Ƣ
Ƣ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆ
IH C
TIẾN TRÌNH BÌNH THƢỜNG HĨA QUAN HỆ
NGOẠI GIAO VIỆT NAM – HOA KỲ (1975-1995)
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Thị hƣợng
Chuyên ngành
: ƣ phạm Lịch sử
Lớp
: 12SLS
gƣời hƣớng dẫn
:
.
Đà Nẵng, 05/2016
ƣu rang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................5
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................6
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu ...........................................................................................6
4.2. Phạm vi nghiên cứu ..............................................................................................6
5. Nguồn tƣ liệu ........................................................................................................6
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................7
7. Đóng góp của đề tài ..............................................................................................7
7.1. Đóng góp về mặt khoa học ...................................................................................7
7.2. Đóng góp về mặt thực tiễn ...................................................................................7
8. Bố cục đề tài .........................................................................................................8
NỘI DUNG .................................................................................................................9
CHƢƠNG 1: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT
NAM – HOA KỲ (1975-1995) ...................................................................................9
1.1. Tình hình quốc tế và khu vực ...............................................................................9
1.1.1. Tình hình quốc tế..............................................................................................9
1.1.2. Tình hình khu vực ..........................................................................................11
1.2. Khái quát về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ trƣớc năm 1975.............12
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1787 đến năm 1945 ...........................................................12
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 ...........................................................16
1.3. Hậu quả chiến tranh và những trở ngại trong xúc tiến bình thƣờng hóa quan hệ
Việt Nam - Hoa Kỳ
1.3.1. Hậu quả của chiến tranh
1.3.2. Những trở ngại trong xúc tiến bình thƣờng hóa Việt Nam - Hoa Kỳ
CHƢƠNG 2: TIẾN TRÌNH BÌNH THƢỜNG HĨA QUAN HỆ NGOẠI GIAO
VIỆT NAM – HOA KỲ (1975-1995) .......................................................................26
2.1.
Triển vọng bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ ...........26
2.1.1. Những nỗ lực từ phía Việt Nam .....................................................................26
2.1.2. Hoa Kỳ thay đổi chính sách tồn cầu sau Chiến tranh Lạnh .........................28
2.2.
Đối thoại và hợp tác về các vấn đề chung của hai nƣớc ................................30
2.2.1. Vấn đề tù binh chiến tranh và ngƣời Mỹ mất tích .........................................30
2.2.2. Nỗ lực của các cá nhân ...................................................................................31
2.2.3. Gặp gỡ, đối thoại cấp cao và tiến tới bình thƣờng hóa quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ ......................................................................................................................35
2.3.
Một số nhận xét về tiến trình bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam
– Hoa Kỳ ...................................................................................................................39
KẾT LUẬN ...............................................................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................43
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
1. ASEAN: Association of Southeast Asian Nations – Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á
2. OSCE: Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu
3. MIA: Vấn đề ngƣời Mỹ mất tích
4. POW: Vấn đề tù binh chiến tranh
5. SEATO: Tổ chức Hiệp ƣớc Đông Nam Á
MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quan hệ quốc tế thì mối quan hệ giữa các nƣớc lớn là một trong những
nhân tố quan trọng góp phần định hình trật tự thế giới. Khi chiến tranh thế giới thứ
hai sắp đến hồi hạ màn, trật tự thế giới mới đã đƣợc thiết lập, đó là trật tự hai cực
Ianta ( tháng 2/1945 ). Từ mối quan hệ là hai nƣớc đồng minh chống phát xít, Liên
Xơ và Hoa Kỳ trở thành hai kẻ đứng đầu của hai cực, một cực là phe xã hội chủ
nghĩa, cực còn lại là tƣ bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, sau chiến tranh, hệ thống xã hội chủ
nghĩa đã đƣợc kéo dài từ Tây sang Đông với sự xuất hiện của hàng loạt nhà nƣớc xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là nhà nƣớc rộng lớn và đơng dân nhất thế giới- Cộng hịa
dân chủ nhân dân Trung Hoa (01/10/1949).
Trƣớc sự lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội với thành trì vững chắc là Liên Bang
Xô Viết, Hoa Kỳ và các nƣớc tƣ bản không tránh khỏi những lo ngại. Và Hoa Kỳ đã
là kẻ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh mới, mang tên Chiến tranh lạnh. Tuy
Chiến tranh lạnh không bùng nổ bằng vũ lực giữa hai bên nhƣng đó là cuộc chạy
đua vũ trang, tranh giành ảnh hƣởng ở khắp nơi trên thế giới.
Cuộc chạy đua vũ trang này diễn ra bên ngồi lãnh thổ các nƣớc lớn, mà nó
diễn ra ở các nƣớc thuộc địa, đang có tình hình rối loạn và bị lợi dụng sau Thế chiến
II. Việt Nam biến thành chiến trƣờng trƣớc tham vọng của Hoa Kỳ nhƣng sâu xa
hơn là sự đối đầu gián tiếp của hai phe.
Với tính chính nghĩa, cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc của dân tộc Việt Nam
giành đƣợc thắng lợi. Tuy nhiên, ngay lập tức, nhà nƣớc thống nhất mới vừa ra đời
đã phải đƣơng đầu với nhiều thử thách. Ngay sau đại thắng mùa Xuân năm 1975,
Hoa Kỳ áp đặt lệnh cấm vận đối với Việt nam. Cả dân tộc ta vừa xây dựng, phát
triển kinh tế, vừa đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện vơ cùng khó khăn.
Ngồi các quốc gia xã hội chủ nghĩa, Việt Nam gần nhƣ bế tắc trong quan hệ quốc
tế. Lệnh cấm vận và vấn đề Campuchia đã gây ra một thời kỳ băng giá trong quan
hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và gây ra sự hiểu lầm rất lớn với cộng đồng quốc tế.
Trƣớc tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ tầm quan trọng của
mặt trận ngoại giao trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1986,
khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI quyết định tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn
1
diện trong điều kiện đất nƣớc ta đang chìm trong khó khăn. Đó là hậu quả của 30
năm chiến tranh tàn phá, những di sản tai hại của chủ nghĩa thực dân kiểu mới,
những khuyết tật sai lầm của mô hình kinh tế nhà nƣớc tập trung, quan liêu bao cấp.
Đồng thời, đó cịn là sự chống phá điên cuồng của các thế lự phản động trong và
ngoài nƣớc gây ảnh hƣởng khơng nhỏ đến tình hình chính trị trong nƣớc. Bên cạnh
đó, các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đơng Âu và Liên Xơ đang chìm trong khủng hoảng
đồng nghĩa với việc chúng ta mất đi những “đồng minh chiến lƣợc” và thị trƣờng
truyền thống. Điều đó buộc chúng ta phải đổi mới toàn diện từ trong tƣ duy đến
hành động để vƣợt qua thách thức. Đặc biệt trên lĩnh vực ngoại giao, Đảng và Nhà
nƣớc ta chủ trƣơng “Kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình và hữu nghị.
Chúng ta chủ trương ủng hộ chính sách cùng tồn tại hịa bình giữa các nước có chế
độ chính trị và xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lược, và mọi hình thức
của chủ nghĩa khủng bố, nhất là chủ nghĩa khủng bố nhà nước...” [5,50].
Bƣớc sang thập kỉ 90 của thế kỉ XX, cục diện thế giới diễn biến ngày càng
phức tạp. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu kéo theo
sự tan rã của trật tự hai cực, chiến tranh lạnh kết thúc, theo đó là sự gia tăng mạnh
mẽ của xu thế tồn cầu hóa. Sau cục diện đó, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục giữ vai trị là
nhân vật trung tâm trong bàn cờ chính trị quốc tế, trở thành cƣờng quốc số một trên
nhiều lĩnh vực.
Trong bối cảnh đó, năm 1991, Đảng ta tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII, tiếp tục tƣ tƣởng cơ bản và nhất quán là không ngừng mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ Tổ quốc. Đƣờng lối đối ngoại chỉ rõ: “Việt Nam muốn là bạn của
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát
triển. Và Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng, đa phương hóa và đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế” [6,20]. Phƣơng châm, chính sách đối ngoại đó đã đƣợc triển
khai tích cực bằng những hành động cụ thể trong thực tiễn. Nhờ đó, nƣớc ta đã đạt
đƣợc nhiều thành tựu lớn trong đối ngoại.
