Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

giao an so hoc 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.59 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

B×nh thủ



Phích nước là một đồ vật thơng dụng dùng để đựng nước nóng. Phích có nhiều loại và nhiều kích cỡ khác
nhau . Loại nhỏ chứa được khoảng nửa lít , loại lớn chứa được hai lít hoặc hai lít rưỡi. Phích có thể giữ nước ở
nhiệt độ từ 80o đến 90o trong khoảng một ngày……


Phích nước (hay bình thuỷ) được phat minh bởi nhà bác hoc Duwur. Ơng đã cải tiến chiếc máy dùng để đo
nhiệt lượng của một vật nên được gọi là nhiệt lượng kế, vì chiếc máy của Newton cồng kềnh, nhiều bộ phận
nên bảo quản và làm vệ sinh khĩ khăn trong điều kiện phịng thí nghiệm. Để thực nghiệm chính xác, yêu cầu
của nhiệt lượng kế là cách ly tối đa giứa nhiệt độ bên trong bính và mơi trường bên ngồi. Từ đĩ, người ta
chế tạo thành loại bình cĩ khả năng cách ly nhiệt, dùng cho giử nước nĩng hay nước đá (kem).


Cấu tạo ngoài gồm : Vỏ , quai xách , nắp , thân và đáy .Vỏ phích thương được làm bằng nhôm , nhựa hoặc
sắt tráng men in hoa hay hình chim, hình thú rất đẹp. Lớp vỏ cịn tiện ích như đáy bằng giúp đặt vững vàng,
có quai bằng nhôm hay nhựa giúp cầm và xách khi di chuyển.Nắp phích bằng nhơm, nhựa, nút đậy ruột
phích bằng gổ xốp để chống mất nhiệt do đối lưu.


Cấu tạo trong gồm : Ruột phích được cấu tạo bởi hai lớp thuỷ tinh, ở giữa là khoảng chân khơng. Ngồi ra,
bên thành trong của 2 lóp nầy cịn được tráng bạc để phản chiếu bức xạ nhiệt, giúp ngăn sự truyền nhiệt ra
bên ngoài (tráng ở thành trong để không bị trầy lúc co xát cũng như không làm ảnh hưởng nước đựng bên
trong).Vì là thủy tinh nên rất mỏng và dễ bể, chính vì vậy mà ta cần tới lớp vỏ để bảo vệ.


Ruột phích là phần quan trọng nhất nên khi mua phích cần lựa chọn thật kĩ. Mang ra chỗ sáng, mở nắp phích
ra, nhìn từ trên miệng xuống đáy thấy có điểm màu sẫm ở chỗ van hút khí. Điểm đó càng nhỏ thì van hút khí
càng tốt, sẽ giữ được nhiệt độ lâu hơn. Áp miệng phích vào tai nghe có tiếng O O là tốt. Tháo đáy phích
xem núm thuỷ ngân có cịn ngun vẹn hay khơng.


Tuy nhiên, ruột phích truyền nhiệt kém, sự thay đổi nhiệt đột ngột như đổ nhanh nứoc nóng vào khi bình
đang nguội lạnh, hay đổ nước lạnh vào khi bình đang nóng, đều có thể làm cho bình bị nổ. Từ đó ta nên bảo
quản bằng cách :



- Bình mới mua về, sau khi rửa sạch, để ráo nước mới châm nước nóng vào, khi châm lần
đầu hay với một bình đã lâu không sử dụng phải châm từ từ, tốt nhất là chỉ châm một ít,
đậy nắp lại, vài phút sau mới châm tiếp.


- Sáng sáng, đổ hết nước cũ ra, tráng qua cho sạch hết cặn còn đọng lại trong lịng phích tồi
mới rót nước sơi vào, đậy nắp thật chặt. Hay ta có thể đổ vào trong phích một ít giấm
nóng, đậy chặt nắp lại, lắc nhẹ rồi để khoảng 30 phút, sau đó dùng nước lạnh rửa sạch thì
chất cáu bẩn sẽ đượctẩy hết.


- Nên để phích xa tầm tay trẻ nhỏ để tránh gây nguy hiểm.


- Muốn phích giữ được nước sơi lâu hơn, ta khơng nên rót đầy, chừa một khoảng trống giữa
nước sơi và nút phích để cách nhiệt vì hệ số truyện nhiệt của nước lớn hơn khơng khí gần 4
lần. Cho nên nếu rót đầy nước sơi, nhiệt dễ truyền ra vỏ phích nước nhờ mơi giới của nước.
Nếu có một khoảng trống khơng khí sẽ làm cho nhiệt truyền chậm hơn.


- Sau thời gian sử dụng, vỏ kim loại bị mục, giảm khả nang7 bảo vệ bình thì cần thay vỏ mới
để an tồn người sử dụng.


Phích nước là vật dụng quen thuộc, có ích và rất cần thiết trong sinh hoạt hằng ngày của mọi nhà

Bót bi



Suốt quãng đời cắp sách đến trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước… và coi đó là
những vật dụng khơng thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì tơi u q nhất là cây bút bi,
một vật đã gắn bó với tơi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ cịn hữu ích với tơi lắm!


Hồi cịn ở cấp một, tơi dùng bút máy viết mực và chữ tôi khá đẹp, nhưng khi vào cấp hai thì nó lại gây cho tơi
khá nhiều phiền tối. Tơi phải vừa viết vừa nghe Thầy, cô giảng bài với tốc độ khá nhanh nên bút máy không
thể đáp ứng được yêu cầu này. Chữ viết lộn xộn và lem luốc rất khó coi! Lúc ấy thì Ba mua tặng tôi một chiếc
bút bi với lời khuyên: “con hãy thử xài loại bút này xem sao, hy vọng nó có ích với con”. Kể từ đó tơi ln sử


dụng loại bút này để rồi hơm nay có dịp nhìn lại, tìm hiểu đơi điều về nó.


Chiếc bút bi đầu tiên, được một nhà báo Hungary làm việc tại Anh tên Laszlo Biro giới thiệu vào năm 1938.
điều khiến Ông nghĩ ra việc sáng chế ra loại bút này là vì những cây bút máy ln gây cho Ông thất vọng,
chúng thường xuyên làm rách, bẩn giấy tờ, phải bơm mực và hay hư hỏng… Vào ngày 15 tháng 6 năm 1938
ông Biro được nhận bằng sáng chế Anh quốc. Từ khi bút bi được ra đời nó đã được cải tiến nhiều để phù hợp
với người dùng và đã trở nên thông dụng khắp thế giới. Tuy có khác nhau về kiểu dáng như chúng đều có
cấu tạo chung giống nhau. Bút bi có ruột là một ống mực đặc, đầu ống được gắn với một viên bi nhỏ có
đường kính khoảng từ 0,7 đến 1 milimet, được coi như là ngòi bút. Khi ta viết mực được in lên giấy là nhờ
chuyển động lăn của viên bi này và loại mực dùng cho bút khô rất nhanh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Bước vào năm học mới, các nhà sản xuất bút bi như Bến Nghé, Đông Á, Thiên Long, Hán Sơn… đã lần lượt
cho ra đời hàng loạt mẫu mã từ đơn giản cho đến cầu kỳ như bút bấm, bút xoay, bút hai màu, ba màu… đủ
chủng loại khác nhau nhằm đáp ứng như cầu người sử dụng. Các cậu nam sinh thì chỉ cần giắt bút lên túi áo
đến trường nhưng nhiều bạn gái lại thích “trang điểm” cho bút các hình vẽ, hình dáng xinh xắn lên thân hay
đầu bút cịn được đính thêm con thú nhỏ ngộ nghĩnh… Thế là những chiếc bút bi lại theo chân trị nhỏ đến
trường, giúp các cơ, cậu lưu giữ những thông tin, kiến thức vô giá được thầy cơ truyền đạt lại với cả tấm
lịng!


Có cây bút vẻ ngồi mộc mạc, đơn giản song cũng có cây được mạ vàng sáng lống. Nhìn bút, người ta biết
được “đẳng cấp” của nhau, nhưng nhìn vào nét chữ người ta mới đốn được tính cách hay đánh giá được
trình độ của nhau. “Một chiếc áo cà sa không làm nên ông thầy tu”, một cây bút tuy tốt, đắt tiền đến cỡ nào
cũng chỉ là vật để trang trí nếu vào tay kẻ đầu rỗng mà thơi! Bút là vật vơ tri, nên nó khơng tự làm nên
những câu chữ có ý nghĩa nhưng nếu trong tay người chủ chuyên cần, hiếu học nó sẽ cho ra đời những bài
văn hay, những trang viết đẹp. Để trở thành người chủ “tài hoa” của những cây bút, người học sinh cần rèn
luyện cho mình thói quen vở sạch, chữ đẹp và ln trau dồi kiến thức học tập… hãy biến chúng thành một
người bạn thân thiết, một cánh tay đắc lực trong việc học tập bạn nhé!


Cùng với sách, vở… bút bi là dụng cụ học tập quan trọng của người học sinh, vì vậy chúng ta cần phải bảo
quản bút cho tốt. dùng xong phải đậy nắp ngay để tránh bút rơi làm hư đầu bi, bộ phận quan trọng nhất của


bút. Đặc biệt là luôn để bút ở tư thế nằm ngang giúp mực luôn lưu thông đều, khơng bị tắc. Một số loại bút bi
có thể thay ruột khi hết mực và mình xin mách các bạn một mẹo nhỏ là nếu để bút bi lâu ngày khơng xài bị
khơ mực thì đừng vội vứt bỏ mà chỉ cần lấy ruột bút ngâm trong nước nóng độ 15 phút… cây bút của bạn có
thể được phục hồi đấy!


