Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Đánh giá kết quả khảo nghiệm một số dòng bạch đàn urô và keo lai tại các tỉnh phú thọ, bắc giang và tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
_____________

HÀ NGỌC ANH

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM MỘT SỐ DÒNG
BẠCH ĐÀN URO VÀ KEO LAI TẠI CÁC TỈNH
PHÚ THỌ, BẮC GIANG VÀ TUYÊN QUANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


ĐẶT VẤN ĐỀ
Davidson (1996) khi nghiên cứu so sánh vai trò của cải thiện giống và các
biện pháp kĩ thuật lâm sinh như thành phần ruột bầu, làm đất, bón phân, làm cỏ,... từ
giai đoạn vườn ươm đến rừng trồng tuổi 6 cho keo và bạch đàn trên một số lập địa ở
một số nước nhiệt đới đã đi đến nhận xét rằng: Trong giai đoạn vườn ươm và một
năm đầu sau trồng, cải thiện giống chỉ chiếm 15% năng suất; đến năm thứ ba, cải
thiện giống đã tăng lên 50%; đến năm thứ sáu, cải thiện giống chiếm đến 60% năng
suất [43]. Vì vậy, cải thiện giống cây rừng nhằm không ngừng nâng cao năng suất,
chất lượng gỗ và các sản phẩm mong muốn khác đã được thực hiện đối với ngành
Lâm nghiệp nước ta trong nhiều năm qua. Đối với rừng trồng thâm canh, giống
được xác định là một trong những khâu quan trọng nhất (Lê Đình Khả và Dương
Mộng Hùng, 2003) [17].
Ở Việt Nam, công tác giống chỉ được đẩy mạnh và thu được nhiều thành quả


kể từ những năm 1990 trở lại đây. Đây là thời kỳ chúng ta có điều kiện xây dựng
các khảo nghiệm giống trên các vùng sinh thái chính. Ngồi việc tiếp tục theo dõi
và mở rộng các khảo nghiệm loài và xuất xứ, chọn lọc cây trội sinh trưởng nhanh,
có chất lượng thân cây tốt đã được thực hiện để phục vụ cho công tác trồng rừng.
Đặc biệt, sử dụng giống lai tự nhiên và lai giống đã thật sự có thành tựu nổi bật khi
phát hiện, chọn lọc và khảo nghiệm một số dòng keo lai tự nhiên giữa Keo tai tượng
với Keo lá tràm có năng suất cao gấp 1,5 - 3,0 lần các loài cây bố mẹ (Lê Đình Khả,
1999) [11], lai tạo được một số tổ hợp lai và chọn lọc được một số dịng vơ tính có
năng suất cao giữa hai lồi cây này, cũng như giữa các loài bạch đàn.
Đối với vùng Trung tâm Bắc bộ, để góp phần phát triển rừng trồng nguyên
liệu giấy, các khảo nghiệm chọn giống keo và bạch đàn đã được Trạm nghiên cứu
cây có sợi Phù Ninh (nay là Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy) thực hiện từ
những năm 1980. Sau khi xác định được loài và xuất xứ thích hợp, cơng tác chọn
lọc cây trội và khảo nghiệm dịng vơ tính đã được tiếp tục từ năm 1993 cho đến nay
đối với Bạch đàn uro (Eucalyptus urophylla) (Huỳnh Đức Nhân và cộng sự, 2007)
[25]. Bên cạnh đó, để tiếp nối những nghiên cứu phát triển giống keo lai tự nhiên,


cơng tác tuyển chọn và khảo nghiệm cho lồi cây này đã được tiến hành ở khu vực
Đồng Nai từ năm 1997 (Nguyễn Sỹ Huống và cộng sự, 2003) [8].
Từ kết quả nghiên cứu cải thiện giống sau nhiều năm, cho đến nay Viện
nghiên cứu cây nguyên liệu giấy đã được Bộ NN&PTNT công nhận một số giống
mới để phục vụ trồng rừng sản xuất, tiêu biểu là: các giống quốc gia Bạch đàn uro
PN2, PN14 (năm 2000), PN3d (năm 2005); các giống tiến bộ kĩ thuật Bạch đàn uro
PN10, PN46, PN47 (năm 2004), PN54, PN116 (năm 2005), PN21, PN24, PN108
(năm 2006) và các giống tiến bộ kĩ thuật Keo lai tự nhiên KL2 (năm 2004), KL20,
KLTA3 (năm 2005).
Do mới chỉ được khảo nghiệm cơ bản trên quy mô nhỏ nên ngay sau khi
được công nhận, các giống tiến bộ kĩ thuật cần được khảo nghiệm mở rộng nhằm
tạo cơ sở tin cậy cho việc lựa chọn giống trồng rừng trên những điều kiện lập địa cụ

thể. Một trong số đó đã được triển khai là khảo nghiệm mở rộng cho các dòng Bạch
đàn uro PN10, PN46, PN47 vào năm 2005 ở Phú Thọ, năm 2006 ở Bắc Giang và
cho dòng Keo lai tự nhiên KL2 vào năm 2005 ở Tuyên Quang trong khuôn khổ đề
tài “Khảo nghiệm mở rộng các giống tiến bộ kỹ thuật bạch đàn, keo lai và Keo tai
tượng” do KS. Nguyễn Thị Yến làm chủ nhiệm. Đến nay, khi các rừng trồng khảo
nghiệm này đã đạt tuổi 4 - 5, ảnh hưởng của nhân tố di truyền và điều kiện hoàn
cảnh đến sinh trưởng đã thêm một lần nữa được khẳng định, việc đánh giá khả năng
phát triển vào sản xuất của các giống ở giai đoạn tuổi sắp thành thục cơng nghệ
càng có nhiều ý nghĩa đối với các địa phương. Xuất phát từ những yêu cầu đó, đề
tài: “Đánh giá kết quả khảo nghiệm một số dòng Bạch đàn uro và Keo lai tại các
tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang và Tuyên Quang” được đặt ra là rất cần thiết, có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn, phục vụ phát triển rừng trồng sản xuất ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về ba ̣ch đàn
Ba ̣ch đàn (Eucalyptus) là một chi thực vật thuộc họ Sim (Myrtaceae) bao
gồm 676 lồi có phân bố ở chủ yếu ở Australia và một phần ở Indonesia,
Philippines và Papua New Guinea (Willcox, 1997, dẫn từ Lê Đình Khả, 2006) [12].
Ngày nay, ba ̣ch đàn đã trở thành cây trồng của cả thế giới và được gây trồng rộng
rãi với quy mô lớn ở hơn 100 nước.
Ở Trung Quốc, ba ̣ch đàn lần đầu tiên được đưa vào trồng từ năm 1890 nhưng
đến những năm từ 1950 - 1970 mới được trồng rộng rãi. Chỉ đến năm những 1980
những nghiên cứu về bạch đàn mới được bắt đầu và chọn giống đã xác định được
các đối tượng thành cơng nhất tại thời điểm đó là E. urophylla và các giống lai (ví
dụ như E. grandis × E. urophylla) (Zhang Ronggui, 2002) [67].
Khảo nghiệm lồi và xuất xứ đối với ba ̣ch đàn ở Trung Quốc còn được thực

hiện các ở khu vực nhiệt đới. Trong khảo nghiệm ở Đảo Hải Nam, dù mới được 18
tháng nhưng bước đầu có thể kết luận E. camaldulensis và E. tereticornis xuất xứ
Bắc Australia thích nghi tốt, sinh trưởng nhanh ở những lập địa xấu (Wenlong và
Jiayu, 1989) [65]. Cả hai lồi này đều có những biểu hiện tốt hơn so với E. exserta
đã được trồng phổ biến ở đây. Trong số 14 xuất xứ của loài E. camaldulensis tham
gia khảo nghiệm, có 8 xuất xứ nằm trong 10 xuất xứ tốt nhất về chiều cao và 3 xuất
xứ nằm trong 10 xuất xứ tốt nhất về đường kính. Đối với E. tereticornis, tương ứng
là 2 xuất xứ về chiều cao và 1 xuất xứ về đường kính. Ngoài ra, trong khảo nghiệm
này E. urophylla cũng cho kết quả sinh trưởng nhanh, thân thẳng và có thể xem xét
để trồng ở phía Nam Trung Quốc, những nơi có mùa khô ngắn. Điều này là do vùng
nguyên sản của E. urophylla ở Indonesia có mùa khơ ngắn hơn so với ở Đảo Hải
Nam.
Khảo nghiệm ba ̣ch đàn tại 6 địa điểm ở Thái Lan đã cho thấy sự khác nhau
rõ ràng về sinh trưởng giữa các loài và xuất xứ (Pinyopusarerk, 1989) [58]. Những


