BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
NGUYỄN HỮU HẬU
QUY HOẠCH XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI XÃ NGUN BÌNH,
HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA
ĐẾN NĂM 2020
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.02.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRỌNG BÌNH
Hà Nội, 2013
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nguyên Bình là xã vùng bán sơn địa, cách thị trấn Tĩnh Gia khoảng 1 km về
phía Tây, là một xã có bề dày truyền thống được nhà nước truy tặng anh hùng lược
lượng vũ trang trong kháng chiến chống mỹ cứu nước năm 2011. Có hệ thống
đường giao thông thuận lợi với khu trung tâm huyện và các xã lân cận. Diện tích tự
nhiên 3.212,28 ha. Tổng dân số năm 2011 là 9.685 người, mật độ dân số 267
người/km2, địa hình thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, dịch vụ
thương mại, và các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác.
Trong nhiều năm qua, các lĩnh vực Kinh tế - văn hoá - xã hội - môi trường
trên địa bàn xã đã được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương hết sức
quan tâm; đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
trong xã, bằng những cơ chế chính sách, kế hoạch quản lý phù hợp, và hỗ trợ đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng ... Vì vậy, Nguyên Bình đang từng bước phát triển, đời sống
vật chất, tinh thần của đại bộ phận nông dân ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông
thôn từng bước được đổi mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi xã Ngun Bình cũng cịn một số khó
khăn, hạn chế đó là cơ cấu kinh tế trong nơng thơn chuyển dịch còn chậm, chưa
đồng bộ và thiếu vững chắc, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp cơ bản
hoàn thiện về mạng lưới nhưng chưa đồng bộ, nhiều cơng trình cơng cộng cịn tạm
bợ làm giảm khả năng phục vụ sản xuất; hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao,
chăn ni nhỏ lẻ cịn khá phổ biến dẫn tới giá thành sản xuất cao, giá trị thấp... đời
sống nhân dân cịn nhiều khó khăn, chưa thể vươn lên làm giàu từ sản xuất nơng
nghiệp. Cần có sự chuyển dịch mạnh về cơ cấu sản xuất nông nghiệp, sắp sếp lại lao
động một cách hợp lý, khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, lao động phát huy lợi
thế để phát triển sản xuất lương thực thực phẩm, chăn nuôi theo hướng trại tập
trung, mở rộng các ngành nghề sản xuất kinh doanh đa dạng hiệu quả cao.
Thực trạng trên địa bàn xã việc phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, mơi trường;
bố trí chưa được hợp lý từ công sở UBND xã đến các điểm dân cư thơn làng; từ các
cơng trình hạ tầng kỹ thuật đến các cơng trình văn hố, phúc lợi cơng cộng, khu dân
2
cư, thiếu quy hoạch để quản lý và kêu gọi các dự án đầu tư; xây dựng cịn mang tính
chắp vá, tự phát là chính nên tính bền vững, mỹ quan chưa cao; nhiều cơng trình
phá đi làm lại gây lãng phí, tốn kém hiệu quả sử dụng cịn hạn chế; vấn đề môi
trường sinh thái chưa được quan tâm. Mặt khác, ngân sách Nhà nước, địa phương,
các nguồn tài trợ, và sự đóng góp của nhân dân đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong
xã ngày càng nhiều; đặc biệt là việc tự đầu tư xây dựng nhà ở của nhân dân và các
cơ sở hạ tầng là rất lớn. Trong khi đó chưa có một cơng cụ quản lý một cách thích
ứng và đồng bộ.
Vì vậy, việc nghiên cứu lập “Quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã
Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia đến năm 2020” là rất cần thiết làm căn cứ pháp lý
để quản lý, nâng cao hiệu quả trong đầu tư phát triển dịch vụ, công nghiệp và sản
xuất nông nghiệp của địa phương và làm cơ sở lập các dự án đầu tư xây dựng, cải
tạo các cơng trình hạ tầng kinh tế, xã hội, môi trường. Quy hoạch sử dụng đất, xắp
xếp lại không gian kiến trúc, cảnh quan nông thôn phù hợp, khang trang hơn, gìn
giữ bản sắc văn hóa của địa phương và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân; đáp ứng được các nội dung theo tinh thần Nghị quyết TW 7, Khố X của Đảng,
từng bước hồn thành các tiêu chí Quốc gia về nơng thơn mới.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Thực tế, việc quy hoạch nông thôn mới được cho là là việc quy hoạch sử
dụng đất gắn với công nghiệp hóa nơng thơn nhằm đưa ra các giải pháp quản lý sử
dụng đất hợp lý đem lại hiệu quả cao về kinh tế và môi trường, sắp xếp không gian
kiến trúc, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện bộ mặt mới cho vùng nông thôn, thu hẹp
khoảng cách giữa nông thôn và các vùng thành thị.
+ Vấn đề quy hoạch sử dụng đất: Tài nguyên đất trên toàn cầu có 13.530
triệu ha. Hiện nay trên thế giới đất đang được canh tác chiếm khoảng 10,6% tổng
diện tích đất và cịn một tiềm năng lớn hơn 14,7% đất nơng nghiệp có thể đưa vào
trồng trọt, phần lớn tiềm năng đất này là ở Bắc, Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Đại
Dương tức khoảng 1.000 triệu ha đất có khả năng nông nghiệp, đa số là đất Oxisols
và Vetisol [25]. Ở Châu á, mặc dù chiếm 38% dân số thế giới nhưng chỉ có 20% đất
nơng nghiệp tồn cầu, trong đó 77% đất canh tác. Đất dốc ở Châu á chiếm khoảng
35% tổng diện tích đất của các nước đang phát triển [26].
Trên thế giới trải qua nhiều thế kỷ trong q trình sản xuất, con người đã có
những phương thức sử dụng đất thay đổi phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Đứng
trước nhu cầu về lương thực của thế giới các nhà khoa học đã tìm tịi, nghiên cứu
thử nghiệm một số mơ hình sử dụng đất, bố trí cơ cấu cây trồng trên phạm vi tồn
thế giới và đã đạt được những kết quả khả quan. Nhiều cơng trình trên thế giới đã
được xác nhận như dùng cây họ đậu, cây phân xanh trồng xen với cây trồng chính
có tác dụng trong việc che phủ, chống được sự rửa trơi, bào mịn đất và ánh sáng
trực xạ của mặt trời đồng thời làm giảm sự mất mùa, tăng đạm của đất, cung cấp
một lượng phân đáng kể cho cây trồng, có tác dụng bảo vệ đất tốt (Coste 1935;
Bertrand 1967; Prillenet 1990) [21].
Bằng chứng lịch sử cho thấy việc phá huỷ rừng là do các cộng đồng người
sống ở bên lề xã hội và giới hạn địa lý gây ra, họ buộc phải thích ứng với hồn cảnh
sống ngặt nghèo bằng cách phá huỷ mơi trường tự nhiên dễ bị tổn thương và sau đó
4
họ lại chính là nạn nhân của tình trạng lạm dụng tài ngun thiên nhiên đó. Sự suy
thối đất khơng phải chỉ do phối hợp của các yếu tố môi trường và sự buông thả
trong chiến lược quản lý đất, nhưng đúng hơn là do phá vỡ các biện pháp kỹ thuật
canh tác lâu bền được người dân sử dụng (Redclift 1984; Blaike 1985). Sự thay đổi
dân số nông thôn để phù hợp với diện tích đất trồng trọt đã bắt đầu từ nửa thế kỷ
trước và còn tiếp tục cho đến tận bây giờ. Hiện nay, sự phát triển các nhà máy thủy
điện cũng dễ dàng đẩy người dân ra khỏi miền đất của họ để đến định cư ở những
vùng đất cao hơn. Cũng tương tự như vậy sự tăng cường trồng các cây hàng năm
với nhiều loài và giống mới đã làm thay đổi nguồn tài nguyên của các nhóm khác.