Sau nhiều cố gắng từ cả hai phía, ngày 11/07/1995, Tổng thống Bill Clinton đã
tun bố bình thƣờng hóa quan hệ với Việt Nam. Đây là bƣớc đi phù hợp với xu thế
phát triển của thế giới. Đó là một dấu mốc quan trọng chấm dứt 20 năm quan hệ gay
gắt, mở ra một trang mới trong quan hệ hai nƣớc. Sự hợp tác trên các lĩnh vực chính
2
trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và đặc biệt là ngoại giao có ý nghĩa hết sức quan trọng
và mở ra một con đƣờng tốt đẹp trong quan hệ hai nƣớc.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trên lĩnh vực ngoại giao
trong xu thế phát triển hiện nay là điều cần thiết. Việt Nam đang thực hiện chính
sách ngoại giao đa phƣơng hóa, đa dạng hóa, sẵn sàng làm bạn và đối tác tin cậy
của mọi quốc gia, trong đó Hoa Kỳ là một đối tác quan trọng.
Nhƣng một thực tế cho thấy, bên cạnh những thành quả đạt đƣợc, mối quan hệ
giữa hai nƣớc vẫn cịn nhiều khó khăn cần đƣợc tháo gỡ. Vì thế, việc nghiên cứu và
rút ra bài học cũng nhƣ phƣơng thức giải quyết khó khăn của quan hệ ngoại giao
Việt Nam – Hoa Kỳ trong giai đoạn thực hiện bình thƣờng hóa có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn.
Vì những lý do và ý nghĩa nêu trên, tơi chọn vấn đề: Tiến trình bình thường
hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ (1975-1995) làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ song phƣơng Việt Nam – Hoa Kỳ đƣợc rất nhiều các nhà nghiên cứu
quan tâm, đặc biệt là từ sau khi hai nƣớc bình thƣờng hóa quan hệ. Tuy nhiên, các
cơng trình có đề cập đến quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ trƣớc bình thƣờng
hóa là khơng nhiều, tập trung ở các khía cạnh sau:
- Vấn đề quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ (1975-1995) trong
một số cơng trình nghiên cứu về lịch sử thế giới, lịch sử quan hệ quốc tế. Hệ thống
các cơng trình này gồm: Lịch sử thế giới hiện đại (Nguyễn Anh Thái, 2006); Quan
hệ quốc tế thế kỉ XX (Nguyễn Quốc Hùng, 2005); Quan hệ quốc tế - những khía
cạnh lý thuyết và vấn đề (Nguyễn Quốc Hùng, Hồng Khắc Nam, 2006); Lịch sử
ngoại giao từ 1919 đến nay (Jean- Baptiste Buroselle, 1994). Đây là hệ thống các
cơng trình tổng tập nghiên cứu nhiều vấn đề của lịch sử thế giới và quan hệ quốc
thời hiện đại. Các tác giả trong các cơng trình cũng đề cập đến những vấn đề chung
toàn cầu, các quan hệ chi phối của Hoa Kỳ đối với các quốc gia trên thế giới cũng
nhƣ quan hệ của Việt Nam đối với các nƣớc trong và ngồi khu vực, đặc biệt là
trong thời kì đổi mới đất nƣớc. Tuy nhiên, các cơng trình này chỉ trình bày hệ thống
3
những kiến thức chung, chƣa đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ của Việt Nam và
Hoa Kỳ.
- Tiến trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ trong
các cơng trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng như Hoa Kỳ.
Các công trình này bao gồm: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau chiến tranh
lạnh (Randall B. Ripley,James M. Lindsay, 2002); Mỹ thay đổi chiến lược tồn cầu
(Lý Thực Cốc,1996); Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Việt Nam (Vũ
Dƣơng Huân); Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (Vũ Dƣơng Ninh, 2014); Lịch
sử Việt Nam thường thức (Nhiều tác giả, 2014). So với các cơng trình chun khảo
về lịch sử thế giới, lịch sử quan hệ quốc tế, các cơng trình về chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ và Việt Nam có tính chun sâu hơn. Tuy nhiên, hầu hết đối tƣợng mà
các cơng trình nêu trên quan tâm là chính sách, chiến lƣợc ngoại giao của Hoa Kỳ
và Việt Nam chứ chƣa đi sâu trình bày mối quan hệ của hai nƣớc tiến triển nhƣ thế
nào.
- Tiến trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ (19751995) trong các cơng trình nghiên cứu về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ.
Hệ thống các cơng trình này gồm: Mười năm ngoại giao Việt Nam (Lƣu Văn Lợi,
1998); Bình thường hóa và phát triển mối quan hệ hợp tác Việt Nam và Hoa Kỳ
trong quá trình đổi mới đất nước (Nguyễn Xuân Thắng, 2007, Tạp chí Những vấn
đề kinh tế và chính trị thế giới); Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ (Đại sứ quán Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ, 2010)... Trên đây là các cơng trình, bài viết nghiên cứu về
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ một cách khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên,
về vấn đề quan hệ ngoại giao thì chƣa thực sự đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống. Mặc dù vậy, cơng trình đã bƣớc đầu tiếp cận đƣợc các phƣơng diện hợp tác
cơ bản trên lĩnh vực ngoại giao của Việt Nam và Hoa Kỳ trƣớc và sau bình thƣờng
hóa.
Dù khơng phải là cơng trình nghiên cứu, nhƣng các văn kiện của Đại hội Đảng
toàn quốc qua các thời kỳ đã thể hiện đƣợc chủ trƣơng , đƣờng lối của Đảng và nhà
nƣớc trên lĩnh vực ngoại giao phục vụ xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nƣớc. Đặc
biệt là tƣ liệu của Thông tấn xã Việt Nam đƣợc coi là những tƣ liệu gốc về quan hệ
ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ nhƣ: Các hiệp định, thông cáo, tuyên bố chung, nghị
định thƣ và các văn bản kí kết về hợp tác chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa,
4
giáo dục và hợp tác về khoa học công nghệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Các bài phát
biểu, tuyên bố của giới lãnh đạo hai nƣớc. Đây là tƣ liệu gốc phản ánh một phần
quan hệ ngoại giao hai nƣớc về phƣơng diện pháp lý, song nó chƣa phản ánh đƣợc
thực tiễn cũng nhƣ khó khăn, thách thức và bƣớc tiến của hai nƣớc trong tiến trình
bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao.
Các cơng trình nghiên cứu mà tơi tiếp cận đƣợc, có thể thấy rằng, vấn đề bình
thƣờng hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ (1975-1995) hầu nhƣ chƣa
đƣợc đề cập chuyên sâu trong một cơng trình chun khảo nào. Tuy nhiên, các cơng
trình này có ý nghĩa gợi mở và làm nền tảng để tác giả tiếp cận và hoàn thành đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tƣ liệu hiện có và kết quả của các cơng trình nghiên cứu trƣớc đó,
tác giả cố gắng sƣu tầm, tập hợp, phân loại và hệ thống lại những nguồn tƣ liệu có
liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam – Hoa Kỳ về lĩnh vực ngoại giao trong
vòng 20 năm từ năm 1975 đến năm 1995 để phân tích và giải thích các trở ngại
cũng nhƣ nhu cầu thúc đẩy quan hệ từ hai phía trong tình hình mới. Thơng qua khóa
luận giúp chúng ta có một cái nhìn khách quan và tổng thể hơn về lịch sử, tiến trình
bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong giai đoạn từ
năm 1975 đến năm 1995. Qua đó, chúng ta có đƣợc những đặc điểm của một giai
đoạn lịch sử đầy thăng trầm của quan hệ ngoại giao hai nƣớc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, tác giả tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Một là, khái quát mối quan hệ giữa Việt Nam – Hoa Kỳ về lĩnh vực ngoại
giao trƣớc năm 1975; đồng thời tìm hiểu những trở ngại và nhu cầu quan hệ giữa
hai nƣớc trong giai đoạn 1975-1995. Bên cạnh đó, đƣa ra và phân tích tình hình
quốc tế, khu vực trƣớc năm 1975 và nhu cầu hợp tác từ hai phía trong bối cảnh mới.
