gì ? Thực tế từ lâu đã chứng tỏ rằng
các quyết định thiếu cơ sở khoa học thường phải gánh chịu
những hậu quả nặng nề.
4
Nghiên cứu những cơ sở của việc ra quyết định một cách
khoa học sẽ giúp ta nhận thức đúng đắn những cơ sở khoa học,
những quy luật chi phối và không lường trước được những
hậu quả tất yếu sẻ sẽ xãy ra nếu như các quyết định được chấp
nhận.
Hầu hết những quyết định quản lý đều phải thực hiện trong
những điều kiện bất định vì các nhà quản lý hầu như khơng có
thơng tin hồn chỉnh về những điều sẽ xảy ra trong tương lai
Các quyết định luôn luôn là sản phẩm chủ yếu và là trung tâm
của mọi hoạt động về quản lý. Khơng thể nói đến hoạt động về
quản lý mà thiếu việc ra các quyết định, cũng như khơng thể
nói đến việc kinh doanh mà thiếu dịch vụ và hàng hố.
Sự thành cơng hay thất bại trong các tổ chức phụ thuộc rất
nhiều vào các quyết định của các nhà quản lý.
Xét về mặt tổng thể thì không thể thay thế các quyết định về
về quản lý bằng tiền bạc, vốn liếng, sự tự phát, sự tự điều
chỉnh hoặc bất cứ máy móc tinh xảo nào
Mỗi quyết định về quản lý là một mắt xích trong tồn bộ hệ
thống các quyết định của một tổ chức nên nên mức độ tương
tác ảnh hưởng ảnh hưởng giữa chúng với nhau là cực kỳ phức
tạp và hết sức quan trọng. Khơng thận trọng trong việc ra
quyết định thường có thể dẫn tới những hậu quả khơn lường.
Chính vì những lí do trên, tác giả đã chọn ngiên cứu đề tài: “
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng tới việc ra quyết định
quản lý. Liên hệ thực tiễn trong hoạt động quản lý. “
1.2.Quyết định quản lý là gì
Quyết định quản lý là hành vi có tính chỉ thị của chủ thể
quản lý để định hướng, tổ chức và kích thích mọi nguồn động
lực trong hệ thống quản lý, chi phối sự vận động, phát triển
5
của toàn bộ hệ thống quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu đề
ra.
Ý nghĩa của quyết định và việc ra quyết định quản lý: Nhà
quản lý luôn luôn ra quyết định, và ra quyết định là một trong
những hoạt động chủ yếu của nhà quản lý. Quyết định là
phương tiện để tác động đến đối tượng quản lý (là sự thể hiện
ý chí của người lãnh đạo trong hoạt động quản lý, điều hành,
chỉ huy…), đồng thời là sản phẩm trí tuệ (của q trình tư
duy) có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của
xã hội.
Sản phẩm của người lãnh đạo là các quyết định và việc tổ
chức thực hiện quyết định. Vì vậy có thể nói các quyết định và
q trình đưa ra quyết định là nền tảng cho mọi quá trình quản
lý. Năng lực tổ chức quản lý của người lãnh đạo, quản lý thể
hiện ở việc ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định.
Việc ra quyết định của người lãnh đạo có vai trị đặc biệt
quan trọng. Hoạt động ra quyết định là họat động mang tính
bản chất của người lãnh đạo. Một quyết định đúng sẽ mang lại
hiệu quả kinh tế-chính trị xã hội lớn lao, một quyết định sai
lầm có khi gây ra tổn thất hàng nhiều tỉ đồng và cịn để lại
những hậu quả khơng tốt, thậm chí khơn lường về chính trị, xã
hội.
Đánh giá hiệu lực và hiệu quả của người lãnh đạo chủ yếu là
xem người lãnh đạo đó ra quyết định đúng đến mức nào và tổ
chức thực hiện quyết định thành công đến đâu. Người lãnh
đạo giỏi là người biết ra quyết định kịp thời và tổ chức thực
hiện quyết định hiệu quả.
1.3.Kỹ năng ra quyết định quản lý
6
Quyết định là sản phẩm của họat động trí tuệ là cơ sở đề
thực thi quyền lực của người lãnh đạo và là căn cứ cụ thể để
cộng đồng lao động hiệu quả, do đó các quyết định cần thỏa
mãn một số yêu cầu sau đây:
1.3.1.Căn cứ khoa học toàn diện
Quyết định quản lý phải phù hợp các yêu cầu của quy luật
khách quan, dựa trên cơ sở phân tích thực trạng, tình huống cụ
thể của các đối tượng quản lý, có thơng tin đầy đủ, chính xác
và có khả năng thực hiện.
1.3.2.Bảo đảm tính thống nhất
Bất cứ quyết định nào được đưa ra để thực hiện một nhiệm
vụ nhất định đều phải nằm trong hệ thống, trong một tổng thể
các quyết định đã có hướng tới đạt mục tiêu chung. Tránh tình
trạng các cấp quản lý có những chủ trương khơng thống nhất,
thậm chí đi ngược với chủ trương của cấp cao.
1.3.3. Đúng thẩm quyền
Quyết định phải là sản phẩm của người quản lý có đầy đủ
chức năng, thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
quyết định của mình.
1.3.4. Kịp thời, ngắn gọn, chính xác
Có những quyết định phải được đưa ra ở những thời điểm
thích hợp, nhất là những tình huống cấp bách. Quyết định phải
được diễn đạt bởi những lời lẽ ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu để
tạo cho việc tiếp nhận quyết định thống nhất trong mọi bộ
phận, mọi người.