loài triển vọng nhất tại thời điểm 24 tháng tuổi là E. camaldulensis và E. pellita.
Các loài ba ̣ch đàn khác bao gồm E. tereticornis, E. urophylla, E. raveretiana, E.
citriodora, và E. exserta cũng đã được quan tâm và kết quả cho thấy, chúng có khả
năng thích nghi trên diện rộng ở tất cả các điều kiện lập địa. Một số loài khác như
E. houseana, E. cloeziana, E. dunnii, E. microcorys, E. torelliana cho kết quả sinh
trưởng kém hơn. Trong tất cả các loài và xuất xứ được khảo nghiệm, xuất xứ có
triển vọng nhất là 14537 của E. camaldulensis, sinh trưởng đường kính ngang ngực
của nó vượt hơn 150% so với các loài - xuất xứ thấp nhất trong cùng khảo nghiệm ở
phần lớn các địa điểm.
Khảo sát rừng trồng ở các điều kiện lập địa khác nhau trong vùng nhiệt đới,
Evans (1992) thấy E. camaldulensis thường chỉ đạt năng suất 5 - 10 m3/ha/năm khi
trồng ở những lập địa khơ với chu kì kinh doanh từ 10 - 20 năm, trong khi đó ở
những nơi ẩm năng suất có thể đạt tới 30 m3/ha/năm [45]. Rõ ràng điều kiện lập địa
khác nhau thì năng suất rừng cũng khác nhau.

Trên thế giới đã có gần 200 lồi ba ̣ch đàn được đưa vào khảo nghiệm tại các
nước, song chỉ có khoảng 10 lồi được xếp vào diện đã gây trồng rộng rãi, đó là: E.
camaldulensis, E. tereticornis, E. urophylla, E. grandis, E. saligna, E. deglupta, E.
globulus, và các dòng Ba ̣ch đàn lai cao sản ở Trung Quốc, Brazil, Congo,...
(Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2000) [21].
Từ thực trạng năng suất thấp của rừng trồng ba ̣ch đàn do sử dụng các nguồn
giống khơng được cải thiện, q trình phát triển các dịng vơ tính ba ̣ch đàn tại Ấn
Độ đã được cách mạng hóa từ năm 1989 ở bang Andhra Pradesh. Có 64 cây trội dự
tuyển đã được lựa chọn theo kiểu hình mong muốn để nhân giống vơ tính và 21
dòng đã được khảo nghiệm vào tháng 9 năm 1989. Sau khảo nghiệm hai năm, 5
dịng có triển vọng nhất đã được xác định và tiếp đó, hai mơ hình rừng trồng đã
được thiết lập vào tháng 8 năm 1991. Với mục đích thay thế rừng trồng từ hạt bằng
các dịng vơ tính càng nhanh càng tốt, chọn lọc cây trội và khảo nghiệm đã được
tăng cường hơn sau đó. Kết quả sau nhiều năm, năng suất rừng trồng trung bình của


các dòng phổ biến là 20 - 25 m3/ha/năm, thậm chí nhiều diện tích rừng đạt năng suất
50 m3/ha/năm (Lal, 2003) [53].
Nằm trong chương trình trồng rừng của bang Sao Paulo (Brazil), 60 dịng vơ
tính của các lồi E. grandis, E. urophylla, và E. grandis × E. urophylla đã được
chọn để xác định các giống sinh trưởng nhanh và kháng được bệnh. Kết hợp với lựa
chọn lập địa thích hợp, năng suất rừng trồng ở đây đã tăng từ 27 m3/ha/năm lên 60
m3/ha/năm, tăng thu di truyền đạt 122% (Lal, 1994) [52].
Ở bang Andhra Pradesh (Ấn Độ), 35 dịng vơ tính sinh trưởng nhanh và có
khả năng kháng bệnh của loài E. tereticornis đã được xác định trên cơ sở chọn lọc
cây trội. Những dòng này đã được nhân lên ở quy mô lớn thông qua giâm hom. Ở
tuổi 3, một số dịng đã đạt tăng trưởng bình qn 16 m3/ha/năm và dự kiến năng
suất sẽ đạt 20 - 25 m3/ha/năm ở tuổi 7. Điều này có nghĩa, năng suất rừng trồng
dịng vơ tính đã tăng 50% so với rừng trồng từ hạt ở vườn giống hữu tính và tăng
gần gấp bốn lần so với rừng trồng từ hạt chưa được cải thiện (Lal, 1994) [52].

Ở Trung Quốc, công tác cải thiện giống ba ̣ch đàn đã được đẩy mạnh vào giai
đoạn 1990 thông qua việc thành lập một Trung tâm nghiên cứu ba ̣ch đàn (The
China Eucalypt Research Centre). Với mục đích trồng rừng phục vụ cơng nghiệp
giấy, thơng qua hàng loạt các khảo nghiệm đã chọn tạo được các giống có năng suất
40 - 50 m3/ha/năm và đã có hơn 200 dịng vơ tính được đưa ra trồng rừng (Yang
Minsheng, 2003) [66]. Trong hơn 2 triệu ha rừng trồng ba ̣ch đàn ở các tỉnh phía
Nam Trung Quốc, có trên 50% là các giống lai giữa E. urophylla với một số lồi
khác (ví dụ như E. grandis) đã được sử dụng để trồng rừng (Xie et al., 2006, dẫn từ
Zhou et al., 2008) [68].
Nhân giống sinh dưỡng để duy trì những đặc tính của cây mẹ được chọn lọc
đã góp phần rất lớn vào nâng cao sản lượng rừng trồng. Đối với rừng trồng E.
grandis ở Brazil, nhân giống sinh dưỡng đã góp phần đưa sản lượng từ 36
m3/ha/năm lên 64 m3/ha/năm (Zobel và Ikemori, 1983) [69]. Các phương pháp nhân
giống khác nhau như giâm hom, chiết và ghép đều đã được sử dụng đối với ba ̣ch
đàn (Tewari, 1992) [61]. Các chương trình giâm hom để trồng rừng đối với E.


grandis, E. urophylla, E. tereticornis và các giống lai đã phát triển thành công trên
quy mô lớn ở Brazil (Brandao et al., 1984) [38].
Vào thời điểm năm 1967 tại Aracruz (Brazil), sản lượng rừng trồng E.
grandis từ hạt địa phương khơng qua chọn lọc chỉ đạt 28 m3/ha/năm. Một chương
trình cải thiện giống được bắt đầu vào năm 1971 đã xác định những xuất xứ và
giống lai tự nhiên thích hợp cho sinh trưởng nhanh và kháng sâu bệnh hại. Kết quả
đã đưa năng suất lên 45 m3/ha/năm. Rừng trồng từ giống lai giữa E. grandis và E.
urophylla tại một số nơi đã đạt năng suất 70 m3/ha/năm (Campinhos, 1993, 1994)
[39], [40].
Vào năm 1987 đã có hơn 5.000 cây lai bao gồm cả giống lai tự nhiên và
giống lai nhân tạo giữa E. grandis và E. urophylla được nhân vô tính ở bang
Espirito Santo (Brazil). Đến năm 1990, rừng trồng từ gần 126 triệu cây hom của
những dòng đã qua chọn lọc từ các giống lai được thiết lập. Tăng thu về năng suất

cũng như tăng thu về những đặc điểm mong muốn đối với gỗ nguyên liệu giấy đều
đã đạt được. Năng suất rừng trồng từ 36 m3/ha/năm đã lên đến 45 - 75 m3/ha/năm,
thậm chí một số dịng tốt nhất đạt tăng trưởng trữ lượng 100 m3/ha/năm trong điều
kiện lập địa thích hợp (Campinhos và Claudio-da-Silva, 1990) [41].
Như vậy, thông qua một số kết quả nghiên cứu điển hình về chọn giống ba ̣ch
đàn trên thế giới thấy rằng, các quốc gia đã đạt được những thành tựu nổi bật trong
khoảng bốn thập niên qua. Từ những kết quả nghiên cứu về chọn giống, kết hợp với
trồng rừng thâm canh đã đưa năng suất rừng trồng ba ̣ch đàn gấp hai lần hoặc hơn
nữa so với rừng trồng trước đây. Nhìn lại các kết quả cũng thấy rằng, ba ̣ch đàn có
rất nhiều lồi, song qua khảo nghiệm chỉ có một ít lồi và xuất xứ được chọn để
trồng rừng trên diện rộng và phát triển giống mới. Để đáp ứng cho nhu cầu lấy gỗ,
xu hướng trồng rừng dịng vơ tính thơng qua sử dụng cây ưu việt từ chọn lọc và lai
giống đã và đang mở ra tiềm năng rất lớn.
1.1.2. Nghiên cứu về keo
Keo tai tượng (Acacia mangium) là lồi có ngun sản ở phía Bắc
Queensland (Australia), phía Tây Papua New Guinea và có ở Irian Jaya, Maluku