- Hai là, trình bày tiến trình bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam –
Hoa Kỳ từ năm 1975 đến năm 1995.
- Ba là, trên cơ sở nghiên cứu tiến trình bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao
Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1975 đến năm 1995, tác giả rút ra những đặc điểm,
nhận xét và đánh giá tiến trình bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao hai nƣớc.
5
4.
ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. ối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chính của đề tài là tiến trình bình thƣờng hóa qua hệ
ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1975 đến năm 1995.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu tiến trình bình thƣờng hóa quan hệ
ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1975 đến năm 1995. Bên cạnh đó, khóa luận
cũng dành một mục trong Chƣơng 1 để giới thiệu khái quát về quan hệ chính trị,
ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trƣớc năm 1975.
5. Nguồn tƣ liệu
Để hồn thành đề tài khóa luận, tác giả đã cố gắng khai thác từ các nguồn tài
liệu sau:
- Các văn bản gốc về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ. Hệ thống các
văn bản này gồm: Các hiệp định, thông cáo, tuyên bố chung, nghị định thƣ và các
văn bản kí kết về hợp tác chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Các bài
phát biểu, tuyên bố của giới lãnh đạo hai nƣớc.
- Các sách chuyên khảo về quan hệ quốc tế, quan hệ ngoại giao hai nước. Hệ
thống các cơng trình này khá phong phú bao gồm các sách tham khảo, chuyên khảo,
các bài tạp chí. Nguồn tƣ liệu này góp phần bổ sung, làm phong phú thêm việc
nghiên cứu tiến trình bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ. Các
cơng trình có nội dung phản ánh trực tiếp về lịch sử của hai nƣớc Việt Nam và Hoa
Kỳ, đặc biệt là những cơng trình viết về mối quan hệ giữa hai nƣớc trong giai đoạn
1975-1995.
- Các bài nghiên cứu có liên quan đến quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa
Kỳ trong giai đoạn 1975-1995 trên các website của các cá nhân và tổ chức. Dù
không đƣợc đánh giá cao về độ khoa học, song các bài viết từ các website, đặc biệt
là của Đại sứ quán Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao Việt Nam, Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ góp phần cập nhật những sử liệu và quan điểm mới nhất đánh giá về
quan hệ hai nƣớc. Do đó, khai thác các bài viết này cho phép đảm bảo tính thời sự,
chính xác trong nghiên cứu đề tài...
6
6. hƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Khóa luận quán triệt lấy quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
nghiên cứu; đặc biệt là quan điểm, đƣờng lối, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nƣớc trong nghiên cứu quan hệ quốc tế.
- Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận kết hợp phƣơng pháp lịch sử, phƣơng
pháp loogic và các phƣơng pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế. Sử dụng phƣơng pháp
lịch sử và các phƣơng pháp chuyên ngành nhƣ sƣu tầm thống kê, phân tích – tổng
hợp, so sánh – đối chiếu,... cho phép tác giả sƣu tầm, xử lý, đánh giá đƣợc hệ thống
tƣ liệu phục vụ trực tiếp cho đề tài và hệ thống hóa tƣ liệu đó thành những vấn đề cơ
bản của nội dung vấn đề. Ngoài ra khóa luận cịn sử dụng phƣơng pháp loogic. Dựa
vào hệ thống tƣ liệu đã sƣu tầm và xử lý, tác giả cố gắng sắp xếp theo từng vấn đề
đặt ra cho đề tài, từ đó phân tích, lý giải, nhận định một cách hợp lý, khoa học và
khách quan.
7.
óng góp của đề tài
7.1. óng góp về mặt khoa học
- Trong q trình thực hiện khóa luận, tác giả đã sƣu tầm, phân tích và xử lý
các nguồn tƣ liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu. Qua đó, hi vọng khóa luận sẽ là
một đóng góp nhỏ về mặt tƣ liệu phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu
trong quan hệ giữa hai nƣớc.
- Khóa luận trình bày một cách có hệ thống và tƣơng đối tồn diện về tiến
trình bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ (1975-1995). Góp
phần làm rõ những bƣớc phát triển trong quan hệ giữa hai nƣớc giai đoạn 19751995; đồng thời qua đó rút ra những đặc điểm nổi bật trong tiến trình bình thƣờng
hóa quan hệ ngoại giao hai nƣớc.
7.2. óng góp về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ phần nào đóng góp thêm vào nguồn tƣ
liệu về nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Qua đó, khóa luận sẽ là tài liệu
tham khảo phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu cho sinh viên chuyên ngành Lịch
sử, giáo dục chính trị, quan hệ quốc tế, quốc tế học ở các trƣờng đại học, cao đẳng...
đồng thời là tài liệu tham khảo cho các giáo viên phổ thông và những ai quan tâm
đến vấn đề này.
7
8. Bố cục đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của đề tài
gồm có 2 chƣơng:
- Chƣơng 1: Các nhân tố tác động đến quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa
Kỳ (1975-1995)
- Chƣơng 2: Tiến trình bình thƣờng hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa
Kỳ (1975-1995)
8
NỘI DUNG
ƢƠ
CÁC NHÂN TỐ Á
Ộ
1:
ẾN QUAN HỆ NGO I GIAO VIỆT NAM –
HOA KỲ (1975-1995)
1.1. Tình hình quốc tế và khu vực
1.1.1.
Tình hình quốc tế
Sau năm 1975, tình hình thế giới có nhiều bƣớc biến chuyển mới. Đó là sự
phát triển của các lực lƣợng cách mạng sau thắng lợi của Việt Nam. Cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nƣớc của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, cùng với thắng lợi của
cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, phạm vi chủ nghĩa xã hội đã đƣợc mở
rộng ra toàn bán đảo Đông Dƣơng. Về kinh tế, tuy tốc độ phát triển của các nƣớc xã
hội chủ nghĩa có chậm hơn so với hai thập kỷ 50 và 60, nhƣng vẫn chiếm 33% tổng
giá trị sản lƣợng công nghiệp và 25% thu nhập quốc dân của toàn thế giới. Về sức
mạnh quân sự, các nƣớc xã hội chủ nghĩa đã đuổi kịp các nƣớc đế quốc, chiếm ƣu
thế về vũ khí thông thƣờng và giữ đƣợc thế cân bằng về vũ khí chiến lƣợc. Tuy
nhiên, trong phe xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn Xô – Trung vẫn gay gắt, chủ nghĩa
dân tộc mạnh lên ở một số nƣớc nhƣ phong trào Cơng đồn Đồn kết ở Ba Lan,
nhóm “Hiến chƣơng 77” ở Tiệp Khắc, Anbani và Rumani ngày càng tách xa khỏi
Liên Xơ, bất bình của nhân dân Đơng Đức tăng lên do đời sống thua kém nhiều so
với Tây Đức. Phong trào giải phóng dân tộc cũng có bƣớc tiến mới, những thuộc
địa cuối cùng của chủ nghĩa thực dân cũ giành đƣợc độc lập và nhiều nƣớc dân tộc
chủ nghĩa đã dựa vào các nƣớc xã hội chủ nghĩa và đi theo định hƣớng XHCN nhƣ
Ănggôla, Nam Yêmen, Môdămbich, Êtiơpia, Nicaragoa, Grênađa,… Nếu những
năm 60, độc lập chính trị là khẩu hiệu bao trùm, thì sang thập kỉ 70 bên cạnh việc
tiếp tục cuộc đấu tranh cho độc lập chính trị, cuộc đấu tranh về kinh tế cũng diễn ra
sôi nổi và quyết liệt. Các nƣớc đang phát triển tập hợp nhau lại đấu tranh địi xóa bỏ
những quan hệ bất bình đẳng với các nƣớc tƣ bản phát triển, đòi thiết lập một “trật
tự kinh tế mới”. Phong trào Không liên kết cũng phát triển mạnh mẽ với thắng lợi
rực rỡ của xu hƣớng chống đế quốc tại Hội nghị cấp cao Habana Cuba (1979).
