LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI HÀ NỘI TRONG “VŨ BẰNG
TUYỂN TẬP” - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
Một số khái niệm cơ bản
Lối sống
Lối sống là một khái niệm đa nghĩa, tương đối khó để
cắt nghĩa và mỗi ngành nghiên cứu lại có một cách định
nghĩa cũng như cách hiểu riêng về lối sống cho phù hợp với
đặc thù và mục đích nghiên cứu của mình. Từ trước đến nay,
khái niệm “lối sống” được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau, với nhiều quan điểm khác nhau khi lý giải về nội
dung của lối sống. Chính vì thế có thể nói rằng rất khó để đưa
ra được một định nghĩa cũng như cách hiểu đúng về lối sống.
Theo từ điển Tiếng Việt, lối sống là một từ ghép bởi
hai từ đơn “lối” và “sống”. Trong đó “lối” là phương thức,
cách thức, kiểu cách, lề lối, cũng như lối suy nghĩ; còn
“sống” là hoạt động sống, sinh hoạt của mỗi cá nhân hoặc
từng cộng đồng người.
Đối với ngành nhân học, văn hóa và lối sống được
xem là hai khái niệm trung tâm, là đối tượng nghiên cứu cơ
bản. Nhà nhân học người Anh, E.B Taylor - là một trong
những nhà nhân học cuối thế kỷ XIX đã nỗ lực để đưa ra
định nghĩa về lối sống. Theo ơng, lối sống qua đó được xem
như là một bộ phận, một yếu tố quan trọng của thành tố văn
hóa. Và do đó, cốt lõi của lối sống chính là những hành vi,
ứng xử của con người thể hiện trong mối quan hệ giữa con
người với cộng đồng cũng như giới tự nhiên. Qua đó, ơng
đã đưa ra định nghĩa về lối sống. Theo đó, lối sống được
hiểu là một tổng thể phức hợp bao gồm nhiều thành tố như:
tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong
tục và những năng lực hay tập quán khác do con người có
được với tư cách là thành viên của xã hội.
Theo cách tiếp cận trên, ta có thể thấy rằng tác giả
đang đồng nhất lối sống như là văn hóa, là sản phẩm do con
người tạo ra. Lối sống ở đây gắn liền với quá trình sống của
con người, bao gồm những yếu tố của đời sống tinh thần:
văn hóa nghệ thuật, tâm linh, tơn giáo, sự ứng xử của con
người với thiên nhiên, con người với con người và với cộng
đồng rộng lớn. Lối sống là một phương thức để con người
chứng tỏ những tri thức được đúc kết qua các thế hệ, hoạt
động sinh hoạt đã giúp con người tồn tại và phát triển. Như
vậy, văn hóa chính là lối sống và lối sống lại chính là văn
hóa, hai khái niệm này không tách rời nhau. Lối sống là một
bộ phận, một cấu phần quan trọng của văn hóa. Cốt lõi của
lối sống, nếp sống chính là những hành vi, ứng xử của con
người trong mối quan hệ với cộng đồng và với tự nhiên.
Ngược lại, văn hóa sẽ chi phối, quyết định sự tồn tại, bản
sắc và sự phát triển bền vững của một cộng đồng người.
Theo cách định nghĩa trên, lối sống được hiểu là một
thói quen có định hướng, có lý tưởng. Lối sống là phương
cách thể hiện tổng thể nền văn hóa, đặc trưng văn hóa của
một con người hay một cộng đồng. Cũng theo đó, lối sống
được phân thành hai loại: lối sống cá nhân và lối sống cộng
đồng. Trong cuộc sống, con người buộc phải tuân thủ những
quy tắc nhất định, bao trùm tất cả các lĩnh vực: đạo đức,
thẩm mỹ..., dần dần được thừa nhận và trở thành thói quen,
đó là lối sống cá nhân. Còn những quy tắc nào được thừa
nhận rộng rãi trong nội bộ một cộng đồng, được tuân thủ
gần như vô điều kiện, như một lẽ đương nhiên, đó là lối
sống cộng đồng.
Theo lý thuyết “Khuếch tán văn hoá” của của Elliot
Smith và Perry cho rằng, thực chất của sự khác biệt về văn
hố, lối sống giữa các nhóm người khác nhau trên thế giới
là do sự vay mượn, khuếch tán từ nền văn hoá này sang một
nền văn hoá khác. Điều này đã xố bỏ quan điểm về sự
khác biệt có nguồn gốc từ sự sáng tạo hoặc sự phát triển của
trí tuệ con người. Chính vì vậy, sự phân biệt giữa lối sống
cá nhân và lối sống cộng đồng chỉ mang ý nghĩa tương đối,
giữa chúng cịn có sự thống nhất.
Các nhà xã hội học, tâm lý học đi tìm hiểu khái niệm
lối sống thuộc về yếu tố chủ quan, chính vì vậy nên xem xét
khái niệm lối sống như nếp nghĩ, hành vi, nếp sống nội tâm
bên trong của con người.