Kết quả là, trong tất cả các trường hợp, đã đẩy nhiều người dân hơn nữa lên các
vùng cao, và cuộc sống của họ phụ thuộc mạnh mẽ hơn vào đất rừng. Nguồn tài
nguyên không ngừng bị suy giảm. Các ví dụ có thể tìm thấy ở bất kỳ quốc gia nào ở
Nam và Đông Nam châu Á [13].
Về nghiên cứu hệ thống canh tác, FAO (1990) xuất bản cuốn Phát triển hệ
thống canh tác (Farming system development). Cơng trình đã khái qt phương
pháp tiếp cận nơng thôn trước đây là phương pháp tiếp cận một chiều (từ trên
xuống), không phát huy được tiềm năng nông trại và cộng đồng nông thôn. Thông
qua nghiên cứu và thực tiễn, ấn phẩm đã nêu lên phương pháp tiếp cận mới Phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân, nhằm phát triển các hệ thống
trang trại và cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững. Hệ thống nông trại là các
nông hộ được chia thành 3 phần cơ bản [15].
Nông hộ - đơn vị ra các quyết định.
Trang trại và các hoạt động.
Các thành phần ngoài trang trại.
Các bộ phận này liên kết chặt chẽ trong mối tác động qua lại.
Báo cáo về phát triển thế giới (1992) dự đoán dân số sẽ đạt khoảng 8,3 tỉ vào
năm 2025. Norman E Borlaug (1996) cho rằng: Cũng giống như trước đây, loài
người sẽ sống chủ yếu là dựa vào thực vật, đặc biệt là hạt cốc để thoả mãn gần hết
nhu cầu lương thực ngày càng gia tăng của mình. Thậm chí nếu như tiêu thụ lương
5
thực theo đầu người giữ nguyên mức hiện thời, thì sự tăng trưởng dân số thế giới
cũng đòi hỏi phải tăng năng suất lương thực thô thêm 2,6 tỉ tấn vào năm 2025, tức
là tăng 57% so với năm 1990. Nhưng nếu như khẩu phần được cải thiện cho thế giới
người nghèo đói, ước tính ít nhất 1 tỉ người, thì nhu cầu lương thực thế giới hàng
năm phải tăng gấp đôi, tức là 4,5 tỉ tấn nữa [13]. Nếu bằng con đường tăng năng suất
các loại cây trồng (năng suất các cây hạt ngũ cốc phải tăng 80% trong thời kỳ 1990 2025), theo kỷ yếu sản xuất của FAO và tính tốn của Norman E.Borlaug, thì nguồn
lương thực hạt cốc thế giới chỉ mới đạt 3,97 tỉ tấn vào năm 2025 [13]. Quỹ đất nông
nghiệp sẽ phải tăng để bù lại sự thiếu hụt lương thực cũng là hướng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết. Nhưng theo Norman E.Borlaug thì cơ hội để mở mang thêm
đất mới cho trồng trọt đã được tận dụng gần hết, nhất là đối với vùng đông dân châu
á và châu Âu [13]. Theo Ducal (1978), trong vòng 20 năm từ năm 1957 - 1977, đất
canh tác trên thế giới tăng thêm 150 triệu ha, bằng 10% đất có khả năng khai hoang
sử dụng cho nông nghiệp và bằng 9% đất canh tác lúc đó. Nhưng cũng trong 20
năm này, dân số thế giới đã tăng tới 40%, lương thực do số đất mới làm ra chỉ đủ
nuôi 1/3 số dân tăng thêm.
Như vậy để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm nông nghiệp,
con người đã và đang đi theo cả hai hướng: tăng năng suất cây trồng và mở rộng
diện tích canh tác. Nhưng dù đi theo hướng nào vẫn phải tiến hành điều tra nghiên
cứu đánh giá đất đai để có cách sử dụng hiệu quả nhất trên cơ sở QHSDĐ và
chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng, mà đặc biệt là theo hướng nghiên cứu tổng
hợp tiềm năng của đất đai cho các mục tiêu sử dụng xác định.
+ Vấn đề cơng nghiệp hố nông thôn một số nước và lãnh thổ trên thế giới:
Một đặc điểm của các nước đang phát triển là tỷ trọng lao động nông nghiệp cao,
năng suất lao động thấp và đời sống của nhân dân cũng thấp. Thị trường nông thôn,
sức mua của nông dân hạn chế, quá trình di dân từ nơng thơn ra thành thị diễn ra
liên tục với nhịp độ nhanh làm nảy sinh hàng loạt vấn đề xã hội, mơi sinh. Cùng với
đó là sự bần cùng hố nơng thơn một cách tương đối, khoảng cách giữa nông thôn
và thành thị ngày càng xa.
6
Để chống lại xu hướng đó, nhiều nước đã chọn con đường cơng nghiệp hố
nơng thơn. Từ cơng nghiệp nơng thôn, đến phát triển dịch vụ nông thôn và cuối
cùng là phát triển nơng nghiệp hàng hố. Cơng nghiệp cộng với dịch vụ sẽ thu hút
lao động dư thừa làm tăng năng suất lao động nông nghiệp, tăng thu nhập và sức
mua ở nông thôn, tạo thị trường cho công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, phát triển
công nghiệp nông thôn là một hướng đi tất yếu của các nước đang phát triển.
Có nhiều hình thức và phương pháp cơng nghiệp hố nơng thơn, nhưng đều
nhằm mục đích thu hút thật nhiều lao động nông nghiệp để tạo ra của cải vật chất.
Thực chất đó là q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển nông dân
thuần nông sang nơng nghiệp hàng hố, cơng nghiệp và dịch vụ.
Nhằm rút ra được những bài học thiết thực cho việc định hướng và giải pháp
cơng nghiệp hố nơng thơn nước ta, chúng ta sẽ tìm hiểu các hoạt động cơng nghiệp
hố nơng thơn ở một số nước châu Á.
- Trung Quốc: Ở Trung Quốc cơng nghiệp hố nơng thơn hình thành và phát
triển nhanh trong những năm cải cách thể chế kinh tế nơng thơn. Tính từ năm 1978
đến năm 1992, nước này thực hiện phương châm “ly nông bất ly hương, nhập
xưởng bất nhập thành” để phát triển nông nghiệp hương trấn. Hơn 100 triệu lao
động nông nghiệp trên địa bàn nông thôn đã chuyển sang công nghiệp và dịch vụ tại
công xưởng công nghiệp địa phương ngay tại làng xã với các hình thức khác nhau:
cá thể, tư nhân, hợp tác xã và làm đủ mọi ngành nghề chế biến nơng, lâm, thuỷ sản,
cơ khí, điện tử và nhiều mặt hàng tiêu dùng trước đây phải nhập từ thành phố. Hiện
nay Trung Quốc có trên 18 triệu xí nghiệp công nghiệp ở huyện, thu hút 95,48 triệu
lao động, chiếm 23,8% lao động nông thôn và tạo ra giá trị 750 nhân dân tệ, trong
khi chỉ có 13 triệu người tìm được việc làm ở thành thị.
Nhờ phát triển nông nghiệp nông thôn nên tỷ trong lao động nông nghiệp từ
70% trước đây, nay còn 50% và tiếp tục giảm. Để thích ứng với cơ cấu sản xuất đã
được điều chỉnh theo yêu cầu phát triển kinh tế hàng hố nơng thơn, Trung Quốc đã
đổi tên các xí nghiệp “đội, cơng xã” thành xí nghiệp Hương trấn.