Nhƣng yếu kém về kinh tế, nợ nần chồng chất cùng nội chiến và chia rẽ đã tác động
không nhỏ đến sự lớn mạnh của phong trào. Do khủng hoảng kinh tế liên tiếp nổ ra
9
vào đầu những năm 70, thất nghiệp tăng, đời sống khó khăn, cuộc đấu tranh của
nhân dân các nƣớc tƣ bản đòi các quyền dân sinh, dân chủ cũng lên cao và ghi nhận
đƣợc những thắng lợi quan trọng. Các chính thể độc tài ở Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha sụp đổ. Phong trào đấu tranh đó gắn với cuộc đấu tranh chống chạy đua vũ
trang, bảo vệ hịa bình đang phát triển. Tuy nhiên, do sự phân liệt của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, một số đảng cộng sản lớn ở Tây Âu chủ trƣơng xây
dựng “chủ nghĩa cộng sản châu Âu”, không nắm quyền lãnh đạo các phong trào hịa
bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội nhƣ trƣớc. Vì thế phong trào này dần đi
vào khuynh hƣớng cải lƣơng, chỉ quan tâm đến những quyền lợi kinh tế, không gắn
với những khẩu hiệu đấu tranh chính trị nhƣ thời kì chiến tranh Việt Nam.
Tiếp theo là xu thế chạy đua kinh tế và xu thế hịa hỗn. Cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật lần thứ ba phát triển nhanh, mạnh và dần trở thành một bộ phận lực
lƣợng sản xuất trực tiếp. Công nghệ mới ra đời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở nhiều nƣớc, tạo đà cho kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế. Một nghịch lý diễn ra là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những nƣớc bại
trận nhƣ Nhật, Tây Đức, Italia lại nhanh chóng hồi phục và vƣơn lên thành các
cƣờng quốc kinh tế. Đặc biệt là Nhật đã trở thành cƣờng quốc kinh tế thứ hai sau
Hoa Kỳ và cùng với Tây Âu trở thành hai trung tâm kinh tế - chính trị mới cạnh
tranh với Hoa Kỳ. Cịn Hoa Kỳ và Liên Xơ là hai nƣớc thắng trận trong Chiến tranh
thế giới thứ hai, nhƣng do lao vào chạy đua vũ trang trong Chiến tranh Lạnh nên ít
nhiều bị tụt hậu. Điều đó địi hỏi hai nƣớc phải tính tốn lại chiến lƣợc của mình.
Xu thế chạy đua kinh tế xuất hiện càng củng cố thêm xu thế hịa hỗn Đơng – Tây,
xu hƣớng chuyển từ đối đầu sang hịa hỗn, đặc biệt qua chuyến thăm Trung Quốc
tháng 02/1972 và Liên Xô tháng 05/1972 của Tổng thống R. Níchxon. Năm 1975,
các nƣớc châu Âu đã kí Định ƣớc Henxinhki, lập ra OSCE (Tổ chức an ninh và hợp
tác châu Âu). Hoa Kỳ - Liên Xô tiếp tục các cuộc đàm phán SALT II, nhƣng thực
chất cả hai vẫn tiếp tục ganh đua nhằm chiếm ƣu thế về quân sự. Mặt khác với việc
hình thành hai trung tâm Nhật Bản, Tây Âu và việc Trung Quốc tách khỏi Liên Xô
và phe XHCN thế hai cực đã trở nên lỏng lẻo, bắt đầu xu thế đa cực hóa.
Các nƣớc lớn trong thời kì mới đã điều chỉnh chiến lƣợc phát triển. Hoa Kỳ
chủ trƣơng hịa hỗn bên ngoài, co về củng cố nội bộ nhằm ổn định tình hình trong
nƣớc, lấy lại sức mạnh để nắm đồng minh, đồng thời kiềm chế Liên Xô bằng biện
10
pháp khác. Dƣới thời Tổng thống Gernal Ford, chính quyền Hoa Kỳ chủ yếu vẫn
tiếp tục chiến lƣợc Nixon. Sang thời Tổng thống Jmmy Carter, Hoa Kỳ giảm căng
thẳng với Liên Xô, tiếp tục cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đồng thời thúc đẩy
vấn đề nhân quyền nhƣng vẫn lợi dụng mâu thuẫn Xô – Trung để cô lập Liên Xô và
từng bƣớc thúc đẩy “tam giác chiến lƣợc” Mĩ - Xô - Trung. Hoa Kỳ cũng phần nào
cải thiện quan hệ với các nƣớc đang phát triển và rút lui dần về quân sự khỏi lục địa
Đông Nam Á. Liên Xô khai thác lợi thế trong cục diện cách mạng thế giới sau chiến
tranh Việt Nam cũng nhƣ khó khăn của Hoa Kỳ và Trung Quốc để mở rộng ảnh
hƣởng, lấn sân chủ nghĩa đế quốc, kiềm chế Trung Quốc. Liên Xô tranh thủ triển
khai lực lƣợng hải quân ở Thái Bình Dƣơng và Ấn Độ Dƣơng, triển khai tên lửu
tầm trung ở Đông Âu, ủng hộ mạnh mẽ các lực lƣợng tiến bộ ở các nƣớc thế giới
thứ ba, chuẩn bị đƣa quân vào Afghanistan, khuyến khích các nƣớc xã hội chủ
nghĩa khác thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở cả châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh.
Liên Xô cũng quan tâm nhiều hơn đến khu vực Đơng Nam Á. Kết thúc “Cách mạng
Văn hóa”, Trung Quốc cũng điều chỉnh chiến lƣợc, đi vào “cải cách” “mở cửa”,
tranh thủ Hoa Kỳ, Nhật và các nƣớc phƣơng Tây nhằm thu hút vốn và kỹ thuật phục
vụ “bốn hiện đại hóa”, đồng thời tham gia bao vây cơ lập Liên Xô và Việt Nam.
Trung Quốc nắm lực lƣợng Pơn Pốt – Iêngxary chống phá Việt Nam và tìm cách
chia rẽ sự đoàn kết và hợp tác giữa ba nƣớc Đông Dƣơng. Trung Quốc cũng tranh
thủ sự rút lui của Hoa Kỳ để mở rộng ảnh hƣởng ở Đông Nam Á. Cuộc tranh giành
ảnh hƣởng Hoa Kỳ - Liên Xô – Trung Quốc tác động mạnh mẽ đến diễn biến tình
hình ở khu vực này. Cùng với sự phục hƣng kinh tế, Nhật đã góp phần tạo điều kiện
cho sự ra đời của bốn con rồng và các con hổ châu Á thông qua “mô thức đàn sếu
bay”, đồng thời sử dụng “liên kết kinh tế” để chuẩn bị thế chính trị, vƣơn lên trở
thành cƣờng quốc khu vực và thế giới. Năm 1977, học thuyết Phukuđa ra đời càng
nhấn mạnh tới việc liên kết phát triển kinh tế khu vực, làm đòn bẩy cho sự mở rộng
ảnh hƣởng của Nhật trên mọi lĩnh vực tại đây. Trong chiến lƣợc quay trở lại châu Á
của mình, Nhật cũng chú trọng nhiều đến Đơng Nam Á.
1.1.2.