Có thể nói rằng bút bi là một trong những phát minh quan trọng của con người. Ngày nay cứ 1 giây lại có 57
cây bút bi được bán ra trên thế giới, chứng tỏ tầm ảnh hưởng quan trọng của nó. Khoa học tiến bộ, nhiều
cơng cụ ghi chép tinh vi hơn, chính xác hơn lần lượt xuất hiện nhưng bút bi vẫn được nhiều người sử dụng
bởi nó rẽ và tiện lợi. Cầm cây bút bi trên tay, nắn nót từng chữ viết cho người thân yêu, chúng ta mới gửi
gắm được trong đó bao nhỉ


Televison



Ngày nay cuộc sống của con người chúng ta ngày càng trở nên tiện nghi, thoải mái. Con người không cịn
phải thức khuya dậy sớm với những cơng việc vặt mà đã có thể dành thêm nhiều thời gian cho việc giải trí,
tìm hiểu cuộc sống của mình. Và để phục vụ cho sự giải trí, văn hóa nghe nhìn của con người, tivi đã ra đời
từ đó.


Thật khó để phủ nhận vai trị của chiếc tivi trong đời sống hiện đại, từ những ngơi nhà bình dân đến những
căn biệt thự đắt tiền, từ thành thị đến những vùng nông thôn mới đâu đâu ta cũng thấy rõ bóng dáng của
chiếc tivi. Quả thật tính đến nay tivi đã hơn 80 năm phục vụ cho đời sống con người. Nhưng có một điều mà
ít ai có thể biết được đó chính là việc tạo ra chiếc tivi là cả một quá trình rất dài và có sự đống góp của nhiều
thế hệ nhà khoa học làm nên. Người được xem là cha đẻ của tivi chính là Philo Farnsworth, một nhà phát
minh người Mỹ. Ý tưởng về một chiếc máy truyền hình ảnh điện tử đã được ơng ni dưỡng từ lúc mới 14
tuổi thế nhưng mãi đến năm 21 tuổi, ông mới cùng vợ là Pem nghiên cứu và phát minh ra chiếc tivi đầu tiên
trong một căn gác xếp nhỏ của mình ở thành phố San Francisco vào năm 1927. Tivi lúc này cịn thơ sơ nhưng
so với những phát minh của những người tiền nhiệm, nó vẫn là cái thật sự hoàn chỉnh, ổn định và là một
bước đột phá trong nghệ truyền hình của nhân loại. Càng ngày tivi càng được phát triển tốt hơn và chỉ trong
80 năm trở lại từ một chiếc tivi với màn hình 2 inch nhỏ bé chúng ta đã có những tivi với màn hình cực đại từ
42 đến 100 inch hay nhiều hơn nữa. Sự xuất hiện của tivi ngày càng được phổ biến và trong những năm nữa


sau của thế kỉ trước, Tivi hầu như đã có mặt tại rất nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thay đổi âm lượng và tùy chỉnh theo ý thích mà thơi. Chú ý để bảo vệ mắt chúng ta nên ngôi cách tivi một
khoảng đủ xa và nên để mắt hướng về tivi theo một đường xiêng chứ không hướng trực diện. Ngoài ra sau
khoảng nửa tiếng, ta nên đảo mắt, và tập thể dục cho mắt, điều này sẽ giúp mắt ít mỏi hơn khi xem tivi quá
lâuBảo vệ sức khỏe của bản thân khi xem tivi là rất cần thiết, nhưng chúng ta cũng phải có trách nhiệm trong
việc giữ gìn tuổi thọ cho chiếc tivi của mình. Ta nên lao chùi tivi thường xun, khơng được làm trầy xước
màn hình hay phá hỏng các thiết bị bên trong. Tivi là một thiết bị điện vì vậy mà ta luôn phải đảm bảo nguồn
điện cung cấp cho máy phải ổn định và phù hợp, thường xuyên kiểm tra dây cắm điện để tránh gây cháy nổ
khi máy hoạt động. Thêm vào đó việc xem tivi điều độ hợp lí, tắt tivi khi khơng sử dụng cũng sẽ giúp tivi tăng
thêm tuổi thọ và tiết kiệm một khoản chi phí điện cho gia đình.


Do tivi được sản xuất rộng rãi, đa dạng nên rất phù hợp cho mọi tầng lớp lao động từ giới trung lưu đến
thượng lưu, ln có những mặt hàng khác nhau để phục vụ. Vì vậy mà tivi có mặt hầu như ở mọi nhà, mọi cơ
quan, công sở và đã dần trở thành một phương tiện giải trí “cơm bữa” của mọi người, mọi gia đình. Khi mà
xã hội hiện đại ln địi hỏi con người phải làm dành nhiều thời gian cho công việc, nhiều người hiếm khi có
cơ hội cập nhật thơng tin từ sách báo nhưng qua việc xem tivi lúc rãnh rỗi hàng ngày, họ vẫn có thể biết
được nhiều điều bổ ích, thú vị. Tivi ngày nay mang đến nhiều kênh hình đa dạng giúp mọi người có thể nắm
bắt những tin tức mới nhất ở mọi lĩnh vực, những sự kiện nổi bất của đất nước mình hay những thơng tin
quốc tế mới nhất, nhờ vậy mà người xem tivi ln có thể làm giàu tri thức của mình mà theo kịp thời đại. Tivi
quả thực là phương tiện giải trí của mỗi lứa tuổi, từ người già, trẻ nhỏ đến các thanh thiếu niên, không ai
không xem tivi và cũng khơng ít những người đã bỏ cả đêm để xem chương trình mà mình u thích. Ngoài
ra theo nghiên cứu của các nhà khoa học, Tivi rất giúp ích cho sự phát triển của trẻ em, nó mở ra những
chân trời rơng lớn, thú vị, khơi gởi khả năng quan sát tìm tịi học hỏi của chúng. Nhờ vậy mà những đứa trẻ
tiếp xúc với tivi thường khá nhanh nhạy trong việc nắm bắt thơng tin và khai thác nó, ứng dụng nó một cách
rất thơng minh và sáng tạo… Nó thật sự là một cơng cụ giáo dục bổ ích của nhà trường và xã hội trong thời
đại này. Tivi bổ trợ cho tri thức văn hóa của con người, tạo nên những khung cảnh ấm cúng của gia đình khi
họ quay quần bên nhau xem truyền hình. Nhờ có tivi mà đời sống của con người trở nên thú vị hơn rất nhiều
Với sự đổi mới không ngừng của các kênh hình, tivi ln có một sức hút rất lớn và là một trong những thiết bị
phục vụ văn hóa nghe-nhìn hiệu quả nhất hiện nay. Khơng ai trong chúng ta có thể phủ nhận vai trị của nó


trong đời sống hiện tại. Dù đã có rất nhiều thiết bị mới được ra đời để phục vụ nhu cầu giải trí của con người
nhưng tivi vẫn sẽ là một lựa chon tiện lợi, hữu ích và phự hp vi tt c mi ngi


Đôi dép lốp


bi ụi dép lốp vừa thổi vừa xem đi


Dép lốp là dép của quân giải phóng trong thời kỳ chiến tranh việt nam , do miền bắc việt lúc này kinh tế khó
khăn ko đủ nguyên liệu để sản xuất giày dép cho quân đội nên đã sử dụng lốp xe tải xe hơi các loại cắt ra
làm thành dép cho binh sĩ mang hành quân nên gọi là dép lốp vừa rẻ vừa hợp với cách chiến đấu của quân
đội du kích gọn nhẹ là chính


dép lốp xuất hiện từ những năm 50 hình dạng đơi dép cong làm từ vỏ lốp ơ tơ, cịn quai là những dây cao su
được xỏ qua các khe hẹp trên đế dép. Bốn cái quai cao su, hai cái chéo bên trên, hai cái song song bên
dưới ,đủ chưa đó là dép lốp đó .Xuất hiện từ những năm 80 đối với cựu binh trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ thì dép lốp với cây gậy trường sơn là biểu tượng những năm chiến đấu của họ


Dép lốp - ký ức tuổi thơ tơi


Đơi dép lốp là hình tượng gắn với ký ức tuổi thơ của các chàng trai cô gái thế hệ 5x, 6x, 7x chúng tôi. Những
đơi dép cong làm từ vỏ lốp ơ tơ, cịn quai là những dây cao su được xỏ qua các khe hẹp trên đế dép. Bốn cái
quai cao su, hai cái chéo bên trên, hai cái song song bên dưới, đơn giản! thế mà bền chắc ra phết. Đã đi dép
lốp trong túi thế nào chả găm sẵn cái rút dép - làm bằng một miếng sắt dẹt hình chữ I dài gập đơi lại. Mỗi khi
dép tụt quai là mắm môi mắm lợi mà rút.


Cái dép cô bạn cùng trường tụt quai ... cũng là một cơ hôi là một cơ hội làm quen thật tuyệt. Dép lốp cùng
chúng tơi đi học, đi làm, thậm chí đi chơi cũng vẫn là dép lốp. Cái dép tụt ra cho bạn một cái, mình một cái
cùng kê dưới đít ngồi xem phim chiếu giữa trời.


Dép lốp khơng chỉ là vật đi ở chân, nó đã trở thành biểu tượng của những năm tháng dài cuộc sống vất vả
mà tươi đẹp bởi đầy tình thương mến giữa con người với con người cùng nhau vượt qua khó khăn để sống để


làm việc. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng bom đạn ở hậu phương rồi chiến trường. Những kỷ niệm
hãi hùng của chiến tranh...với đôi dép lốp ở chiến trường.