7
- Ấn Độ: Từ thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo Ấn Độ đã nhận thức được tầm
quan trọng của phát triển cơng nghiệp làng xóm trong phát triển nơng thôn. Năm
1916, Uỷ ban Công nghiệp nhà nước Ấn Độ đã được thành lập và nhấn mạnh tính
chất quan trọng của công nghiệp nông thôn trong hoạt động công nghiệp của xã hội
Ấn Độ. Hiến pháp Ấn Độ năm 1956 đã đề ra những nguyên tắc cơ bản cho chính
sách công nghệ là phát triển công nghiệp nông thôn trên cơ sở tư nhân và hợp tác ở
các vùng nông thôn (điều 43) và đã đề cập đến các lợi thế của khu vực công nghiệp
nhỏ trong nền kinh tế Ấn Độ như đảm bảo việc làm tối đa ở quy mô lớn, tạo ra một
phương thức đảm bảo phân chia hợp lý hơn thu nhập quốc gia và huy động có hiệu
quả các nguồn lực, vốn và tay nghề còn chưa được dử dụng hết.
Ở Ấn Độ, Uỷ ban nơng nghiệp quốc gia đã dự tính số lượng lao động nông thôn
sẽ tăng tới 121 triệu người vào năm 2015 và việc phát triển các chương trình nơng
nghiệp khác nhau có thể tạo ra cơng ăn việc làm cho khoảng 52 triệu người. Để giải
quyết vần đề này, người ta dự tính áp dụng 2 chiến lược bổ sung lẫn nhau: chiến lược
thứ nhất nhằm vào viêc khuyến khích phát triển các ngành cơng nghiệp nơng thơn, cịn
chiến lược thứ 2 gắn nó vào chiến lược phát triển nơng thơn tổng hợp.
Trong thập kỷ vừa qua, nhiều chương trình phát triển nông thôn khác đã
được đưa ra ở Ấn Độ kế hoạch hố ở “cấp vĩ mơ” đã trở thành một khẩu hiệu về
phát triển ở Ấn Độ. Nhiều phương pháp kế hoạch hố quy mơ như “khái niệm trung
tâm tăng trưởng”, “các chương trình về nhu cầu tối thiểu”, các chương trình hoạt
động chun mơn như “chương trình phát triển cho tiểu nơng dân”, “chương trình
các khu vực bị hạn hán đe doạ”, “chương trình phát triển các khu vực thu hút”… đã
được đưa ra làm thử. Sự thành cơng cịn hạn chế của các phương pháp này là do
những nguyên nhân khác nhau, thí dụ như sự tham gia không thoả đáng của tầng
lớp nghèo, sự thiếu kết hợp các hoạt động trong các khu vực khác nhau của nền
kinh tế nông thôn và sự thiếu một cơ sở công nghệ cho phép cải tiến hoạt động sản
xuất của các tầng lớp nghèo này.
8
Tuy đã tiến hành rộng rãi các chương trình nhằm cải thiện số phận của những
người nghèo khổ nhất, nhưng khoảng 40% trong số 684 triệu dân Ấn Độ vào đầu
những năm 1980 vẫn còn sống dưới ngưỡng nghèo khổ, chủ yếu ở các vùng nông thôn.
- Hàn Quốc: Một phần tương đối lớn dân số Hàn Quốc hiện vẫn đang sống ở
các vùng nông thôn, khu vực nông nghiệp vẫn tiếp tục là nguồn thu nhập chủ yếu đối
với số dân này. Chính phủ Hàn Quốc đã chú trọng nhiều đến cơng cuộc cơng nghiệp
hố nơng thơn ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, coi đó như một chiến lược quan
trọng để phát triển nông thôn và tăng thu nhập gia đình. Đã có nhiều chương trình được
tiến hành nhằm phát triển các ngành công nghiệp nông thôn trong suốt 3 thập kỷ qua.
Đáng chú ý là các chương trình sau:
Chương trình kinh doanh của các hộ gia đình nơng thơn: Chương trình này
được tiến hành từ năm 1967 nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất nông thôn mang tính
chất truyền thống. Chương trình đã đề xuất việc tổ chức sản xuất thử ở quy mô nhỏ cho
các hộ nơng dân có tay nghề vừa phải (đơn giản) và sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn
có ở địa phương. Hình thức hoạt động: cứ 10 (hoặc hơn) hộ nơng dân liên kết với nhau
thành một cơ sở thương mại để tài trợ từ sản xuất đến tiêu thụ, được quản lý cụ thể;
nguồn tài trợ chủ yếu cho chương trình này được các ngân hàng bảo đảm.
Chương trình xí nghiệp Sacmaul: Được tiến hành từ năm 1973 nhằm tăng
nguồn thu nhập cho nông thôn phi nông nghiệp thông qua nơng nghiệp hố nơng
thơn và gia tăng phát triển cộng đồng nơng thơn. Chương trình này cũng thúc đẩy
việc phải đưa một số ngành công nghiệp từ các đô thị Scoul và Pusan đến các vùng
nông thôn và thu hút đầu tư cơng nghiệp cho các vùng nơng thơn có số dân dưới
20.000 người.
Chương trình phát triển cơng nghiệp, thủ công nghiệp: Đến cuối năm 1980
đã xuất hiện 908 xưởng thủ cơng dân tộc, chiếm 2,9% các xí nghiệp nhỏ và vừa ở
hàn quốc với số công nhân là 23.000 người. Đây là loại hình nơng thơn với 79,4%
là dựa vào các hộ gia đình riêng biệt và sử dụng nguyên vật liệu địa phương và bí
quyết truyền thống. Để phát triển cơng nghiệp thủ cơng truyền thống, Chính phủ đã
thành lập 95 hãng thương mại về các mặt hàng này. Tương lai của các ngành công
9
nghiệp thủ công này đầy hứa hẹn do nhu cầu về tiêu thụ các sản phẩm dân gian bắt
đầu tăng. Qua đây có thể đánh giá được hiệu quả thực hiện của các chương trình
này. Để gia tăng quá trình cơng nghiệp hố nơng thơn, năm 1983 Chính phủ đã ban
bố Luật Phát triển các nguồn thu nhập từ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Theo
Luật mới, các tài sản công nghiệp phải được xây dựng ở các trung tâm lao động của
các vùng nông thôn ở quy mô nhỏ và hướng việc phát triển tài sản công nghiệp
nông thơn ở các trung tâm đó vào các hoạt động thương mai có hiệu quả [9].
+ Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới:
Từ các tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm quy hoạch sử dụng đất trên thế giới cho
phép rút ra kết luận, đó là khái niệm quy hoạch nông thôn mới được nghiên cứu
theo 2 hướng chủ yếu là vấ đề quy hoạch sử dụng đất và cơng nghiệp hóa nơng
thơn. Tuy nhiên hầu hết các phương pháp quy hoạch sử dụng đất và các mơ hình
cơng nghiệp hóa nơng thơn chủ yếu phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia,
các tập đoàn kinh tế hoặc các doanh nghiệp mà chưa quan tâm đến lợi ích của người
nơng dân. Ở một số nước phát triển các nghiên cứu về phát triển nông thôn đã tập
trung đi sâu về quy hoạch sử dụng đất, cơng nghiệp hóa nơng thơn đảm bảo hợp lý
kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái theo hướng bền vững. Đây là một trong
những thành tựu rất quan trọng để áp dụng vào thực tiễn nông thôn Việt Nam.