Tình hình khu vực
Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Hoa Kỳ rút khỏi Đông Nam Á lục địa, khối
quân sự SEATO tan rã, các nƣớc trong khu vực dù ít nhiều e ngại Việt Nam, lo sợ
hiệu ứng domino, song đều mong muốn mở rộng quan hệ với Việt Nam, thực hiện
11
chính sách hịa bình, trung lập. Khơng những duy trì và tăng cƣờng quan hệ với Hoa
Kỳ, Nhật Bản và các nƣớc phƣơng Tây khác, các nƣớc trong khu vực còn thiết lập
và mở rộng quan hệ với các nƣớc Đông Dƣơng, Liên Xô và Trung Quốc. Hiệp hội
các nƣớc Đông Nam Á (The Association of Southeast Asians Nations – ASEAN)
đƣợc thành lập ngày 08/08/1967 sau khi Bộ trƣởng Ngoại giao các nƣớc Indonesia,
Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan ký bản tuyên bố ASEAN (hay đƣợc
gọi là tuyên bố Băng Cốc). Mục tiêu hoạt động ban đầu của ASEAN nhằm giữ gìn
sự ổn định và an ninh trong khu vực, tức là tổ chức ASEAN lúc đầu đƣợc xem là
khối mang màu sắc chính trị là chủ yếu. Trong 1/4 thế kỷ hoạt động đầu tiên của
mình sự hợp tác giữa các nƣớc ASEAN còn đạt ở mức độ thấp, hiệu quả thƣơng
mại chƣa cao. Ngày 24/02/1976, các nƣớc ASEAN đã ký Hiệp ƣớc Thân thiện và
Hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là Hiệp ƣớc Bali). Triển vọng tạo dựng khu vực
Đơng Nam Á hịa bình, ổn định, hợp tác đã đƣợc mở ra.
Việc Việt Nam đƣa quân truy kích quân Khơme Đỏ đến tận sào huyệt của
chúng và đáp lời kêu gọi cả Mặt trận Dân tộc Cứu nƣớc Campuchia giải phóng
nƣớc này khỏi họa diệt chủng là một việc làm đại nghĩa, chí tình. Tuy nhiên, việc
chúng ta buộc phải để quân tình nguyện ở lại lâu dài trên đất Campuchia, đặc biệt là
việc bộ đội ta cùng lực lƣợng quân đội cách mạng Campuchia truy quét địch đến tận
biên giới Thái Lan đã làm cho các nƣớc trong khu vực lo ngại. Thái Lan cho bọn
tàn quân Pôn Pốt ẩn náu, cung cấp lƣơng thực cho chúng và lôi kéo các nƣớc khác
vào hùa với Hoa Kỳ, Trung Quốc tham gia bao vây, cấm vận Việt Nam, chống ba
nƣớc Đông Dƣơng. Đông Nam Á lại rơi vào tình trạng bất ổn, đối đầu. Tuy nhiên,
trên một chừng mực nhất định, các nƣớc trong khu vực vẫn giữ cầu quan hệ với
Việt Nam, mong muốn có sự hợp tác của Việt Nam và các các nƣớc Đơng Dƣơng,
giải quyết vấn đề Campuchia bằng biện pháp chính trị.
1.2. Khái quát về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ trƣớc năm 1975
1.2.1.
iai đoạn từ năm 1787 đến năm 1945
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đƣợc bắt đầu ngay từ khi Thomas Jefferson chƣa
làm Tổng thống nƣớc Mỹ với mong muốn có giống lúa cạn ở xứ Việt Nam xa xôi ở
thế kỉ XVIII đến thời kì của Tổng thống Truman và Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt thập
kỉ 40 của thế kỉ XX. Mối quan hệ này có những chuyển biến quan trọng đƣợc thể
hiện thông qua các dấu mốc lịch sử.
12
Nếu chúng ta xem cuộc gặp gỡ ở Paris, năm 1787 giữa Hoàng tử Nguyễn Phúc
Cảnh – con trai đầu của Chúa Nguyễn Phúc Ánh và Thomas Jefferson – tác giả bản
Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, Đại sứ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tại Pháp là khởi
đầu cho mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, thì lịch sử quan hệ hai nƣớc cho đến nay
đã trải qua gần 230 năm với những thăng trầm “ghê gớm” [53, tr.7]. Từ không hiểu
nhau đến những cơ hội tốt lành bị bỏ lỡ, đến những năm tháng đối đầu trong cuộc
chiến tranh khốc liệt trên 20 năm rồi sau một quá trình mới hiểu nhau và thiết lập
quan hệ ngoại giao bình thƣờng hóa. Trong suốt chiều dài của hai thế kỷ, hai quốc
gia đã tạo dựng lên những cột mốc đáng nhớ. Cuộc gặp gỡ của Thomas Jefferson và
Hoàng tử Cảnh đã không đạt đƣợc thành công khi những lời hứa hẹn về giống lúa
cạn gieo trồng ở Việt Nam giữa hai ngƣời không đƣợc thực hiện. Cơ hội đầu tiên để
hai nƣớc thiết lập bang giao đã bị bỏ lỡ.
Năm 1829, khi Tổng thống Andrew Jackson vừa lên nhậm chức thì Bộ ngoại
giao Mỹ cử phái bộ do Edmund Poberts dẫn đầu mang theo dự thảo hiệp định
thƣơng mại hầu tìm cách thơng thƣơng với Việt Nam. Đầu tháng 01/1832, chiến
hạm Peacock chở phái bộ đến Vũng Lấm (nay thuộc Phú Yên). Sau nhiều ngày thảo
luận với đại diện Việt Nam là Ngoại lang Nguyễn Tri Phƣơng và Tƣ vụ Lý Văn
Phức, hiệp định thƣơng mại vẫn không thành. Theo lời của Edmund Poberts thì
trách nhiệm hồn tồn là do triều Nguyễn, với các thủ tục ngoại giao quá rƣờm rà,
các quan chức đƣợc ủy quyền thƣơng thuyết khơng có ý kiến rõ ràng, và hay lảng
tránh các câu hỏi trực diện do Mỹ nêu ra. Phía Việt Nam tỏ ra quá dè dặt, thận trọng
và có thái độ nghi kị. Các phái viên của triều Nguyễn không đồng ý ký Hiệp định
chủ yếu vì vấn đề hình thức văn bản. Họ cho rằng những lời lẽ viết trong dự thảo
hiệp định không tuân thủ những quy thức cung kính khi tâu vua Nguyễn. Họ cũng
cho rằng Tổng thống Hoa Kỳ đƣợc bầu ra và có nhiệm kỳ nên Tổng thống Mỹ
khơng tƣơng xứng với Hồng đế Việt Nam. Sử liệu Việt Nam thì nói rằng Ngoại
lang Nguyễn Tri Phƣơng và Tƣ vụ Lý Văn Thức sau khi nghe dịch nội dung quốc
thƣ của Tổng thống Mỹ và dự thảo của Hiệp định thƣơng mại, thấy không hợp cách
thức nên đã khơng trình lên vua rồi viết thƣ trả lời rằng Hồng đế Việt Nam khơng
ngăn cản bn bán, nhƣng phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Tàu Mỹ phải đến Đà
Nẵng, không đƣợc phép lên bờ. Nhận đƣợc thƣ này, phái đoàn của Edmund Poberts
rời Việt Nam.
13
Năm 1835, lần thứ hai phái bộ Mỹ vẫn do Edmund Poberts làm trƣởng đoàn
cập bến vịnh Trà Sơn để xin yết kiến, trình quốc thƣ. Tuy nhiên, chuyến đi này cũng
khơng thành cơng, cơ hội tốt đẹp đó đã trơi qua do chính sách đóng cửa của nhà
Nguyễn.
Mƣời năm sau, trong chuyến hành trình đến vùng biển châu Á năm 1845,
chiến thuyền Constitution (thƣờng gọi là Old Ironsides) của Hoa Kỳ đã cập bến Đà
Nẵng. Thuyền trƣởng là John Percival liên lạc với các quan địa phƣơng xin đƣợc
tiếp xúc với triều Nguyễn để đặt mối giao hảo. Đƣợc tin, vua Thiệu Trị tại Huế cử
viên Ngoại lang Nguyễn Long đi hỏa tốc vào Đà Nẵng cùng Kinh lịch thuộc viên ở
tỉnh là Nguyễn Dụng Giai đến thăm hỏi và làm việc với Percival. Nhƣng thay vì tạo
thêm cảm tình, Percival khi nhận đƣợc thƣ cầu cứu của giám mục Dominique
Lefebvre thì đã chiếm đoạt lấy ba chiến thuyền và một số ngƣời làm con tin, đòi nhà
chức trách phải thả Lefebvre. Sự việc không giải quyết đƣợc, Percival sai nổ súng
bắn lên bờ rồi nhổ neo ra khơi ngày 16/05, khiến tình hình thêm rắc rối. Nỗ lực
bang giao Việt Nam – Hoa Kỳ bế tắc.
