Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.51 KB, 14 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>TS. Mai Văn Tỉnh1</b>
<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
Tuyên bố Giáo dục mở (2007) tại Cape Town, Nam Phi đã chỉ ra
rằng chúng ta đang trên đỉnh của cuộc cách mạng toàn cầu về dạy và
học, nơi mà các nhà giáo dục trên toàn thế giới đang phát triển nguồn
tài nguyên giáo dục rộng lớn trên Internet, mở và miễn phí truy cập cho
tất cả mọi người. Có thể nói Giáo dục mở được xây dựng trên sự hội
tụ lồng ghép và phát triển của nguồn mở, truy cập mở và khoa học mở;
và cũng là biểu tượng của tập hợp các thay đổi chính trị và kinh tế rộng
lớn hơn báo hiệu về “sản xuất xã hội” như một khía cạnh của nền kinh
tế kỹ thuật số toàn cầu.
Nghị quyết TW số 29 - NQ29/2013 về “đổi mới giáo dục và đào
tạo Việt Nam” là minh chứng cho tầm nhìn đúng đắn về nhu cầu cấp
bách đổi mới căn bản và triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo ở đầu
TK XXI để hội nhập quốc tế. Một trong các nội dung của NQTW số 29
“xây dung nền giáo dục theo hướng mở” là một trong những chỉ thị rất
nhạy bén, bắt kịp xu thế thời đại mà hội nghị khoa học về tổng kết 5
năm thực hiện NQ TW số 29 của Hội đồng lý luận TW ngày 20/5/2019
tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã khẳng định. Tuy nhiên các nhà khoa
học cũng đã chỉ ra những hạn chế sau 5 năm triển khai NQTW 29,
đặc biệt là chưa quán triệt nghiên cứu để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của
Giáo dục mở, do đó chưa tạo ra đột phá để NQ 29 đi vào cuộc sống (1).
1 Phó trưởng Ban nghiên cứu và phân tích chính sách, Hiệp hội các trường đại học và
Mục đích của bài viết này là bước đầu làm rõ một vài cơ sở lý luận cũng
như thực tiễn triển khai Giáo dục mở bằng việc đặt ra những câu hỏi sau:
- Thực chất khái niệm Giáo dục mở (Open Education) là gì?
- Cần hiểu khái niệm Tính Mở (Openness) cho Giáo dục đại học
- Giáo dục Mở đang làm việc thế nào?
- Mối quan hệ giữa Giáo dục mở với các biến thể cụ thể của nó
trong Giáo dục đại học?
<b>2. VỀ NỀN TẢNG LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CHO GIÁO DỤC MỞ Ở VIỆT NAM</b>
Tóm tắt nội dung các tham luận của Hội thảo Giáo dục Mở tháng
5/2018 tại Hà Nội, có thể rút ra một số luận điểm sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục ngay từ khi dựng nước năm 1945
là nền tảng quan trọng cho bình đẳng giáo dục, tự do bác ái và là cơ sở
lý luận sâu sắc cho khái niệm Giáo dục Mở (GDM) ngày nay;
- Nền giáo dục truyền thống khép kín đã bộc lộ các nhược điểm trì
trệ, thiếu dân chủ, không phát huy khả năng học tập của từng cá nhân;
- Giáo dục Mở tạo ra cầu nối khắc phục tình trạng mất cơng bằng
giáo dục, thúc đẩy xu thế Học suốt đời cho mọi người, mọi nơi, mọi lúc
nhằm tiến tới xã hội học tập.
- Xu thế của trào lưu GDM trên toàn cầu đầu thế kỷ XXI đã chứng
tỏ tính nhạy bén của NQTW số 29 trong chỉ đạo đổi mới giáo dục và
đào tạo;
- Sự chuyển đổi thuật ngữ “Giáo dục cho mọi người” sang “Học
suốt đời cho mọi người” của UNESCO từ năm 2015 mở ra một kỷ
nguyên mới cho Giáo dục Mở.