1.2. Ở Việt Nam
Chương trình phát triển nơng thơn miền núi giai đoạn 1996 - 2000 trên phạm
vi 5 tỉnh Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã tiến hành thử
nghiệm quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở xây dựng kế hoạch
phát triển cấp thơn và hộ gia đình. Theo Bùi Đình Toái và Nguyễn Văn Nam năm
1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mơ hình sử dụng PRA để tiến hành quy hoạch sử
dụng đất, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất 3 cấp
(xã, thơn và hộ gia đình). Tuy nhiên trong q trình trong q trình xây dựng nơng
thơn mới hiện nay cịn một số tồn tại đó là nhận thức ở một số cấp ngành và người
dân chưa đúng. Bản thân người nông dân vẫn nghĩ Nhà nước làm thay cho mình và
khơng ít doanh nghiệp cho rằng họ đang ban ơn cho người nông dân khi đầu tư vào
10
nông nghiệp. Nhiều cán bộ, đặc biệt là cấp cơ sở vẫn coi xây dựng nông thôn mới là
một phong trào mang tính chính trị [22].
Để có cơ sở thực tiễn cho chỉ đạo xây dựng nông thôn mới, Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã chỉ đạo 11 xã đại diện cho các vùng kinh tế-văn hóa trên cả nước xây
dựng thí điểm mơ hình nơng thơn mới. Ngày 05/8/2008, Ban chấp hành Trung ương
khóa X ban hành Nghị quyết số 26-NQ/W về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xác
định rõ việc xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ chiến lược, đang đặt ra nhiều vấn đề
cần tập trung nỗ lực của Nhà nước và nhân dân, giải quyết những vấn đề cấp bách,
đồng thời tạo ra tiền đề cho những giai đoạn tiếp theo. Chính vì vậy, Chương trình xây
dựng NTM ở nước ta giai đoạn 2011-2015 tập trung vào 5 nội dung cơ bản:
+ Kinh tế nông thôn phát triển nhanh, bền vững, đời sống vật chất tinh thần,
sức khỏe của dân cư nông thôn được nâng cao, xố đói giảm nghèo;
+ Nơng thơn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện
đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;
+ Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững và phát huy
phù hợp với từng vùng, bảo vệ thuần phong mỹ tục ở nông thôn, kịp thời phê phán
các hiện tượng tiêu cực trong xã hội;
+ An ninh thơn, ấp, xóm, làng, bản tốt, quản lý dân chủ, trình độ của đội ngũ
cán bộ, cơng chức địa phương được nâng cao;
+ Chất lượng hệ thống chính trị nông thôn được đảm bảo ổn định và không
ngừng được nâng cao.
Những nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong quá trình thực
hiện cần phải giải quyết đồng bộ và toàn diện nhằm khơi dậy và phát huy tốt vai trị
người nơng dân trong cơng cuộc xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại ở
nước ta hiện nay giành thắng lợi.
Cụ thể hóa các mục tiêu trên, ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 491/QĐ-TTg về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nơng
thơn mới gồm 19 tiêu chí phản ánh tồn diện mơ hình nơng thơn mới Việt Nam đến
năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Hoàn thành xây dựng NTM, người dân sẽ
11
được hưởng nhiều lợi ích như: Nơng thơn có làng, xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng
hiện đại, sản xuất bền vững, theo hướng sản xuất hàng hóa; đời sống vật chất và
tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ
gìn và phát triển, xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ...
Sau 2 năm triển khai Chương trình thí điểm xây dựng nơng thơn mới ở 11 xã
điểm của Trung ương và các xã điểm của các địa phương, những kết quả và thành
công bước đầu đạt được là rất đáng ghi nhận trên cả 2 măt: xây dựng mơ hình nơng
thơn mới và thử nghiệm tính khả thi của 19 tiêu chí nơng thơn mới. Song khó khăn,
bất cập vẫn cịn nhiều.
Mục tiêu của việc thí điểm xây dựng mơ hình nơng thơn mới của Trung ương
là thử nghiệm các nội dung, phương pháp, cách làm, cơ chế, chính sách liên quan.
Đồng thời qua thí điểm cịn có mục tiêu khác là giúp Ban chỉ đạo Trung ương xác
định trách nhiệm và mối quan hệ chỉ đạo giữa các ngành, các cấp trong việc thực
hiện chương trình nơng thơn mới. Qua thí điểm xây dựng 11 xã điểm có mục đích là
rút ra những bài học kinh nghiệm để triển khai Chương trình nơng thơn mới trên
diện rộng. Đó cũng là q trình thử nghiệm, đánh giá tính khả thi của 19 tiêu chí
nơng thơn mới trên địa bàn cấp xã, từ đó có cơ sở thực tế để hồn thiện, cụ thể hố
và nâng cao tính hiệu quả của Chương trình. Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới là phấn đấu đến năm 2020 sẽ có hơn 50% số xã đạt chuẩn, cơ
bản xây dựng kết cấu hạ tầng theo chuẩn nông thôn mới, tăng thu nhập của người
dân lên gấp 2,5 lần hiện nay, tỉ lệ hộ nghèo dưới 3%. Để đạt được mục tiêu này,
trung bình mỗi xã cần đầu tư từ 120 đến 150 tỉ đồng, huy động từ nhiều nguồn như
của Nhà nước, vốn vay, doanh nghiệp đầu tư và do người dân tham gia. Trong đó,
sẽ có khoảng từ 6 đến 7 hạng mục dự kiến được Nhà nước hỗ trợ 100%, còn lại hỗ
trợ từ 30% đến 90% tuỳ từng vùng và nội dung hỗ trợ.
Những kết quả bước đầu: Theo kết quả đánh giá của các địa phương thí điểm
của Chương trình nơng thơn mới do Trung ương chỉ đạo, đến giữa năm 2011, đã có
7/11 xã thí điểm đạt được 10 tiêu chí trở lên Thụy Hương (Chương Mỹ, Hà Nội),
Tân Thịnh (Lạng Giang, Bắc Giang), Hải Đường (Hải Hậu, Nam Định), Gia Phố
12
(Hương Khê, Hà Tĩnh), Tân Thông Hội (Quận 7, TP HCM), Mỹ Long Nam (Cầu
Ngang, Trà Vinh), Định Hồ (Gị Quao, Kiên Giang)). Trong số này có 3 xã đạt 13
tiêu chí trở lên là Thuỵ Hương 13, Tân Thịnh 14, Tân Thơng Hội 14. Có 3 xã đạt từ
8-10 tiêu chí gồm Tân Lập, Tân Hội, Tam Phước. Xã có nhiều khó khăn nhất là
Thanh Chăn cũng đã đạt 7 tiêu chí. Kết quả cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội của
các xã thí điểm xây dựng nông thôn mới đã được thể hiện qua các nội dung sau:
- Về xây dựng mơ hình nơng thơn mới: Tại 11 xã điểm xây dựng nông thôn
mới do Trung ương phát động và các xã thí điểm do địa phương chỉ đạo trong 2
năm qua đã hình thành tới hơn 100 mơ hình nơng thơn mới, chủ yếu là mơ hình phát
triển kinh tế nơng thơn. Đó là các mơ hình phát triển sản xuất nơng nghiệp, tiểu thủ
cơng nghiệp và dịch vụ. Số lượng mơ hình và hình thức tổ chức sản xuất rất đa dạng
về ngành nghề, khác nhau về quy mơ nhưng có điểm chung là lấy hiệu quả kinh tế
làm trọng. Trên phạm vi cả nước, tại các xã thí điểm do Ban chủ nhiệm đề án
nghiên cứu, khảo sát, xã nào cũng có 3 - 4 mơ hình sản xuất có hiệu quả, được xây
dựng từ cơ sở phát huy lợi thế của từng địa phương. Nhờ vậy, hầu hết ở các xã, thu
nhập của người dân tăng 20 - 30% so với trước, tạo tiền đề vững chắc cho xây dựng
nông thôn mới trên tồn địa bàn.