1.3.5.Có tính pháp lý
7
Chủ thể quản lý phải đưa ra những quyết định hợp pháp, dựa
trên những văn bản pháp quy (luật, quyết định, quy định…) đã
ban hành và đang có hiệu lực thi hành.
1.4.Các phương pháp ra quyết định
1.4.1.Phương pháp kinh nghiệm
Dựa vào kinh nghiệm của nhà quản lý đưa ra quyết định.
Phương pháp này được áp dụng trong việc ra quyết định tương
đối phổ biến vì có thể kế thừa với vấn đề quen thuộc, tuy
nhiên hạn chế của phương pháp kinh nghiệm là khó áp dụng
đối với vấn đề mới.
1.4.2.Phương pháp phân tích
Phân tích vấn đề trên nhiều phương diện, trên cơ sở đó xây
dựng phương án, lựa chọn và ra quyết định. Phương pháp này
được sử dụng rộng rãi nhất và có hiệu quả cao. Phương pháp
này địi hỏi người quản lý phải hiểu cặn cẽ vấn đề định giải
quyết, có trình độ tư duy logic chặt chẽ.
1.4.3.Phương pháp kết hợp
Kết hợp nhiều phương pháp để đưa ra quyết định nào đó đối
với mục tiêu nhất định cần thực hiện.
1.4.4.Phương pháp thực nghiệm
Cho kết quả tin cậy, giúp cho nhà quản lý nhanh chóng chọn
phương án tối ưu, nhưng mất thời gian, công sức và tiền của.
Ra quyết định quản lý là quá trình xác định vấn đề và lựa
chọn một phương án hành động trong số những phương án
8
khác nhau. Vì vậy, người quản lý cần phải nắm rõ vấn đề và
phân tích để có được quyết định tốt nhất, phù hợp nhất.
Phần 2: CÁC YẾU TỐ KHÁCH QUAN ẢNH HƯỞNG
TỚI VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ
2.1.Yếu tố thơng tin
Trong q trình ra quyết định thơng tin được coi là ngun
liệu vơ cùng quan trọng, nó chi phối đến hiệu quả và tính chất
của việc ra quyết định. Do đó thơng tin càng phong phú, đầy
đủ, được thu thập từ nhiều là nhân tố tốt, nhưng nếu nguồn
thông tin có chất lượng, bảo đảm độ tin cậy cao, xác đáng thì
sẽ tốt hơn rất nhiều và sẽ giúp người ra quyết định có những
quyết sách đúng đắn, phù hợp. Tuy vậy, chúng ta cần thấy
rằng việc thu thập nhiều thơng tin có thể sẽ mất nhiều thời
gian, chi phí cao và có thể làm nhiễu thơng tin, hệ quả xảy ra
là việc ra quyết định chậm trễ, mất cơ hội kinh doanh, không
phù hợp thực tiễn.
VD1: Cách đây 1500 năm, lụa là mặt hàng độc quyền của
Trung Quốc, giá cả tơ lụa trên thị trường thế giới do Trung
Quốc khống chế. Công nghệ nuôi tằm lấy tơ dệt lụa là một bí
mật quốc gia được người Trung Quốc cất giữ trong nhiều thế
kỷ. Sau sự kiện công chúa Trung Hoa giấu con tằm giống
trong khăn trùm đầu vượt qua biên giới Trung Quốc sangẤn
Độ, công nghệ tơ lụa bắt đầu phát triển ở mảnh đất Nam Á
này.Để lấy được bí mật cơng nghệ sản xuất tơ lụa, Hồng Đế
Đế chế đông la mã đã cho mời các Giáo sỹ đang truyền giáo ở
Ấn Độ tới gặp để nhằm nắm tình hình. Các giáo sỹ đã cung
cấp cho Hồng đế những thơng tin hết sức quan trọng, là
muốn có lụa tự nhiên cần phải nuôi một loại tằm nhả tơ đặc
biệt chuyên ăn lá dâu để thu kén làm nguyên liệu dệt lụa. Theo
các giáo sỹ, điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu ở một số vùng
9
của Hy Lạp rất giống với điều kiện ở Trung Quốc và Ấn Độ
phù hợp với loại cây dâu làm thức ăn cho tằm nhả tơ.Công
việc đặt ra quan trọng và khó khăn nhất là làm sao phải đánh
cắp bằng được con tằm giống mà Trung Quốc và Ấn Độ bảo
vệ rất chặt chẽ. Một mặt, Justinian cho người tìm kiếm giống
dâu, mặt khác treo thưởng lớn nếu giáo sỹ Ba Tư nào đánh cắp
được con tằm giống đem về nước. Lợi dụng lúc đi truyền giáo
tại Ấn Độ, các giáo sỹ đã đánh cắp được con tằm rồi giấu vào
trong chiếc gậy thiền trượng rỗng mang về Đông La Mã.
Chính vì việc này, mà Hồng đế Justinian đã phá được sự
độc quyền về tơ lụa của Trung Quốc, và Vương quốc này trở
nên giàu có, khiến cho Trung quốc mất đi khoản thu nhập
khổng lồ; và từ những con tằm này đã đặt nền móng cho
ngành cơng nghiệp tơ tằm Bizantin sau này.