<b>3. THỰC CHẤT GIÁO DỤC MỞ LÀ GÌ? CĨ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁO DỤC MỞ VỚI CÁC BIẾN THỂ </b>
<b>CỦA NÓ (TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ, XUẤT BẢN MỞ, TRUY CẬP MỞ, THỰC TIỄN MỞ …)</b>
hệ thống bất biến và khép kín có rất ít kết nối với các bộ phận khác
trong xã hội. Tuy nhiên, trong thế kỷ qua, những thay đổi đáng kể đã
xảy ra trong nhiều lĩnh vực của xã hội, đỉnh cao là các động thái cải
cách toàn cầu nhằm dân chủ hóa giáo dục và tăng cường sự tham gia
bằng cách mở cửa giáo dục. Một ví dụ nổi bật của phong trào như vậy
là “Tài nguyên giáo dục mở” (Open Educational Resources/OER), đây
là một nỗ lực tồn cầu nhằm thúc đẩy dịng chảy tri thức, giảm chi phí
giáo dục và thiết lập hệ thống giáo dục dựa trên các giá trị nhân văn và
đạo đức (tức là chia sẻ). Tuy nhiên, những phát triển gần đây đang tiến
triển với tốc độ nhanh đến mức khó có thể dự đốn giá trị thực tế của
“Tài nguyên giáo dục mở” cho các mục đích giáo dục. Ngồi ra, trong
OER, có khá ít tài liệu tham khảo đã mô tả về các hình thức trước đây
của Giáo dục mở, chẳng hạn như Lớp học mở/Học tập mở trong những
thập niên 1960 và 1970.
Các hình thức Giáo dục Mở (Open Education/OE) hiện tại có thể
được mơ tả như một hỗn hợp các tuyên bố về kinh tế (“giáo dục là
hàng hóa”), về đạo đức (“giáo dục như lợi ích công cộng”) và về xã hội
(“giáo dục như một doanh nghiệp chia sẻ”), mà mỗi khía cạnh đều đóng
góp vào sự xuất hiện của Giáo dục Mở.
<b>3.1. Giáo dục Mở xét dưới góc độ kinh tế học</b>
trình giáo dục thơng qua lăng kính của nền kinh tế sáng tạo. Khi làm như
vậy, có sự thúc đẩy để nắm lấy tính đổi mới mở và sự cần thiết phải sử
dụng các mạng đồng đẳng (P2P) của các cơ sở giáo dục.
Xã hội và công nghiệp đang ngày càng trở nên phụ thuộc nhiều hơn
vào đổi mới trong khoa học và công nghiệp giải trí. Tri thức được chia
sẻ đang ngày một phát triển và luôn thay đổi bởi người tham gia liên tục
đặt câu hỏi và tri thức được cải thiện thông qua những nỗ lực kết hợp
của những người đóng góp vào nó. Một trong những vai trị quan trọng
của cơ sở giáo dục đại học là tăng khả năng chuyển giao nghiên cứu
cho công nghiệp, tạo ra các phát minh mới, bằng sáng chế và spin-off
công nghệ. Do đó, phong trào này ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới đang
biến đổi các trung tâm đổi mới của trường đại học và tăng cường khả
năng thương mại hóa nghiên cứu của nó.
Mạng lưới mở và mạng đồng đẳng (P2P) đang thúc đẩy sự sáng
tạo tri thức và tiến bộ kinh tế - xã hội thông qua sự phát triển xã hội tri
thức. Tính mở và mạng P2P đang ngày càng nhận được sự quan tâm lớn
từ các học giả, chuyên gia và nhà hoạch định chính sách trong những
năm gần đây. Ngày càng có nhiều ấn phẩm và hội nghị khám phá các
chủ đề này từ nhiều góc độ khác nhau. Tính mở và P2P đang trở thành
những ý tưởng thiết yếu trong lĩnh vực phát triển chính sách giáo dục
đại học. Công nghệ thường xuyên thay đổi chuẩn mực văn hóa và yêu
cầu các xã hội duy trì các chuẩn hiện hành trong văn hóa phát triển. Một
số giảng viên và nhà quản trị tin rằng chỉ cần cung cấp cơ sở hạ tầng
cơng nghệ cao hợp lý là tất cả những gì cần thiết để phát triển và duy trì
phương pháp sư phạm công nghệ sẽ hiệu quả. Nhưng điều cần thiết cho
hệ thống giáo dục lại là phải tạo cơ hội cho sinh viên phát triển kỹ năng
thực tế và nhận thức của họ.