Dưới góc độ triết học và trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, các học giả thuộc Liên Xơ cũ có nhiều
đóng góp trong việc luận giải bản chất, đặc trưng của lối
sống. Trong cuốn “Lối sống với tư cách là một khái niệm
triết học”, V.J.Tolstykh cho rằng, lối sống là một phạm trù
xã hội chỉ “hoạt động sống cá nhân và tập đoàn của con
người, những hình thức đó nói lên đặc điểm về sự giao tiếp,
hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động,
hoạt động xã hội - chính trị, sinh hoạt và giải trí” [66, tr.6].
Mặt khác, khi nói về lối sống, V.J.Tolstykh nhấn mạnh
tính biện chứng, tức lối sống đó ln mang tính động và gắn
liền với hoạt động thực tiễn của xã hội. Mà hoạt động cơ
bản là lao động và trách nhiệm của cá nhân với xã hội, là
những nhu cầu tinh thần, hành vi trong giao tiếp ứng xử của
xã hội, tạo thành sự tương tác hoà quyện trong đời sống
hằng ngày, chứ không phải là một khái niệm thuần tuý lý
luận, kinh viện xa rời thực tế. Như vậy khái niệm lối sống
tuyệt nhiên không phải là “thuần tuý hàn lâm viện” [66,
tr.1].
Qua cách định nghĩa trên của V.J.Tolstykh, “lối sống
được nhấn mạnh ở tính hiện thực của đời sống xã hội, và cái
tính hiện thực đó có thể thay đổi theo nhu cầu thực tiễn xã
hội đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử nhất định và như vậy,
lối sống là một khái niệm mở, khơng đóng khung, chết cứng
cả khi được tồn thể chấp nhận… hồn tồn khơng hạn chế
ở chỗ khi một định nghĩa “được toàn thể chấp nhận” nào
đó” [66, tr.1]. Chỉ có như vậy, lối sống mới có thể phản ánh
được tính tồn vẹn hữu cơ các nhân tố thuộc sinh hoạt con
người trong các quá trình và hiện tượng thực tế của đời
sống xã hội. Mặt khác, lối sống theo nghĩa như vậy còn bao
hàm cả những đặc trưng và hình thức cố định. Trong tác
phẩm này, V.J.Tolstykh đã khái quát những quan niệm khác
nhau cùng thời về vấn đề lối sống: “có khi lối sống được
giải thích là phương thức vững chắc tái hiện và thoả mãn
nhu cầu xã hội. Có khi được giải thích là một bộ phận tạo
thành của cơ chế kinh tế xã hội, sự phản ánh của chế độ này
vào trong lĩnh vực xã hội, chính trị và tinh thần của đời
sống. Có khi nó được giải thích là tổng hịa các hình thức
khác nhau của hành vi cá nhân và tập đồn. Có khi nó được
giải thích là hình thức điển hình của sinh hoạt của người ta,
các điều kiện lao động và sinh hoạt của người ta, tính chất
của các quan hệ lẫn nhau của con người” [66, tr.2].
Một số ý kiến đánh giá về các quan niệm trên cho
rằng, khái niệm lối sống như vậy thì chưa phản ánh hết bản
chất thực sự của nó, khi mở rộng khái niệm này một cách
thái quá. Quan niệm nhận được sự ủng hộ từ mọi người là
“lối sống xuất phát từ các hoạt động sống cơ bản nhất của
con người đó là thực tiễn lao động sản xuất xã hội, trên nền
tảng đó xác lập các quan hệ xã hội nhất định như quan hệ
kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hoá tinh thần”.
M.N. Rutkovich - Viện sĩ Viện Hàn Lâm khoa học
Liên Xơ, “Lối sống đó là một tập hợp hệ thống, những nét
căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các
tập đoàn xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một
hình thái xã hội - kinh tế nhất định” [39, tr.12]. Hay
Kapustin cho rằng “Lối sống là kết quả tổng hợp của toàn
bộ các quan hệ xã hội - kinh tế trong một xã hội, của các
yếu tố lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng của nó
đối với con người” [39, tr.9].
Giáo trình lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của
Đảng đã đưa ra khái niệm lối sống như sau: “Lối sống là
một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của
các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân
trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong
lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người
trong sinh hoạt tinh thần và văn hố” [15, tr.190]. Khi phân
tích khái niệm lối sống này, ta thấy rằng nó đã được xem xét
dưới góc độ văn hố.
Từ những quan niệm về lối sống như trên, ta có thể
thấy điểm chung giữa chúng được thể hiện qua những điểm
như sau: một là, xem lối sống là một dạng hoạt động sống
của con người; hai là, hoạt động sống này phụ thuộc chặt
chẽ vào phương thức sản xuất và điều kiện sống của con
người; ba là, nó thể hiện đặc trưng riêng của từng cộng
đồng người.