Giờ đây chiến tranh đã qua đi, chúng tơi và con cháu chúng tơi khơng cịn phải đi những đôi dép lốp. Mong
sao những ngày tháng gian khổ qua đi vĩnh viễn và chiến tranh không bao giờ trở lại trên đất nước này, để
những đơi dép lốp chỉ cịn là những kỷ niệm về quá khứ, cho ta thêm yêu quý cuộc sống hôm nay.


Cảm ơn bạn đã nhắc lại về kỷ niệm xa
nu cú sai sút xin bn b qua


áo dài VN



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

hợp những nguyên tắc thẩm mỹ với quy luật kín đáo cố hữu của dân tộc vào việc may mặc. Chẳng hạn, do
đặc thù về nhân chủng học, người Việt có cái cổ thường khơng cao, người xưa đã biết may cổ áo thấp xuống
và ôm sát cổ, trong khi tóc được vấn cao lên, để lộ gáy... Và vì thế, cái cổ của một phụ nữ Việt Nam có nhan
sắc trung bình vẫn trở nên thanh tú và cao sang hơn. Phải chăng đó là tiền đề cho phần cổ của chiếc áo dài?
áo dài của người Việt vẫn có tiếng là gợi cảm. Người Trung Quốc gọi loại áo này là "bì bào", có nghĩa là áo
mặc sát vào da. Đến nay, vẫn chưa có ai khẳng định được chiếc áo dài Việt Nam xuất hiện từ bao giờ và như
thế nào? Tuy nhiên, chuyện được biết nhiều nhất là việc chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong, khi xưng
vương (năm 1744) đã bắt quan, dân phải mặc lễ phục lấy mẫu từ "Tam tài đồ hội" của nhà Minh, Trung
Quốc. Vì thế mà có giả thuyết cho rằng, áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc. Tuy nhiên, áo dài hay "bì
bào" khơng phải là lễ phục. áo dài chỉ là một loại thường phục trang trọng có thể mặc để tiếp khách hay đi
chơi. Loại "bì bào" độc nhất ở Trung Quốc thường được gọi là "Sường xám", có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện
vào những năm của thập niên 1930 tại Trùng Khánh và Thượng Hải.Vào năm 1776, sau khi chúa Trịnh ở
Đàng Ngồi chiếm được kinh đơ Phú Xuân của xứ Đàng Trong, quan Hiệp Chấn Thủ Lê Quý Đôn đã ra lệnh
cho dân ở đây phải ăn mặc theo lề lối của Đàng Ngoài. Theo lệnh này, về thường phục thì: "Từ nay trở đi,
đàn ông và đàn bà chỉ được mặc loại áo ngắn tay có cổ đứng...". Tức là tay áo chỉ dài đến cổ tay, thay vì dài
gấp đơi chiều dài của cánh tay như trong áo lễ. Trong cuốn sách của giáo sỹ Borri (như đã nói ở trên) có tên:
"Tường thuật về sứ mệnh mới của các linh mục Dòng Tên ở Nam Kỳ - năm 1631" đã miêu tả cách ăn mặc
của người Việt Nam đầu thế kỷ 17 như sau:"Người ta mặc năm, sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên kia, mỗi cái một


màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá chân, những cái áo khác ở ngoài ngắn dần...". Đấy là vị giáo sỹ đã nói đến
chiếc áo mớ ba, mớ bảy của phụ nữ Việt Nam còn thấy ở các làng Quan Họ ở Bắc Ninh hay còn lác đác ở
Huế. "Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa... Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành
những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trơng rất đẹp mắt... khi có gió thổi, các dải áo bay tung
lên như cánh chim công thật ngoạn mục...". Thực ra, mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới
thắt lưng mà giáo sỹ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà người xưa
mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngồi áo dài. Xiêm có ba hoặc bốn lớp dải lụa, gọi là cánh sen may
chồng lên nhau. Bức tượng Bà Ngọc Nữ được tạc từ thế kỷ XVII ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh là minh
chứng rõ nhất cho cả áo dài, các dải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sỹ Borri đã miêu tả. Cái áo dài đó
cũng như cách vấn khăn khơng có nhiều khác biệt so với bây giờ.Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài
phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại
với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía
dưới khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn... ngày xưa
chỉ dệt được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn
đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng
2-3 cm. Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành
thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ châu Âu. Thời kỳ này, gấu áo dài
thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm. Từ đây và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ
khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho những phụ nữ đã lập gia đình. Tuy nhiên, phần lớn
phái nữ ở mọi lứa tuổi ở Huế vẫn chỉ mặc quần trắng.Ở giai đoạn này, một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu
xuất hiện, nhưng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta.
Tay áo vẫn may nối. Thời đó, Hà Nội đã có các nhà may nổi tiếng như Cát Tường ở phố Hàng Da và một số ở
khu vực Hàng Trống, Hàng Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường đã tung ra một kiểu áo mới có tên gọi
là Le Mur mang mẫu dáng rất Âu hoá, áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may, không nối sống bên dưới,
nhưng cổ áo kht hình trái tim; có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai áo may bồng,
tay nối ở vai; khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có
giới nghệ sỹ hay ăn chơi "thời thượng" lúc đó mới dám mặc. Nhưng chỉ đến khoảng năm 1943 thì loại áo này
đã bị lãng quên.Đến khoảng những năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết eo. Các nhà may lúc đó
đã cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là phần mông để áo ôm theo thân
dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao lên trong khi gấu được hạ thấp xuống.


Vào những năm 1960, áo dài được thay đổi nhiều nhất vì cái nịt ngực được sử dụng ngày càng phổ biến hơn,
nên áo dài phải được may chiết eo, thậm chí người phụ nữ mặc rất chật để tôn ngực. Eo áo cắt cao lên để hở
cạp quần; gấu áo cắt ngang thẳng và dài gần đến mắt cá chân. Năm 1960, vì muốn thấy có cảm giác cổ phụ
nữ dài thêm, bà Trần Lệ Xuân đặt ra loại áo dài cổ thuyền, được gọi là áo bà Nhu và sau này cịn có người
may áo dài với cổ khoét tròn.Vào cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, để thích ứng với thời trang
váy ngắn, quần loe của thanh niên theo lối hippy, áo dài mini đã xuất hiện và ngay lập tức trở thành mốt thời
thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng ra và không chiết eo, nhưng vẫn giữ
đường lượn theo thân thể; cổ áo may thấp xuống còn 3 cm; vai áo bắt đầu được cắt lối raglan để ngực và tay
áo ơm hơn; quần khi đó được may rất dài, gấu rộng đến 60 cm. Sau thời kỳ này trở về đến năm 1990, áo dài
không thay đổi nhiều lắm so với truyền thống, thỉnh thoảng cũng có vài mẫu đổi mới, chẳng hạn như quần và
áo đồng màu, nhưng khơng phổ biến...Ngày nay, Việt Nam đã có một lực lượng đông đảo các nhà tạo mẫu
áo dài, với đủ các loại chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tịi sáng tạo đưa ra những mẫu mốt mới...
Song, cũng chỉ dừng lại ở việc thay đổi chất vải và hoa văn trên áo dài còn về kiểu dáng vẫn phải giữ theo
"công thức" cũ, nghĩa là khơng khác gì nhiều với cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ XVII. Không chỉ là
cái áo nữa - chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của trang phục phụ nữ Việt Nam, tạo thành sản phẩm văn
hoá vật thể truyền thống không thể thiếu cho vẻ duyên dáng của người phụ nữ Việt


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Cơm hến là món ăn dân dã, nghèo mà vẫn sang, đậm đà hương vị. Cơm cồn hến người ta cịn cho nó </b>


cái tên sang trọng: "Cao lâu cồn" để tôn vinh cái giản dị, mộc mạc, thanh đạm mang đầy chất Huế.


Cơm hến là món ăn cay, cay chảy nước mắt, cay tốt mồ hôi. Cơm của cơm hến là cơm nguội, mùi ruốc mặn
nồng thơm nức mũi, vị chua thanh của khế, mùi thơm ngây ngất của rau thơm, chuối bắp, bạc hà, vị ngọt
đằm thắm của nước hến, béo ngậy của tóp mỡ, vị cay đến xé lưỡi, đến phỏng miệng của ớt tương... Người
ăn cơm hến đôi lúc vẫn chưa vừa lịng với món ớt tương cay nồng sẵn có, cịn cắn thêm trái ớt tươi, kêu cái
"bụp!" rồi xì xụp, xt xoa hít hà cho nước mắt nhỏ giọt, mới thấm thía được cái ngon cơm hến. Thế nên, có
người cịn gọi là "món ngon trời hành".


Các thơn nữ đội nón lá mỗi sáng gánh cơm hến đi khắp các ngả đường cất tiếng rao lanh lảnh ngọt ngào
"hến khô... ông" là hình ảnh và âm điệu khơng thể nào qn của những người xa Huế.



Vả Huế


Vả là món ăn dân dã của Huế và vả cũng trở thành món ăn thượng lưu của du khách khi đến Huế. Vả đã để
lại trong lòng người xa quê nỗi nhớ quê nhà.


Thiên nhiên dành cho Huế một loài cây thuộc họ sung nhưng trái lớn, đó là cây vả. Vả cho trái ăn vừa ngọt
vừa bùi. Vả tạo thêm hương vị đậm đà ngon miệng cho các món ăn từ xào, nấu, kho cho đến ăn sống.