của sinh viên người lớn. Các cơ sở giáo dục đại học phải hiểu được sở
thích của sinh viên trong việc sử dụng học trực tuyến và đảm bảo cho họ
có được những ưu tiên đó khi lập kế hoạch các khóa học và chương trình
Nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng cách kết nối các
cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ liên quan. Cán cân thế giới về sức
mạnh kinh tế đã thay đổi kể từ đầu thế kỷ XXI. Tồn cầu hóa làm tăng
tốc độ di chuyển hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc tế, đặt ra những
thách thức cũng như cơ hội cho nhiều phân khúc của nền kinh tế. Khi
các tập đoàn bắt đầu trở nên toàn cầu, họ khơng chỉ ảnh hưởng đến các
văn hóa khu vực, mà còn gây ra sự thù địch ở các quốc gia nơi những
cơng dân khơng hài lịng đang thực hiện các hành động chống tồn cầu
hóa và chống dân chủ hóa để bảo tồn văn hóa, giá trị và truyền thống
của họ.
<b>3.2. Giáo dục Mở xét trên góc độ cơng nghệ</b>
Khi bàn về học và dạy điện tử (e-Learning & e-Teaching) trong
Giáo dục đại học, Tiến sĩ Charles Juwah Aberdeen, Scotland, Vương
quốc Anh nhận xét “Trong 800 năm qua, giáo dục đại học đã cho thấy
tính bền vững, năng lực thích ứng và khả năng biến đổi. Ngày nay, ngày
càng có nhiều nhu cầu đàm phán về sự phức tạp của thời đại thông tin,
ngày càng trở nên khắt khe hơn khi chúng ta bị ảnh hưởng bởi công
nghệ và sự giao thoa lớn hơn của các quốc gia và dân tộc của họ. Các xã
hội tri thức mới của chúng ta đòi hỏi sự linh hoạt hơn trong các cấu trúc
giáo dục của mình để thích nghi dễ dàng hơn với các phong cách học
tập và giảng dạy mới, nhu cầu trí tuệ và xã hội mới, mức độ phát triển
kỹ năng mới. Sự chuyển đổi như vậy thường được gọi là “cuộc Cách
mạng học tập đang diễn ra trong một kỷ nguyên mới của cạnh tranh kỹ
thuật số toàn cầu trong giáo dục đại học” (2).
Tuy nhiên, bên cạnh việc dạy và học điện tử, các nhà nghiên cứu ở
UK còn khuyến cáo phải chú ý đến dạy kèm điện tử (e-tutoring) và đánh
giá điện tử (e-evaluating), đặc biệt phải chú ý phương thức pha trộn dạy
mặt đối mặt trực tiếp truyền thống với dạy trực tuyến. Liệu có phải các
trường đại học ở các nước phát triển như Anh, Mỹ đã chuyển sang Giáo
dục Mở bằng hồn tồn dạy trực tuyến và các khóa học MOOCs?