Nếu hiểu lối sống, tức phương thức sinh sống
(modedevie) là những hình thức hoạt động sống của con
người, thì phương thức sản xuất là một mặt, và là mặt cơ
bản của lối sống. Lối sống do phương thức sản xuất quy
định. Tuy nhiên, trong cùng một phương thức sản xuất, các
giai cấp khác nhau có lối sống khác nhau. Ngoài phương
thức sản xuất ra, điều kiện sinh hoạt cũng có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến lối sống. Điều kiện sinh hoạt, theo nghĩa
rộng là tồn bộ mơi trường xã hội mà con người tồn tại và
hoạt động. Vì thế, nếu coi lối sống bao hàm trong nó tồn
bộ điều kiện sinh hoạt của con người tức là đã đồng nhất lối
sống với xã hội nói chung và loại bỏ đi tính đặc thù của
khái niệm này.
Mặt khách quan của lối sống còn thể hiện ở những
chuẩn giá trị xã hội. Chuẩn giá trị xã hội là các giá trị cốt lõi
được lựa chọn, đánh giá, xác định và cấu trúc theo những
thang bậc nhất định như những chuẩn mực chung cho đại đa
số thành viên xã hội. Giá trị xã hội thường được xếp theo
từng nhóm và ln mang tính lịch sử - cụ thể
Mặt chủ quan của lối sống, như đã nói, là ý thức của
con người trong việc lựa chọn cho mình một lối sống, dựa
trên cơ sở của một lẽ sống, một thái độ sống cụ thể, những
mục tiêu mà con người đặt ra. Mặt chủ quan này phụ thuộc
rất nhiều vào nền văn hóa, vào thế giới quan, lý tưởng sống
mà cá nhân hấp thu được... Nó làm cho lối sống trở thành tự
giác, tìm đến các giá trị, làm nên ý nghĩa của lối sống.
Chính mặt chủ quan này góp phần làm cho lối sống của các
cá nhân, các tầng lớp, các giai cấp... có sự khác nhau dẫu
trong cùng một phương thức sản xuất và cùng những điều
kiện sống, mơi trường sống. Do vậy mà có ý kiến cho rằng,
lối sống là cái xã hội trong cá nhân.
Từ các quan điểm nêu trên cũng như quan điểm của
Triết học Mác, có thể đi đến một định nghĩa tổng quát về lối
sống như sau: Lối sống là một khái niệm có nội dung tương
đối rộng, nó bao gồm quan niệm giá trị, quan niệm đạo
đức, quan niệm thẩm mỹ trên các phương diện đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của con người, từ ăn, mặc, ở, đi
lại, vui chơi,... cho đến lao động sản xuất, giao tiếp xã hội,
đối nhân xử thế,… Lối sống có thể hiểu là phương thức sinh
hoạt của các dân tộc, giai cấp và quần thể (nhóm người,
nhóm xã hội) trong mỗi giai đoạn lịch sử và điều kiện xã
hội nhất định.
Lối sống theo đó được phân loại dưới góc độ khác
nhau: Thứ nhất, căn cứ từ phương diện chủ thể, có thể chia
lối sống thành ba loại hình lớn là xã hội, quần thể (nhóm
người, nhóm xã hội) và cá nhân. Lối sống xã hội là đặc
trưng tổng thể phương thức sinh sống của toàn thể thành
viên trong xã hội đó. Từ góc độ này chúng ta có thể thấy
trong lịch sử của nhân loại đã có nhiều lối xã hội khác nhau:
Lối sống xã hội nguyên thủy, lối sống xã hội nô lệ, lối sống
xã hội phong kiến, lối sống xã hội tư bản chủ nghĩa; lối
sống xã hội xã hội chủ nghĩa;… Lối sống quần thể là một
hệ thống to lớn lối sống của các giai cấp, các tầng lớp, các
dân tộc, các nhóm nghề nghiệp, thậm chí của cả gia đình,…
Lối sống cá nhân, dựa trên góc độ đặc trưng tâm lý, khuynh
hướng giá trị, quan hệ giao tiếp, mối quan hệ giữa con
người với xã hội,… mà có thể phân chia thành lối sống
hướng nội và lối sống hướng ngoại, lối sống tích cực và lối
sống tiêu cực, lối sống độc lập và lối sống phụ thuộc, lối
sống tiến bộ và lối sống lạc hậu,…. Thứ hai, căn cứ vào các
lĩnh vực khác nhau của lối sống có thể phân chia thành các
cách thức (phương thức sinh hoạt) lao động, cách thức vui
chơi,… Thứ ba, căn cứ vào vùng khơng gian thì ngồi lối
sống thành thị và lối sống nơng thơn thì cịn lối sống của
các vùng văn hố. Thứ tư, căn cứ vào đặc trưng thời đại có
thể chia thành hai loại lớn là lối sống hiện tại và lối sống
truyền thống. Thứ năm, căn cứ theo hình thức kinh tế chủ