Các hình hài của mơ hình nơng thơn mới theo 19 tiêu chí với các mức độ
khác nhau. Một số xã đạt kết quả khá toàn diện như: Hải Đường, Tân Thịnh, Tân
Thông Hội. Một số xã đạt được từng mặt như quy hoạch và thực hiện tốt quy hoạch
như Hải Đường. Mơ hình phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho dân cư như Mỹ
Long Nam; mơ hình huy động nguồn lực dân cư như Thanh Chăn và Định Hồ. Mơ
hình phát triển sản xuất gắn với quy hoạch đồng ruộng và cơ sở hạ tầng ở Tam
Phước; mơ hình phong trào cải tạo điều kiện sống của các hộ khu dân cư ở Tân
Thịnh; mơ hình liên kết sản xuất giữa nơng dân với doanh nghiệp ở Thuỵ Hương,
Tân Hội; mơ hình thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn ở Tân Thông Hội,
Tân Lập... Hiện các mơ hình này đang được nhiều địa phương đến tham quan, học
tập, rút kinh nghiệm.
13
- Về phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất và chuyển dịch cơ cấu lao động: Các
nội dung về phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất và chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn đều được các xã thí điểm của Trung ương và địa phương quan tâm đặc
biệt và chỉ đạo thông qua nhiều giải pháp đồng bộ, tích cực và hiệu quả. Đến nay,
đã có 100% số xã đang triển khai công tác quy hoạch, trong đó có 8 xã (chiếm
72,7%) hồn thiện quy hoạch chi tiết về phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp
và thủy sản cũng như các ngành dịch vụ, công nghiệp nơng thơn.
Thơng qua thí điểm, Ban chỉ đạo chương trình bước đầu đã xác định rõ
những nội dung về huy động nội lực tại xã của người dân, cách thức để chính quyền
cấp xã và người dân là chủ thể của Chương trình xây dựng nơng thơn mới, cịn vai
trị của Nhà nước chỉ là hỗ trợ vốn, chính sách, cơ chế, vai trò của doanh nghiệp
cũng được xác định khá rõ. Đó là chính sách động viên các doanh nghiệp đầu tư vào
nơng nghiệp, nơng thơn, tăng tín dụng cho nông dân, cho chủ trang trại. Vấn đề huy
động nguồn lực của các cá nhân con em địa phương đang công tác tại các cơ quan,
doanh nghiệp, trong nước và nước ngồi, là nhân sĩ, trí thức, việt kiều, các nhà hảo
tâm nhằm mục đích hỗ trợ vốn, khoa học kỹ thuật cho xây dựng nông thôn mới tại
xã đã thu được nhiều kết quả tích cực. Ngồi việc tập trung chỉ đạo phát triển kinh
tế theo các dự án, hầu hết các xã thí điểm đã tăng mức đầu tư hỗ trợ hộ nông dân
thông qua các chương trình khuyến nơng, khuyến lâm và khuyến ngư với sự tham
gia của các cơ quan, nhà khoa học và các nhà doanh nghiệp. Một số kết quả bước
đầu về các nội dung này đã được thể hiện ở các xã điểm: kinh tế phát triển, nhất là
sản xuất nông nghiệp, thu nhập của dân cư tăng lên so với trước. Đó là các xã điểm
Thanh Chăn (Điện Biên), Tân Thịnh (Bắc Giang), Tân Thông Hội (Tp HCM), Hải
Đường (Nam Định), các xã điểm của các tỉnh như Thanh Tân, Bình Định (Thái
Bình), La Bằng (Thái Nguyên), Khánh Thành (Nghệ An)...
- Về xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội: Đây là tiêu chí được các địa
phương quan tâm chỉ đạo và thực hiện trong quá trình triển khai Chương trình xây
dựng nơng thơn mới tại xã. Sau 2 năm, trên địa bàn 11 xã thí điểm của Trung ương,
đã có 2/3 số cơng trình hạ tầng (theo tiêu chí Trung ương) đã được triển khai. Đến
14
cuối năm 2011 đã hoàn thành 300 các hạng mục cơng trình, trong đó nhiều nhất là
giao thơng, thủy lợi, nước sạch, tiếp đến là chuẩn hóa lớp học, trạm y tế, vệ sinh,
môi trường. Việc xây dựng nâng cấp các cơng trình đều do người dân và cộng đồng lựa
chọn từ nhu cầu thực tế và nguồn lực tổng hợp từ nhiều nguồn, nhà nước, địa phương,
doanh nghiệp, người dân và vốn vay, trong đó nguồn vốn của Nhà nước chiếm tỷ trọng
lớn nhất. Đóng góp của người dân chủ yếu là lao động và một phần vốn huy động từ
đổi đất, hiến đất để xây dựng đường giao thơng thơn, xóm, tham gia vận động dân giải
phóng mặt bằng với giá trị đóng góp lên tới hàng chục tỷ đồng. Các xã có vốn dân
đóng góp nhiều là: Tân Thông Hội (TPHCM), Mỹ Long Nam (Trà Vinh), Tân Thịnh
(Bắc Giang), Hải Đường (Nam Định), Thanh Tân (Thái Bình)...
Trong quá trình xây dựng quy hoạch, các xã đã thực hiện lấy ý kiến góp ý của
cộng đồng dân cư từ khâu khảo sát, lập danh mục đầu tư, xác định nguồn vốn đến
khâu hoàn thiện bộ máy quản lý điều hành theo phương châm: Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra và dân là người hưởng lợi. Các xã thí điểm đã phát huy tiềm
năng, thế mạnh của địa phương để tạo ra những sản phẩm hàng hóa có lợi thế, có
giá trị, có sức cạnh tranh cao; lựa chọn, sắp xếp thứ tự ưu tiên các nội dung trong
quy hoạch để xây dựng kế hoạch thực hiện một cách hợp lý, bảo đảm hoàn thành
nội dung theo kế hoạch đã đề ra, đồng thời chú trọng việc huy động và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực đầu tư.
Có thể thấy, sau 2 năm thí điểm và mở rộng, Chương trình xây dựng nơng
thơn mới đã thành công bước đầu và đạt được một số kết quả quan trọng cả về kinh
tế-xã hội và kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo của các ngành các cấp. Hình hài mơ hình
nơng thơn mới đã hình thành trên thực tế tại các xã thí điểm của Trung ương và địa
phương. Đã khẳng định được chủ trương lấy xã làm thí điểm xây dựng mơ hình
nơng thơn mới là đúng đắn và phù hợp với yêu cầu và điều kiện nước ta hiện nay và
đáp ứng được nguyện vọng của dân cư nông thôn, đúng với quan điểm, đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn của Đảng thời kỳ 2011-2020.
Bên cạnh đó, chương trình cũng đã xác định được những cơ chế, chính sách cần đổi
mới, trong đó quan trọng nhất là cơ chế, chính sách tài chính, cơ chế quản lý xây
15
dựng cơ bản các cơ sở hạ tầng phù hợp với địa phương, nhất là chính quyền cấp xã
trong xây dựng nơng thơn mới. Đó là cơ chế tài chính theo nguyên tắc nhà nước hỗ
trợ, doanh nghiệp đầu tư và nhân dân đóng góp với tỷ lệ hợp lý.