Trên tồn cầu mới chỉ có 32% sinh viên đại học có ít nhất 1 khóa học
on-line. Số liệu khảo sát cho thấy mới chỉ có 2,6% các cơ sở giáo dục
đại học đã và đang sử dụng MOOCs, và chỉ có 9,4% số trường báo cáo
là đang lên kế hoạch dạy MOOCs trong thời gian tới. E-learning là hình
thức học phù hợp cho Giáo dục Mở, Từ xa và Học linh hoạt, nhưng vẫn
phải có phương thức học pha trộn dạy truyền thống với trực tuyến. Vấn
đề là cần đi sâu tìm hiểu các rào cản trong ứng dụng cơng nghệ cho Giáo
<b>3.3. Tính mở trong giáo dục đại học </b>
Theo quan điểm các nhà nghiên cứu trên tạp chí Cơng nghệ Giáo
dục AJET - Úc, khái niệm Tính mở có tính đa diện và có thể được giải
quyết từ một loạt các góc độ khác nhau. Ở đây chúng ta chỉ tập trung
vào Tính mở trong giáo dục, với sự tập trung đặc biệt vào sản xuất
và tiếp cận tri thức. Các nhà nghiên cứu cũng tập trung vào lĩnh vực
xuất bản học thuật, vốn liên tục biến đổi và đã có những thay đổi đáng
kể trong những năm gần đây, một phần do công nghệ thay đổi nhanh
chóng. Khi thu hẹp phạm vi thảo luận để tập trung vào cách tiếp cận
AJET về tính mở như một ví dụ về xuất bản truy cập mở, một câu hỏi
được đặt ra là làm thế nào có thể phát triển truy cập mở trong lĩnh vực
giáo dục đại học, vốn được đặc trưng bởi việc tăng hạn chế ngân sách
để có thể tiếp cận tri thức càng nhiều càng tốt cho nhiều độc giả tiềm
năng nhất có thể.
Sự tham gia ngày càng tăng về Tính mở trong xuất bản học thuật
đã cho thấy khái niệm được đóng khung qua lăng kính của các mơ hình
kinh doanh xuất bản với quyền truy cập xanh và vàng và phí xử lý bài
viết trọng tâm. Trong cơng trình nghiên cứu của mình, các tác giả Janet
cố gắng chạm đến những hàm ý rộng hơn và ý nghĩa của Tính mở khi
nói về vị trí cơng việc học thuật trong xã hội thơng tin hiện đại và sự
đóng góp của nó cho các nền dân chủ lành mạnh (xem Trow, 2010).
● Tính mở trong ý nghĩa cơng nghệ;
● Tính mở như một hợp đồng xã hội;
● Tính mở như dân chủ có sự tham gia;
● Tính mở như một sự thay thế cho thị trường tân tự do;
● Tính mở như tự do ngơn luận;
● Tính mở với những ý tưởng và kinh nghiệm mới;
● Tính mở loại bỏ các giới hạn của địa lý và thời gian. (4).
Tính mở trong giáo dục đại học thường được coi là một biểu hiện
và phản ứng với ý tưởng cho rằng giáo dục và sự am hiểu là hàng hóa
cơng cộng. Về mặt này tính mở là một lực lượng dân chủ hóa. Nó có thể
biểu hiện thông qua các trường đại học giảng dạy mở và từ xa sau khi
Đại học Mở của Vương quốc Anh thành lập năm 1969. Peters và Britez
(2008) đã xác định các phong trào mở khác biệt có liên quan khác trong
Lớp học mở, Trường học mở và Khóa học mã nguồn mở. Khóa học mã
nguồn mở chịu ảnh hưởng nặng nề của phong trào phần mềm nguồn
mở đã tạo ra khía cạnh được cho là nổi tiếng nhất và được hiểu rộng rãi
nhất về giáo dục mở với tư cách Tài nguyên giáo dục mở (OERs). Như
Cronin và McClaren (2018) đã chỉ ra, định nghĩa về OER vẫn ổn định
đáng kể khi các tài liệu giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong bất kỳ
phương tiện, kỹ thuật số, nằm trong phạm vi công cộng hoặc đã được
phát hành theo giấy phép mở cho phép truy cập miễn phí, sử dụng, điều
chỉnh và phân phối lại bởi những người khác mà không bị hạn chế giới
hạn nào.