yếu có thể chia thành lối sống kinh tế tự nhiên và lối sống
kinh tế hàng hóa,…
Tuy nhiên chỉ có thể hiểu rõ lối sống là gì khi thấy
được sự khác nhau giữa lối sống với các khái niệm tương
tự, giáp danh với nó. Đó là:
Trước tiên, cần phân biệt lối sống với nếp sống. Đối
với vấn đề có rất nhiều quan điểm khác nhau, trong đó nổi
bật là hai quan điểm sau. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếp
sống, lẽ sống là bộ phận của lối sống: nếp sống là một bộ
phận của lối sống được lặp đi lặp lại thành nếp, thành thói
quen, nghĩa là được định hình, được xác lập thành một nét
văn hoá, được các cá nhân và cộng đồng thừa nhận, làm
theo và được quy định thành điều ước (quy ước hay hương
ước) hoặc pháp luật” [65, tr.36 - 37]. Nguyễn Viết Chức
cũng cho rằng, “So với lẽ sống và nếp sống, phạm vi của lối
sống rộng hơn rất nhiều. Lối sống là toàn bộ hoạt động của
con người... và nếp sống là mặt ổn định, trở thành thói quen
như là có tính bản năng của nó” [13, tr.18]. Khác với quan
điểm này, một số người lại cho rằng nếp sống đồng nghĩa
với lối sống hình thành nên quan điểm thứ hai.
Lê Như Hoa là một tác giả cũng đồng tình với quan
điểm này và cho rằng “Nếp sống là mặt ổn định của lối
sống, là một bản năng của lối sống. Cho nên khi nói đến
nếp sống tức là nói đến một lối sống nhất định”. Trong Văn
kiện của Đảng cũng có sự đồng nhất giữa lối sống và nếp
sống: “Kiên trì xây dựng nếp sống mới lành mạnh, khoa
học tiết kiệm và giản dị, bảo vệ và phát triển các giá trị tinh
thần. Kiên quyết bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, tiếp tục đấu
tranh quét sạch văn hoá thực dân mới và ảnh hưởng của các
loại văn hoá phản động, đồi truỵ khác. Tất cả những điều đó
nhằm làm cho tư tưởng tình cảm, lối sống mới thật sự
chiếm ưu thế trong đời sống nhân dân”
Thứ hai, phân biệt lối sống với mức sống
Khi bàn về mối liên hệ giữa “lối sống” và “mức sống”,
một số các tác giả cũng như các nhà nghiên cứu đã cho
rằng, “mức sống là điều kiện quan trọng nhất cho hoạt động
sống của con người bởi vì nó quy định việc con người có
thể phát triển và áp dụng năng lực của mình, thoả mãn nhu
cầu của mình như thế nào và đến mức nào” [29, tr.14].
Đồng tình với quan điểm này, E.I. Kapustin cho rằng, “mức
sống cho ta một ý niệm ít nhiều đầy đủ về thu nhập thực tế
và tiêu dùng các của cải vật chất, và các dịch vụ của nhân
dân và của từng người. Khái niệm mức sống cũng chỉ ra
trình độ thoả mãn các nhu cầu của nhân dân. Cơ sở để xác
định được sự thoả mãn này là sự tiêu dùng thực phẩm cần
thiết, tiêu dùng hợp lý về quần áo, giày dép, đồ dùng gia
đình, văn hố phẩm. Tóm lại, mức sống nói lên trình độ vật
chất và văn hoá mà con người được hưởng” [29, tr.21].
Đúng là mức sống là điều kiện quan trọng cho hoạt động
sống của con người. Tuy nhiên, mức sống không phải là
điều kiện duy nhất quyết định lối sống, càng không thể
đồng nhất hai khái niệm này, điều này phản ánh thực tại là
có thể tăng mức sống nhưng chưa chắc đã có một lối sống
tốt hơn hoặc cùng một mức sống nhưng chưa chắc đã có
một lối sống như nhau. Do vậy, mức sống chỉ là mặt “khách
quan” của lối sống trong khi đó khái niệm lối sống bao hàm
tất cả mọi quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị, tinh thần, văn
hoá, đạo đức... Thực tế đã chứng minh rằng, mức sống có
thể ngang nhau nhưng lối sống hồn tồn khác nhau. “Khái
niệm mức sống chỉ phản ánh phúc lợi của dân cư và mặt
tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần và kết quả của tiêu
dùng ấy” [38, tr.15]. Sự khác nhau giữa khái niệm “lối
sống” và “mức sống” là ở chỗ, trong khi mức sống có thể có
sự biến động lớn và có những thay đổi nhanh chóng, thì lối
sống lại có tính ổn định tương đối lớn và những thay đổi về
lối sống nói chung diễn ra chậm hơn.
Thứ ba, phân biệt lối sống với lẽ sống.