Những kết quả trên đây cho thấy, việc đề ra và chỉ đạo triển khai các mơ hình
thí điểm Chương trình xây dựng nông thôn mới trong cả nước và từng vùng là chủ
trương đúng đắn, kịp thời và hữu ích. Kết quả đạt được không dừng lại ở số xã đạt
bao nhiêu tiêu chí mà quan trọng hơn là giúp cho Ban chỉ đạo Trung ương cũng như
địa phương xây dựng, hồn thiện các cơ chế, chính sách phù hợp với mục tiêu và
điều kiện kinh tế-xã hội nông thôn giai đoạn hiện nay và các năm tới. Những bài
học kinh nghiệm rút ra từ các mơ hình thí điểm của 11 xã do Trung ương chỉ đạo
trong 2 năm qua có ý nghĩa rất lớn đối với nhiều ngành, nhiều cấp từ Trung ương
đến tỉnh, huyện, xã, thơn xóm trong quá trình triển khai các hoạt động liên quan đến
Chương trình xây dựng nơng thơn mới khơng chỉ đối với các địa phương thí điểm
mà cịn đối với các địa phương khác.
Thành cơng của Chương trình xây dựng nơng thơn mới tại các xã điểm đã có
tác động tích cực đối với các cấp các ngành và người dân, các doanh nghiệp về vai
trị, vị trí của nơng nghiệp, nông thôn và nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới. Qua đó làm tăng lịng tin
của dân cư nông thôn đối với sự sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà
nước trong giai đoạn CNH.HĐH đất nước.
+ Những hạn chế và bất cập:
Mục tiêu của Chương trình đề ra quá cao so với khả năng thực tế của các địa
phương nên tính khả thi khơng cao. Thực tế trong 11 xã thí điểm của Trung ương
sau 2 năm khơng có xã nào đạt cả 19 tiêu chí của Trung ương. Số xã đạt trên 10 tiêu
chí cũng chỉ có 7, trong đó có 3 xã đạt 14 tiêu chí. Số cịn lại 4 xã đạt dưới 10 tiêu
chí, trong đó có xã Thanh Chăn (Điện Biên) đạt 7 tiêu chí. Điều đáng lưu ý là kết
quả đó chủ yếu do địa phương thu thập, tính tốn và cơng bố chưa có sự tham gia
kiểm tra, giám sát công nhận của các ngành chức năng (Thống kê, Tài chính, Lao
động Thương binh & Xã hội). Do đó tính pháp lý của các kết quả đó chưa cao.
16
Tình hình tương tự cũng đã diễn ra ở các xã điểm của địa phương. Thí dụ
trong 8 xã điểm của tỉnh Thái Bình đều đạt từ 7-11 tiêu chí, trong đó xã Thanh Tân
11 tiêu chí, xã Bình Định 7, xã Hồng Minh 9, xã Trọng Quan 9, xã Nguyên Xá 10
tiêu chí...Tại tỉnh Nghệ An, kết quả điều tra hiện trạng nông thôn năm 2011 của tỉnh
cho thấy trong 435 xã của tỉnh có 1 xã đạt 12 tiêu chí nơng thơn mới (Nghi Liên,
Nghi Lộc), 3 xã đạt 11 tiêu chí, 6 xã đạt 10 tiêu chí, 10 xã đạt 6 tiêu chí, 9 xã đạt 9
tiêu chí, 19 xã đạt 8 tiêu chí, 18 xã đạt 7 tiêu chí...tính trên phạm vi tồn tỉnh, cả xã
điểm và mở rộng.
Về kết quả đánh giá cụ thể về nội dung hoạt động xây dựng mơ hình nơng
thơn mới của các xã điểm cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Tất cả các con số trong
các báo cáo của xã thí điểm cơng bố đều do xã thu thập, tính tốn và cơng bố, nên
độ tin cậy, tính khách quan chưa cao. Sự phối hợp giữa các ngành từ Trung ương
đến tỉnh, huyện, xã trong việc tổ chức chỉ đạo, triển khai, kiểm tra, đánh giá kết quả
thực hiện Chương tình nơng thơn mới chưa chặt chẽ. Sự thiếu vắng của ngành
Thống kê trong Ban chỉ đạo nông thôn mới các cấp là không hợp lý. Thực tế là rất
nhiều chỉ tiêu định lượng phản ánh trong 19 tiêu chí Quốc gia được thu thập tính
tốn, tổng hợp, phân tích trong các báo cáo của các cấp, nhất là cấp xã chưa đảm
bảo tính khách quan, khoa học theo phương pháp thống kê nên độ tin cậy không
cao, chưa có sức thuyết phục.
Đề án xây dựng nơng thơn mới cấp xã nặng về phát triển cơ sở hạ tầng, chưa
chú trọng đến phát triển sản xuất tăng thu nhập, văn hố và mơi trường. Mới chú
trọng nhiều đến xây dựng các cơng trình xã mà chưa quan tâm thích đáng tới các
cơng trình ở các thơn hoặc hộ nơng dân. Các địa phương cịn lúng túng trong việc
tìm kiếm nguồn lực cho xây dựng nơng thơn mới. Tình trạng chung là cịn ỷ lại,
trơng chờ vào vốn ngân sách hỗ trợ từ Nhà nước.
Về công tác phát triển sản xuất, nhìn chung các địa phương mới đang tập
trung cho xây dựng quy hoạch và lập đề án, việc sản xuất vẫn theo kế hoạch hàng
năm của các địa phương, chưa có chuyển biến rõ rệt. Trên thực tế, đây là cơng việc
rất khó, vì liên quan đến chính sách đất đai. Đặc biệt tại các tỉnh miền Bắc, thực
17
trạng ruộng đất còn manh mún nên chưa thu hút được doanh nghiệp đầu tư về nơng
thơn, tạo hình thức tổ chức sản xuất mới.
Việc đào tạo nghề cho nông dân các xã thí điểm nơng thơn mới nhìn chung
chưa gắn với các dự án, chương trình và nhu cầu sử dụng lao động của doanh
nghiệp. Trong dạy nghề cho nơng dân, chưa có được bộ giáo trình chuẩn phù hợp
với thời gian đào tạo. Nhiều cơ sở dạy nghề phi nông nghiệp để chuyển nghề cho
nông dân ở các huyện, tỉnh ở tình trạng dạy “chay”, thiếu giáo viên có chất lượng,
thiếu thiết bị phục vụ thực hành.
Nhận thức của các ngành các cấp về Chương trình xây dựng nông thôn mới
chưa đúng, chưa đầy đủ. Một số Bộ ngành chưa có kế hoạch triển khai các nhiệm
vụ được giao, chưa bố trí đủ cán bộ có năng lực phụ trách các xã điểm. Lãnh đạo
một số địa phương chưa chủ động triển khai công việc tại các xã điểm, có tư tưởng
chờ đợi Trung ương. Trong chỉ đạo chưa quan tâm đầy đủ đến việc huy động cả hệ
thống chính trị vào cc, chưa lồng ghép các chương trình, dự án hiện có để tăng
năng lực cho các xã thí điểm. Hiệu quả của một số mơ hình xã điểm còn chưa cao,
chưa đồng bộ và chưa vững.
Nguồn vốn đầu tư cho xây dựng nông thôn mới quá lớn vượt quá khả năng thực
tế của các xã ở tất cả các vùng, nhất là các xã miền núi, Tây Nguyên, vùng cao, vùng
nông thôn ven biển. Phần lớn các xã thí điểm nơng thơn mới là xã thuần nơng, thu nhập
chủ yếu từ nơng nghiệp nên đóng góp của nhân dân để xây dựng các cơng trình cịn hạn
chế, nguồn vốn xây dựng các cơng trình hạ tầng cơ sở cịn thiếu trong khi đó sự tham gia
của các doanh nghiệp chưa nhiều.