Họ trao quyền tái sử dụng, sửa đổi, phối lại, phân phối lại và giữ lại một
cái gì đó. Mặc dù đây là những động từ hoạt động, các nhà bình luận
vẫn cảm thấy cần phải thận trọng rằng phong trào Tài nguyên Giáo dục
mở (OER) có thể rơi vào một cái bẫy tập trung quá mức vào nội dung,
và do đó thuật ngữ Thực tiễn giáo dục mở (Open Education Practice/
OEP) được viện dẫn để chuyển trọng tâm sang các phương pháp sư
<b>3.4. Giáo dục mở: sự cần thiết phải có cách tiếp cận phê phán</b>
“Tính Mở” (“Openness”) đã trở thành một thuật ngữ mang tính
chính trị và chịu trách nhiệm cao, một phong trào hoạt động trong nhiều
lĩnh vực nằm ngồi phạm vi giáo dục (ví dụ: kiến thức mở, chính phủ
mở, truy cập mở, dữ liệu mở, nguồn mở và văn hóa mở). Trong quá
trình này, nó đã có được một ý nghĩa thơng thường và di sản thơng
thường, và hình thành nên một khơng gian hậu chính trị của sự đồng
thuận rõ ràng. Lời mời về vấn đề mở là khá hiếm hoi, đặc biệt trong lĩnh
vực như giáo dục mà trên hết được thúc đẩy bởi mong muốn trao đổi
kiến thức, để có thể tiếp cận và ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống của
các cá nhân. Tuy nhiên, chính xác là quan điểm tính mở này - như một
đức tính của giá trị tự nhiên - đó là vấn đề, khơng chỉ bởi vì nó che dấu
những quan điểm thay thế, mà còn bởi vì nó có thẩm quyền đạo đức rõ
ràng làm cho nhà phê bình tốt nhất chính là kẻ cuồng tín cơng nghệ và
là người yếm thế, và tồi tệ nhất, là nhà tinh hoa và nhà vô địch về hiện
trạng. Thật vậy, thiết nghĩ rằng trong thời điểm này có lẽ cần đặt câu hỏi
về giáo dục mở mà các quan điểm phê phán nó là cần thiết nhất.
mở Chính thống, và năm 2016, nó được đặt tên là Văn hóa mở báo hiệu
không chỉ là sự tự tin ngày càng tăng trong giáo dục mở như một lĩnh
vực, mà còn với ý nghĩa rằng mong muốn ban hành cải cách thể chế và
văn hóa sâu rộng là bản chất của phong trào này. Điều này nhấn mạnh
cấu trúc đối lập do các lời kêu gọi giáo dục mở đưa ra, trong khi “bảo
vệ” cái mở, đồng thời nhấn mạnh sự tồn tại của nền giáo dục bị đóng
cửa và trái ngược với những lý tưởng đương thời về khả năng tiếp cận
Điều quan trọng là lĩnh vực này thiếu các định nghĩa mạch lạc về
“Mở”, quá thường xuyên hướng tới sự lạc quan, vận động và niềm tin,
thay vì sự hiểu biết quan trọng về Tính mở có thể có ý nghĩa gì đối với
giáo dục. Hơn nữa, chính những điều mơ hồ của bản thân thuật ngữ này
đã cho phép nó gắn liền với các ý tưởng khác một cách dễ dàng: với các
khái niệm về tự học và tương tác cộng đồng gắn kết; với công nghệ và
năng lực được cho là của các cơng trình nối mạng kỹ thuật số cho phép
hoạt động giáo dục diễn ra. Theo những cách này, cái “Mở” (“open”),
quá thường xuyên chiếm sự dễ dàng giả định mà các tơn ty trật tự giáo
dục có thể được đặt theo chiều ngang, và có thể giải quyết các rào cản
kinh tế và địa lý. Nhưng hơn thế nữa, Tính mở thường cho rằng các
cấu trúc nhà trường, hạn chế tài chính và khoảng cách là những vấn đề
duy nhất ngăn cản sự tiếp thu bản năng và nỗ lực của việc học tự định
hướng. Nói chính xác theo cách này, nhà vơ địch thiếu phê phán Tính
mở khơng thể phân tích đầy đủ Tính khép của giáo dục.