Khi phân biệt lối sống và lẽ sống, các nhà nghiên cứu
đã cho rằng, nếu như lối sống là tồn bộ hoạt động của con
người thì lẽ sống được xem là mặt ý thức của lối sống, thể
hiện lối sống ở khía cạnh tinh thần mà thơi. Lẽ sống có vai
trị định hướng, chỉ đạo cho lối sống, tạo nên những thói
quen, trở thành nề nếp trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Lẽ
sống chính là sự lựa chọn chủ quan của con người về một
lối sống, vì vậy một lẽ sống đúng đắn sẽ là tiền đề cho một
lối sống tốt. Vì lẽ sống là mặt ý thức của lối sống, lẽ sống
đề cập đến mục đích, ý nghĩa của cuộc sống chứa đựng một
lý tưởng sống, ý chí khát vọng của con người trong xã hội.
Như vậy, lẽ sống không trực tiếp là hoạt động sống của con
người mà lẽ sống thuộc mặt tinh thần của lối sống mang
tính chất định hướng cho lối sống...
Lối sống của người Hà Nội
Thứ nhất, khái niệm về người Hà Nội. Người Hà Nội
từ lâu đã đi vào rất nhiều áng thơ văn cũng như những cơng
trình nghiên cứu, khảo cứu để rồi trở thành sự bất tử về hình
ảnh trong lịng người. Vậy “người Hà Nội” là ai, những ai
mới được gọi là người Hà Nội?
Trong cuốn sách “Hà Nội - con người, lịch sử, văn
hoá”, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, tác giả đã đưa ra khái
niệm về người Hà Nội. Theo đó là những người vốn được
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này từ trước cho đến nay,
cùng với đó là những người đi theo Lý Thái Tổ khi ông ban
chiếu dời đô từ Hoa Lư Thăng Long - Hà Nội. Đây được
xem như một quan niệm đúng khi định nghĩa về người Hà
Nội nhưng lại chưa cụ thể. Để làm sáng tỏ khái niệm
“người Hà Nội”, các tác giả của cơng trình “Hình ảnh
người Hà Nội trong văn học, nghệ thuật cận và hiện đại",
đã kế thừa và bổ sung quan điểm của cơng trình trên và đưa
ra đưa ra quan niệm về “người Hà Nội”. Theo đó, người Hà
Nội khơng chỉ gồm những người sinh ra và lớn lên trên
mảnh đất Hà Nội nghìn năm văn hiến này mà cịn có những
người khác đến nhập cư ở Hà Nội.
Tuy nhiên nếu nói như thế thì bất kỳ ai được sinh ra hay
thậm chí sống ở Hà Nội cũng được gọi là người Hà Nội hay
sao. Nếu hiểu như vậy thì đó quả là một nhầm lẫn nghiêm
trọng. Theo đó, khơng phải bất kỳ ai làm việc ở Hà Nội, sống
và nhập cư vào Hà Nội đều là “người Hà Nội”. Chỉ những
người nhập cư nhưng họ đã sống, làm việc ở Hà Nội đủ dài,
để có thể “hồ nhập lối sống và cách cảm, cách nghĩ của cư
dân gốc Hà Nội” thì mới được gọi là người Hà Nội. Và thời
gian “đủ dài” ấy ít nhất là một đời người. Tuy nhiên, các tác
giả nói trên cũng thừa nhận một thực tế là có những người
nhập cư vào Hà Nội chưa quá một đời, nhưng do tài năng
bẩm sinh và sự phù hợp với vùng đất ấy, đã nhanh chóng nổi
lên, làm nên sự nghiệp nổi tiếng và lưu truyền sử sách Hà
Nội, sự nghiệp của họ gắn liền với Hà Nội, có ý nghĩa đối với
xã hội và con người Hà Nội. Và họ được coi là “người Hà
Nội”. Từ đó, ta có thể thấy, người Hà Nội là những con
người được sinh ra và lớn lên ở Hà Nội cũng như những
người đến đây lập nghiệp. Nhưng tất cả họ đều phải có cách
cảm cách nghĩ của cư dân Hà Nội gốc.
Bên cạnh đó, có một số người sinh ra và lớn lên ở Hà
Nội, được tiếp xúc với nền văn hoá Hà Nội ngay từ nhỏ và
chịu ảnh hưởng của nền văn hố ấy. Nhưng lại phải rời xa
Hà Nội vì một lý do nào đó, tuy nhiên cốt cách Hà Nội ấy
vẫn khơng thay đổi thì họ vẫn được gọi là người Hà Nội.
Như vậy, có thể thấy rằng “người Hà Nội” sẽ không được
định nghĩa nếu không gắn liền với yếu tố về nơi sinh, cũng
như thời gian sống ở Hà Nội. Cũng như trong cuộc sống
khơng có chân lý nào là mãi mãi tuyệt đối vì vậy khơng thể
cứng nhắc quy định là phải sống ở Hà Nội bao nhiêu đời
mới được coi là người Hà Nội. Cũng như vây, yếu tố nơi
sống cũng rất quan trọng, nhưng cũng không thể một mực
khẳng định rằng bất kỳ ai sống xa Hà Nội thì đều khơng
phải người Hà Nội.