của Indonesia (Doran và Skelton, 1982) [44]. Trong khi đó Keo lá tràm (A.
auriculiformis) có nguyên sản ở Queensland, Tây và Nam Papua New Guinea và ở
Irian Jaya, quần đảo Kei của Indonesia (Turnbull et al., 1986) [64]. Cả hai loài đều
là cây sinh trưởng nhanh được sử dụng rộng rãi cho các mục đích khác nhau như lấy
gỗ, củi, ta nanh, trồng nông lâm kết hợp, trồng cây đường phố và là cây cải tạo đất
(Turnbull, 1986) [63]. Với những đặc điểm ưu việt như vậy, hai loài cây này đã
được đưa vào trồng ở nhiều quốc gia khác nhau, đặc biệt là ở Indonesia, Malaysia
và Thái Lan. Trong những năm 1980 - 1990 khảo nghiệm xuất xứ đã được tập trung
cho các loài keo nhiệt đới này.
Thử nghiệm gây trồng A. mangium đã được thực hiện ở hầu hết các quốc gia
trong khu vực (Awang và Bhuimibhamon, 1993) [37]. Kết quả của các khảo nghiệm
được thiết lập vào những năm 1980 đã được báo cáo từ các quốc gia như Trung

Quốc (Chung et al., 1990) [42], Malaysia (Khamis, 1991) [48], Thái Lan
(Atipanumpai, 1989; Lawskul, 1991) [36], [54] và ở Việt Nam (Huỳnh Đức Nhân
và Nguyễn Quang Đức, 1992) [47]. Phần lớn các khảo nghiệm đều cho thấy sự khác
biệt đáng kể về khả năng sinh trưởng của các xuất xứ khác nhau.
Khảo nghiệm xuất xứ của A. mangium tại Riam Kiwa (Banjarbaru,
Indonesia) thấy rằng xuất xứ tốt nhất là Claudie River (Queensland), đạt lượng tăng
trưởng thể tích 38 m3/ha/năm tại thời điểm 2,5 năm tuổi. Xuất xứ kém nhất là
Sanga-Sanga (East Kalimantan), chỉ đạt 11,1 m3/ha/năm. Tại thời điểm 5 năm tuổi,
xuất xứ Claudie River đã đạt lượng tăng trưởng 58 m3/ha/năm, trong khi xuất xứ
Sanga-Sanga chỉ đạt 17,5 m3/ha/năm. Các khảo nghiệm khác tại Banjarbaru cho
thấy ở thời điểm 35 tháng tuổi, xuất xứ PNG cho lượng tăng trưởng 43 m3/ha/năm
và xuất xứ Subanjeriji-palembang là 27 m3/ha/năm. Một khảo nghiệm sử dụng tới
30 xuất xứ tại Riam Kiwa cho thấy khơng có sự khác biệt về cả sinh trưởng chiều
cao và đường kính tại thời điểm 2 năm tuổi giữa các xuất xứ (Suhaendi, 1993) [60].
Ở Thái Lan, trong khoảng thời gian 1985 - 1987, khảo nghiệm cho các loài
keo của Australia đã được thực hiện trên nhiều nơi, từ vùng ẩm ướt cho đến vùng
khô hạn. Các kết quả ban đầu cho thấy có sự khác nhau rõ ràng về sinh trưởng và tỉ


lệ sống giữa các loài. Những loài cho sinh trưởng lớn nhất về đường kính thì cũng
cho sinh trưởng mạnh nhất về chiều cao, trong đó phải kể đến A. carssicarpa và A.
auriculiformis. Trong số những loài kém nhất, A. melanoxylon đã chết hết ở một địa
điểm và đạt tỉ lệ sống rất thấp ở các điểm còn lại. Một số lồi khác tuy có tỉ lệ sống
cao, song sinh trưởng rất kém (ví dụ A. oraria). Bên cạnh đó, kết quả cũng cho thấy
sự khác biệt trong sinh trưởng giữa các xuất xứ của cùng một loài. Xuất xứ PNG
cho sinh trưởng tốt hơn xuất xứ Bắc Queensland (Australia) đối với loài A.
crassicarpa và A. aulacocarpa. Sinh trưởng về đường kính trong nhóm tốt là sự có
mặt của bốn xuất xứ đến từ PNG (Pinyopusarerk, 1989) [58]. Các khảo nghiệm
khác ở Thái Lan cũng đều ghi nhận xuất xứ tốt nhất của A. auriculiformis là PNG
(Evans, 1992) [45].

Một khảo nghiệm loài - xuất xứ keo cũng đã được thực hiện tại Đảo Hải
Nam (Trung Quốc). Kết quả bước đầu được đánh giá ở thời điểm 20 tháng tuổi cho
thấy các loài A. crassicarpa, A. mangium, A. auriculiformis và A. cincinnata thích
hợp cho trồng rừng ở quy mơ lớn tại đây (Minquan et al., 1989) [56]. Trong số 5
xuất xứ của A. mangium, tốt nhất là 15063 đến từ Mossman (Queensland), chiều
cao đạt 4,3 m, đường kính đạt 4,1 cm. Xuất xứ kém nhất là 13622 đến từ Sidei
(Indonesia), nó có chiều cao là 3,5 m và có đường kính là 2,5 cm. Trong 7 xuất xứ
tham gia khảo nghiệm của A. auriculiformis, tốt nhất là 13686 đến từ Iokwa (PNG),
đạt 5,3 m chiều cao và 5,2 cm đường kính.
Keo lai là tên gọi tắt để chỉ giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng (Acacia
mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Giống lai này được Messrs
Herburn và Shim phát hiện lần đầu tiên vào năm 1972 trong số những cây Keo tai
tượng được trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah của Malaysia (dẫn
từ Lê Đình Khả,1999) 11. Sau đó, cây lai tự nhiên giữa hai lồi đã được ghi nhận
ở Malaysia (Tham, 1976; Pedley, 1978) [62], [57] và ở Thái Lan (Kijkar, 1992)
[51]. Keo lai còn được tìm thấy ở vườn ươm Keo tai tượng (lấy giống từ Malaysia)
tại Trạm nghiên cứu Jon-Pu của Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp Đài Loan (Kiang Tao


và Jeng Chuan Yang, 1988) [50] và khu trồng Keo tai tượng tại Quảng Châu (Trung
Quốc).
Theo Tham (1976), cây lai thường cao hơn cả hai loài bố mẹ, song vẫn giữ
hình dáng kém của Keo lá tràm [62]. Keo lai tự nhiên có thể xuất hiện với tỉ lệ 3 - 4
cây/ha, hoặc với tỉ lệ 1 Keo lai : 500 Keo tai tượng. Còn trong vườn ươm Keo lá
tràm (trong trường hợp này Keo lá tràm làm mẹ) tỉ lệ Keo lai có thể xuất hiện 6,8 10,3 %, cá biệt có thể đến 22,5 % (Gan và Liang, 1992) [46]. Cũng trong giai đoạn
vườn ươm, cây Keo lai hình thành lá giả (phyllode) sớm hơn Keo tai tượng và muộn
hơn Keo lá tràm (Rufeld, 1988) [59].
Trong đánh giá ban đầu về khảo nghiệm A. auriculiformis và A. mangium ở
Congo, Khasa và cộng sự (1995) thấy rằng A. mangium là lồi chịu mặn kém nhất,
chúng khơng sinh trưởng được và chết hết ở điều kiện đất mặn cách bờ Đại Tây