Nửa cuối thế kỉ XIX, trong lúc Thiên hoàng Minh Trị đang đƣa nƣớc Nhật tiến
mạnh mẽ vào con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa bằng cơng cuộc duy tân thì tình hình Việt
Nam lại nhiều bất ổn với nguy cơ mất các tỉnh Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vua Tự Đức
nhu nhƣợc trƣớc âm mƣu mở rộng xâm lƣợc của thực dân Pháp, bác bỏ đề nghị cải
cách, canh tân đất nƣớc của Nguyễn Trƣờng Tộ và nhiều nhà cải cách khác. Tuy
vậy, Tự Đức vẫn muốn nắm tình hình phƣơng Tây để điều chỉnh chính sách cho phù
hợp. Tháng 07/1873, Tự Đức cử Bùi Viện, một nhà nho thức thời và năng động, đi
ra nƣớc ngoài. Bùi Viện sang Mỹ với hy vọng tìm đƣợc “ngƣời bạn mới” giúp Việt
Nam đánh Pháp. Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama (Nhật Bản) để đáp tàu sang
Mỹ, rồi lƣu lại đó một năm mới gặp đƣợc Tổng thống Ulyesses Grant (Nhiệm kỳ
1868 – 1876). Lúc này, Pháp và Mỹ đang đụng độ trong trận chiến ở Mêxicô nên
Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhƣng Bùi Viện
không mang theo quốc thƣ nên không đạt đƣợc cam kết chính thức. Vì vậy, ơng lại
quay về Việt Nam, trở lại kinh thành Huế. Có đƣợc thƣ ủy nhiệm của vua Tự Đức,
Bùi Viện lại xuất dƣơng một lần nữa. Năm 1875, ơng lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có
trong tay quốc thƣ nhƣng lại gặp lúc Mỹ và Pháp đã hết thù địch nên Ulyesses
Grant lại khƣớc từ sự cam kết giúp Việt Nam đánh Pháp. Một lần nữa, cuộc gặp gỡ
14
giữa đại sứ Việt Nam và chính phủ Hoa Kỳ không đạt đƣợc thành công. Về sau, khi
Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, Mỹ đặt lãnh sự quán tại Sài Gòn và Hà Nội.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đại diện hội “Những ngƣời An Nam yêu nƣớc”
gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hịa bình Versailles cho tổng
thống Mỹ Woodrow Wilson nhƣng khơng đƣợc trả lời.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, giữa Mỹ và Việt Nam cũng có quan hệ
bang giao thơng qua hợp tác tích cực trong khối Đồng minh chống phát xít. Tham
gia khối Đồng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ với Hoa Kỳ.
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời gian Việt Nam thực hiện cuộc chiến
tranh chống xâm lƣợc tiếp tục diễn ra bằng các cuộc gặp gỡ giữa chính phủ hai
nƣớc. Ngày 29/03/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp tƣớng Chennault – Chỉ huy
qn đồn khơng qn số 14 của Mỹ ở Côn Minh (Trung Quốc). Sự hợp tác giữa
Việt Minh với Mỹ được định hình. Việt Minh đã cung cấp cho phía Mỹ nhiều tin tức
có giá trị chiến lƣợc về hoạt động của quân đội Nhật tại Việt Nam và tại một số
nƣớc ở khu vực Đông Nam Á. Phía Mỹ đã cung cấp điện đài, một số vũ khí bộ binh
và cử ngƣời đến huấn luyện quân sự cho Việt Minh. Thơng qua sự hợp tác có hiệu
quả giữa những ngƣời Mỹ đến Việt Bắc trong những năm 1944 – 1945, quan hệ Mỹ
- Việt trở nên gần gũi hơn. Nhƣng rất tiếc mối quan hệ đó đã bị phá hỏng bởi tƣ
tƣởng chống cộng điên cuồng dƣới thời các Tổng thống Truman, Eisenhower,
Kennedy, Nixon, Jhonson và Ford. Thời kỳ thù địch này kéo dài trong suốt 50 năm,
kể từ ngày Tổng thống Truman bƣớc chân vào Nhà Trắng đến năm 1994, ngày
Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ một phần cấm vận đối với Việt Nam. Cho
dù vậy, phía Việt Nam vẫn khơng ngừng tìm kiếm mọi cách để làm cho quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ trở nên thân thiện hơn. Ngày 01/11/1945, Hồ Chí Minh, Chủ
tịch lâm thời nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gửi cho Ngài James Bierner –
Bộ trƣởng Ngoại giao Hoa Kỳ bức thƣ với nội dung: “Thưa ngài, nhân danh Hội
Văn hóa Việt Nam, tơi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái
đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những
mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ và mặt khác để xúc tiến việc tiếp
tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác.
Nguyện vọng mà tôi đang chuyển tới Ngài là nguyện vọng của tất cả các kỹ sư, luật
sư, giáo sư Việt Nam, cũng như các đại biểu trí thức khác của chúng tôi mà tôi đã
15
gặp. Trong suốt nhiều năm nay họ quan tâm sâu sắc đến các vấn đề của nước Mỹ
và tha thiết mong muốn tạo được mối quan tâm với nhân dân Mỹ là những người
mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản
quốc tế và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ
đối với giới trí thức Việt Nam.” [65].
Trong suốt q trình lịch sử từ năm 1787 đến trƣớc năm 1940, đã không ít lần
Hoa Kỳ và Việt Nam mong muốn và có những hành động cụ thể nhằm thiết lập
quan hệ với nhau, dù những nỗ lực này không mang lại kết quả cụ thể và rõ ràng.
Khi hai nƣớc đều có chung một mục tiêu nhiệm vụ chung là chống phát xít Nhật
(1940-1945), đã đƣa hai nƣớc xích lại gần nhau và trong hồn cảnh đó, Việt Nam và
Hoa Kỳ đã có một quan hệ đặc biệt. Tuy khơng có sự cơng nhận chính thức của Nhà
nƣớc Hoa Kỳ đối với cách mạng Việt Nam, nhƣng hai bên đã phối hợp hành động
chung, gắn bó với nhau. Cách mạng Việt Nam đã xem Hoa Kỳ lúc bấy giờ nhƣ
“những ngƣời bạn Đồng minh to lớn, những ngƣời chống thực dân đầy tiềm lực”.
Nhƣ vậy, trong hai thế kỉ XVIII và XIX, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có nhiều lần
ý định thiết lập quan hệ ngoại giao, đặc biệt là vấn đề thƣơng mại, tuy nhiên không
đạt đƣợc kết quả do những nguyên nhân khác nhau. Quan hệ hai nƣớc bƣớc qua một
thời kì mới dƣới vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.2.2.
iai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng dƣới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã có một
cuộc chuẩn bị chu đáo, tồn diện cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Bên
cạnh việc chuẩn bị lực lƣợng chính trị, lực lƣợng vũ trang và xây dựng căn cứ địa
cách mạng, một trong những quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thực
hiện chính sách đối ngoại tranh thủ sự ủng hộ của Đồng minh, nhất là sự ủng hộ của
Hoa Kỳ, từ đó đã dẫn đến sự hình thành một quan hệ tốt đẹp giữa hai quốc gia Việt
Nam – Hoa Kỳ. Nhìn lại tấn thảm kịch về cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam
(1954-1975), ít ngƣời nghĩ rằng trƣớc đó khơng lâu, Hoa Kỳ và Việt Nam từng là
đồng minh của nhau, cùng trên một trận tuyến chống kẻ thù chung của nhân loại là
chủ nghĩa phát xít.