Thứ hai, lối sống của người Hà Nội. Từ khái niệm về lối
sống cũng như khái niệm về người Hà Nội, ta có thể thấy rằng,
lối sống của người Hà Nội chính là những quan niệm giá trị,
quan niệm đạo đức, quan niệm thẩm mỹ của “người Hà Nội”
trên các phương diện đời sống vật chất và đời sống tinh thần
của mình, từ ăn, mặc, ở, đi lại, vui chơi,… cho đến lao động
sản xuất, giao tiếp xã hội, đối nhân xử thế,… Lối sống người
Hà Nội sẽ biến đổi cùng với sự thay đổi của các điều kiện tự
nhiên cũng như những yếu tố thuộc về mặt xã hội như kinh tế,
văn hoá, lịch sử…
Cơ sở hình thành lối sống của người Hà Nội trong
“Vũ Bằng tuyển tập”
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến
lối sống của người Hà Nội trong “Vũ Bằng tuyển tập”
Thứ nhất, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và khí hậu.
Hà Nội nằm trên vùng đất bồi tụ, ở trung tâm của đồng
bằng Bắc Bộ, trên trục đồng bằng tam giác vùng châu thổ
sông Hồng và các phụ lưu của nó tạo thành. Ngay từ hàng
triệu năm trước khi biển lấn sâu vào đất liền, trải qua thời
gian cùng với quá trình kiến tạo địa chất của thế giới đã bồi
đắp phù sa cho mảnh đất nơi đây. Vì vậy trong khung cảnh
ấy, Hà Nội được coi như một vùng đất cao ở giữa, xung
quanh là thung lũng, bãi lầy, đầm hồ thậm chí là rừng rú.
Nói như vậy, không phải để chỉ Hà Nội là một vùng đất
trống, trơ trọi mà ngược lại đây còn là một điều kiện thuận
lợi cho giao thương, hội tụ. Bao quanh dải đất này là hệ
thống các con sông, cụ thể là ba con sông lớn “Nhị Hà
quanh Bắc sang Đơng/ Kim Ngưu, Tơ lịch là sơng bên này”.
Về phía Đơng, dịng Nhị Hà (sơng Hồng) hợp với hệ thống
sơng Tô Lịch - Kim Ngưu tạo thành những hào nước bảo vệ
hữu hiệu. Ngồi ra về phía Tây, đỉnh núi Ba Vì cũng taọ
thành tấm khiên lớn che chắn cho đô thị này.
Với vị trí như vậy, Hà Nội đã trở thành đầu mối giao
thông trọng điểm, tạo điều kiện mở mang giao thông cũng
như phát triển thương mại, tổ chức đời sống đơ thị. Từ đó,
Hà Nội đã thu hút người dân từ nhiều vùng đến định cư sinh
sống. Làm cho lối sống của người Hà Nội ngoài những nét
riêng biệt đặc trưng vốn có, giờ đây có sự giao lưu, tiếp thu
từ lối sống của các nền văn hoá khác, tạo nên sự đặc sắc
hơn bất cứ nơi đâu. Cũng với vị trí trung tâm của mình trung tâm của vùng núi phía Bắc, Hà Nội phải đương đầu
với một môi trường tự nhiên đầy sự biến đổi, thời tiết thay
đổi thất thường theo mùa, khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều,
thường xảy ra lũ lụt, vỡ đê… Và để chống chọi được với sự
khắc nghiệt của thiên nhiên này, buộc họ phải gắn kết với
nhau. Do vậy, hình thành nên lối sống cố kết, tính đồng cam
cộng khổ, khoan hịa, đồn kết mạnh mẽ.