bất cứ lúc nào và giáo viên chỉ đơn giản là tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình. Giả định là “chúng ta” rất mở cửa tự nhiên và trong suốt thời
gian này, kỷ luật nhà trường đã bắt chúng ta phải đóng cửa. Tuy nhiên,
ý tưởng cởi mở này phụ thuộc quá nhiều vào logic tự định hướng và
không tham gia vào việc không chú trọng đến việc tiếp xúc với giáo
viên, các hình thức có vấn đề về cơ lập sinh viên, chiếm dụng lao động
học thuật, bỏ bê xã hội và các chiều kích chính trị của một nền giáo dục
xuất hiện trong các phịng học tồn cầu hóa. Tính mở như vậy chỉ là giải
pháp cho chủ thể tự chủ tưởng tượng, và chỉ có thể tưởng tượng được
khi giáo dục được tách ra khỏi sự phức tạp của văn hóa, xã hội và sức
mạnh của chính trị. Hơn nữa, việc tái cấu trúc vai trò giáo viên và sự
khơng chun nghiệp hóa việc dạy học đã bị bỏ qua trong nỗ lực này
<b> 3.5. Chủ nghĩa xã hội tri thức và trường đại học: Commons và các cơ hội trí tuệ cho </b>
<b>Tính Mở trong thế kỷ XXI</b>
và đồng đẳng. Để minh họa cho sự tiến bộ và khả năng của Đại học Mở
2.0, các tác giả tập trung vào sáng kiến truy cập mở MIT (Khóa học
nguồn mở của MIT và Harvard) để cơng bố các bài báo của giáo viên
qua trực tuyến. Cuối cùng, các nhà nghiên cứu mong đợi khả năng kết
hợp lợi ích của hai hình thức đầu tiên này thành cái mà họ gọi là Đại học
Mở 3.0 và xem xét khả năng của nó cho các trường đại học trong tương
lai. Bằng cách làm như vậy, các nhà nghiên cứu đề xuất một phương
tiện điều tra góc độ kinh tế chính trị của Tính mở khi nó tái cấu trúc
các trường đại học trong nền kinh tế tri thức ở thế kỷ XXI và đồng thời
đề xuất một mơ hình xã hội hóa nền kinh tế tri thức cạnh tranh với các
phiên bản mới.
Lập luận cơ bản ở đây là tập trung vào cách thức mà hình thức mở
cơng nghệ mới, đặc biệt là phương tiện truyền thông xã hội mới nổi:
mạng xã hội, blog, wiki và nội dung, phương tiện được người dùng tạo
ra, cung cấp mô hình mở mới cho quan niệm về commons trí tuệ dựa trên
sản xuất đồng đẳng. Đây là hình thức chia sẻ kiến thức hoàn toàn phi tập
trung, tương tác thực sự và có thể đóng vai trị là nền tảng cho “văn hóa tri
thức” (Peters & Besley, 2006; Peters & Roberts, 2010). Tính mở 1.0 dựa
trên các nguyên tắc dân chủ xã hội nhấn mạnh tính tồn diện và bình đẳng
của cơ hội và là một sản phẩm của thời đại phúc lợi chủ nghĩa (welfarism)
khi mà giáo dục đại học được coi là lợi ích cơng cộng khơng đủ tiêu
chuẩn, nhưng cơ chế của Tính mở 1.0 theo phương tiện truyền thơng đại
các bài viết dân chủ xã hội của Đại học Mở ban đầu và nó cung cấp
phương tiện để phục hồi và nâng cao sứ mệnh lịch sử của trường đại học
trong thế kỷ XXI. Đại học Mở 2.0 cung cấp các cơ chế để loại bỏ ý thức
hệ quản lý chủ nghĩa tân tự do và trở lại một cái nhìn xã hội hóa hồn
tồn về chia sẻ kiến thức và kiến thức bắt nguồn từ tư duy Khai sáng về
khoa học và thực tiễn mới của nó trong sản xuất ngang hàng. Quan điểm
này dựa trên lập luận rằng kiến thức và giáo dục là các hoạt động xã hội
cơ bản và kiến thức và giá trị của kiến thức bắt nguồn cơ bản từ các mối