Với cƣơng vị là Chủ tịch nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hịa vừa mới giành
đƣợc chính quyền, Ngƣời đã trực tiếp phụ trách công tác ngoại giao. Hồ Chí Minh
16
đã thảo bản tuyên bố về chính sách ngoại giao, trong đó khẳng định chủ trƣơng
quan hệ hịa bình hữu nghị với tất cả các nƣớc trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng,
tơn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nƣớc. Với Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh tiếp tục duy
trì những mối quan hệ đã có trong chiến tranh. Nhân danh Chính phủ Việt Nam,
Ngƣời đã gửi hàng chục bức thƣ, cơng hàm tới Tổng thống Truman, Chính phủ và
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Nội dung của các văn bản ấy xoay quanh vấn đề yêu cầu
Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, khẳng định sự hợp tác của Nhà nƣớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tháng 10/1945, Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn Chính
phủ Hoa Kỳ sẽ thực hiện đúng tinh thần của bản tuyên bố, ủng hộ chủ quyền của
các dân tộc nhỏ và tiềm lực cịn yếu. Ngày 16/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại
gửi thƣ cho Tổng thống Truman, bức thƣ với nội dung bày tỏ Việt Nam mong muốn
đƣợc độc lập hoàn toàn và ý nguyện thiết lập hợp tác đầy đủ với Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, các bức thƣ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc gửi đi mà khơng đƣợc đáp lại.
Lúc này, Chính phủ Hoa Kỳ đã ngả sang chủ trƣơng ủng hộ Pháp trở lại Đông
Dƣơng. Những cố gắng trong quan hệ ngoại giao chính thức với Hoa Kỳ không đạt
đƣợc kết quả. Tuy vậy, Việt Nam vẫn luôn chú ý đến việc giữ tơn trọng của Chính
phủ mình đối với vai trò của Hoa Kỳ trong lực lƣợng Đồng minh, sự có mặt của đại
diện phái bộ Hoa Kỳ trong các buổi lễ kí Hiệp định Sơ bộ ngày 06/03/1946 cũng
nhƣ trong các văn bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Chính phủ Hoa Kỳ đã nói
lên điều đó.
Trong thời gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức khơng thành cơng
nhƣng quan hệ của Việt Nam với Chính phủ Hoa Kỳ vẫn có dấu hiệu khả quan
thơng qua hình thức ngoại giao nhân dân mà điển hình là Hội Hữu nghị Việt – Mỹ.
Ngày 02/09/1947, trong thƣ gửi Việt Mỹ ái hữu hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: “Chúng ta khơng bao giờ qn sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các người bạn
Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được
tiếp xúc trong cuộc đấu tranh của chúng ta chống thực dân phản động Pháp giành
thống nhất và độc lập. Chúng ta mong rằng Hoa Kỳ, nước đầu tiên đã tranh đấu
cho nền độc lập và dân chủ quốc gia,… sẽ giúp chúng ta trong cơng cuộc đấu tranh
giải phóng hiện nay và trong công cuộc kiến thiết xây dựng sau này.”
17
Với lập trƣờng chống Cộng, từ năm 1947 đến năm 1954, Hoa Kỳ đã viện trợ
vũ khí, tiền bạc cho Pháp để chống lại cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do của
nhân dân Việt Nam. Tiếp đến, Hoa Kỳ lại tiếp sức cho các thế lực chống đối lại việc
thống nhất Việt Nam bằng phƣơng pháp hịa bình theo Hiệp định Genève năm 1954
về Đông Dƣơng. Từ năm 1961, từ vị trí cố vấn, Hoa Kỳ trực tiếp tiến hành cuộc
chiến tranh dài nhất, với tổn thất sinh mạng, tiền của nhiều nhất trong lịch sử các
cuộc chiến tranh của mình để chống lại cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, thống
nhất của nhân dân Việt Nam. Sự phát triển theo chiều hƣớng đó đã dẫn tới sự dính
líu trực tiếp ngày càng sâu sắc của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam.
Sau khi Pháp thua, Hoa Kỳ đã thế chân Pháp can thiệp trực tiếp vào Việt Nam,
dựng lên chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm đã chứng tỏ rõ ràng ý đồ của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ chính thức chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Cuộc chiến đấu của
Đảng và nhân dân ta chống cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và cuộc chiến
tranh cục bô ở miền Nam đã khởi đầu trong sự so sánh lực lƣợng bất lợi cho ta.
Thấm nhuần tƣ tƣởng Hồ Chí Minh “khơng có gì q hơn độc lập tư do”, nhân dân
cả hai miền đều đứng lên kiên quyết chống giặc Mỹ xâm lƣợc. Năm 1967, ta mở
mặt trận ngoại giao, phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị cùng đánh
Mỹ. Ta tăng cƣờng đồn kết với Liên Xơ và Trung Quốc cùng các nƣớc xã hội chủ
nghĩa khác, củng cố và phát triển Mặt trận Nhân dân Đơng Dƣơng, đồn kết với
phong trào phản chiến ở Mỹ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong quan hệ ngoại giao, nƣớc ta luôn phân biệt rõ bạn – thù, phân biệt rõ nhân
dân Mỹ với những nhà cầm quyền Mỹ theo đuổi chính sách chiến tranh. Mục đích
của nhân dân Việt Nam là đấu tranh giành độc lập tự do, đem lại hạnh phúc ấm no
cho dân tộc và chung sống hịa bình với cộng đồng thế giới trên cơ sở bình đẳng,
hữu nghị. Vì vậy, Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẵn sàng đàm phán với điều
kiện là quân Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Với mục đích đó, ta chủ trƣơng buộc địch
xuống thang từng bƣớc, giành thắng lợi từng phần. Sau thắng lợi Tết Mậu Thân
(năm 1968), Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mở ra cục diện vừa đánh vừa
đàm. Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, tạo điều kiện cho thắng lợi sau này.
Chiến tranh Việt Nam đƣợc chấm dứt bằng Hiệp định đình chỉ chiến sự lập lại
hịa bình ở ba nƣớc Đơng Dƣơng đƣợc kí kết tại Paris vào ngày 27/01/1973. Tại
điều 21 Hiệp định Paris có nêu rõ: “Hoa Kỳ mong rằng Hiệp định này sẽ mang lại
18
một thời kì hịa giải với Việt Nam dân chủ cộng hịa cũng như với tất cả các dân tộc
Đơng Dương. Theo chính sách truyền thống của mình, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào
việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh ở Việt
Nam dân chủ cộng hịa và tồn Đơng Dương” [32]. Cùng với đó, “Hiệp định này sẽ
tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa Việt Nam dân
chủ cộng hòa và Hoa Kỳ, trên cơ sở tôn trọng đôc lập, chủ quyền của nhau và
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”. Nhƣng Hoa Kỳ đã không hành
động đúng theo lời văn và nội dung của điều 21 Hiệp định Paris. Sau Hiệp định
Paris, Hoa Kỳ vẫn giữ thái độ thù địch với Việt Nam bằng chính sách bao vây cấm
vận. Thái độ thù địch này kéo dài trong khoảng thời gian 22 năm (1973-1994), dài
hơn bất cứ thời gian nào mà Hoa Kỳ đã đối xử với các cựu thù trong các cuộc chiến
tranh trƣớc đây nhƣ với Anh, Đức và Nhật.
Nhƣ vậy, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ năm 1945
đến năm 1975 có những bƣớc thăng trầm. Dƣới vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
mối quan hệ giữa hai nƣớc có lúc hịa dịu nhƣng cũng có lúc gay gắt, đặc biệt là
thời gian Hoa Kỳ thực hiện cuộc chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam (1954-1975).
1.3.
Hậu quả của chiến tranh và những trở ngại trong xúc tiến bình thƣờng
hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
1.3.1.
Hậu quả của chiến tranh
Ngày 27/01/1973, Hoa Kỳ kí Hiệp đinh Paris và rút quân chính quy ra khỏi
chiến trƣờng miền Nam Việt Nam. Nhân dân Việt Nam đã thực hiện đƣợc mục tiêu
“đánh cho Mỹ cút”. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa vốn lâu nay dựa vào vũ khí
và đồng đơla của Mỹ, nay bỗng chới với nhƣ con thuyền sắp chìm. Tận dụng ƣu thế
trên chiến trƣờng, quân đôi ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1975. Cuộc tổng tấn công này đã hoàn thành khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Ngụy nhào”. Đây là kết cục sau ba thập kỉ Hoa Kỳ can thiệp vào Việt
Nam. Cuộc chiến này đã tạo ra sự chia rẽ trong xã hội và chính trị của cả hai nƣớc.