Hà Nội ngồi chịu ảnh hưởng chính từ tính chất nóng,
ẩm của khí hậu nhiệt đới mà cịn chịu ảnh hưởng trực tiếp
của khí hậu gió mùa từ biển Đơng thổi vào. Do đó, mùa hè
gió mùa Nam - ẩm và mát mẻ thổi tới, còn mùa đơng là các
đợt gió mùa Đơng Bắc - lạnh và khơ hanh thổi vào. Thời
tiết Hà Nội cũng vì thế mà chia làm bốn mùa rõ rệt. Mùa
đơng thì rét như cứa da cứa thịt lại kèm theo mưa phùn gió
bấc càng làm cho khơng khí trở nên lạnh và cóng hơn rất
nhiều nhưng cũng để lại nhiều ấn tượng. Chẳng thế mà
người Hà Nội xa quê hương thường nhớ nhất cái rét mùa
đông nơi đây, “rét căm căm”, “rét thấu xương”, “tháng
giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân”…
Trái ngược với mùa đông, mùa hè xứ Bắc ấm áp hơn nhiều,
cây cối đâm chồi nảy lộc, trăm hoa nở rộ khoe sắc hương,
tiếng chim râm ran khắp nơi. Những cơn mưa xuân qua đi
để đến với cái nóng oi bức, ngột ngạt của mùa hè Hà Nội,
nhưng lại được làm dịu mát bởi những cơn mưa rào như trút
nước. Cũng từ đó, cái nóng oi nồng chuyển sang cái mát
mẻ, dễ chịu; cái nắng gay gắt chuyển sang chút nắng nhẹ
nhàng. Chính bởi vậy, mùa thu Hà Nội được coi là mùa dễ
chịu nhất trong năm. Bốn mùa của Hà Nội đã đi vào nỗi
nhớ của nhà văn Vũ Bằng và được thể hiện trong “Thương
nhớ mười hai” “mười hai tháng của mười hai cuộc đổi thay
tiết trời, mười hai sự rung động uyển chuyển của năm
tháng, của chim muông, của cảnh đẹp, của hoa lá, của thân
u, tình tứ. Trong đó, mỗi tháng lại có những cái đẹp não
nùng riêng, những nỗi nhớ riêng…” [4, tr.10]. Với điều kiện
khí hậu như vậy, đã hình thành trong con người Hà Nội một
văn hoá ứng xử vừa hồ thuận lại vừa ứng phó với sự biến
đổi của thiên nhiên. Đồng thời cũng góp phần hình thành
nên dấu ấn trong văn hoá ẩm thực Hà Nội.
Thứ hai, về kinh tế - xã hội
Mỗi nền kinh tế được đặc trưng bởi một phương thức
sản xuất. Lối sống gắn liền với phương thức sản xuất, cho
nên mối quan hệ giữa kinh tế và lối sống là mối quan hệ
mật thiết. Mỗi cơ chế kinh tế mới cũng là một yếu tố làm
nảy sinh những hành vi mới, lối sống mới của con người.
Nói khác đi, kinh tế là cơ sở, điều kiện cho sự hình thành lối
sống.
Điều kiện kinh tế - xã hội luôn là một lợi thế của miền
đất Thăng Long - Hà Nội. Từ việc lượng lớn dân cư từ nơi
khác kéo đến đây sinh sống thì ngay từ thế kỷ XV, các làng
nghề thủ cơng nghiệp đã xuất hiện và phát triển mãi cho đến
tận thế kỷ XIX như nghề nhuộm, thuộc da, đúc bạc, đúc
đồng, kim hồn… Bên cạnh đó, Hà Nội cịn thiết lập được
mối liên hệ mật thiết, trao đổi hàng hoá, sự đối thoại thường
trực về kinh tế, xã hội với các làng ven đơ và phụ cận.
Chính điều đó đã cung cấp cho Hà Nội những nguồn nhân
lực chất lượng cao, ưu tú từ các địa phương về tập trung tại
đơ thành làm nền tảng cho những kích thích sản xuất công
nghiệp và những hoạt động thương nghiệp. Cùng với nó, là
sự tích tụ vốn và chuyển giao cơng nghệ, kỹ thuật, kinh
nghiệm, bí quyết, tạo nên sự kết tinh, chắt lọc con người,
phương tiện và điều kiện tốt nhất cho kinh doanh, góp phần
hình thành chất lượng, uy tín. Tuy nhiên, kéo theo đó là lề
thói sống, nếp suy nghĩ của người Hà Nội cũng có sự ảnh
hưởng.
Điều kiện lịch sử - văn hóa ảnh hưởng đến lối sống
của người Hà Nội trong “Vũ Bằng tuyển tập”
Hà Nội là vùng đất địa linh nhân kiệt, từ bao đời nay
vẫn luôn được xem là trung tâm chính trị, trung tâm văn hoá
của cả nước. Ngay từ năm 1010, vùng đất này đã được vua
Lý Thái Tổ lựa chọn làm kinh đô cho triều đại của mình và
đặt tên là Thăng Long với ý nghĩa mong muốn kinh thành
ngày càng phồn thịnh như rồng bay lên. Thăng Long được
đổi tên thành Hà Nội với ý nghĩa là trung tâm của đồng
bằng Bắc Bộ, bao quanh bởi các sông Nhị Hà, Tô Lịch,
Kim Ngưu. Lịch sử Việt Nam được lưu dấu ấn với các thời
kỳ Lý, Trần, Lê cũng ở nơi đây và ngày nay là thủ đô của
nước Việt Nam.