Để đưa ra được một quyết định đúng đắn, nhà lãnh đạo phải
có khả năng chuyển hóa những thơng tin mình thu nhận được
thành kiến thức thực tiễn, sau đó dựa vào chúng để tiến hành
cân nhắc. Nhận định này tuy có vẻ quá rõ ràng và sao rỗng,
nhưng ý nghĩa thực sự của chúng lại đánh vào một vấn đề vô
cùng mới mẻ: cách thức các nhà lãnh đạo đang tiếp cận và thu
nhận thông tin.
Trên thực tế, rất ít người có cách tiếp thu thơng tin đúng đắn
khi đã có vai vế của một nhà lãnh đạo.
Đối với dạng thông tin truyền miệng, do cái tơi và sự tự tin
q lớn của mình, các nhà lãnh đạo thường chọn cách lắng
nghe những thơng tin mình muốn nghe, đồng thời bỏ ngoài tai
những số liệu trái chiều. Hệ quả là, họ sẽ dần bỏ lỡ nhiều dữ
kiện quan trọng, thứ có thể trực tiếp ảnh hưởng đến tính đúng
đắn then chốt của quyết định được đưa ra.
10
Do vậy, việc chế ngự được bản ngã kiêu ngạo của mình để
chú tâm lắng nghe, chắc chắn sẽ là điều đầu tiên các bạn cần
lưu tâm nếu muốn đưa ra được những quyết định tuyệt vời.
John Buchanan, người trong suốt 40 năm giữ các vị trí hàng
đầu tại các tập đoàn như Vodafone, Alliance hay Smith &
Nephew, là một nhân vật minh chứng rõ nét nhất cho điều này.
Không chỉ dành thời gian để tiếp nhận tất cả những thơng
tin, dù đúng hay sai, Buchanan cịn là một con người có khao
khát lắng nghe mãnh liệt, khi ơng ln cố gắng đặt ra thật
nhiều câu hỏi để khai thác quan điểm của tập thể xung quanh.
Chính vì vậy, quyết định được ơng đưa ra ln là tổng hịa của
những ý kiến khách quan và sâu rộng nhất, đảm bảo có thế
giảm thiểu được tối đa tính rủi ro.
Tình trạng quá tải thông tin, với những dữ liệu dạng văn bản,
cũng là một vấn nạn không thể không nhắc tới. Chăm chú đọc
cẩn thận những bản kế hoạch họp hành hàng trăm trang ư?
Khơng, chẳng có vị giám đốc nào rảnh rang đến vậy cả. Chính
vì vậy, họ chọn cách đọc lướt, tìm cách gói gọn những luận
điểm dài lê thê lại thành một file nén thơng tin nhỏ xíu để ghi
nhớ trong đầu. Nhưng con người thì rõ ràng khơng phải máy
móc, nên việc cóp nhật thơng tin manh mún này của họ chắc
chắn sẽ xảy ra thiếu sót.
Để hạn chế tình trạng này, các tập đồn, tổ chức lớn như
Amazon và Ngân hàng Quốc gia Anh đã đặt ra một điều luật
bất thành văn trong nội bộ: Chỉ được trình bày trong tối đa 6
trang, dạng văn bản kế hoạch cuộc họp phải được chú trọng về
mặt chất lượng hơn số lượng!
Nếu khơng có quyền hạn chế số lượng văn bản như trên,
cách tốt nhất để bạn có thể đương đầu với những mớ tài liệu
ngộp thở là lựa chọn đúng nội dung cần tiếp cận. Tuyệt nhiên
không phải những mục tóm tắt ý chính, thứ bạn cần quan tâm
11
nhất là những luận điểm đề cập tới vấn đề và cách giải quyết
trong tài liệu. Tìm kiếm, đọc và xử lý những thơng tin này sẽ
có ích hơn cả trong việc đưa ra quyết định đúng đắn.
Ngồi ra, khơng chỉ với do cách tiếp cận, mà chính bản thân
thơng tin cũng đang tiềm ẩn nhiều rủi ro ảnh hưởng đến quyết
định của các nhà quản lý. Trong thời đại mà chất lượng thông
tin đang trở nên xuống cấp hơn bao giờ hết, “fake news” lan
tràn khắp mọi nơi, việc chắt lọc thông tin để thu nhận cũng là
một bài toán cần phải giải quyết. Tốt nhất, trước khi tiếp nhận
bất cứ thông tin nào, hãy cẩn thận đối chiếu chúng lại với các
tài liệu, nguồn tham khảo và số liệu để đảm bảo chúng thực sự
đáng tin cậy.
2.2.Yếu tố kinh tế
Chu kỳ kinh tế và chu kỳ kinh doanh là nhân tố đầu tiên
phải kể đến khi nó ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản trị
nhân lực. Trong giai đoạn kinh tế suy thoái, hoặc kinh tế bất
ổn có chiều hướng đi xuống, cơng ty một mặt vẫn cần phải
duy trì lực lượng lao động có tay nghề, một mặt phải giảm chi
phí lao động. Cơng ty phải quyết định giảm giờ làm việc, cho
nhân viên nghỉ tạm, hoặc cho nghỉ việc.
Ngược lại, khi kinh tế phát triển và có chiều hướng ổn định
cơng ty lại có nhu cầu phát triển lao động mới để mở rộng sản
xuất, tăng cường đào tạo huấn luyện nhân viên. Việc mở rộng
sản xuất này địi hỏi cơng ty phải tuyển thêm người có trình
độ, địi hỏi phải tăng lương để thu hút nhân tài, tăng phúc lợi,
và cải thiện điều kiện làm việc.