Dương khoảng 6 km. Trong khi đó cũng ở tại khu vực này, các cây được xem là
giống lai giữa hai lồi lại sinh trưởng tốt. Chúng có biểu hiện tốt về hình dạng thân
cây thẳng và phân cành đều, khác với những gì về A. auriculiformis thường có thân
cong queo [49].
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Khảo nghiệm loài và xuất xứ ba ̣ch đàn, keo
Có thể nói khảo nghiệm loài ở Việt Nam được bắt đầu từ những năm 1930
khi các nhà lâm nghiệp người Pháp xây dựng các khu khảo nghiệm loài cho Ba ̣ch
đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis), Ba ̣ch đàn đỏ (E. robusta),… ở một số vùng
sinh thái chính trong cả nước (Hồng Chương, 1994) [2].
Cho đến những năm 1980, khảo nghiệm loài và xuất xứ ba ̣ch đàn mới được
thực hiện tương đối đồng bộ cho một số vùng sinh thái trong cả nước. Đáng chú ý là
tổng kết về khảo nghiệm xuất xứ Ba ̣ch đàn caman (E. camaldulensis) và Ba ̣ch đàn
têrê (E. tereticornis) của Hoàng Chương (1996) [3], khảo nghiệm xuất xứ Ba ̣ch đàn
uro tại một số tỉnh vùng Trung tâm Bắc Bộ của Nguyễn Dương Tài (1994) [28], các
đánh giá tổng hợp về ba ̣ch đàn của Hoàng Chương (1990) [1], Lê Đình Khả (1996)
[9], Phạm Văn Tuấn và cộng sự (2000) [33]. Trong số những khảo nghiệm loài và


xuất xứ ba ̣ch đàn đã được thực hiện ở Việt Nam, khảo nghiệm xuất xứ ba ̣ch đàn ở
Đông Hà (Quảng Trị) là nơi tập hợp tương đối đầy đủ các xuất xứ của một số loài
ba ̣ch đàn quan trọng nhất như E. urophylla, E. camaldulensis,… (Lê Đình Khả và
các cộng tác viên, 2003) [20]. Bên cạnh đó, do rừng trồng ba ̣ch đàn xuất hiện một
số dịch bệnh nên nghiên cứu về chọn giống kháng bệnh cũng đã được Nguyễn
Hoàng Nghĩa (2000) [21], Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự (2006) [22] quan tâm
thực hiện.
Cho đến nay, thông qua hàng loạt khảo nghiệm đối với các loài ba ̣ch đàn như
E. camaldulensis, E. tereticornis, E. urophylla, E. grandis, E. pelita, E. cloeziana,...
chúng ta đã xác định được một số xuất xứ có triển vọng nhất của một số loài, đặc
biệt là đối với E. camaldulensis, E. tereticornis và E. urophylla.

Đối với keo, vào những năm 1960 một số loài đã được đưa vào khảo nghiệm
mà đến nay Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) đã được gây trồng như một nguồn
giống tại chỗ ở vùng Đơng Nam Bộ, cịn “Mimosa” (A. podalyriifolia) thì trở thành
lồi cây tượng trưng cho thành phố Đà Lạt (Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng,
2003) [17].
Từ năm 1980, đặc biệt là từ đầu những năm 1990, một số loài keo khác tiếp
tục được nhập vào trồng thử và khảo nghiệm ở nước ta. Các loài keo nhập vào Việt
Nam được chia thành ba nhóm là các loài keo vùng thấp, các loài keo chịu hạn và
các loài keo vùng cao. Keo vùng thấp là đối tượng đã được quan tâm hơn cả thông
qua các khảo nghiệm đầu những năm 1980 cho 4 loài gồm Keo lá tràm (A.
auriculiformis), Keo tai tượng (A. mangium), Keo lá liềm (A. crassicarpa) và Keo
nâu (A. alaucocarpa) tại Ba Vì (Hà Nội), Hóa Thượng (Thái Nguyên) và Trảng
Bom (Đồng Nai) (Lê Đình Khả và Nguyễn Hồng Nghĩa, 1991) [55].
Đến năm 1990 - 1991, thông qua các dự án UNDP, một bộ giống gồm 39
xuất xứ của 5 loài keo vùng thấp đã được khảo nghiệm tại Đá Chơng (Ba Vì, Hà
Nội), Đông Hà (Quảng Trị) và Đại Lải (Vĩnh Phúc). Sau đó trong các năm 1992 1994 một số khảo khác đã được xây dựng tại Sông Mây (Đồng Nai) và Bầu Bàng
(Bình Dương), Măng Giang (Gia Lai) và Bãi Bằng (Phú Thọ). Đánh giá chung cho


cả bộ giống của ba khảo nghiệm ở các tỉnh miền Bắc thấy rằng, các xuất xứ triển
vọng đối với Keo lá tràm là Mibini (PNG), Coen River (Qld), Manton (NT) và
Kings Plains (Qld); đối với Keo tai tượng là các xuất xứ Pongaki (PNG), Dimisisi
(PNG), Iron Range (Qld), Ingham (Qld) và Mossman (Qld) (Huỳnh Đức Nhân và
Nguyễn Quang Đức, 1995; Lê Đình Khả và các cộng tác viên, 2003) [24] [20].
Như vậy, các thông tin kể trên đã cho thấy khảo nghiệm loài và xuất xứ là
một khâu rất quan trọng trong công tác cải thiện giống cây rừng. Nhờ kết quả khảo
nghiệm loài và xuất xứ ba ̣ch đàn, keo được tiến hành trong nhiều năm qua mà
chúng ta đã xác định được lồi và xuất xứ có triển vọng nhất cho một số vùng trồng
rừng chủ yếu trên cả nước.
Trong giai đoa ̣n 2005 - 2009, Bô ̣ Nông nghiê ̣p và Phát triể n nông thôn đã

công nhâ ̣n nhiề u giố ng Ba ̣ch đàn uro và Keo lai là giố ng tiế n bô ̣ kỹ thuâ ̣t và đươ ̣c áp
du ̣ng vào sản xuấ t rô ̣ng raĩ , có thể kể tới mô ̣t số giố ng như: Ba ̣ch đàn uro PN54
(năm công nhâ ̣n 2005); Ba ̣ch đàn uro PN3d (năm 2006),… Keo lai tự nhiên KL20
(2005), Keo lai tự nhiên BV33 (2006), Keo lai tự nhiên AH1 (2007), Keo lai nhân
ta ̣o MA1 (2008),…[35].
1.2.2. Chọn lọc cây trội và khảo nghiệm dịng vơ tính ba ̣ch đàn
Cho ̣n lo ̣c cây trô ̣i và khảo nghiê ̣m hâ ̣u thế là các bước quan tro ̣ng trong cho ̣n
giố ng cây rừng. Đố i với các loài ba ̣ch đàn, viê ̣c cho ̣n lo ̣c cây trô ̣i và khảo nghiê ̣m
dòng vơ tính ở nước ta trong thời gian qua đã đa ̣t đươ ̣c những thành tựu nhấ t đinh
̣
thông qua mô ̣t số công triǹ h nghiên cứu tiêu biể u sau:
Năm 1993, một khảo nghiệm cho bộ giống gồm 38 dịng vơ tính nhân lên từ
các cây trội của Ba ̣ch đàn trắng (E. camaldulensis) đã được xây dựng ở Cẩm Quỳ
(Ba Vì, Hà Nội). Kết quả sau 7 năm cho thấy, 8 dịng có thể tích thân cây vượt Ba ̣ch
đàn uro, 11 dịng có thể tích vượt dịng Ba ̣ch đàn liễu lai tốt nhất tham gia khảo
nghiệm, 26 dòng vượt giống đối chứng và 12 dòng kém giống đối chứng. Trong đó,
dịng 22 và dịng 7 có sinh trưởng nhanh nhất (Lê Đình Khả và các cộng tác viên,
2003) [20].


Tại Trảng Bom (Đồng Nai), sau khi đã chọn lọc được cây trội, nhân giống
bằng hom và tạo được 19 dịng vơ tính, kết quả thu được sau 6 tháng khảo nghiệm
là chỉ có 3 dịng vượt cây hạt đối chứng, 10 dịng vượt cây hom đối chứng (Lê Đình
Khả và cô ̣ng sự, 1996) [19].
Chọn lọc cây trội Ba ̣ch đàn uro phối hợp với nhân giống sinh dưỡng và khảo
nghiệm dịng vơ tính đã được Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy thực hiện từ
năm 1993 đến nay nhằm tạo ra các dịng vơ tính có năng suất cao cho trồng rừng
nguyên liệu giấy (Huỳnh Đức Nhân và cô ̣ng sự, 2007) [25]. Từ cây con của các cây
trội được nhân giống bằng phương pháp giâm hom, một số đợt khảo nghiệm dịng
vơ tính đã được triển khai nhưng có quy mơ và thành cơng nhất đến nay vẫn là các