Món rau sống kèm với những món ăn như bún thịt nướng, bún thịt kẹp tơm chua, bánh khối, thịt bị nhúng
dấm... thì vùng miền nào cũng như nhau, nhưng ở đây kẹp với miếng vả trắng hồng chấm với mắm nêm trộn
với ớt xanh vừa giòn vừa cay đến độ hít hà thì khơng gì ngon bằng.


Đặc biệt là món vả trộn. Để có món vả trộn xúc ăn với bánh tráng, luộc vả trong nước sôi cho đến lúc nào có
thể dùng tay chà bóc lớp vỏ xanh, xong cho vào nồi luộc tiếp cho thật nhừ, bóp tơi quả vả cho thật nhuyển.
Mè đem rang vàng chà vỏ, thịt nạc và da heo luộc chín xắt hạt lựu, ướp gia vị nước mắm, hành tiêu, bột
ngọt, muối, ớt bột... Các thứ trên trộn đều thành hỗn hợp, thái nhỏ rau thơm, hành, ngò rải trên mặt. Vả trộn
ăn với bánh tráng (bánh đa) nướng.


Chưa dừng ở món vả trộn, vả cịn cho vào kho chung với thịt heo, thịt bò nhưng hấp dẫn hơn cả là vả kho với
cá rô, cá nục, cá ngừ...


Bún bị giị heo


Một tơ bún giị hay bún bị hấp dẫn thực khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và thơm. Phải có một lần
ăn bún đến chảy nước mắt lúc đó mới cảm được cái hương vị xứ Huế nó thâm trầm như thế nào.


Bún thì khơng đâu khơng có, nhưng hình thức của con bún thì mỗi miền mỗi khác. Ở Hà Nội, xưa và nay cũng
la liệt bún "bún riêu, bún chả, bún ốc, bún thang…" mà có lẽ đặc biệt nhất là bún chả, sợi bún rất mảnh lại
cuộn từng lá mỏng, cịn chả thì là thịt ba chỉ cặp vào thanh tre rồi đem nướng trên than hoa, chẳng khác gì


bún thịt nướng ở Huế nhưng ngon hơn nhờ nước chấm và rau húng. Ở Huế cũng thế, có bún giị heo.
Dọc hai bên đường bạn sẽ gặp ngay ở đây những gánh bún rất bình dân nhưng cũng rất ngon, rất đơng
khách… Một tơ bún giị hay bún bị hấp dẫn thực khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và thơm. Đặc biệt
là nồi bún, một nồi bằng nhôm dẻo rất mỏng và được người thợ gò xứ Huế gò rất khéo, trông giống một
chiếc nồi đồng ngày xưa nhưng sâu và miệng rộng hơn. Cái nồi được chùi rửa kỳ cọ rất kỹ nên bao giờ cũng
sáng trắng, trơng rất thích mắt. Ăn một tơ bún đang bốc khói, những sợi bún trắng trong nổi bật trên đó là
những viên mọc hồng (được viên từ giò sống và thịt cua), những miếng móng giị được ninh mềm nhừ, với
một chút màu trắng của những cọng rá và màu xanh của rau sống, húp một ít nước beo béo đậm đà kèm
theo một chút gia vị mắm ớt chanh bạn sẽ thấy vô cùng thú vị, vừa cay, vừa nóng, vừa xuýt xoa, vừa nghe vị
ngọt của nước bún của thịt chạy dần vào trong thực quản, chắc chắn bạn sẽ không quên được cái hương vị
này. Phải có một lần ăn bún đến chảy nước mắt lúc đó mới cảm được cái hương vị xứ Huế nó thâm trầm như
thế nào.


Bánh bèo xứ Huế


Khơng biết có từ bao giờ, nhưng bánh bèo đã là một đặc sản, một món ăn khơng thể thiếu của người dân xứ
Huế. Bánh bèo có mặt từ mâm cơm dân dã ở mỗi gia đình cho đến các bữa tiệc, ngày lễ, ngày Tết và các dịp
đãi khách trọng thể.


Có dịp đến Huế, mới thấy bánh bèo gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân cố đô như thế nào. Khoảng
từ 3 đến 5 giờ chiều, đâu đó trên các ngõ phố những phụ nữ gọn gàng trong bộ áo dài thong thả bách bộ với
quanh gánh nhẹ trên vai hoặc chiếc thúng nhỏ cắp ngang hông, đi bán bánh bèo, bánh lọc đến từng nhà.
Người Huế rất thích và đã thành thói quen dùng loại bánh đầy hương vị quê nhà này vào các bữa ăn phụ, chỉ
cần 1.000 đồng là đã có một đĩa bánh bèo lót dạ thơm ngon. Bánh bèo cũng khơng thiếu trong các bữa "cơm
vua" phục vụ khách du lịch và trong các bữa tiệc "cơm cung đình" chiêu đãi các khách quý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Khiêm... Những "phố bánh bèo" này, thực khách không chỉ là dân Huế mà phần đông là khách từ phương xa
đến. Quả thật, ai có dịp đến Huế cũng đều muốn thưởng thức món bánh bèo - một món đặc sản của đất cố
đơ.



<b>Bánh khoái </b>



Bánh khoái đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lịng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối,
tơm bóc vỏ, thịt bị (hoặc chim) nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống. Khn bánh khối làm bằng gang
hình trịn, to bằng hai bàn tay trẻ con có cán cầm. Khi nào có khách ăn, nhà hàng mới bắc khn lên lị đổ
bánh. Múc một muôi bột trứng đổ vào khuôn nóng đã tráng mỡ. Tiếng bột bén mỡ xèo xèo bốc lên quyến rũ,
bột chín vàng rơm thì gắp một miếng thịt bò nướng, lát mỡ nhỏ, một vài con tơm, ít giá bỏ vào một nửa phần
bánh, dùng đũa lật phần bánh cịn lại úp lên thành hình bán nguyệt lật bánh cho vàng đều hai bên, xong bày
ra đĩa.


Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, thứ nước chấm chỉ các đầu bếp giỏi mới chế được. Ðây là bí quyết gia
truyền, quyết định chất lượng, tạo nên hương vị thượng hạng của bánh khoái. Nước lèo Huế được chế biến
rất cầu kỳ với hàng chục nguyên liệu như bột báng, gan lợn, mè (vừng), lạc rang... Quán bánh khoái Thượng
Tứ tồn tại gần ba bốn chục năm nay, đã trở thành văn hoá ẩm thực Huế, làm say lòng du khách, thân thuộc
với người Cố Ðơ chẳng khác gì cơm hến, tiếng chng chùa Thiên Mụ, con đị sơng Hương. Vâng, đó chính là
một phần văn hóa Huế.


<b>Thuyết minh về Vịnh Hạ Long nhé </b>



Nằm ở vùng Ðông Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị
xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đơng là biển, phần còn lại
giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn từ 106o58' - 107o22' kinh độ Ðông và 20o45' - 20o50' vĩ độ
Bắc với tổng diện tích 1553 km2 gồm 1969 hịn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Ðảo của
vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vơi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía đơng nam (thuộc vịnh
Bái Tử Long) và vùng phía tây nam (thuộc vùng vịnh Hạ Long) có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 - 280 triệu năm. Vùng tập
trung dày đặc các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp nổi tiếng là vùng trung tâm Di sản thiên
nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm vịnh Hạ Long và một phần vịnh Bái Tử Long. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới cơng
nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm
(phía nam), đảo Cống Tây (phía đơng) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hố
Thơng tin xếp hạng năm 1962.



Tên gọi Hạ Long đã thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử, thời Bắc thuộc khu vực này được gọi là Lục Châu, Lục Hải. Các
thời Lý, Trần, Lê Vịnh mang các tên Hải Đông, An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn hay Lục Thủy. Tên Hạ Long (rồng đáp
xuống) mới xuất hiện trong một số thư tịch và các bản đồ hàng hải [14] của Pháp từ cuối thế kỷ 19.


Trên tờ Tin tức Hải Phòng xuất bản bằng tiếng Pháp có bài viết về sự xuất hiện của sinh vật giống rồng trên khu vực là
vịnh Hạ Long ngày nay với nhan đề Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long, khi viên thiếu úy người Pháp Legderin, thuyền
trưởng tàu Avalence cùng các thủy thủ bắt gặp một đôi rắn biển khổng lồ ba lần (vào các năm 1898, 1900 và 1902)[15].
Có lẽ người Châu Âu đã liên tưởng con vật này giống như con rồng châu Á, lồi vật huyền thoại được tơn sùng trong văn
hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa các nước đồng văn châu Á nói chung. Bên cạnh những truyền thuyết của Việt Nam về
Rồng Mẹ và Rồng Con đáp xuống khu vực vịnh đảo vùng Đông Bắc này, sự xuất hiện con vật lạ hiện hữu như rồng trong
thực tại, có thể đã trở thành các lý do khiến vùng biển đảo Quảng Ninh được người Pháp gọi bằng cái tên vịnh Hạ Long
từ đó và phổ biến đến ngày nay


Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh khổng lồ vô cùng sống động. Ði giữa Hạ Long, ta ngỡ như lạc
vào một thế giới cổ tích bị hố đá, đảo thì giống hình một người đang đứng hướng về đất liền (hịn Ðầu Người), đảo thì
giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước (hòn Rồng), đảo thì lại giống như một ơng lão đang ngồi câu cá
(hịn Ơng Lã Vọng), hịn Cánh Buồm, hịn Cặp Gà, hịn Lư Hương... Tất cả trơng rất thực, thực đến kinh ngạc. Hình dáng
những đảo đá diệu kỳ ấy biến hố khơn lường theo góc độ ánh sáng trong ngày và theo góc nhìn. Tiềm ẩn trong lòng các
đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Ðầu Gỗ, động Sửng Sốt, động Tam Cung... Ðó
thực sự là những lâu đài của tạo hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi
mệnh danh là kỳ quan đất dựng giữa trời cao. Vịnh Hạ Long cũng là nơi gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc với
những địa danh nổi tiếng như Vân Ðồn - nơi có thương cảng cổ nổi tiếng một thời (1149), có núi Bài Thơ ghi bút tích của
nhiều bậc vua chúa, danh nhân, xa hơn chút nữa là dịng sơng Bạch Ðằng - nơi đã từng chứng kiến hai trận thuỷ chiến
lẫy lừng của cha ông ta chống giặc ngoại xâm.. Khơng chỉ có vậy, Hạ Long ngày nay được các nhà khoa học chứng minh
là một trong những cái nơi của con người có nền văn hố Hạ Long từ Hậu kỳ đồ đá mới với những địa danh khảo cổ học
nổi tiếng như Ðồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng... Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với
những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái
rừng cây nhiệt đới... Với hàng ngàn lồi động, thực vật vơ cùng phong phú trên rừng dưới biển, cá, mực... Có những lồi
đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây.