Thể chế quản lý nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn cần tiếp tục được
hoàn thiện. Nhiều vấn đề mới phát sinh mà hoạt động quản lý
nhà nước chưa dự liệu, chưa tạo ra hành lang pháp lý cần thiết
12
để quản lý. Các hạn chế của khung thể chế ở nước ta có thể
nhận thấy ở các khía cạnh: Tính cụ thể, tính dự báo trước
trong các quy định chính sách cịn bất cập; năng lực xây dựng
pháp luật của các cơ quan chức năng chưa đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của sự phát triển đời sống xã hội, nhu cầu điều chỉnh bằng
pháp luật ngày càng cao của xã hội, cũng như nhu cầu xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế; tính khả thi và hiệu quả của pháp luật cịn
thấp, tình trạng văn bản được ban hành nhưng khơng có khả
năng áp dụng vào thực tiễn vẫn tồn tại. Chất lượng của các
văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế; nhiều văn bản mới
ban hành, thực hiện trong thời gian ngắn, thậm chí chưa có
hiệu lực như Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 (trường hợp
Điều 60) hay Bộ luật Hình sự năm 2015, phải sửa đổi hay lùi
thời điểm có hiệu lực, làm giảm niềm tin của người dân, doanh
nghiệp vào tính nghiêm minh, tính pháp chế của pháp luật.
Văn bản hướng dẫn chậm được ban hành, làm chậm quá trình
triển khai thực hiện quy định mới, chính sách mới. Các vấn đề
phát sinh trong quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi (FDI), những yếu kém của các tập đoàn kinh tế
nhà nước... cũng cho thấy những khung thể chế về kinh tế thị
trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tương đối cao
nhưng chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, thực lực hiện
có. Hoạt động quản lý nhà nước chưa tạo ra thể chế thực sự đủ
sức hấp dẫn để thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển.
Thu ngân sách nhà nước vẫn còn phụ thuộc nhiều vào khu vực
có vốn đầu tư nước ngồi, các khoản thu từ tài nguyên, các
khoản thu đặc thù và các khoản thu phát sinh do yếu tố khách
quan dẫn đến một số năm khơng đạt dự tốn. Chính sách thu
cịn chưa bao quát hết các khoản thu, như thu từ hoạt động
thương mại điện tử (bán hàng qua mạng...), quản lý tài
nguyên, môi trường, tài sản... Việc huy động nguồn lực từ đất
đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản công chưa đạt hiệu quả cao,
13
chưa đáp ứng được nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội; vẫn cịn tình trạng thất thu ngân sách nhà nước do gian
lận, chuyển giá; nợ đọng thuế còn lớn, làm ảnh hưởng tới tỷ lệ
huy động thu ngân sách nhà nước...
Vấn đề phân bổ ngân sách cho phát triển vẫn cịn những khó
khăn. Trong giai đoạn 2011 - 2018, nguồn lực dành cho đầu tư
của khu vực nhà nước mang tính ngắn hạn và cịn bị động.
Mặc dù, trong những năm gần đây, nguồn lực nhà nước dành
cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhưng tính bình qn
thì giai đoạn 2011 - 2018, tỷ trọng chi đầu tư phát triển chỉ đạt
khoảng 20%, có xu hướng giảm so với giai đoạn 2006 - 2010
(28%). Hiệu quả đầu tư công chưa cao và tỷ trọng đầu tư công
vào các ngành xã hội như giáo dục, y tế hay ngành nơng, lâm,
thuỷ sản cịn khá thấp và có xu hướng giảm...
Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu theo
chiều rộng, trên cơ sở gia tăng các yếu tố đầu vào, như tăng
đầu tư vốn và sử dụng nhiều lao động, trong khi việc đổi mới
công nghệ, cải tiến sản xuất, quản lý, nâng cao trình độ cơng
nhân (gọi chung là các nhân tố tổng hợp - TFP) còn rất hạn
chế, dù đã được cải thiện tích cực qua các năm. Đóng góp của
TFP ở Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 40% và vốn vẫn là
yếu tố đóng góp xấp xỉ 50% vào số điểm phần trăm tăng
trưởng, dẫn tới mơ hình tăng trưởng vẫn mang đặc trưng thâm
dụng vốn. Trong khi đó, nhiều nước trong khu vực có tỷ lệ
đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt trên dưới 50%,
như Hàn Quốc là 51,5%, Trung Quốc là 52%, Thái Lan là
53%, In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a đều ở mức 49%.
Nội tại của nền kinh tế vẫn còn nhiều “điểm nghẽn” ở tiến
trình cổ phần hóa, thối vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước; chậm triển khai các dự án, cơng trình trọng điểm quốc
gia; doanh nghiệp có vốn mỏng, “tín dụng đen” vẫn hồnh
hành; cải thiện mơi trường kinh doanh chưa theo kịp với thực
14
tiễn của đời sống kinh tế và vẫn còn rủi ro trong chống chọi
với những thách thức từ bên ngoài.