Hệ thống 19 tiêu chí quốc gia vê nơng thơn mới cịn nhiều hạn chế cả về nội
dung và phương pháp thu thập, tính tốn nên tính khả thi chưa cao [27].
+ Những kết luận rút ra từ nghiên cứu và kinh nghiệm của Việt Nam.
Quy hoạch xây dựng nông thôn mới là dùng đô thị tác động vào nông thôn,
dùng công nghiệp tác động vào nông nghiệp, dùng tri thức, công nhân tác động vào
nông dân, cả hệ thống chính trị phải chung sức xây dựng nơng thơn mới. Q trình
xây dựng nơng thơn mới là một chủ trương lâu dài, áp dụng thực tiễn vào địa
18
phương sau khi được phê duyệt với phương châm không thể nóng vội, nhưng cũng
khơng để người dân chờ đợi quá lâu trên cơ sở lấy 19 tiêu chí là định hướng; xây
dựng cơ sở hạ tầng là tiền đề; phát triển sản xuất là gốc; nâng cao đời sống cho
người dân là mục tiêu; lợi ích mang lại cho người dân là động lực; sự đồng lịng góp
sức của cộng đồng là bí kíp thành cơng.
Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung về vấn đề quy hoạch sử dụng đất
các cấp, bố trí hệ thống cơ cấu cây trồng; các quy hoạch xây dựng hạ tầng cơ sở,
khơng gian kiến trúc nơng thơn cịn rời rạc khơng gắn với quy hoạch sử dụng đất.
Do đó, vấn đề quy hoạch xây dựng nơng thơn mới là phải có sự gắn kết giữa quy
hoạch đất tổng thể kết hợp với xây dựng nông thôn mới, nhằm định hướng phát
triển kinh tế xã hội đáp ứng được các mục tiêu chung được đặt ra.
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn
mới, cần tập trung giải quyết tốt việc quy hoạch xây dựng các điểm dân cư nông
thôn, bao gồm cải tạo các làng cũ, xây dựng làng mới, quy hoạch tổng thể xã, thị
trấn, xây dựng các thị tứ; quản lý xây dựng kết cấu hạ tầng ở nơng thơn, góp phần
thu hẹp chênh lệch về điều kiện sống, lao động giữa đô thị và nông thôn; quản lý
các vấn đề xã hội, an ninh và trật tự an toàn xã hội ở nơng thơn, giải quyết các vấn
đề chính sách xã hội, duy trì trật tự, an ninh và xây dựng nếp sống văn hóa.
1.3. Một số khái niệm
1.3.1. Khái niệm về nông thôn
Trên thế giới hiện nay chưa thống nhất định nghĩa về nơng thơn. Có nhiều
quan điểm khác nhau trong đó có quan điểm cho rằng chỉ cần dựa vào trình độ phát
triển cơ sở hạ tầng, có quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ
tiếp cận thị trường, phát triển hàng hóa để xác định vùng nơng thơn. Theo quan
điểm nhóm chun viên Liên hợp quốc đề cập đến khái niệm nông thôn - đô thị để
so sánh nông thôn và đô thị với nhau. Khái niệm nơng thơn chỉ có tính chất tương
đối và luôn biến động theo thời gian, để phản ánh biến đổi về kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia trên thế giới. Trong điều kiện Việt Nam có thể hiểu “Nông thôn là vùng
sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều nơng dân. Tập hợp dân cư này tham
19
gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa-xã hội và mơi trường trong một thể chế
chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác”.
1.3.2. Khái niệm về phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn là một phạm trù rộng được nhận thức với rất nhiều quan
điểm khác nhau. Ngân hàng thế giới 1975 đã đưa ra định nghĩa:
“Phát triển nông thôn là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện sống
kinh tế và xã hội của một nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng nơng thơn. Nó
giúp những người nghèo nhất trong những người dân sống ở các vùng nông thôn
được hưởng lợi ích từ sự phát triển”.
Khái niệm phát triển nơng thơn mang tính tồn diện, đảm bảo tính bền vững
về mơi trường, kinh tế, xã hội. Vì vậy, trong điều kiện của Việt Nam, được tổng kết
từ các chiến lược kinh tế xã hội của Chính phủ, thuật ngữ này được hiểu:
“Phát triển nơng thơn là một q trình cải thiện có chủ ý một cách bền vững
về kinh tế, xã hội, văn hóa và mơi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân nơng thơn và có sự hỗ trợ tích cực của nhà nước và các tổ chức khác”.
1.3.3. Khái niệm về phát triển nông thôn bền vững
Phát triển nông thôn bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn với tốc
độ cao, là quá trình làm tăng mức sống của người nông dân nông thôn. Phát triển nông
thôn phù hợp với nhu cầu của con người, đảm bảo sự tồn tại bền vững và tiến bộ lâu
dài trong nông thôn. Sự phát triển đó dựa trên việc sử dụng hiệu quả tài ngun thiên
nhiên mà vẫn bảo đảm giữ gìn mơi trường sinh thái nông thôn. Phát triển nông thôn
đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng không làm cạn kiệt tài nguyên, không để lại
hậu quả xấu cho thế hệ tương lai.
1.3.4. Khái niệm về nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là biểu hiện cụ thể của phát triển nơng thơn, nhằm
tạo ra một nơng thơn có kinh tế phát triển cao hơn, có đời sống về vật chất, văn hóa
và tinh thần tốt, có bộ mặt nơng thôn hiện đại.
Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu về mơ hình nơng thơn mới,
thì nơng thơn mới là những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những
20
thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại mà vẫn giữ được nét đặc trưng, tinh hoa văn
hóa của người Việt Nam. Nhìn chung, mơ hình làng nơng thơn mới theo hướng
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, hợp tác hóa và dân chủ hóa.
1.3.5. Khái niệm về quy hoạch phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn là vấn đề phức tạp và rộng lớn, nó liên quan đến nhiều
ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn. Mục đích
của phát triển nơng thôn là phát triển đời sống con người với đầy đủ các phạm trù
của nó. Phát triển nơng thơn tồn diện phải đề cập đến tất cả các mặt kinh tế, văn
hoá, xã hội, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng... Sự phát triển của mỗi vùng, mỗi
địa phương nằm trong tổng thể phát triển chung của các vùng và của cả nước. Vì
vậy “Quy hoạch phát triển nơng thơn là quy hoạch tổng thể, nó bao gồm tổng hợp
nhiều nội dung hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, văn hố xã hội và mơi trường
liên quan đến vấn đề phát triển con người trong các cộng đồng nông thôn theo các
tiêu chẩn của phát triển bền vững”.
Quy hoạch phát triển nông thôn được coi là quy hoạch tổng thể trên vùng
không gian sống của mọi sinh vật bao gồm loài người, động vật, thực vật. Mục tiêu
của quy hoạch là đáp ứng sự tăng trưởng liên tục mức sống của con người và phát
triển bền vững. Do đó đi đơi với việc phát triển kinh tế, văn hố xã hội là vấn đề bảo
vệ mơi trường, bảo vệ sự đa dạng sinh học, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ và
tái tạo tài nguyên để phục vụ cho lợi ích lâu dài của các thế hệ mai sau.
21
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng phương án “Quy hoạch, xây dựng nông thôn mới xã Nguyên Bình,
huyện Tĩnh Gia đến năm 2020” nhằm từng bước hồn thành các tiêu chí Quốc gia
về nơng thơn mới theo tinh thần Nghị quyết TW7 Khố X của Đảng.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về các vấn đề xây dựng nơng thơn
mới.