Hà Nội - nơi lưu giữ dấu ấn ngàn năm văn hiến, với
bao trang lịch sử của dân tộc, từ đó hình thành nên một nền
văn hóa với sự hội tụ và kết tinh của khắp mọi miền đất
nước. Bởi vậy, Hà Nội chứa đựng một hệ thống các giá trị
văn hóa vật thể, phi vật thể vơ cùng phong phú, đa dạng và
mang đậm bản sắc của người Tràng An. Đầu tiên, đó là hệ
thống các lễ hội dân gian mang tính cổ truyền, màu sắc lịch
sử của người Hà Nội. Rồi những tục lệ, hương ước gắn liền
với khơng gian làng xóm, được lưu truyền bằng chữ Hán và
chữ Nơm cho đến bây giờ. Ngồi ra, người Hà Nội còn gắn
liền với sự thanh lịch từ ứng xử, ăn uống, đi lại. Ngồi
những giá trị văn hóa trên, Hà Nội cịn giữ số lượng lớn các
di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc cách mạng như bảo tàng,
rạp hát, thư viện, hiệu sách, rạp chiếu bóng… Chính điều
này đã làm cho Hà Nội có sự đặc biệt trong văn hố.
Những di tích lịch sử, đền chùa cổ ở Hà Nội tương đối
nhiều, được xây dựng qua các thời kỳ khác nhau, mang tính
biểu tượng trong đời sống văn hóa tâm linh của người Hà
Nội. Có giá trị lớn nhất phải kể đến thành cổ Thăng Long,
một hình ảnh mang tính biểu tượng cao cho sự tồn tại của
một kinh đô được xây dựng hàng ngàn năm trở về trước. Nó
độc đáo cả về quy mơ lẫn kiến trúc nghệ thuật. Bên cạnh
đó, khơng thể khơng nói đến thành Cổ Loa - một thành cổ
nhất ở Đông Nam Á, gắn liền với sự tích về thần Kim Quy.
Ngồi những di tích lịch sử đó, phải kể đến các các ngơi
chùa cổ có giá trị về mặt lịch sử cũng như văn hoá, thể hiện
đời sống tinh thần của tín đồ Phật tử. Đó là chùa Một Cột,
chùa Đơng, chùa Bà Tấm, Thăng Long tứ trấn… đều biểu
hiện sự độc đáo về kiến trúc. Biểu tượng cho nền giáo dục
nước nhà, Văn Miếu Quốc Tử Giám được coi là trường đại
học đầu tiên và lâu đời nhất của nước ta khi có thời gian tồn
tại từ năm 1070. Văn Miếu còn biểu tượng cho truyền thống
hiếu học, thái độ trân trọng cũng như một hình thức tơn
vinh những bậc hiền tài, minh đức của dân tộc. Theo thời
gian, hàng loạt các di tích văn hoá xuất hiện như đền Ngọc
Sơn, cầu Thê Húc, chùa Trấn Quốc, đền Quán Thánh, chùa
Quán Sứ... Tên gọi của 36 phố phường xuất phát từ nơi sản
xuất và tiêu thụ các mặt hàng như Hàng Bạc, Hàng Đường,
Hàng Nón, Hàng Chiếu, Hàng Quạt,… Hà Nội có các nghề
thủ công nổi tiếng như tranh Hàng Trống, gốm Bát Tràng,
thêu Yên Thái, đúc đồng Ngũ Xã, hoa Ngọc Hà…
Tinh hoa văn hóa của đất kinh kỳ cịn là những di sản
văn hóa phi vật thể có trữ lượng lớn, phản ánh một cách
phong phú, đa dạng và chân thực truyền thống sinh hoạt văn
hóa của người Hà Nội. Tuy con người ở Hà Nội là từ các
nơi hội tụ. Nhưng ở trong môi trường này, trong điều kiện
kinh tế - xã hội, văn hóa ở đây, thì những người từ nhiều nơi
ấy lại mang đặc điểm chung của người Hà Nội. Đây cũng là
nơi thu hút nhân tài và là nơi tạo nên các nhân tài. Có thể kể
đến: Lý Cơng Uẩn, Lý Thường Kiệt, Ỷ Lan, Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh Không, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Trần Nhật Duật,
Nguyễn Gia Thiều, Ngơ Thì Nhậm, Hồ Xn Hương,
Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát... Mỗi nhân tài ấy lại để lại
cho đời sau một tấm gương và nhân cách tiêu biểu để con
cháu đời sau học tập và noi theo.
Hà Nội là một tiểu vùng văn hóa tâm điểm của văn
hóa vùng đồng bằng sơng Hồng. Nơi đây hội tụ tất cả
những gì đặc biệt, tinh tú của bốn phương đất nước, tạo
thành nét đặc trưng riêng và rồi lan tỏa mạnh mẽ đến các
vùng xung quanh. Đây cũng được xem như vùng văn hóa
đầu tiên và duy nhất ở phía Bắc, sau phát triển thành trung
tâm văn hóa lớn nhất cả nước, tồn tại bên cạnh hai trung
tâm - ở hai miền Trung, Nam. Có thể thấy, Thăng Long - Hà
Nội chính là nơi khởi phát và hồn mỹ của vùng văn hóa