Nhiều vấn đề của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chưa được luận giải và quản lý có hiệu quả. Các
biện pháp xử lý đối với hoạt động chuyển giá của một số
doanh nghiệp FDI, việc lợi dụng kẽ hở trong các quy định của
luật liên quan đến nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa sản xuất tại
Việt Nam (Made in Vietnam)... đang làm tổn hại niềm tin của
người dân vào hàng hóa trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu
ngân sách nhà nước.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến
đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có lĩnh vực
quản lý nhà nước. Sự thay đổi về đối tượng quản lý, khách thể
quản lý, phạm vi quản lý đòi hỏi quản lý nhà nước cần phải
thực sự thích ứng, thậm chí đi trước một bước trong các hoạt
động. Thể chế quản lý nhà nước cần phải được đổi mới để tạo
hành lang pháp lý thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển các sản
phẩm số hóa, trí tuệ nhân tạo, quản lý các giao dịch trên môi
trường số, quản lý thông minh, quản lý điện tử.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi bộ máy
quản lý nhà nước cần phải thực sự tinh gọn, với khả năng đưa
ra những quyết định kịp thời trên nền tảng dữ liệu đủ mạnh,
được chia sẻ. Nhân sự quản lý nhà nước cũng đối mặt với
thách thức về năng lực. Quản lý nhà nước khơng thể là q
trình quản lý sáng tạo nếu những cán bộ, công chức, chủ thể
quản lý không phải là những chủ thể sáng tạo, năng động, có
tầm nhìn, biết nhận ra cơ hội và biết lường trước những thách
thức để có thể tham gia có hiệu quả vào q trình quản trị nhà
nước.
Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư làm phát sinh những vấn
đề mới và làm thay đổi bản chất của nhiều vấn đề cũ, đòi hỏi
quản trị nhà nước phải nâng tầm để thực hiện chức năng quản
15
trị. Trong q trình thực hiện cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần
thứ tư, chênh lệch giàu - nghèo gắn với sự chênh lệch về tri
thức, sáng tạo. Những người có tri thức, kỹ năng thấp hơn có
xu hướng sẽ bị tụt hậu xa hơn, trong khi những người có tri
thức, sức sáng tạo sẽ có bứt phá ngày càng mạnh hơn. Quản trị
nhà nước phải lường trước được điều này để đưa ra những giải
pháp, để những người chưa có đủ tri thức và kỹ năng không bị
gạt ra bên lề của quá trình phát triển, tạo ra khả năng thích ứng
với những nghề nghiệp mới khi những nghề nghiệp cũ sẽ sớm
mất đi.
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đã và đang đứng trước hàng loạt yêu cầu đặt ra,
trong đó có những yêu cầu cơ bản sau:
Các cơ quan nhà nước cần tích cực tìm ra “điểm nghẽn”
trong tiến trình phát triển thơng qua việc lắng nghe các ý kiến
từ xã hội, từ cộng đồng doanh nghiệp, từ các diễn đàn trao đổi,
từ các tư vấn, gợi ý chính sách... Thể chế cần bảo đảm huy
động và quản lý có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc
biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn đầu tư tài chính,
nguồn ngân sách nhà nước... Cần có thể chế phân bổ nguồn
lực đầu tư cho phát triển thực sự hiệu quả, khắc phục sự đầu tư
dàn trải, đầu tư mà cơ sở xác định hiệu quả chưa thực sự rõ
ràng. Sự phân bổ nguồn lực cho phát triển cần dựa vào tín hiệu
của thị trường. Cần cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của
khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp cận vốn của nơng dân,
của các nhóm thiểu số trong xã hội.
Nhà nước cần có lộ trình giải quyết thực sự chủ động, tích
cực đối với các mục tiêu cụ thể. Về thể chế, Nhà nước cần cải
thiện mơi trường kinh doanh, đa dạng hóa các kênh tương tác
trực tiếp giữa người dân và chính quyền, xây dựng một cơ chế
mà các chủ thể trong xã hội có thể tham gia một cách hiệu
16
quả, trực tiếp hơn vào q trình hoạch định chính sách, pháp
luật để quá trình hoạch định này gắn với thực tiễn, nhận được
sự đồng thuận từ quá trình hoạch định đến quá trình thực thi.
Nhà nước cần thiết lập được thể chế thúc đẩy sự sáng tạo, cụ
thể là cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi
để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo, nuôi dưỡng sự
sáng tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Tập
trung thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo quốc
gia theo hướng xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể, phù
hợp để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo, như có cơ chế tài chính thúc đẩy hoạt động nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp với tôn chỉ
doanh nghiệp là trung tâm; đổi mới cơ chế đầu tư, tài trợ
nghiên cứu khoa học và phát triển cơng nghệ; có chính sách để
phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; kết
nối cộng đồng khoa học và cơng nghệ của người Việt Nam ở
nước ngồi và cộng đồng trong nước. Xây dựng các cơ chế,
chính sách về thuế, tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư cho các hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát
triển và đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin
và các công nghệ tiên tiến khác.
Nhà nước cần giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là mâu thuẫn giữa phát triển nhanh và bền vững; giữa tồn
cầu hóa, hội nhập quốc tế và xu hướng bảo hộ; giữa việc cắt
giảm hàng rào thuế quan và việc gia tăng hàng rào phi thuế
quan; giữa các hiệp định thương mại song phương và các hiệp
định thương mại của một quốc gia với các tổ chức, khu vực...