khảo nghiệm được thiết lập và theo dõi trong giai đoạn 1995 - 2005.
Khảo nghiệm đầu tiên được tiến hành từ năm 1995 cho 16 dòng Ba ̣ch đàn
uro được chọn lọc tại chỗ và nhân giống bằng hom như PN2, PN3, PN4, PN14,
PN18, PN19, PN231,... cũng như các dòng được nhập từ Trung Quốc như U16, GU,
cây mô U16 và cây hạt lấy giống từ rừng sản xuất đại trà tại địa phương. Kết quả
khảo nghiệm dòng vơ tính tại Sóc Đăng (Đoan Hùng, Phú Thọ) và Gia Thanh (Phù
Ninh, Phú Thọ) cho thấy sau hơn 3 năm tuổi (39 tháng) hai dòng Ba ̣ch đàn uro có
năng suất và chất lượng cây cao nhất là PN2 và PN14 có thể tích thân cây 19,6 22,5 dm3/cây (tại Sóc Đăng) và 22,0 - 26,6 dm3/cây (tại Gia Thanh), trong khi các
dòng được nhập từ Trung Quốc như U16 và GU chỉ đạt năng suất 14,5 - 16,0
dm3/cây tại Sóc Đăng và 13,8 - 14,4 dm3/cây tại Gia Thanh, cịn thể tích thân cây
của giống sản xuất mọc từ hạt của Ba ̣ch đàn uro là 11,5 - 15,5 dm3/cây (Trung tâm
nghiên cứu cây nguyên liệu giấy, 1998) [31].
Từ năm 1997 - 2000, khảo nghiệm đã được thiết lập trên nhiều địa điểm khác
nhau tại Phú Thọ với các thí nghiệm có quy mơ từ 15 - 35 dòng. Bên cạnh các dòng
Ba ̣ch đàn uro được chọn tại vùng Trung tâm là đối tượng chính, các giống nhập như
U16, GU8, W4, W5 và U6 cũng được đưa vào khảo nghiệm, trong khi giống đối
chứng là cây hạt của Ba ̣ch đàn uro lấy từ rừng sản xuất. Mặc dù các giống PN2 và
PN14 ln có mặt trong nhóm dẫn đầu ở các khảo nghiệm nhưng cũng đã xuất hiện


các giống vượt hai giống này và vượt xa đối chứng về các chỉ tiêu sinh trưởng và
chất lượng thân cây.
Đánh giá của Nguyễn Sỹ Huống và cộng sự (2003) cho các khảo nghiệm
thấy rằng, ở thời điểm 6,5 năm tuổi dịng PN10 có thể tích thân cây vượt hai dịng
PN2 và PN14, vượt xa đối chứng về thể tích thân cây cũng như về năng suất rừng.
Trên đất nghèo kiệt như ở Phù Ninh, dòng PN10 cho năng suất 23 m3/ha/năm, trong
khi đối chứng chỉ đạt 8 m3/ha/năm. Còn đối với dịng PN47, ở thời điểm 5,5 năm
tuổi có thể tích thân cây vượt cả ba dịng PN3d, PN2 và PN14 (là các giống quốc
gia). Trên đất nghèo kiệt dịng PN47 có thể cho năng suất rừng đạt 30 m3/ha/năm.
Đặc biệt, ở thời điểm 5,5 năm tuổi dòng PN46 trong khảo nghiệm có thể cho năng

suất rừng lên đến 38 m3/ha/năm, trong khi đối chứng chỉ đạt 10 m3/ha/năm [8].
Theo Huỳnh Đức Nhân và cộng sự (2005, 2006), các dịng ưu trội đều có
năng suất rừng lớn hơn 20 m3/ha/năm. Ở thời điểm 6,5 năm tuổi, dịng PN54 có thể
cho năng suất rừng đạt 31 m3/ha/năm, trong khi đối chứng chỉ đạt 10 m3/ha/năm. Ở
thời điểm 5,5 năm tuổi dịng PN24 có thể tích thân cây tương đương với dòng PN3d
và PN2. Trên đất nghèo kiệt này, dòng PN24 có thể cho năng suất rừng 24
m3/ha/năm, trong khi đối chứng chỉ đạt 7 m3/ha/năm [26], [27].
Đối với các giống ba ̣ch đàn lai ở nước ta, khảo nghiệm đã được bắt đầu từ
năm 1998 do Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng thực hiện tại các nơi có điều
kiện lập địa khác nhau như Thuỵ Phương, Ba Vì (Hà Nội) và một số nơi khác ở
Việt Nam. Khảo nghiệm đã thực hiện cho các tổ hợp lai UC, CU, UE, EU, CE, EC
và UU được tạo ra từ việc lai thuận nghịch giữa các loài E. urophylla (U), E.
camaldulensis (C), E. exserta (E). Số liệu thu được cho thấy ở tất cả các nơi khảo
nghiệm các tổ hợp lai đều sinh trưởng nhanh hơn các loài bố mẹ, đặc biệt là nhanh
hơn các bố mẹ đã trực tiếp tham gia lai giống. Ở giai đoạn 2 năm tuổi, tại Thụy
Phương, các tổ hợp lai tốt nhất có sinh trưởng nhanh gấp 7,3 lần các cây bố mẹ kém
nhất, còn ở Ba Vì tỉ lệ này là 3,5. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng của yếu tố di
truyền, ưu thế lai đã được thể hiện rõ trong điều kiện sinh trưởng thuận lợi (Lê Đình


Khả và Nguyễn Việt Cường, 2001; Lê Đình Khả và các cơ ̣ng tác viên, 2003; Lê
Đình Khả, 2006) [13], [20], [12].
Kể từ năm 2001 nghiên cứu lai giống ba ̣ch đàn được tiếp tục khi lai giữa
Ba ̣ch đàn uro với Ba ̣ch đàn pellita, Ba ̣ch đàn tere, Ba ̣ch đàn grandis, Ba ̣ch đàn
saligna, Ba ̣ch đàn microcorys. Qua đó, khảo nghiệm các dịng ba ̣ch đàn lai đã được
thiết lập ở các vùng sinh thái chính ở nước ta như Tam Thanh - Phú Thọ (2002),
Bầu Bàng - Bình Dương (2002), Tân Lập - Bình Phước (2003) và Kinh Đứng - Cà
Mau (2003). Đánh giá ở thời điểm 5 - 6 tuổi cho thấy UE24 và UE27 là các giống
có sinh trưởng đứng đầu trong các khảo nghiệm ở vùng Trung tâm (Phú Thọ) và
vùng Đông Nam Bộ (Bình Phước). Tại Tam Thanh dịng UE24 cho năng suất đạt

30,7 m3/ha/năm, trong khi đó tại Tân Lập dòng UE27 cho năng suất 40,3 m3/ha/năm
(Nguyễn Việt Cường, 2009) [4].
1.2.3. Chọn lọc và khảo nghiệm giống keo lai
Ở Việt Nam giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm (Acacia
mangium × Acacia auriculiformis) được phát hiện từ năm 1991 - 1992. Những cây
lai này (gọi tắt là Keo lai) được phát hiện ở các vùng như Tân Tạo, Sông Mây, Trị
An, Trảng Bom ở Nam Bộ và Ba Vì (Hà Nội), Phú Thọ, Hồ Bình, Tun Quang,...
ở Bắc Bộ (Lê Đình Khả, 1999) 11.
Khảo nghiệm giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm của Lê
Đình Khả và cộng sự (1997) cho thấy ở giai đoạn 4 năm tuổi, cây hom của Keo lai
đời F1 có thể tích gấp 1,6 - 2 lần Keo tai tượng và 3 - 4 lần Keo lá tràm. Tốc độ sinh
trưởng của cây hom Keo lai đời F1 nhanh hơn cây hạt và cây hom của những xuất
xứ sinh trưởng nhanh nhất trong các loài keo bố mẹ và chúng vẫn được duy trì ở
giai đoạn 4 năm tuổi và tiếp tục sinh trưởng nhanh sau một số năm. Có sự khác biệt
rõ rệt về tốc độ sinh trưởng, chất lượng thân cây và tỉ trọng của gỗ giữa các dòng
Keo lai được khảo nghiệm. Từ khảo nghiệm dịng vơ tính đã chọn được một số
dịng Keo lai có thể tích thân cây cao nhất, chất lượng thân cây tốt nhất và có tỉ
trọng của gỗ tương đối cao 14.


Khảo nghiệm dịng vơ tính cho thấy Keo lai có ưu thế lai rõ rệt về sinh
trưởng so với Keo tai tượng và Keo lá tràm. Sai khác giữa các dịng vơ tính trong
khảo nghiệm là khá rõ và do yếu tố di truyền tạo nên. Một số dịng vơ tính tuy có
sinh trưởng rất nhanh, song lại có các chỉ tiêu chất lượng khơng đạt u cầu. Một số
dịng có sinh trưởng nhanh, vừa có các chỉ tiêu chất lượng tốt, có thể nhân nhanh
hàng loạt để phát triển vào sản xuất đó là BV5, BV10, BV16, BV29, BV32 và
BV33 (Lê Đình Khả và cơ ̣ng sự, 1993, 1995) 15, 16. Keo lai đời F1 có hình thái
trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm và tương đối đồng nhất, đồng thời có
ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng và có nhiều đặc trưng ưu việt khác. Đến đời F2 Keo
lai có biểu hiện thối hố và có phân li khá rõ rệt thành các dạng cây khác nhau.