quan hệ xã hội (Peters & Besley, 2006). Tuy nhiên, đồng thời các nhà
nghiên cứu cũng nhận ra rằng bất kỳ cách tái lý luận nào về trường đại
học cũng phải vượt ra khỏi giới hạn của ngay cả Đại học Mở 2.0, mặc
dù logic của nó về tính mở - thường xoay quanh các tổ chức độc quyền
kiểu MIT và Harvard và tương ứng về các yếu tố độc quyền, bao gồm sở
hữu trí tuệ và đặc quyền về ‘chun mơn’. Do đó, sự phát triển Tính mở
liên quan đến trường đại học phải chuyển từ mơ hình dân chủ xã hội của
Đại học Mở 1.0 và mơ hình kinh tế chính trị tự do của Đại học Mở 2.0,
sang một phiên bản mở mới dựa trên chủ nghĩa xã hội tri thức. Chỉ
thông qua sự phát triển như vậy, Đại học Mở 3.0 này mới có thể đạt
được tiềm năng của nó như là một địa điểm của sự hòa nhập thực sự và
<b>4. KẾT LUẬN</b>
Trong kỷ nguyên mới của cạnh tranh kỹ thuật số trong giáo dục đại
học, Tài nguyên giáo dục Mở (OER) chủ yếu là phục vụ cho e-Learning
và e-Teaching trong giáo dục bậc Ba. Tuy nhiên, đầu thế kỉ XXI các nhà
khoa học đã phát hiện ra một số lỗ hổng như:
- Sự thay đổi trong kiểm soát học mở, dạy mở và dạy kèm (hướng
dẫn) mở;
- Nhận thức của sinh viên (người học) trong cộng đồng học trực tuyến;
- Tư duy phê phán về dạy và giải quyết vấn đề đồng bộ,
- Kinh nghiệm của người dạy trực tuyến với tư cách là người đã
trải nghiệm học online.
bậc giáo dục đại học. Vấn đề không phải là ứng dụng các chính sách
Giáo dục mở và tài nguyên giáo dục Mở (chủ yếu tiếng Anh) từ các
nước phương Tây tiên tiến mà rào cản lớn nhất chính là trình độ ngoại
ngữ cịn rất hạn chế của người học ở Việt Nam. Một trong các ưu tiên
chiên lược là phải xây dựng tài nguyên giáo dục mở bằng tiếng Việt với
điều kiện công nghệ sẵn có ở trong nước.
Kinh nghiệm của các nước trong khối Đông Âu cũ rất đáng để
cho Việt Nam học tập. Ví dụ, Slovakia đã xây dựng chính sách phát
triển Giáo dục mở dựa trên 3 trụ cột:
1/ Cung cấp nội dung số hóa cho các trường đại học; Khả năng số
2/ Trong q trình số hóa nội dung giáo dục, chính phủ cần phải
hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thơng tin cần thiết, cụ thể là Interrnet tốc độ
cao và đường truyền băng thơng rộng;
3/ Chú ý đến động cơ ưa thích học điện tử của người học nhằm thúc
đẩy gia tăng kỹ năng kỹ thuật số của giảng viên. Ưu tiên hàng đầu là chú
ý đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm mở và trình độ ICT cho cán
bộ giảng dạy và giáo sinh các trường sư phạm./.
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>
1. TS. Lê Thị Mai Hoa và Ts. Mai Văn Tỉnh <i>“Cần có cơ sở lý luận và thực </i>
<i>tiễn về Giáo dục Mở”</i>. Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương, số 8-2019,
trang 63-65.
2. <i>Applied E-Learning and E-Teaching in Higher Education</i>; by Roisin
Donnelly and Fiona McSweeney, <i>Dublin Institute of Technology, </i>
<i>Ireland</i>; InformatIon scIence reference;Hershey • New York;
3. Markus Deimann và Peter Sloep-. <i>“How does Open Education work”- </i>
Openness and Education - Advances in Digital Education and Lifelong
Learning, Volume 1, 1 23; Copyright r 2013 by Emerald Group Publishing