“Ngay sau ngày 30-4-1975, một làn sóng tự tơn dân tộc và bài Mỹ đã lan
khắp Sài Gòn. Sự chiều chuộng thường thấy đối với người nước ngồi đột nhiên
biến mất. Những câu nói kiểu “Mỹ văn minh hiện đại, mình nghèo và chậm phát
triển” trở thành thứ ngôn ngữ cổ. Nhiều năm phụ thuộc vào nước Mỹ để có lương
19
cho quân đội, có đạn cho chiến trường, thời trang cho các cửa hàng làm đẹp, âm
nhạc cho các quán bar và thậm chí cơm trên bàn ăn đã ảnh hưởng lớn tới tâm lý
một dân tộc. Nhưng tất cả những cái đó đã mau chóng tan thành mây khói. Khi
cánh cửa Dinh Độc lập bị xe tăng quân giải phóng húc đổ vào ngày 30-4 cũng là
lúc hình ảnh bất khả chiến bại của nước Mỹ ăn sâu trong vài thập kỷ nay bị vỡ
vụn” [34]. Earl Martin, một ngƣời Mỹ ở Sài Gịn trong những ngày tháng đó, đã
viết nhƣ thế. Ông là thành viên của tổ chức thiện nguyện tôn giáo Mennonite
Central Committee (Hội đồng trung ƣơng giáo phái Menno). Khi chính quyền Sài
Gịn sụp đổ vào năm 1975, chỉ cịn thành viên của vài hội tình nguyện của tƣ nhân
là ở lại, trà trộn cùng các phóng viên, nhà báo phƣơng Tây.
Hội chứng Việt Nam là một thuật ngữ đƣợc sử dụng phổ biến tại Mỹ, để mô tả
những chấn động trong tâm lý của ngƣời Mỹ cũng nhƣ những tranh cãi nội bộ của
chính giới Mỹ liên quan đến chính sách can thiệp của Mỹ vào cuộc Chiến tranh Việt
Nam. Hội chứng này đƣợc bộc lộ ở các hiện tƣợng xã hội – chính trị – kinh tế nhƣ:
khủng hoảng lòng tin, tâm trạng chán chƣờng, mặc cảm của nhân dân Mỹ, đặc biệt
là thanh niên đối với cuộc chiến (phong trào chống quân dịch, phản đối chiến
tranh); sự ám ảnh bởi tội lỗi do họ gây ra của phần lớn lính Mỹ tham chiến ở Việt
Nam…; nội bộ nƣớc Mỹ chia rẽ, giới cầm quyền mâu thuẫn sâu sắc, nhất là trong
hoạch định chính sách đối ngoại; sự gia tăng tốc độ suy thoái kinh tế và các tệ nạn
xã hội; sự suy giảm vị thế của Mỹ trên thế giới…
Phần lớn ngƣời Mỹ muốn nói hoặc đề cập tới một cuộc chiến lâu dài và tổn
thất nhất của đất nƣớc họ – cuộc chiến duy nhất mà Mỹ thất bại. Kết quả là đầu
những năm 1980, cuộc chiến ấy tạo ra một làn sóng thu hút: Hollywood, mạng lƣới
truyền hình, ngành cơng nghiệp âm nhạc hƣớng tới Việt Nam nhƣ một “điểm đến
văn hố”; các học giả, phóng viên, những cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam
thì tung ra hàng loạt ấn phẩm về cuộc xung đột, đặc biệt là những tâm điểm các bài
học và hậu quả để lại. Rất nhiều ngƣời cho rằng, cuộc chiến ấy đã làm tổn hại tới
quan điểm, thể chế và chính sách đối ngoại của Mỹ. George R. Kennan mô tả,
Chiến tranh Việt Nam “là tai họa tồi tệ nhất với mọi công việc mà Mỹ đảm nhận
trong suốt 200 năm lịch sử”. Thất bại trong cuộc chiến, ảnh hƣởng kinh tế do
những khoản chiến phí khổng lồ (nhiều ngƣời ƣớc tính là 167 tỉ USD) đã khiến cho
nƣớc Mỹ lâm vào tình trạng lạm phát hai con số, nợ liên bang tăng vọt, kinh tế và
20
mức sống sụt giảm trong giai đoạn dài từ cuối những năm 1960 tới 1990. Mỹ cũng
phải trả giá đắt về chính trị cho Chiến tranh Việt Nam. Đó là lịng tin của ngƣời dân
vào chính phủ giảm sút. Họ thấy hoài nghi về sự chân thực và năng lực của những
ngƣời lãnh đạo. Thực tế là sau cuộc chiến, ngày càng có nhiều ngƣời Mỹ hồi nghi
và bất tín với chính quyền. Quân đội “mang tai tiếng” trong nhiều năm. Một điều
chƣa từng có trƣớc đây: Nƣớc Mỹ sau Chiến tranh Việt Nam khơng có sự tơn trọng
hay tin tƣởng của các tổ chức công chúng. Họ lo lắng với lời kêu gọi của các quan
chức trong việc can thiệp tại nƣớc ngoài với ngọn cờ dân chủ, tự do. Lƣỡng đảng thì
nhất trí rằng, chính sách ngoại giao của Mỹ đƣợc ủng hộ từ những năm 1940 đã tan
rã. Phe đa số của đảng Dân chủ trong Quốc hội Mỹ năm 1973 còn ban hành nghị
quyết Quyền quyết định chiến tranh, trong đó khơng cho phép Tổng thống gửi quân
đội ra nƣớc ngoài chiến đấu hơn 90 ngày mà khơng có sự chấp thuận của quốc hội.
Quan ngại bị sa lầy khiến nhiều ngƣời Mỹ tỏ ra miễn cƣỡng với chính sách can
thiệp quân sự tại các nƣớc thuộc Thế giới thứ ba.
Khuynh hƣớng “tự cô lập mới” mà cựu Tổng thống Richard M. Nixon từng
gọi là “Hội chứng Việt Nam” trở nên rõ ràng hơn trong những cuộc tranh cãi cơng
khai về các chính sách can thiệp của Ronald Reagan tại Nicaragua và quyết định
của George Bush cha với lực lƣợng Iraq tại Kuwait. Mặc dù chiến thắng trong
Chiến tranh vùng Vịnh thuộc về Mỹ và đồng minh, nhƣng lo ngại về chính sách can
thiệp lại xuất hiện trong những lần tranh cãi về cam kết điều động lực lƣợng gìn giữ
hồ bình Mỹ của cựu Tổng thống Bill Clinton tại Somalia và Bosnia. Rõ ràng là,
hàng chục năm trôi qua khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, xung đột tiếp tục phủ
bóng đen lên tâm trí nhiều ngƣời Mỹ. Và những nhà hoạch định chính sách ngoại
giao cùng nhất trí nhiều điều rõ ràng là: Mỹ chỉ nên sử dụng vũ lực nhƣ một phƣơng
sách cuối cùng; chỉ khi lợi ích quốc gia rõ ràng liên quan; chỉ khi có sự ủng hộ
mạnh mẽ của ngƣời dân và chỉ khi có khả năng giành chiến thắng nhanh chóng, ít
tốn kém.
Cuối cùng, cịn một thực tế khác nổi lên. Ngƣời ta biết rõ điều ấy với sự trở về
của các cựu chiến binh. Mỹ có vẻ lảng tránh với thực tế: hơn 2 triệu người đã tới
Việt Nam; 1,6 triệu người trực tiếp tham chiến; 300.000 người bị thương, rất nhiều
người gặp các vấn đề tâm lý; 2.387 người trong danh sách mất tích và hơn 58.000
người chết. Thực tế, hầu như chính phủ Mỹ khơng làm gì để hỗ trợ các cựu chiến
21