Cây lai F2 không những sinh trưởng kém hơn cây lai đời F1 mà cịn có biến động
lớn về sinh trưởng. Như vậy, để phát triển giống Keo lai vào sản xuất phải dùng
phương pháp nhân giống hom hoặc ni cây mơ phân sinh cho những dịng Keo lai
tốt nhất đã được chọn lọc và được đánh giá qua khảo nghiệm 10.
Thơng qua khảo nghiệm dịng vơ tính, các dịng Keo lai có năng suất và chất
lượng thân cây cao nhất đã được xác định. Khảo nghiệm khu vực hóa ở dạng hỗn
hợp cho các dịng Keo lai được chọn (BV5, BV10, BV16, BV29, BV32 và BV33)
đã được xây dựng vào năm 1996 tại 10 địa điểm từ Hàm Yên (Tuyên Quang) đến
Long Khánh (Đồng Nai), là những nơi có điều kiện khí hậu và đất đai khác nhau
trong cả nước. Kết quả theo dõi sau 2 - 3 năm khảo nghiệm cho thấy Keo lai có thể
sống ở tất cả các nơi khảo nghiệm. Những nơi có điều kiện đất đai tương đối tốt, đất
có độ phì cao thì Keo lai sinh trưởng khá hơn, song ở tất cả các nơi khảo nghiệm
Keo lai đều có sinh trưởng nhanh gấp 1,5 - 3 lần các loài Keo bố mẹ. Những nơi
Keo lai sinh trưởng nhanh là Hàm n (Tun Quang), Bình Thanh (Hịa Bình),
Phú Lương (Thái Ngun), Đông Hà (Quảng Trị), Long Thành (Đồng Nai),... trong
3 năm đầu có thể đạt năng suất 19 - 27 m3/ha/năm. Những nơi Keo lai sinh trưởng
chậm là Ba Vì (Hà Nội), Đại Lải (Vĩnh Phúc) chỉ đạt năng suất 5,7 - 13,5
m3/ha/năm (Lê Đình Khả và cơ ̣ng sự, 1999) 18. Đánh giá khảo nghiệm ở giai đoạn
5 năm tuổi thấy rằng vùng Đông Nam Bộ là nơi Keo lai đạt năng suất cao nhất,


dịng BV10 có thể đạt 35 - 40 m3/ha/năm. Các nơi cịn lại như Đơng Hà (Quảng
Trị), Bình Thanh (Hịa Bình), Hàm n (Tun Quang) cũng có thể đạt năng suất
25 - 30 m3/ha/năm. Tại những lập địa có lớp đất mỏng, nghèo dinh dưỡng như Ba
Vì (Hà Nội), Đại Lải (Vĩnh Phúc) năng suất cao nhất cũng chỉ đạt 15 - 18
m3/ha/năm (Lê Đình Khả, 1999; Nguyễn Đình Hải, 2002; Đoàn Ngọc Giao, 2003)
[11], [6], [5].
Bước đầu trồng khảo nghiệm dịng vơ tính Keo lai ở Đơng Nam Bộ cho thấy
chỉ một số dịng Keo lai có sinh trưởng nhanh hơn so với Keo lá tràm và Keo tai
tượng. Từ kết quả nghiên cứu đã chọn được các dòng Keo lai 3, 5, 6 và 12 có sinh

trưởng nhanh, có thể nhân giống đại trà cho trồng rừng sản xuất ở Đơng Nam Bộ và
các địa phương có điều kiện lập địa tương tự (Phạm Văn Tuấn và cộng sự, 1995;
Lưu Bá Thịnh và Phạm Văn Tuấn, 1998; Lưu Bá Thịnh, 1999) 32, 30, 29. Tuy
vậy, từ số liệu thu được của các tác giả trên mới thấy dòng 6 là thật sự có sinh
trưởng nhanh trong các năm vì thế cần được khảo nghiệm lại mới thấy giá trị thực
sự của chúng (Lê Đình Khả, 1999) 11.
Một khảo nghiệm cho các dịng vơ tính mới được chọn năm 1996 đã được
xây dựng ngay tại nơi đã chọn lọc cây mẹ ở Cẩm Quỳ (Ba Vì, Hà Nội). Nguồn Keo
lai được chọn là các rừng trồng Keo tai tượng được lấy giống từ Đồng Nai. Mặc dù
các cây trội Keo lai khi được chọn có độ vượt khá lớn, song qua khảo nghiệm đều
thấy có sinh trưởng kém hơn các dòng Keo lai cũ là BV10, BV5. Tổng hợp các chỉ
tiêu sinh trưởng và chất lượng, trong 14 dòng được khảo nghiệm có thể chọn ra
được các dịng BV49 và BV61, sau đó có thể là các dịng BV56, BV57 (Lê Đình
Khả và các cơ ̣ng tác viên, 2003) [20].
Năm 1997 Trung tâm Nghiên cứu cây nguyên liệu giấy (nay là Viện Nghiên
cứu cây nguyên liệu giấy) đã kết hợp với Công ty nguyên liệu Giấy Miền Nam tiến
hành tuyển chọn cây Keo lai, thiết lập các khảo nghiệm dịng vơ tính. Đã có 30 cây
Keo lai được chọn và dẫn dòng để đưa vào trồng khảo nghiệm ở các khu vực Đại
An, Thống Nhất (Đồng Nai) cũng như khu vực Kun Tum và Phú Thọ. Theo đó, ở
khảo nghiệm dịng vơ tính Keo lai tại Đại An (Đồng Nai) trồng năm 1998 đã xác


định được dòng KL2 là ưu trội nhất. Ở thời điểm 5 năm tuổi dịng KL2 có thể tích
thân cây vượt cả hai dòng BV5 và BV10 cũng như tất cả các dịng khác và đối
chứng, KL2 có thể đạt năng suất rừng 43 m3/ha/năm. Đối với khảo nghiệm tại
Thống Nhất (Đồng Nai) trồng năm 2000 cho thấy dòng KLTA3 là ưu trội nhất, có
sinh trưởng vượt hơn cả dịng KL2 và dòng BV10. Ở thời điểm 4,5 năm tuổi dịng
KLTA3 có thể cho năng suất rừng 40 m3/ha/năm. Cịn ở khảo nghiệm tại Phương
Thịnh (Tam Nông, Phú Thọ) trồng năm 2000 cho thấy dịng KL20 ln đứng nhóm
đầu về sinh trưởng, chỉ sau dòng BV10. Ở thời điểm 4,5 tuổi dịng KL20 có thể đạt

năng suất rừng 27 m3/ha/năm (Nguyễn Sỹ Huống và cộng sự, 2003; Huỳnh Đức
Nhân và cộng sự, 2005) [8], [26].
 Nhận xét chung:
Tổ ng hơ ̣p các công trình nghiên cứu ở trên thế giới cho thấ y, nghiên cứu đố i
với ba ̣ch đàn và keo các loa ̣i đã đươ ̣c thực hiê ̣n mô ̣t cách khá đầ y đủ và toàn diê ̣n
trong viê ̣c cho ̣n loài, chọn xuấ t xứ, chọn lọc cây trội và khảo nghiệm dịng vơ tính,
lai giống... ta ̣o cơ sở khoa ho ̣c cũng như thực tiễn trong viê ̣c lựa cho ̣n giố ng cây lâm
nghiê ̣p cho năng suấ t và phẩ m chấ t gỗ cao.
Ở Viê ̣t Nam, các công trin
̀ h nghiên cứu về cho ̣n giống đố i với ba ̣ch đàn và
keo đươ ̣c thực hiê ̣n khá châ ̣m so với trên thế giới, tuy nhiên bước đầ u cũng đã đa ̣t
đươ ̣c những thành công nhấ t đinh
̣ trong viê ̣c cho ̣n ra đươ ̣c những giố ng ba ̣ch đàn,
giố ng keo ưu trô ̣i và đươ ̣c quy chuẩ n thành giố ng Quố c gia phu ̣c vu ̣ cho sản xuấ t
trong nhiề u năm qua. Tuy nhiên, mỗi giống đã được công nhận thường chỉ phù hợp
với một hoặc một số điều kiện gây trồng nhất định thì mới phát huy tốt vai trò,
trong khi số lượng giống mới được ứng dụng vào trồng rừng sản xuất chưa nhiều.
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của phát triển rừng trồng sản xuất, chọn tạo và khảo
nghiệm giống cần được tiếp tục nhằm không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng
rừng trồng. Do vâ ̣y, đề tài “Đánh giá kế t quả khảo nghiê ̣m một số dòng Ba ̣ch đàn
uro và Keo lai ta ̣i các tỉnh Phú Thọ, Bắ c Giang và Tuyên Quang” đươ ̣c đă ̣t ra là
thâ ̣t sự cầ n thiế t.


Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá đươ ̣c tình hình sinh trưởng, năng suất rừng trồng các dòng Bạch
đàn uro PN10, PN46, PN47 và dòng Keo lai tự nhiên KL2 tại các tỉnh Phú Thọ, Bắc

Giang và Tuyên Quang.
- Đề xuấ t đươ ̣c các giố ng cây trồ ng rừng sản xuấ t cho các tỉnh Phú Thọ, Bắc
Giang và Tuyên Quang.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được kế thừa từ khảo nghiệm đã xây dựng thuộc đề tài
“Khảo nghiệm mở rộng các giống tiến bộ kỹ thuật bạch đàn, Keo lai và Keo tai
tượng” do Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy triển khai theo Quyết định số
3384/QĐ-KHCN ngày 20 tháng 12 năm 2004 của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công
thương), cụ thể như sau:
- Rừng trồng khảo nghiệm mở rộng các giống tiến bộ kĩ thuật Bạch đàn uro
PN10, PN46, PN47 tại Phú Thọ và Bắc Giang;
- Rừng trồng khảo nghiệm mở rộng giống tiến bộ kĩ thuật Keo lai tự nhiên
KL2 tại Tuyên Quang.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
2.3.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung đánh giá khả năng sinh trưởng rừng trồ ng khảo nghiê ̣m
(D1,3, Hvn, Dt); đánh giá năng suất, chất lượng rừng và hiệu quả kinh tế. Đây là
những tiêu chí quan trọng để làm cơ sở lựa chọn giống trồng rừng sản xuất tại các
khu vực được khảo nghiệm.
2.3.2. Về địa điểm
- Tại Phú Thọ: Khảo nghiệm được thiết lập tại xã Tiên Kiên, huyện Lâm
Thao, có một số đặc điểm chính về điều kiện tự nhiên như sau:


+ Vị trí địa lí: Khu vực nghiên cứu nằm ở 21o27’ vĩ độ Bắc và 105o14’ kinh
độ Đông, độ cao bình quân so với mực nước biển là 30m.
+ Địa hình: Là những dải đồi thoải có độ dốc từ 10 - 15o.
+ Khí hậu: Khu vực nghiên cứu có nhiệt độ bình qn năm là 23,1oC. Lượng
mưa trung bình năm là 1.850mm, phân bố khơng đều trong năm, mưa tập trung từ
tháng 4 đến tháng 10, mưa nhiều nhất vào tháng 7 (lượng mưa là 382,5mm), mưa ít

nhất vào tháng 12 (lượng mưa là 24,9mm). Độ ẩm không khí bình qn năm là
86%.
+ Đất đai: Đất Feralít màu vàng nhạt phát triển trên nền đá mẹ Phiến thạch
sét, đất khơng cịn tính chất đất rừng, tầng đất mỏng, lớp đất mặt đã bị xói mịn và
rửa trơi. Diện tích đất này trước đây đã được trồng rừng bạch đàn.
- Tại Bắc Giang: Khảo nghiệm được thiết lập tại xã Đồng Vương, huyện Yên
Thế, có một số đặc điểm chính về điều kiện tự nhiên như sau:
+ Vị trí địa lí: Khu vực nghiên cứu nằm ở 21o07’ vĩ độ Bắc và 105o53’ kinh
độ Đơng.
+ Địa hình: Phần lớn là đồi báp úp, độ cao so với mặt nước biển bình quân
100 - 200 m, độ dốc bình quân từ 15 - 25o.
+ Khí hậu: Nhiệt độ bình qn năm là 22,5oC. Lượng mưa trung bình năm là
1.620mm, phân bố không đều trong năm, mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 9.
Mùa khô từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Độ ẩm khơng khí bình qn năm là
82%.
+ Đất đai: Đất Feralít màu nâu nhạt trên núi trung bình phát triển trên đá mẹ
Phiến thạch sét, tầng đất mỏng, độ dốc lớn, nhiều đá lẫn, thành phần cơ giới thịt
nặng đến trung bình, đất nghèo dinh dưỡng, khơ cằn. Trước đây trên diện tích đất
này đã trồng bạch đàn.
- Tại Tuyên Quang: Khảo nghiệm được thiết lập tại thị trấn Tân Yên, huyện
Hàm Yên, có một số đặc điểm chính về điều kiện tự nhiên như sau:
+ Vị trí địa lí: nằm ở 22o04’ vĩ độ Bắc và 105o02’ kinh độ Đơng, độ cao bình
qn so với mặt biển khoảng 70m.


+ Địa hình: Là quả đồi và dải núi thấp có độ dốc từ 20 - 25o.
+ Khí hậu: Nhiệt độ bình quân năm là 23,8oC. Lượng mưa trung bình năm là
1.875mm, phân bố không đều trong năm, mưa tập trung từ tháng 4 đến tháng 10,
mưa nhiều nhất vào tháng 8 (lượng mưa là 355,3mm), mưa ít nhất vào tháng 12
(lượng mưa là 22,7mm). Độ ẩm khơng khí bình quân năm là 86%.

+ Đất đai: Đất Feralít màu nâu đỏ phát triển trên đá mẹ Phiến thạch sét, đất
còn tính chất đất rừng, tầng đất dày, khá tốt. Diện tích này trước đây đã trồng hai
ln kì là Bồ đề và Keo tai tượng.
2.4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu tình hình sinh trưởng và năng suất của các dòng Bạch đàn uro
PN10, PN46, PN47 và dòng Keo lai tự nhiên KL2:
+ Tỉ lệ sống.
+ Sinh trưởng đường kính thân cây.
+ Sinh trưởng chiều cao vút ngọn.
+ Sinh trưởng đường kính tán lá.
+ Năng suất rừng trồng.
- Đánh chất lượng rừng trồng khảo nghiệm:
+ Độ thẳng thân cây của các mô hình khảo nghiê ̣m.
+ Phân cấp chất lượng cây trồng trong các mô hiǹ h khảo nghiê ̣m.
+ Đánh giá tình hình sâu bệnh hại cây trờ ng.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế rừng trồng khảo nghiệm.
- Đề xuấ t giố ng cây trồ ng rừng sản xuấ t ta ̣i các khu vực khảo nghiê ̣m.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp kế thừa số liê ̣u
Trong pha ̣m vi đề tài, các số liê ̣u sau đây đã đươ ̣c kế thừa để phu ̣c vu ̣ cho
nghiên cứu:
- Các số liệu về điề u kiê ̣n tự nhiên, kinh tế - xã hô ̣i của khu vực nghiên cứu.
- Các công trình nghiên cứu có liên quan tới khảo nghiê ̣m giố ng cây rừng đã
đươ ̣c thực hiê ̣n trong pha ̣m vi cả nước.


- Các văn bản pháp lý có liên quan tới quy trin
̀ h, quy pha ̣m khảo nghiê ̣m
giố ng cây rừng.
- Hồ sơ thiế t kế trồ ng, chăm sóc, bảo vê ̣ rừng đã đươ ̣c phê duyê ̣t.

- Đinh
̣ mức chi phí cho các bước công viê ̣c trong thiế t kế và thi công khảo
nghiê ̣m tính cho từng ha để phu ̣c vu ̣ tiń h toán hiê ̣u quả kinh tế .
- Các số liê ̣u đo đế m sinh trưởng, chấ t lươ ̣ng rừng trồ ng khảo nghiê ̣m đươ ̣c
thực hiê ̣n từ năm 2005 - 2008 của Viê ̣n nghiên cứu cây nguyên liê ̣u giấ y.
2.5.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Phương pháp bớ trí thí nghiê ̣m được kế thừa từ những thiết lập ban đầu của
đề tài “Khảo nghiệm mở rộng các giống tiến bộ kỹ thuật bạch đàn, Keo lai và Keo
tai tượng” do Viê ̣n nghiên cứu nguyên liê ̣u giấ y thực hiê ̣n, cu ̣ thể như sau:
- Cơng thức thí nghiệm: Là các giống tiến bộ kĩ thuật được đem ra khảo
nghiệm mở rộng, đồng thời sử dụng giống quốc gia trồng cùng để làm đối chứng.
Đối với khảo nghiệm các dòng Bạch đàn uro là các giống PN10, PN46, PN47 và
giống đối chứng PN14. Đối với khảo nghiệm các dòng Keo lai tự nhiên là giống
KL2 và giống đối chứng BV10.
- Sơ đồ bố trí thí nghiê ̣m (chi tiết xem phu ̣ lục 01): Để đảm bảo yêu cầu của
Tiêu chuẩn 04TCN-64-20031, các giống trong cùng khảo nghiệm được bố trí riêng
rẽ theo từng khối lớn có diện tích từ 0,2 ha trở lên.
- Tổng diện tích khảo nghiệm là 8,0 ha bao gồm:
+ Tại Phú Thọ: 3,0 ha rừng trồng khảo nghiệm được chia đều cho 4 dòng
Bạch đàn uro PN10, PN46, PN47 và PN14.
+ Tại Bắc Giang: 2,0 ha rừng trồng khảo nghiệm được chia đều cho 4 dòng
Bạch đàn uro PN10, PN46, PN47 và PN14.
+ Tại Tuyên Quang: 3,0 ha rừng trồng khảo nghiệm được chia đều cho 2
dòng Keo lai tự nhiên KL2 và BV10.