Với những giá trị đặc biệt như vậy, ngày 17/12/1994, trong phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế giới thuộc
UNESCO tổ chức tại Thái Lan, vịnh Hạ Long chính thức được cơng nhận là Di sản thiên nhiên, khẳng định giá trị mang
tính tồn cầu của Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long.


Cách đây hơn 5 thế kỷ, Nguyễn Trãi đi ngang qua khu vực này và lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ Long là kỳ quan, khi viết
trong bài "Lộ nhập Vân Đồn"[9]:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thiên khơi địa khiết phó kỳ quan
(Đường tới Vân Đồn lắm núi sao!
Kỳ quan đất dựng giữa trời cao)


Vua Lê Thánh Tông đề trên vách đá Núi Bài Thơ năm 1468:
Cự lãng nông nông kiểu bách xun


Quần sơn cờ cổ bích liên thiên


Trăm dịng sơng chảy mênh mông quanh núi


Quần đảo rải rác như bàn cờ, biển liền trời sắc xanh biếc.


I. Hang, Ðộng
Hang Ðầu Gỗ


Giữa non nước mây trời Hạ Long tuyệt mỹ, một chiếc hang mang tên vô cùng mộc mạc dân dã: hang Ðầu Gỗ. Hang nằm
trên đảo Ðầu Gỗ, xưa đảo này có tên là đảo Canh Ðộc. Sách Ðại Nam Nhất thống chí có ghi "Hịn Canh Ðộc lưng đảo có
động rộng rãi có thể chứa vài ngàn người, gần đó có hịn Cặp Gà, Hịn Mèo, Hịn La..." Sở dĩ gọi là hang Ðầu Gỗ, theo
truyền thuyết xưa kể rằng: Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, Trần Hưng Ðạo đã cho chuẩn bị nhiều cọc
gỗ lim ở đây để cắm xuống lịng sơng Bạch Ðằng, có rất nhiều mẩu gỗ cịn sót lại vì vậy động mang tên là hang Ðầu Gỗ.
Từ phía xa nhìn lại, cửa hang có màu xanh lam hình một con sứa biển, qua 90 bậc đá xây ta tới cửa động. Nếu động


Thiên Cung hoành tráng khoẻ khoắn, hiện đại thì hang Ðầu Gỗ trầm mặc uy nghi nhưng cũng rất đồ sộ. Cuốn Meivelle de
Monde (kỳ quan thế giới) của Pháp xuất bản năm 1938 chuyên về du lịch giới thiệu về các danh thắng nổi tiếng thế giới
đã mệnh danh hang Ðầu Gỗ là Grotto des meivellis (động của các kỳ quan). Ðiều đó hồn tồn chính xác. Hang được
chia làm ba ngăn chính. Ngăn phía ngồi có hình vịm cuốn tràn trề ánh sáng tự nhiên, trần hang là một bức "tranh sơn
dầu" khổng lồ, trong đó vẽ phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, đó là những đàn voi đang đi kiếm ăn, những chú hươu sao
ngơ ngác, chú sư tử lim dim ngủ... với những tư thế vô cùng sinh động. Phía dưới là một chú rùa đang bơi giữa bể nước
mênh mông, những rừng măng đá, nhũ đá nhiều mầu với nhiều hình thù kỳ lạ tuỳ theo trí tưởng tượng phong phú của
từng người. Ðứng dưới vịm hang ta có cảm giác như đang đứng giữa một tồ lâu đài cổ kính, có lối kiến trúc đồ sộ và
hùng vĩ. Chính giữa lịng hang là một cột trụ chống trời khổng lồ, hàng chục người ôm không xuể, từ phía dưới chân cột
lên trên được bàn tay điêu khắc tài tình của tạo hố gọt rũa thành những hình mây bay, rồng cuốn, phượng múa, hoa lá,
dây leo... Trên đỉnh cột, bất giác ta bắt gặp một vị tu sĩ mặc áo choàng thâm, tay phải cầm gậy tích trượng trong tư thế
tụng kinh, niệm Phật. Qua ngăn thứ 1, vào ngăn thứ 2 bằng một khe cửa hẹp. ánh sáng chiếu vào đây mờ ảo, những bức
tranh mới lạ hiện lên long lanh huyền bí. Những chùm hoa đá lúc ẩn lúc hiện, những hình ảnh vừa quen thuộc vừa lạ,...
tạo cho con người vừa sợ sệt vừa tò mò. Tận cùng hang là một chiếc giếng tiên bốn mùa nước ngọt trong vắt, chảy tràn
trề quanh năm. Bất giác ta nhìn lên phía trên trong ánh sáng mờ ảo, ta nhận ra bốn xung quanh là bức thành cổ, trên đó
đang diễn ra một trận hỗn chiến kỳ lạ, những chú voi đang gầm thét, người và ngựa chen chúc, gươm giáo mọc tua tủa,
tất cả đang ở trong tư thế xông lên và bỗng dưng bị hoá đá chốn này. Năm 1917, vua Khải Ðịnh lên thăm hang Ðầu Gỗ,
ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần tiên của tạo hố, ơng đã cho khắc một tấm văn bia với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non
nước Hạ Long và hang Ðầu Gỗ. Hiện nay, tấm bia đá vẫn cịn ở phía bên phải cửa động.


Hang Sửng Sốt


Nằm ở khu vực trung tâm của Di sản thế giới vịnh Hạ Long, động Sửng Sốt trong đảo Bồ Hòn. Người Pháp đặt cho động
cái tên grotto les suprices (động của những sửng sốt). Ðây là một hang động rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long.
Mặt khác động nằm ở vùng trung tâm du lịch của vịnh Hạ Long (bãi tắm Ti Tốp - hang Bồ Nâu - động Mê Cung - hang
Luồn - động Sửng Sốt) và đây cũng là nơi tập trung nhiều đảo đá có hình dáng đặc sắc khơng nơi nào có được. Ðường
lên động Sửng Sốt luồn dưới những tán lá rừng, những bậc đá ghép cheo leo, du khách vừa có được cái thú của người
leo núi, vừa có cái háo hức như đang đi lên trời vậy. Ðộng được chia làm hai ngăn chính, tồn bộ ngăn một như một nhà
hát lớn rộng thênh thang. Trần hang được phủ bằng một lớp "thảm nhung" óng mượt, vơ số những "chùm đèn treo" bằng
nhũ đá rực sáng long lanh, những tượng đá, voi đá, hải cẩu, mâm xôi, hoa lá... tất cả dường như đang chuyển động trong


một thế giới huyền ảo như thực như mơ. Chưa hết ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần kì của tạo hố, ta bước vào ngăn II
bằng một con đường nhỏ. Một luồng ánh sáng ùa vào rực rỡ, động mở ra một khung cảng mới hoàn toàn khác lạ, ngăn
động rộng mênh mơng có thể chứa được hàng ngàn người, ngay cạnh lối ra vào là một chú ngựa đá và một thanh gươm
dài. Truyền thuyết xưa kể rằng, sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng đã giúp dân chúng ở đây đánh đuổi yêu ma, khi
dẹp xong Thánh Gióng bay về trời và để lại thanh gươm và con ngựa quý để trấn an dân chúng, xua đuổi u qi. Hiện
nay trong hang cịn nhiều hình ảnh tự nhiên dường như là những dấu tích của trận chiến ác liệt đó, vết chân ngựa Gióng
trở thành những ao hồ nhỏ xinh xinh cùng nhiều tảng đá to lớn vỡ vụn. Ði vào trong cảnh trí cịn lắm điều kỳ lạ, như nhũ
đá, cây đa cổ thụ tán lá xum xuê, chú gấu biển, khủng long... Tới đỉnh cao nhất của động, bất ngờ một khu "vườn thượng
uyển" mở ra trước mắt, có hồ nước trong vắt, phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, mn lồi cây như si, vạn tuế, đa cổ thụ
cùng nhiều loài chim sinh sống. Những ngày đẹp trời, từng đàn khỉ kéo nhau xuống đây tìm hoa quả ăn làm náo động cả
một vùng.