Nhà nước cần bảo đảm sự phát triển đồng bộ của các thị
trường, đẩy mạnh thị trường vốn và tiền tệ với hành lang pháp
lý rõ ràng, minh bạch; đẩy nhanh tiến trình thẩm định, định giá
các doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng hành lang pháp lý cho
17
các mơ hình kinh tế số, kinh tế chia sẻ, các hình thức thanh
tốn mới, cho vay ngang hàng, hạn chế tình trạng “tín dụng
đen”. Quan tâm hơn tới kiểm sốt bội chi ngân sách, nợ nước
ngồi của quốc gia; cải cách cơ chế thu, chi ngân sách, kể cả
cơ chế phân cấp thu, chi ngân sách của các địa phương, để tạo
điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Giải quyết có hiệu quả “điểm nghẽn” về kết cấu hạ tầng và
chất lượng nguồn nhân lực. Nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng ở
nước ta tăng lên mỗi năm. Đầu tư cho kết cấu hạ tầng góp
phần vào tăng trưởng trong trung hạn và dài hạn, vì vậy, Nhà
nước cần lập kế hoạch và ưu tiên đầu tư các dự án kết cấu hạ
tầng xương sống của quốc gia. Bên cạnh đó, Nhà nước cần
xây dựng mơi trường pháp lý hiệu quả nhằm thu hút sự tham
gia của khu vực tư nhân. Các hoạt động này bao gồm xây
dựng khung pháp lý tồn diện về đối tác cơng - tư và thúc đẩy
sự phát triển của khu vực tài chính trong nước, đồng thời bảo
đảm hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước là một nội
dung quan trọng trong chương trình về kết cấu hạ tầng. Phát
triển kết cấu hạ tầng theo các hình thức đối tác cơng - tư cần
phải được tiếp cận theo hướng là hoạt động nhằm thu hút
nguồn lực đầu tư cho phát triển từ xã hội. Trong đó, cần lựa
chọn các đối tác có đủ năng lực tài chính, năng lực kỹ thuật,
bởi các đối tác thiếu năng lực tài chính có thể ảnh hưởng đến
tiến độ triển khai, chất lượng cơng trình và sự ổn định của thị
trường tài chính; nhưng quan trọng hơn cả là những đối tác có
dự án dựa trên công nghệ hiện đại, ứng dụng sâu và rộng công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học trên nền tảng cơng nghệ
số, trí tuệ nhân tạo.
Nhà nước cần nâng cao năng lực dự báo về biến động của
đời sống kinh tế - xã hội trong khu vực và trên thế giới, có khả
năng đưa ra những gợi ý, những định hướng nhằm giảm “sốc”
từ những biến động bất lợi của thị trường khu vực và quốc tế.
Nhà nước cũng cần là chủ thể cung cấp kịp thời những thông
18
tin về thị trường, những tín hiệu thị trường nhằm định hướng
cho hoạt động của các doanh nghiệp bắt kịp với diễn biến thực
tế. Quản trị nhà nước cần có tầm tư duy khu vực và tồn cầu,
tìm ra giá trị của Việt Nam trong các chuỗi sản xuất, các chuỗi
giá trị để thực sự bắt nhịp với dòng chảy phát triển chung của
nhân loại.
Xây dựng chính quyền số, chính quyền thông minh với khả
năng chia sẻ các dữ liệu quản lý nhà nước cần được đặt ra và
triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo ra sự phối hợp liên ngành,
liên vùng, khai thác lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa
phương, mỗi ngành, lĩnh vực, tạo ra sự kết nối cho phát triển.
Mỗi bộ, ngành, địa phương cần chủ động cắt giảm thủ tục
hành chính, những thủ tục có thể trở thành rào cản cho các
hoạt động kinh tế - xã hội, để thủ tục hành chính vừa bảo đảm
sự chặt chẽ cần thiết, vừa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sự linh hoạt,
thích ứng nhanh với sự thay đổi và thay thế nhanh công nghệ
hiện đại, công nghệ số của doanh nghiệp. Phương thức quản lý
nhà nước cần được đổi mới, tương thích với việc ứng dụng các
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong
mọi mặt của hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và
hội nhập quốc tế, trong thời đại cơng nghệ số và trí tuệ nhân
tạo.
2.3.Yếu tố dân số, lực lượng lao động
Tại Việt Nam, phụ nữ chiếm 52% lực lượng lao động xã hội,
tham gia hoạt động đông đảo ở tất cả các ngành kinh tế. Lực
lượng lao động nữ đi làm đông hơn rất ảnh hưởng đến xí
nghiệp, xét trên phương diện thai sản, chăm sóc con cái.
Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu
vực ASEAN
19
Lao động nước ngồi làm việc tại Việt Nam: Khơng phải
đóng bảo hiểm thất nghiệp
Cùng với q trình đổi mới đất nước, nhiều giải pháp tạo
việc làm cho người lao động, giải quyết vấn đề lao động – việc
làm đã được các cấp, các ngành quan tâm nhằm tạo động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội. Tuy
nhiên, chất lượng lao động hạn chế đang ngày càng gây nên
những áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động. Do vậy, việc làm rõ thực trạng và những vấn đề còn
tồn tại của lao động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một
vấn đề cần thiết.
Việt Nam là nước có quy mơ dân số lớn, tháp dân số tương
đối trẻ và bắt đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với
nguồn nhân lực dồi dào nhất từ trước đến nay. Tính đến hết
năm 2017, dân số nước ta đạt 96,02 triệu người, trong đó nữ
chiếm khoảng 48,94%. Gia tăng dân số trong những năm qua
kéo theo gia tăng về lực lượng lao động. Nhìn chung, mỗi năm
Việt Nam có khoảng gần 1 triệu người bước vào độ tuổi lao
động, đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt Nam
trong việc thu hút đầu tư nước ngồi góp phần phát triển kinh
tế - xã hội.