1

Tiêu chuẩn công nhận giống cây lâm nghiệp được ban hành theo Quyết định số 188/QĐ-

BNN ngày 23/1/2003 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn.



- Kỹ thuật trồng rừng thí nghiệm:
+ Thời gian trồng: Khảo nghiệm các dòng Bạch đàn uro tại Phú Thọ và khảo
nghiệm các dòng Keo lai tự nhiên tại Tuyên Quang được trồng năm 2005; khảo
nghiệm các dòng Bạch đàn uro tại Bắc Giang được trồng năm 2006.
+ Cây con: Được sản xuất bằng phương pháp giâm hom. Tiêu chuẩn xuất
vườn ở thời điểm 3 tháng tuổi có chiều cao đạt từ 25 - 30 cm, đường kính gốc ≥ 0,3
cm; cây xanh tốt, khỏe mạnh, không sâu bệnh, không cụt ngọn, không vỡ bầu, hệ rễ
phát triển cân đối.
+ Mật độ trồng: 1.666 cây/ha đối với tất cả các khảo nghiệm (cự li hàng cách
hàng 3,0 m, cây cách cây 2,0 m).
+ Xử lý thực bì: Phát trắng tồn diện theo lô trước khi cuốc hố trồng từ 20 30 ngày.
+ Cuốc hố: Bằng phương pháp thủ công, hố trồng có kích thước 40 × 40 × 40
cm, hố được cuốc trước khi trồng 20 - 30 ngày.
+ Bón phân: Rừng trồng các dòng Bạch đàn uro mỗi cây được bón lót 3,0 kg
phân chuồng hoai + 0,2 kg phân NPK 10.5.5 và được bón thúc 0,1 kg phân NPK
10.5.5. Rừng trồng các dòng Keo lai mỗi cây được bón lót 0,2 kg phân NPK 10.5.5
và được bón thúc 0,1 kg phân NPK 10.5.5. Bón lót phân cho rừng trồng được kết
hợp với lấp hố, thực hiện trước khi trồng rừng 8 - 10 ngày. Bón thúc cho rừng trồng
được thực hiện vào thời điểm chăm sóc lần 1 của năm thứ hai.
- Chăm sóc, bảo vệ rừng thí nghiệm:
+ Chăm sóc rừng: Được thực hiện 5 lần trong 3 năm đầu. Năm thứ nhất
chăm sóc 2 lần: lần thứ nhất sau trồng 1 - 1,5 tháng, lần thứ hai vào tháng 8 - 10.
Năm thứ hai chăm sóc 2 lần: lần thứ nhất vào tháng 3 - 4, lần thứ hai vào tháng 9 10. Năm thứ ba chăm sóc 1 lần vào tháng 7 - 8.
+ Bảo vệ rừng: Phòng trừ sâu bệnh hại, phòng chống sự phá hại của người và
gia súc được thực hiện thường xuyên trong quá trình nghiên cứu.


2.5.3. Phương pháp thu thập số liệu

Số liê ̣u về sinh trưởng và chấ t lươ ̣ng rừng trồ ng khảo nghiê ̣m từ năm 2005 2008 đã đươ ̣c kế thừa, đề tài chỉ tiế n hành đo đế m bổ sung năm 2009.
Đơn vị để thu thập số liệu là các ơ định vị (ƠĐV) có dung lượng 36 cây (6
hàng × 6 cây), được chọn đại diện trên khối thí nghiệm của mỗi giống và đảm bảo
nguyên tắc lă ̣p lại 3 lần. Các ÔĐV này đã được thiết lập từ năm đầu (2005) và sử
dụng trong suốt quá trình nghiên cứu.
Căn cứ vào các nội dung nghiên cứu, thu thập số liệu tại ÔĐV đã được thực
hiện cho các chỉ tiêu sinh trưởng và chất lượng của tất cả các cây vào cuối mùa sinh
trưởng (tháng 11 - 12) hàng năm. Phương pháp thu thập các chỉ tiêu cụ thể như sau:
- D0.0 được đo bằng thước kẹp kính, đơn vị tính là cm, độ chính xác đến 0,1
cm.
- D1.3 được tính gián tiếp thơng qua đo chu vi tại cùng vị trí bằng thước dây,
đơn vị tính là cm, độ chính xác đến 0,1 cm.
- Hvn được đo bằng thước Vertex III của Thụy Điển, đơn vị tính là m, độ
chính xác đến 0,1 m.
- Dt được đo bằng thước dây theo hai chiều (song song và vng góc với
đường đồng mức) rồi lấy giá trị trung bình cộng, đơn vị tính là m, độ chính xác đến
0,1 m.
- Độ thẳng thân cây được đánh giá thông qua mục trắc và dựa vào phân cấp
chung của ngành, độ thẳng của cây được phân 3 cấp:
+ Cấp 1: Thân cây thẳng.
+ Cấp 2: Thân cây có một vài chỗ hơi cong, nhưng đường trục thẳng từ ngọn
tới gốc chưa vượt ra ngoài giới hạn thân cây.
+ Cấp 3: Thân cây rất cong, đường trục thẳng từ gốc đã vượt ra ngoài giới
hạn thân cây.
- Phân cấp chất lượng cây được đánh giá thông qua mục trắc và dựa vào
phân cấp chung của ngành, sinh trưởng của cây được phân 3 cấp:
+ Cấp 1: Cây sinh trưởng tốt, sức sống tốt; không sâu, bệnh.


+ Cấp 2: Cây sinh trưởng bình thường.

+ Cấp 3: Cây sinh trưởng chậm, sức sống kém, bị sâu hoặc bệnh làm ảnh
hưởng đến sức sinh trưởng.
- Đánh giá mức độ sâu, bệnh hại được thực hiện ở thời điểm thu thập số liệu
và dựa vào tiêu chuẩn phân cấp hại của Nguyễn Thế Nhã và cộng sự (2001) [23]
như sau:
+ Đối với sâu bệnh hại lá:
Cấp 0

(không):

0 % diện tích lá bị hại

Cấp I

(hại nhẹ):

< 25 % diện tích lá bị hại

Cấp II

(hại vừa):

25 - 50 % diện tích lá bị hại

Cấp III

(hại nặng):

51 - 75 % diện tích lá bị hại


Cấp IV

(hại rất nặng):

> 75 % diện tích lá bị hại

+ Đối với sâu bệnh hại thân, cành, ngọn:
Cấp 0

(không bị hại):

0 % số thân, cành, ngọn bị hại

Cấp I

(hại nhẹ):

< 10 % số thân, cành, ngọn bị hại

Cấp II

(hại vừa):

10 - 25 % số thân, cành, ngọn bị hại

Cấp III

(hại nặng):

26 - 50 % số thân, cành, ngọn bị hại


Cấp IV

(hại rất nặng):

> 50 % số thân, cành, ngọn bị hại

2.5.4. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lí số liệu được thực hiện thơng qua sự hỗ trợ của chương trình Microsoft
Office Excel 2007 và phần mềm SPSS 13.0 trên máy tính, các phương pháp cụ thể
được thực hiện như sau:
2.5.4.1. Phương pháp tính tốn các đặc trưng mẫu
- Trung bình mẫu ( X ): Sử dụng để tính giá trị trung bình về D1.3, Hvn, Dt, tỉ
lệ sống, độ thẳng thân cây, phân cấp chất lượng cây…
X

1 n
 Xi
n i1

Trong đó,

(2.1)
n: dung lượng mẫu
Xi: trị số quan sát thứ i


×