Hang Trinh Nữ - Hang Trống


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Ngày nay, khi đến thăm hang Trinh Nữ, bức tượng cơ gái đứng xỗ mái tóc dài, đơi mắt đang nhìn về đất liền vẫn cịn đó.
Ðối diện với hang Trinh Nữ, hang Trống (còn được gọi là hang Con Trai). Bức tượng chàng trai hoá đá đang quay mặt về
phía hang Trinh Nữ vẫn cịn, những tiếng gọi tha thiết cùng tiếng gõ vào vách đá của chàng vẫn văng vẳng đâu đây.
Những dấu tích của trận cuồng phong đêm đó vẫn cịn đến ngày nay - đó là những đổ vỡ của đất đá ngổn ngang trong
hang, tiếng gió gầm gào qua vách đá và những bọt sóng vẫn tung lên trắng xố.


Ðộng Thiên Cung


Trong những hang động đẹp nổi tiếng vịnh Hạ Long mới được phát hiện trong những năm gần đây phải nói đến động
Thiên Cung. Ðộng nằm ở phía tây nam vịnh Hạ Long cách bến tàu du lịch 4 km, trên đảo Ðầu Gỗ ở độ cao 25 m so với
mực nước biển, có tọa độ 107o00'54" và 20o54'78". Ðảo Ðầu Gỗ xưa cịn có tên là đảo Canh Ðộc có đỉnh cao 189 m,
dãy đảo như một chiếc ngai ơm trong lịng mình hai hang động đẹp. Ðường lên động Thiên Cung vách đá cheo leo, hai
bên tán lá rừng che phủ um tùm, vào những đêm trăng, những chú khỉ tinh nghịch leo xuống tận đây để kiếm hoa quả.
Qua một khe cửa hẹp, lịng động đột ngột mở ra khơng gian có tiết diện hình tứ giác với chiều dài hơn 130 mét. Càng vào
trong ta càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lộng lẫy của tạo hoá. Ðộng gắn liền với truyền thuyết về vua Rồng xưa. Chuyện kể
rằng sau khi vua Rồng giúp dân ta đánh tan giặc giã, vua Rồng trở về động của mình an tọa, năm ấy trời hạn hán nặng,


dân tình mất mùa nhiều nên họ phải cầu cứu vua Rồng ra tay làm mưa. Bao nhiêu người đã ra đi mà khơng có ngày trở
về. Không sợ nguy hiểm gian nan, đôi trai gái quyết tâm cùng nhau đi tìm gặp vua Rồng. Người con gái của họ ra đời
được đặt tên là nàng Mây. Nàng Mây lớn lên đã làm xao xuyến trái tim Hồng tử Rồng và tình u đã giúp họ tìm đến với
nhau, đám cưới được tổ chức 7 ngày 7 đêm tại khu vực trung tâm động. Ðể chúc mừng đám cưới, những chú rồng bay
lượn lúc ẩn lúc hiện trong rừng mây nhũ đá, những chú voi con công kênh nhau lên nhảy múa, những con mãng xà lớn
trườn mình quấn quanh cây đa cổ thụ, hai chú sư tử đá nhảy múa bờm tóc tung bay, trên cao những chú đại bàng giang
rộng đôi cánh khổng lồ trên không trung... Một chú voi lớn được trang trí diêm dúa cơng phu đang nằm phủ phục chờ cô
dâu chú rể bước xuống. Nam Tào, Bắc Ðẩu tóc bạc như mây cũng đến dự tiệc vui, cảnh tượng tưng bừng náo nhiệt và
vơ cùng sống động. Tất cả những hình ảnh đó như vừa được hố đá nơi này. Trên vách động phía đơng là một bức tranh
hồnh tráng đồ sộ, trong đó chạm nổi những nhân vật trong truyện cổ tích xưa, nét chạm khắc mềm mại uyển chuyển và
vô cùng tinh tế sắc sảo tới từng chi tiết nhỏ, những khối điêu khắc dù là đồ sộ hay nhỏ bé đều được bàn tay của tạo hoá
trau chuốt tỉ mỉ. Trung tâm động là 4 cột trụ to lớn lực lưỡng chống đỡ thiên đình. Từ chân cột tới đỉnh đều được chạm nổi
nhiều hình thù kỳ lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của con người, hoa lá cành... Trên vách động phía bắc là cảnh một bầy
tiên nữ đang múa hát chúc mừng đám cưới. Dưới vòm động cao vút, từng chùm nhũ đá rủ xuống muôn màu tạo thành
bức rèm đá thiên nhiên lộng lẫy. Ðâu đó có tiếng trống bập bùng như trong đêm hội làng xưa. Ðó chính là tiếng gió thổi
qua kẽ đá. Ðứng giữa vịm động cao vút, màu thạch nhũ xanh như dát ngọc ta ngỡ như đang đứng trong tiên cảnh bồng
lai vậy.


Tới ngăn động cuối cùng, những luồn ánh sáng trắng xanh đỏ xen lẫn phối màu tạo nên khung cảnh hoa lệ. Một vịi nước
tự nhiên bốn mùa tn chảy róc rách, nơi đây có ba chiếc ao, nước trong vắt. Ðây là nơi nàng Mây thường tắm cho 100
người con của mình và ni họ khơn lớn trưởng thành. Một con đường dẫn ra phía ngồi quanh co uốn khúc, đó chính là
con đường mà nàng Mây cùng 50 người con của mình ra đi để khai phá vùng đất mới, 50 người con còn ở lại cùng với
người cha xây dựng quê hương, di vật mà người mẹ để lại là bầu vú tiên tràn trề sức sống.


Hang Hanh


Cách thị xã Cẩm Phả 9 km về phía tây, động Hang Hanh là một hang động đẹp và dài nhất so với các hang động hiện có
trên vịnh Hạ Long. Ðộng có chiều dài 1300 m, chạy xuyên suốt dãy núi đá Quang Hanh ra tới biển. Vì vậy, người Pháp
cịn đặt tên cho nó là Le tunel (đường hầm). Ði đến thăm động có thể bằng thuyền canos hoặc bằng xe ơtơ, phải chọn
vào lúc nước thuỷ triều xuống kiệt. Lúc ấy cửa động mới lộ rõ. Bên cạnh một phiến đá bằng phẳng chắn ngang ngay bên


cửa động là miếu Ba cơ. Truyền thuyết xưa kể lại rằng: Xưa có ba cô gái đi biển, gặp hôm trời mưa to, ba cô vào hang trú
mưa, thấy cảnh sắc trong hang đẹp quá nên ba người càng mải miết ngắm cảnh, tới lúc nước triều dâng cao ba cô gái bị
mắc kẹt ở trong và bỏ mình tại hang và hoá thành thuỷ thần. Truyền thuyết là vậy, thực tế động Quang Hanh đẹp hơn ta
tưởng tượng rất nhiều. Con đò nhỏ dẫn du khách luồn lách qua từng khe đá quanh co dưới ánh đuốc bập bùng, từng
chùm nhũ buông rủ xuống từ trần hang ánh lên những sắc màu kỳ diệu, dòng nước êm ả lững lờ trơi, khơng gian tĩnh
mịch chỉ có tiếng mái chèo khua nước nghe thánh thót một thứ âm thanh kỳ ảo. Càng vào sâu, động càng đẹp, mang
dáng dấp hoang sơ. Những chùm hoa đá rực rỡ, những trụ kim cương chợt ánh lên bao sắc màu óng ánh, khi ta chiếu
đèn vào, những mâm xôi đồ sộ, chùm hoa mẫu đơn, giò phong lan cảnh... Tất cả đang ở trong tư thế vươn ra lay động
rung rinh. Ðâu đó có tiếng trống bập bùng như đêm hội từ xa vọng lại. Ðó là tiếng sóng vỗ nhẹ vào vách đá tạo nên, và
còn nhiều nữa những hình ảnh đẹp kỳ lạ.


II. Ðảo, Hịn
Núi Bài Thơ


Ngày trước núi có tên là Truyền Ðăng, núi cao 106 m đứng bên cạnh thị xã Hòn Gai, một nửa chân núi gắn với đất liền,
nửa kia ngâm trong nước biển. Ði thuyền trên vịnh, cách bờ vịnh Hạ Long chừng 300 m đã có thể nhìn thấy bài thơ khắc
trên vách núi trong một khung hình vuông, mỗi chiều dài 1,5 m.


Năm 1468, vua Lê Thánh Tông cũng là nhà thơ nổi tiếng khi đi kinh lý vùng Ðông Bắc, đã dừng chân trên vịnh Hạ Long
ngay dưới chân ngọn núi nên thơ này. Xúc cảm trước thiên nhiên kỳ vĩ, nhà vua đã làm một bài thơ và truyền lệnh khắc
vào vách núi. Từ đó có tên gọi là núi Bài Thơ. An Ðơ Vương Trịnh Cương (1686 - 1730) cũng có một bài thơ ở núi này.
Leo núi Bài Thơ là một trò chơi đầy hấp dẫn. Ðứng ở lưng chừng núi phóng tầm mắt xa xa là biển xanh, đảo đá nhấp
nhơ, nhìn lên cao là trời mây bồng bềnh và xung quanh là cây, là hoa rừng, là những cánh chim ríu rít chuyển cành...
Hịn Ðỉnh Hương (Lư Hương hay Bình Phong)


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Ðỉnh Hương để lộ 4 chân uốn khúc khơng khác gì án lư hương.
Hịn Gà Chọi


Ði qua hòn Ðỉnh Hương khoảng chừng 1 km, du khách sẽ nhìn thấy 2 hịn đá thật to như dáng 2 con gà đang giương
cánh đá nhau trên mặt biển.



Hịn Ðũa


Hay cịn gọi là hịn Ơng, cách Bãi Cháy 15 km về phía đơng. Ðây là ngọn núi đá cao khoảng 40 m có hình trịn trơng như
chiếc đũa phơi mình trước thiên nhiên. Nhìn từ hướng tây bắc, hịn Ðũa giống như vị quan triều đình áo xanh, đầu đội mũ
cánh chuồn, hai tay chắp trước ngực, nên dân chài Hạ Long quen gọi là hòn Ơng.