Xét cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính, tỷ lệ lao động
nam lại nhiều hơn nữ với trên 50% lao động là nam giới. Tuy
nhiên, sự chênh lệch này không đáng kể và cho thấy lao động
nữ chiếm một lượng đông đảo. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động
nữ khá cao so với lao động nam do hạn chế về sức khỏe,
những mâu thuẫn giữa sinh đẻ và làm việc, cơ hội tìm được
việc làm vừa ý sau khi sinh là thấp.
Hiện nay, lực lượng lao động vẫn tập trung đông nhất ở khu
vực Đồng bằng sông Hồng (chiếm trên 22%), tiếp đến là khu
vực Bắc trung bộ, Duyên hải miền Trung (trên 21%) và Đồng
20
bằng sơng Cửu Long. Đây là các khu vực có diện tích đất
rộng, tập trung nhiều thành phố lớn, khu đô thị và nhiều khu
công nghiệp, thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh nên thu
hút đông đảo lao động tập trung ở những khu vực này. Những
khu vực chiếm tỷ lệ thấp, là những khu vực có diện tích đất
hẹp, nhiều đồi núi, ít khu đơ thị và khu công nghiệp nên không
thu hút nhiều lao động đến đây.
Cơ cấu lực lượng lao động phân theo 2 khu vực thành thị và
nơng thơn cũng có sự chênh lệch lớn. Nhìn chung, lực lượng
lao động ở nước ta chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn,
chiếm khoảng gần 70%. Con số này có xu hướng giảm qua
các năm nhưng vẫn ở mức cao. Cả nước hiện có khoảng 17
triệu thanh niên nơng thơn có độ tuổi từ 15-30, chiếm 70% số
thanh niên và 60% lao động nông thôn. Tuy nhiên, 80% trong
số này chưa qua đào tạo chuyên môn. Đặc điểm này là trở ngại
lớn cho lao động nông thơn trong tìm kiếm việc làm. Tính đến
năm 2017, dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam là hơn
72,04 triệu người (chiếm khoảng 75% tổng dân số cả nước),
trong đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đạt 75,5%, với
54,4 triệu người. So với năm 2010 (tỷ lệ tham gia lực lượng
lao động là 75%), lực lượng lao động tính đến năm 2017 tăng
cả về tỷ lệ và số lượng tuyệt đối.
Thời gian qua, mặc dù lực lượng lao động tăng cả về số
lượng và trình độ chun mơn, song vẫn cịn nhiều vấn đề đặt
ra đối với lực lượng lao động Việt Nam hiện nay, cụ thể:
Lao động phân bổ không đều giữa các vùng: Các vùng đất
rộng có tỷ trọng lao động thấp (vùng trung du và miền núi
phía Bắc chỉ chiếm 13,8% lực lượng lao động, Tây Nguyên
chiếm 6,5% lực lượng lao động), phân bổ lao động chưa tạo
điều kiện phát huy lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho người
lao động và tác động tích cực đến sự di chuyển lao động từ các
vùng nông thôn ra thành thị. Năm 2017, lực lượng lao động
21
chủ yếu tập trung ở các vùng Đồng bằng Sông Hồng (21,8%),
Đồng bằng Sông Cửu Long (19,1%), Bắc Trung bộ và Duyên
hải miền Trung (21,6%), các vùng còn lại chiếm 17,2%.
Chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp,
nông thôn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển: Nguồn cung
lao động ở Việt Nam hiện nay luôn xảy ra tình trạng thiếu
nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động một số
ngành dịch vụ (ngân hàng, tài chính, thơng tin viễn thơng, du
lịch…) và cơng nghiệp mới. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề
còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác phong lao động
cơng nghiệp cịn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp. Tình trạng
thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, cả về
chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp
ứng được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng
máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động của
người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được u cầu đặt ra
của q trình sản xuất cơng nghiệp. Một bộ phận lớn người lao
động chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp.
Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, mang
nặng tác phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu nông,
tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được
trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, khơng
có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng
kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển lao động:
Phần lớn lao động di cư chỉ đăng ký tạm trú, khơng có hộ
khẩu, gặp khó khăn về nhà ở, học tập, chữa bệnh... trình độ
học vấn của lao động di cư thấp và phần đông chưa qua đào
tạo nghề. Hầu hết các khu công nghiệp và khu chế xuất – nơi
sử dụng đến 30% lao động di cư khơng có dịch vụ hạ tầng xã
hội (ký túc xá, nhà trẻ, nhà văn hóa, đào tạo nghề, tham gia
bảo hiểm xã hội…), lao động di cư ít có cơ hội tiếp cận với
các dịch vụ xã hội cơ bản. Tình trạng trên dẫn tới hậu quả là
22
nguồn cung lao động khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế của các vùng, các khu công nghiệp, khu chế xuất.
2.4.Luật pháp
Luật pháp ảnh hưởng nhiều đến công tác quản trị nguôn
nhân lực của công ty. Ở Việt Nam, Luật lao động được ban
hành nhằm quản lý, chi phối mối quan hệ lao động trong tất cả
các doanh nghiệp nhà nước và các hình thức sở hữu khác.
2.5.Văn hóa – xã hội
Văn hóa xã hội của một nước ảnh hưởng rất lớn đến quản trị
nhân lực. Trong một nền văn hóa xã hội có quá nhiều đẳng
cấp, nấc thang giá trị xã hội không theo kịp với đà phát triển
của thời đại, rõ ràng nó kìm hãm, không cung cấp nhân tài cho
các tổ chức.