- Đánh giá tình hình phát triển kinh tế, xã hội so sánh với các tiêu chí về xây
dựng nơng thơn mới, trên cơ sở đó hoạch định việc sử dụng đất đai, điều chỉnh
những bất hợp lý trong sử dụng đất làm cơ sở cho việc quy hoạch sử dụng đất chi
tiết từng ngành, từng lĩnh vực trên phạm vi tồn xã.
- Quy hoạch xây dựng nơng thơn mới xã Ngun Bình, huyện Tĩnh Gia
nhằm xây dựng xã trở thành xã đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn
mới. Thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn xã gắn với xây dựng các cơ
sở công nghiệp, dịch vụ, đảm bảo an ninh quốc phịng, giữ gìn phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và bảo vệ mơi trường.
2.2. Đối tương, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
- Điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế; thực trạng phát triển sản xuất nông
lâm nghiệp trên địa bàn xã.
- Hiện trạng và nhu cầu sử dụng đất, biến động đất.
- Cơ sở hạ tầng, không gian kiến trúc và cảnh quan nơng thơn.
- Các chính sách, pháp luật có liên quan.
+ Phạm vi nghiên cứu:
22
- Quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa. Quy mơ diện tích tự nhiên 3.312,28 ha.
- Thời gian thực hiện quy hoạch đến năm 2020.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Điều tra, đánh giá thực trạng nông thôn
- Nghiên cứu đánh giá các điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế của xã.
- Đánh giá hiện trạng và nhu cầu sử dụng đất, điều tra biến động đất, đánh
giá tiềm năng đất phục vụ cho các mục đích sản xuất.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng phát triển các ngành sản xuất trên địa bàn
xã, khó khăn, thuận lợi và các giải pháp khắc phục.
- Điều tra thực trạng cơ sở hạ tầng, khơng gian kiến trúc và cảnh quan theo
các tiêu chí nông thôn mới.
2.3.2. Lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới đến năm 2020
- Dự báo các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Quy hoạch nông thôn mới đến năm 2020.
- Giải pháp và cách tổ chức thực hiện quy hoạch.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
+ Kế thừa tài liệu có sẵn:
- Nghị Quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia,
nhiệm kỳ 2011-2015.
- Các báo cáo kết quả hoạt động sản xuất lâm - nông nghiệp của xã Ngun
Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hố.
- Tình hình sản xuất lâm - nông nghiệp của xã từ năm 2005 đến 2012.
- Bản đồ hiện trạng, bản đồ phân bố sử dụng đất, bản đồ giao đất lâm nghiệp
của xã tỷ lệ 1:10.000.
- Số liệu về thời tiết, khí hậu thu thập tại trạm khí tượng thuỷ văn của địa
phương.
23
- Thông tin thị trường tiêu thụ sản phẩm trong địa bàn xã và khu vực giáp
ranh từ năm 2000 đến 2012.
- Các số liệu thống kê về đất đai, cơ sở hạ tầng, kết quả sản xuất lâm - nông
nghiệp, thị trường giá cả... được thu thập tại Chi cục thống kê, phịng Nơng nghiệp
và PTNT, phịng Tài ngun mơi trường huyện Tĩnh Gia.
- Các tài liệu khác có liên quan đến quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp,
quy hoạch sử dụng đất, các chủ trương, đường lối chính sách về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn và các hướng dẫn quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp cấp xã
theo bộ tiêu chí quốc gia.
+ Tiếp cận có sự tham gia của người dân: Trong phạm vi giới hạn của đề tài,
chỉ xin trích giới thiệu về phương pháp PRA: Là phương pháp tiếp cận và cũng là
phương pháp học hỏi cùng với người dân, từ người dân và bằng người dân về đời
sống và điều kiện nông thôn.
- Điều tra tồn diện 16 thơn trong xã, mỗi thơn chọn 3 hộ để phỏng vấn,
trong đó 1 hộ nghèo, 1 hộ trung bình, 1 hộ khá, giàu. Phương pháp chọn hộ được
tiến hành như sau: gặp trưởng thôn để lấy danh sách phân loại hộ gia đình, rút mẫu
ngẫu nhiên 3 loại hộ gia đình với số lượng nêu trên.
- Sử dụng bảng câu hỏi bán định hướng để tìm hiểu tình hình sử dụng đất đai
cấp hộ, định hướng nhóm cơng trình ưu tiên xây dựng, những thuận lợi, khó khăn
và biện pháp giải quyết.
+ Điều tra chuyên đề:
- Nơng nghiệp: Thống kê và phân tích kết quả sản xuất, diện tích, năng suất,
sản lượng và cơ cấu mùa vụ các cây trồng chính (lúa, ngơ, lạc, đậu, khoai, rau, cây
ăn quả, chè CN, cao su…); tổng đàn chăn ni (trâu, bị, lợn, dê, gia cầm) chất
lượng đàn, trọng lượng xuất chuồng, hình thức chăn ni, tình hình dịch bệnh…
- Lâm nghiệp: Kiểm kê xác định rõ diện tích các loại rừng trên địa bàn xã,
diện tích đất có khả năng trồng rừng, tình hình quản lý rừng. Diện tích rừng đã giao
cho dân, diện tích rừng do các tổ chức kinh tế quản lý. Kết quả sản xuất lâm nghiệp
diện tích trồng rừng, khoanh ni, bảo vệ, sản lượng khai thác (gỗ và sản phẩm
24
ngoài gỗ). Thống kê các cơ sở hoạt động chế biến nông, lâm, thuỷ sản; tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ, làng nghề truyền thống hiện có.
- Thủy sản: Kiểm kê, đánh giá diện tích mặt nước, đất sử dụng trong ni
trồng thuỷ sản và có khả năng ni trồng thuỷ sản trên địa bàn xã như: ao hồ nhỏ,
hồ tự nhiên, đầm phá, vũng vịnh, ruộng trũng… có khả năng phát triển ni trồng
thủy sản. Thống kê tình hình khai thác thủy sản qua các chỉ tiêu sản lượng khai thác
thủy sản hàng năm..
- Hiện trạng hạ tầng cơ sở: Thống kê hiện trạng, so sánh với các yêu cầu về
tiêu chí của hệ thống cơ sở hạ tầng theo quyết định 491/QĐ-TTg, bao gồm: công sở,
giao thông, thủy lợi, điện, bưu điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế, cơ sở vật
chất văn hóa, chợ, nhà ở dân cư, môi trường.
- Đánh giá chung hiện trạng không gian kiến trúc, cảnh quan, tính chất phát
triển kinh tế chủ đạo và các đặc trưng khác (nếu có) như về dân tộc, ảnh hưởng
thiên tai thường xuyên.
2.4.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
+ Tổng hợp các yếu tố điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, địa hình địa vật,
khí hậu thuỷ văn, thổ nhưỡng, thực vật tự nhiên được thu thập chắt lọc từ tài liệu
gốc của xã, huyện; các thông tin về điều kiện kinh tế xã hội như dân cư (dân số,
thành phần dân tộc); cơ cấu xã hội (xã, thơn, nhóm hộ, hộ gia đình); nghề nghiệp,
việc làm các dịch vụ xã hội và cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, y tế, giáo
dục, giao thông, thông tin liên lạc, giá cả thị trường).
+ Hệ thống thông tin liên quan đến tổ chức và thể chế được tổng hợp và phân
tích theo phương pháp SWOT. Tập trung vào các chỉ tiêu như tổ chức cộng đồng,
dịch vụ khuyến lâm, khuyến nông, quản lý và bảo vệ rừng, dịch vụ thú y, hoạt động
tín dụng cộng đồng, cơ sở hạ tầng liên quan đến các vấn đề quy hoạch xây dựng
nông thôn mới.
+ Tổng hợp và phân tích thơng tin điều tra chuyên đề.