Hịn n Ngựa


Ðây là một ngọn núi nhỏ có dáng rất hùng vĩ, giống như một con ngựa đang lao mình về phía trước, bốn vó tung bay trên
mặt nước.


Ðảo Khỉ


Ðảo ở cách thị xã Cẩm Phả 4 km về phía đơng nam, cịn có tên gọi là đảo Rều. Từ năm 1962, đảo đã trở thành trại chăn
ni khỉ. Khỉ ở đây là lồi khỉ mũi đỏ. Ðây là điểm tham quan của Hạ Long. Ðến đây du khách như được hồ mình với
thiên nhiên, được sống với thế giới của "hoa quả sơn".


Ðảo Tuần Châu


Cách hang Ðầu Gỗ 3 km về phía tây, rộng khoảng 3 km2. Ðảo có tên như vậy do việc ghép hai chữ "Linh Tuần" và "Tri
Châu" mà thành. Ðảo có trồng nhiều rau xanh, là nguồn cung cấp rau xanh cho thành phố.


Trên đảo cịn có ngơi nhà đơn sơ làm bằng tre nứa, song mây của nhân dân tỉnh Quảng Ninh làm để chủ tịch Hồ Chí
Minh nghỉ ngơi sau mỗi lần đi thăm vịnh. Hiện nay vẫn được gìn giữ bảo vệ làm nhà lưu niệm.


Tỉnh Quảng Ninh đang triển khai một dự án lớn, biến đảo Tuần Châu thành một điểm du lịch đặc sắc của quần thể vịnh
Hạ Long.


III. Bãi Tắm


Bãi Cháy


Dọc theo bờ vịnh Hạ Long là khu nghỉ mát thường quen gọi là Bãi Cháy. Ðây là khu nghỉ mát quanh năm lộng gió biển,
nhiệt độ trung bình năm khoảng trên 20° C.


Bãi Cháy là một dải đồi thấp chạy thoai thoải về phía biển kéo dài hơn 2 km ôm lấy hàng thông cổ thụ nằm xen kẽ với
những khách sạn cao tầng, những biệt thự nhỏ kiến trúc riêng biệt. Qua con đường rải nhựa, sát bờ vịnh là dải cát trắng
và hàng phi lao xanh mát. Những hàng quán nhỏ xinh ẩn mình dưới những rặng phi lao. Tắm biển xong du khách có thể
lên bờ ngồi thưởng thức những cốc nước mát lạnh để đón luồng gió biển.


Bãi Cháy - vịnh Hạ Long là một điểm du lịch hấp dẫn khách trong và ngoài nước.


Hiện nay, trong nỗ lực hướng tới lựa chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới trên mạng Internet do tổ chức NewOpenWorld,
một tổ chức tư nhân, đứng ra tổ chức toàn cầu, vịnh Hạ Long đang được chính quyền Quảng Ninh nói riêng và các tổ
chức phi chính phủ trong nước nói chung thực hiện tổng quảng bá và tuyên truyền. Cuộc bầu chọn này chia thành 2
vòng, vòng một kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2008 để chọn ra 21 ứng viên cao điểm nhất để tiếp tục bầu chọn vòng
2 chọn ra 7 kỳ quan thiên nhiên, và công bố kết quả cuối cùng vào mùa hè năm 2010. 9h trưa ngày 20 tháng 2 năm 2008
NewOpenWorld đã công bố kết quả bước đầu khi vịnh Hạ Long lần đầu tiên vượt lên giữ vị trí thứ nhất[40] trên bảng xếp
hạng, sau khi đã trải qua rất nhiều lần lên hạng và xuống hạng trong sự cạnh tranh với 77 kì quan được bình chọn nhiều
nhất trên thế giới. Cùng với sự thăng hạng của vịnh Hạ Long, hai địa danh khác ở Việt Nam là Phong Nha-Kẻ Bàng và
Phanxipăng cũng đã lần đầu tiên lọt vào top 3 kỳ quan được bầu chọn nhiều nhất vào thời điểm 23 giờ đêm ngày 22
tháng 2 năm 2008[41]. Tuy nhiên, cuộc bầu chọn này kéo dài đến năm 2010 và vị trí của vịnh Hạ Long trên bảng xếp
hạng sẽ còn thay đổi. Thêm nữa, do khơng dựa trên những tiêu chí khoa học nên kết quả của cuộc bầu chọn không được
UNESCO công nhận[42]. Theo UNESCO, kết quả từ hoạt động “Bảy kỳ quan thế giới mới” hồn tồn mang tính riêng tư,
chỉ phản ánh ý kiến của một cộng đồng cư dân sử dụng mạng Internet chứ khơng phải là tồn bộ thế giới


Năm 1729, chúa Trịnh Cương cũng có những vần thơ ứng tác trước vẻ đẹp của Hạ Long:
Minh bộ vô nhai hối tổng xuyên


Sơn liên tiêu thủy, thủy man thiên



Bể lớn mênh mông họp cả con con sông lại,
Núi lấp lống bóng nước, nước lênh láng lưng trời.


Hình ảnh Hạ Long cũng xuất hiện trong thơ của những nhà thơ hiện đại, như Xuân Diệu:
Đây bản thảo tạo vật còn nặn dở...


Đá thuở trước khổng lồ chơi ném thử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long?


nãn l¸



Nón lá khơng xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn
nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nử Việt Nam nổi bật bản sắc văn hố
dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của đàn bà Việt Nam, chắc chắn không ai chối cải. Nếu mặc áo đầm,
hay quần tây mà đội nón khơng tạo được nét đẹp riêng.Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã
khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời
sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một
nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẽ ráo mồ hơi. Nón lá ở Việt Nam
có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:


Nón dấu : nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa


Nón gị găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa
Nón rơm. Nón làm bằng cộng rơm ép cứng



Nón quai thao : người miền Bắc thường dùng trong lễ hội


Nón cối : người miền Nam rất sợ loại nón nầy xuất hiện sau năm 1975.
Nón cời . nón rách


Nón Gõ : Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa
Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp


Nón thúng: thứ nón lá trịn bầu giống cái thúng.
Nón khua :Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa


Nón chảo : thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thai Lan cịn dùng
Nón cạp: Nón xn lơi đại dành cho người có tang


Nón bài thơ : ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ


Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành,
đường kính rộng bao nhiêu cm. ? Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay.
Nghề chằm nón khơng chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ơng trong gia đình cũng có thể
giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách cơng
phu ; sau đó uốn thành vịng thật trịn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành . Để có được lá
đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và
lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và
mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở
các tỉnh miền Nam khơng thấy người ta chằm nón,Vật liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón,
lá mọc ở những vùng núi, sau nầy người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên Du Qui Diệp là lá làm tơi thời
gian văn minh chưa phát triển, người ta dùng loại lá nầy làm cái tơi để m đơng chống mưa gió. Một loại
khác là Bồ Qui Diệp là loại mỏng và mền hơn để làm nón lá.Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những
cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng,
giống như con công đang xịe cánh .Người ta chặt lá nón non cịn búp, cành lá nón có hình nang quạt nhiều


lá đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm
nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chun bn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ
Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại.Lá non lúc khơ có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương
đêm cho lá bớt độ giịn vì khơ, mở lá từ đầu tới cuồn lá, cắt bỏ phần cuối cùng, dùng lưởi cày cũ hay một
miếng gan, đặt trên nồi than lưả nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như cũ hành tây, người ta đè và kéo
lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm
phần ngồi của nón. Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính,
khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón trịn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung nầy phải do thợ
chun mơn làm kích thước đúng cở khi lợp lá và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng. Nón thường chỉ 16
vành trịn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh
và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây nầy giống
cây sậy, khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón
và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm, người ta phết phiá ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước
mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng
hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ...Thời gian chưa có chỉ cước
người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm) tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của
lá, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đốc. Nhưng sau nầy phát triển
người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có đường nét thanh nhã hơn. Nón lá đã đi vào thi ca bình dân
Việt nam


Nón em chẳng đáng mấy đồng,
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham
Nón em nón bạc quai vàng


Thì em mới dám trao chàng cầm tay
Tiếc rằng vì nón quai mây


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nón quai thao, hay nón thúng các cơ gái Bắc thời xưa chưa chồng thường dùng, ngày nay đến Hà Nội khơng
cịn thấy ai đội nón quai thao, trên đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thu, thiếu nữ Hà Nội che dù
màu, đội mũ lát, đội mũ tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn văn hố, hát quan họ, các cơ


đều trang sức giống như thời xưa với chiếc nón quai thao ( hình trên trong Văn Miếu)


Thưở xưa con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú trọng đến niềm vui tận tụy làm
trịn bổn phận trong gia đình, xao lãng những vẽ đẹp bề ngồi..


Chưa chồng nón thúng, quai thao
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai
Chửa chồng, yếm thắm, đeo hoa
Chồng rồi, hai vú bỏ ra tầy giành.
Túa ống tơ ngà tha thướt gió
Vàng vàng lá lụa nắng tươi xinh
Khn hoa e lệ trong khn nón
Say mắt chàng trai tiếc gửi tình


Nhung dép cong nghiêm bước thẳng đường
Ðâu ngờ tơ nón gió vương vương


Chàng về, mắt dắm sầu xa vắng
Cả một trời xuân nhạt nắng hường
Chiếc nón quai Thao Anh Thơ


Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai
Cịn dun nón cụ quai tơ


Hết dun nón lá quai dừa cũng xong


Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh
mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp, rạo rực vì những bâng khuâng .. .


Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các


nàng cũng khơng ngồi những điều đã được ca dao truyền tụng, Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn,
đơi chân mày cong vịng như vần trăng non dưới vành nón lá :


Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu
Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu
Sẽ làm khơ làn mơi en dịu ướt
Cịn ta mắt anh..


Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước


Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn qt đan nhau
Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào


Ðôi chân bước ..anh nghe chừng sai nhịp.
Thu Nhất Phương


Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều
Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dịng sơng Như Ý, thuộc
xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã
nhặn người ta cịn cắt những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầu Trường Tiền, con đị trên sơng Hương... và đặc
biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế


Sơng Hương lắm chuyến đị ngang
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình
Ca dao


Sao anh khơng về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên


Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên
Nguyễn Khoa Điền


Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Bích Lan


Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật "trang sức" của biết bao thiếu nữ. lựa nón, lựa quai, cũng là
một thú vui nên khơng ít người đã kỳ cơng đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dịng thơ u thích.
Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với
áo dài trắng, nón trắng và tóc thề.


Dịng nước sơng Hương chảy lặng lờ
Ngàn thơng núi Ngụ đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng tơn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ


Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của
phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xồi, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Dặn mua chiếc nón lá dày khơng mua


Nón bài thơ đặc sản Huế nón Gị Găng ở Bình Định cịn gọi là nón ngựa làm bằng vành tre cật, chuốt nhỏ như
tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và
đều đặn. Trên đỉnh chóp được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long-lân-qui-phụng. Quai nón được
làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời dày
cơng nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang quyền q, những chức sắc
quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi
nón bn, nón chũm, rẻ hơn nhiều. Các loại này đều khơng có chụp bạc, nó được thay bằng những tua ngũ


sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón
đi ngựa; cịn những nhà nghèo cũng ráng sắm đơi nón ngựa cho cơ dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy
nên có câu ca dao:


Cưới nàng đơi nón Gị Găng


Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn


Ngày nay các cơ gái làm nón hầu như khơng cịn giữ được phương pháp làm nón ngựa nữa. Họ quen với
công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của chiếc nón trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải
cách lâu dài. Ðể làm loại nón này phải qua nhiều cơng đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá, chằm và nức. Việc làm
lá địi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm


Nghề nón là thuộc thị trấn Gị Găng, Nhơn Thành – An Nhơn. Nơi đây có một chợ nón lớn họp thường ngày
từ 3-4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25-30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và
mua sắm vật liệu cho đợt sau. mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50.000 chiếc nón. Gần đây
nón Gị Găng cịn được xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải
biên cho hợp với xứ người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến các miệt vườn miền
Nam


Nhớ nón Gị Găng
Vầng trăng đập đá
Sơng dài sóng cả
Người qn tử,
Khăn điều vắt vai..


Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt nam vẫn thuần túy ngun hình của nó. ở bất cứ nơi đâu, từ
rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sơng dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời
không đổi thay



Trong chúng ta, chắc chẳng có ai khơng biết đến mèo, lồi vật đáng u được ni rộng rãi trong gia đình.
Nhưng các bạn có chắc là mình hiểu rõ về lồi mèo chưa ? Nếu chưa, mời các bạn cùng tơi đến trị chuyện
với chị mèo Thông Thái đằng kia.


Sau khi chào tôi, chị mèo hào hứng kể rằng họ mèo nhà chị có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo bắt đầu được
thuần hóa và ni ở Ai Cập sau đó lan nhanh sang châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Riêng ở Việt
Nam, mèo bắt đầu được ni từ khoảng hai nghìn năm trước đây.


Quả đúng như chị mèo Thơng Thái nói, họ nhà chị ai ai cũng có vẻ ngồi nhanh nhẹn, tràn đầy sức sống.
Đầu mèo trịn, nhỏ và ở phía trước hơi nhơ ra, đó là mõm mèo. Trơng mèo nhỏ bé thế nhưng hàm răng nó
lại có tới ba mươi chiếc. Trong số này, ngoài bốn chiếc răng nanh sắc nhọn thì hầu hết đều nhỏ xíu. Kỳ lạ
nhất là đơi mắt mèo, đơi mắt trong veo như hai hịn bi ve. Đồng tử mèo có khả năng co dãn cực tốt. Ban
ngày, đồng tử thu nhỏ đến đêm mới dãn ra. Thế là mèo ta có thể nhìn rõ trong đêm tối. Thân hình nhỏ bé
của mèo được nâng đỡ bởi bốn chân chắc khỏe. Vì nằm trong nhóm động vật bậc thấp nên mèo vẫn có
một cái đi dài. Mỗi chân mèo đều có bốn ngón, dưới những ngón chân có vuốt cực sắc này là đệm thịt
giúp mèo đi lại nhẹ nhàng.


Chắc chẳng có em bé nào mà lại khơng biết đến câu hát : “Meo meo meo, rửa mặt như mèo...” hay “mèo
con ra bể nước, bàn chân nó vuốt vuốt, xoa mấy sợi râu cước...”. Hình ảnh chú mèo liếm láp lịng bàn
chân trước bên phải của mình cho thật sạch rồi lấy chính chân đó cọ cọ vào mặt mình đã khắc sâu vào tâm
trí trẻ thơ. Một tập tính nữa mà ai cũng biết ở mèo đấy là bắt chuột. Bọn chuột xấu xí chuyên đi ăn vụng
mỗi khi nghe thấy tiếng “meo meo” của mèo là hồn vía chạy đi đâu hết cả, chỉ cịn biết bạt mạng chạy.
Cộng thêm với đôi râu và đôi tai nhạy như ra đa mà trời đã ban cho, mèo lại càng bắt được nhiều chuột.
Nghe chị mèo nói đến đây, tơi đã thấy khối lồi mèo lắm rồi, bèn giục : “Chị ơi, chị kể cho em nghe về sự
sinh trưởng của mèo đi”. Chị mèo mỉm cười rồi tiếp : “Mèo con được một tháng tuổi đã được mẹ dạy cho
những kỹ năng bắt chuột cơ bản như chạy, nhảy, rình mồi, vồ mồi. Trong thời kỳ này, mèo mẹ sẽ dẫn mèo
con đi quanh nhà để chúng “tìm hiểu” mọi thứ. Lớn hơn một chút, khoảng từ bốn đến năm tháng tuổi là có
thể tự săn mồi. Mèo từ mười đến mười hai tháng tuổi là có thể sinh sản được. Lúc này, mèo cái có bộ lơng
mới mượt hơn, dày hơn bình thường. Cơ thể mèo lúc này phát ra một mùi đặc biệt và có tiếng kêu khác
thường để hấp dẫn các chàng mèo đực. Sau khi giao phối, mèo cái lại sống đơn độc như trước và tự nuôi


con. Mỗi lứa, mèo mẹ đẻ khoảng hai đến sáu con. Mèo con mới đẻ mắt nhắm nghiền, khoảng một tuần sau
mới mở mắt”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

được nuôi phổ biến nhất là mèo tam thể. Lồi này lơng có màu đen, vàng, trắng pha lẫn với nhau. Nghe
chúng tôi kể, chị gật gù : “Họ nhà người cũng am hiểu về họ nhà mèo ghê”.


Chị còn kể cho chúng tơi về nỗi kinh hồng của họ nhà chị. Xưa, người ta dùng ruột mèo để căng dây vợt
tennis (Nói đến đây, mặt chị hơi nhăn lại). Và bây giờ người ta còn ăn thịt mèo nữa. Nghe đâu, Chính phủ
đã cấm bán và ăn thịt mèo. Song mấy người bạn chị bảo ở dưới Thái Bình, số quán nhậu “tiểu hổ” vẫn ở
mức hàng trăm. Và cứ mỗi ngày, lại có hơn một ngàn anh chị em cô bác mèo “ra đi” tại đây. Chị lắc đầu
“Cứ đà này, chẳng mấy chốc, bọn chuột dưới đó lại nổi loạn cho xem”. Vì mèo là “khắc tinh” của chuột mà.
Các bạn có muốn góp tay ngăn chặn nạn chuột không ? Hãy nuôi một chú mèo trong nhà nhé. Theo kinh
nghiệm của chị mèo Thông Thái thì mèo con dưới hai tháng tuổi nên cho ở với mẹ. Khi lớn lên thì cho tập
ăn cơm trộn cá, trộn thịt hoặc thậm chí cả rau nữa. Mèo là loại động vật có xuất xứ từ sa mạc nên rất ưa
hơi ấm. Chính vì thế nên mèo rất hay trườn mình cọ vào chân người. Lúc đó, bạn hãy ơm mèo vào lịng, ủ
ấm cho nó hoặc mang nó ra nắng sưởi ấm nhé ! Thấy chưa, mèo ta đã lim dim đôi mắt và grừ grừ khoan
khối rồi kìa. Mèo cũng rất thích chơi với các em bé từ bốn tuổi trở lên. Đây là thời kỳ hình thành nhân
cách của các em nênnếu trong gia đình ni một chú mèo thì trẻ nhỏ sẽ sớm biết yêu động vật. Thật đáng
tiếc nếu bạn bị dị ứng với lông mèo vì khi đó bạn chỉ có thể ngắm nó từ xa chứ đừng nuôi mà cũng đừng
âu yếm vuốt ve nó. À, các bạn nhớ đem mèo đi tiêm phòng mỗi năm một lần và thường xuyên tắm hoặc
bắt rận cho mèo nhé. Để mèo luôn khỏe mạnh và sạch sẽ mà.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×