Sự thay đổi lối sống trong xã hội cũng ảnh hưởng đến cấu trúc
của các công ty. Tại các nước phát triển, lực lượng lao động
chuyển từ khu vực sản xuất ra hàng hóa sang ngành dịch vụ,
đó là các ngành giao thông, truyền thông, các dịch vụ kinh
doanh.
2.6.Đối thủ cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, nhà quản trị không phải chỉ
chú trọng cạnh tranh thị trường, cạnh tranh sản phẩm mà bỏ
quên cạnh tranh về nhân lực. Nhân lực là cốt lõi của quản trị,
các công ty ngày nay chịu sự tác động bởi môi trường đầy
cạnh tranh và thách đố. Để tồn tại và phát triển, khơng có con
đường nào bằng con đường quản trị nhân lực một cách hiệu
quả.
Để thực hiện được điều trên, các công ty phải có chính sách
nhân lực hợp lý, phải biết lãnh đạo, động viên, thăng thưởng
23
hợp lý, phải tạo ra một bầu khơng khí gắn bó. Ngồi ra cơng ty
phải có một chế độ chính sách lương bổng đủ để giữ nhân viên
làm việc với mình, phải cải tiến mơi trường làm việc, và cải
tiến các chế độ phúc lợi.
2.7.Tiến bộ khoa học kỹ thuật
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nói chung trên thế giới
đang làm tăng áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Do
đó, địi hỏi các doanh nghiệp phải có sự quan tâm thỏa đáng
đến việc không ngừng cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ
để tăng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
2.8.Khách hàng
Khách hàng là mục tiêu của mọi doanh nghiệp. Khách hàng
mua sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty là một phần của môi
trường bên ngoài. Doanh số là một yếu tố quan trọng đối với
sự sống cịn của một cơng ty. Do đó, các cấp quản trị phải bảo
đảm rằng nhân viên của mình sản xuất ra các mặt hàng phù
hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Chất lượng của
hàng hóa hoặc dịch vụ rất quan trọng đối với khách hàng. Do
đó, nhà quản trị phải làm cho nhân viên của mình hiểu được
rằng khơng có khách hàng là khơng cịn doanh nghiệp, và họ
khơng cịn có cơ hội được làm việc nữa. Hoặc người lao động
hiểu rằng doanh thu của công ty ảnh hưởng đến tiền lương của
họ. Muốn cho người lao động ý thức được các điều đó, nhiệm
vụ của các cấp quản trị và của tồn cơng ty là phải biết quản
trị nhân lực một cách có hiệu quả, nghĩa là tổng hợp nhiều yếu
tố chứ không phải đơn thuần là lương bổng và phúc lợi, hoặc
tăng lương, thăng chức.
2.9.Liên hệ thực tiễn trong hoạt động quản lý
-Trên thực tiễn yếu tố khách quan ảnh hưởng tới việc ra
quyết định quản lý trong hoạt động quản lý:
24
+Khả năng định lượng:
Đây là yếu tố rất quan trọng đối với trong quản lý khi ra
quyết định, việc định lượng địi hỏi trong quản lý phải có
nhiều phương pháp tính tốn bởi mỗi quyết định liên quan
nhiều vấn đề, và có cách tính tốn khác nhau. Bên cạnh đó
có sự việc khơng có cơng thức tính tốn buộc nhà quản lý
với tố chất của mình buộc phải ước lượng để đưa ra con số
phù hợp.
+ Kiến thức:
Yếu tố này được coi là nền tảng cơ bản nhất đối với trong
quản lý. Kiến thức nhân loại là vô tận nhà quản lý càng học
rộng hiểu nhiều thì ra quyết định sẽ có rất tốt, hiệu quả. Kiến
thức của nhà quản trị là sự tổng hợp từ nhiều lĩnh vực của
đời sống được trau dồi từ nhiều hình thức: học nhà trường,
học ngoài xã hội, học từ thực tế, những kiến thức này được
kết tinh tạo ra kiến thức rất riêng biệt.Trong thực tế chúng ta
đã chứng kiến nhiều nhà quản trị rất thành đạt khi trình độ
học vấn thấp, nhưng cũng có nhiều nhà quản lý bằng cấp rất
cao nhưng khả năng quản lý yếu (chúng ta loại trừ yếu tố
mua bằng cấp, học rởm.v.v). Nhà quản lý có kiến thức đã tốt
nhưng biết huy động, sử dụng kiến thức là quan trọng hơn,
bên cạnh đó ln học hỏi, tìm hiểu từ thực tiễn để nâng cao
trình độ của mình.
• Kinh nghiệm thực tế:
Trong quản lý cũng địi hỏi có nhiều kinh nghiệm, từng trải
thì khi ban hành quyết định sẽ hiệu quả, phù hợp, hay lường
trước rủi ro và có biện pháp đề phịng. Ngược lại với nhà
quản trị chưa có kinh nghiệm nhưng có kiến thức thì cần rèn
luyện nhiều trong môi trường công việc để va chạm những
tình huống trong kinh doanh để khơng bị bỡ ngỡ.
•Ngồi ra cịn có
- Sức khoẻ:
Trong quản lý thường lao động trí óc rất nhiều, do
đó,tiêu hao nhiều năng lượng và có thể ảnh hưởng đến vấn
đề tinh thần. Muốn có tinh thần tốt thì điều cốt lõi phải có sức
khoẻ tốt, hai yếu tố này bổ trợ cho nhau và rất cần thiết đối
với trong quản lý.
. - Triết lý kinh doanh và chiến lược công ty.
Vấn đề đặt ra của trong quản lý là làm sao đạt mục tiêu,
25