LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI HÀ NỘI TRONG VŨ BẰNG
TUYỂN TẬP
Phong tục, tập quán của người Hà Nội trong “Vũ Bằng tuyển
tập”
Một khía cạnh trong lối sống của người Hà Nội được
Vũ Bằng nhắc tới đó chính là “phong tục tập quán”. Phong
tục tập quán gắn liền với một quốc gia, một dân tộc, một tộc
người, thể hiện phương thức sinh hoạt gắn với chủ thể đó.
Vì vậy giữa các dân tộc, vùng miền khác nhau lại có những
phong tục tập quán riêng. Hà Nội với một bề dày lịch sử
cũng như văn hố của mình, cho nên đã có rất nhiều những
phong tục tập quán được hình thành từ ngàn đời xưa.
“Phong” theo nguyên nghĩa Hán Việt là những điều được
người trên đặt ra, khởi xướng để những kẻ dưới phải noi
theo, tuân theo cho dù muốn hay không để rồi thành thói
quen, và như gió hịa vào và lan đi như một lẽ tự nhiên. Cịn
“tục” là thói “bắt chước” của người dưới đối với người trên,
lâu dần trở thành thuộc. Nói gọn lại thì “người trên cảm hóa
người dưới gọi là phong, người dưới tập nhiễm gọi là tục”
(Thượng sở hóa viết phong, hạ sở tập viết tục). Khái niệm
phong tục này mang màu đặc trưng Nho giáo, thể hiện tính
giai cấp rõ ràng khi người đề xướng bao giờ cũng là giai
cấp phong kiến, quý tộc - giai cấp thống trị, trong khi người
tuân theo luôn là quần chúng nhân dân - giai cấp bị trị. Tuy
ảnh hưởng nhiều từ Nho giáo Trung Hoa cổ đại nhưng quan
niệm về phong tục tập quán của người Việt lại được gắn liền
và cụ thể với tính tồn dân. Phong tục tập qn theo đó là
những lề thói quy định cách sống của cá nhân cụ thể, một
đơn vị dân cư trong mối tương quan với toàn bộ xã hội, đất
nước. Thành ngữ Việt Nam có câu: “Đất lề quê thói” - lề
thói tức phong tục của cộng đồng, làng xã. Còn tập quán
gắn liền với tính lặp lại, những thái độ, hành vi được lặp đi
lặp lại nhiều lần, ăn sâu vào tiềm thức, tâm lý trở thành thói
quen ổn định tương đối lâu dài trong nếp sống của một cá
nhân hoặc một khối cộng đồng người trong một địa phương,
một dân tộc thường gọi là tập quán - tức thói quen.
Phong tục, tập quán là sản phẩm của xã hội cho nên nó
được sinh ra từ các mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên (đất, nước, sông, núi..); con người với con người…
Chính vì vậy, phong tục, tập qn biểu hiện trên khắp các
lĩnh vực của đời sống, từ các tập tục, lễ tiết, vòng đời của
mỗi cá nhân, đến các nghi lễ thờ cúng Thành Hoàng, thờ
cúng tổ tiên, thờ Mẫu…. Từ đó có thể thấy, phong tục tập
quán của người Hà Nội cũng chính là nét đặc trưng trong
văn hoá của con người Hà Nội, gắn liền với mảnh đất Hà
Thành.
Phong tục, tập quán của người Hà Nội cũng được thể
hiện dưới nhiều góc độ, các mặt khác nhau. Nếu như Tơ
Hồi nói về Hà Nội xưa qua hội, hè đình đám, cưới hỏi, tảo
mộ, giỗ, tết… Thì với Vũ Bằng, ơng dành một tình cảm đặc
biệt với Hà Nội qua những ngày tết, chính vì vậy những
sinh hoạt phong tục, tập quán của người Hà Nội đều được
ông gắn liền với Tết. “Tết không chỉ là khoảnh khắc của sự
chuyển mùa, của tiết thời tuần hoàn theo lẽ tự nhiên của vũ
trụ mà cịn là một kí ức văn hóa ln gắn với tâm thức con
người mà ở đó văn hóa phong tục, tập quán ngày Tết để lại
dấu ấn sâu đậm nhất” [46, tr.253]. Qua các phong tục, tập
quán của người Hà Nội, ta đã hiểu hơn một phần nào đó về
lối sống của họ.
Thứ nhất, phong tục tập quán của người Hà Nội thể
hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, hướng về cội nguồn
của người Việt Nam. Tất cả mọi sự vật tồn tại trong vũ trụ,
thiên nhiên cũng như xã hội đều có nguồn gốc sinh thành
của mình. Cũng như sự tồn tại của con người cũng vậy,
khơng chỉ nhờ sự tiến hố về mặt sinh học mà trong đó
cũng chứa đựng những sự tiếp thu từ những thành tựu của
lịch sử để hồn thiện bản thân. Chính vì vậy, bất cứ một
điều gì cũng có ngun nhân của nó, cũng như “cây phải có
gốc, sơng phải có nguồn, núi cao bởi có đất bồi, ăn quả nhớ
kẻ trồng cây, khơng thầy đố mày làm nên, chim có tổ, người
có tơng…”. Từ lẽ đó, việc tưởng nhớ và khắc ghi công lao
của tổ tiên là một lẽ tự nhiên và cần được lưu giữ. “Uống
nước nhớ nguồn” không những thể hiện lịng biết ơn, tưởng
nhớ cơng ơn của con người với tổ tiên của dịng họ, mà hơn
thế nó cịn đối với cả làng cũng như đối với dân tộc cũng
vậy. Vì thế, là một phần máu xương của nước Việt, tiếp thu
nhiều giá trị của mảnh đất Hà Nội. Vì vậy những phong tục,
tập qn ấy khơng chỉ ăn sâu vào tâm thức Vũ Bằng mà đã
trở thành nỗi ám ảnh của vô thức và tâm linh, được thể hiện
sinh động qua những trang viết của ông.
Phong tục thờ cúng tổ tiên đã đi vào đời sống tinh thần
của người Hà Nội như một giá trị đạo đức, đồng thời cũng
là một giá trị văn hóa. Vũ Bằng nói rằng “về quê ăn tết
không chỉ là ăn tết, mà người ta trở về là để thăm mộ gia
tiên, thắp hương bàn thờ, khấn vái ông bà, thăm họ hàng,
làng nước. Và trong một ý nghĩa nào đó cịn là trở về để tỏ
lòng biết ơn với các đấng sinh thành cũng như tự ý thức về
sự tồn sinh của bản thân trong mối quan hệ với tông tộc, với
gia đình” [46, tr.253]. Tết mà khơng về q “là khơng ăn
tết, khơng ăn tết thì khơng n tâm được. Có ai bắt buộc họ
đâu, nhưng họ cứ về, vì cách gì trong một năm họ cũng phải
trở về nhìn lại bàn thờ, ngôi mộ, cây cau, cúng ông bà, thăm
họ hàng làng nước một lần, mà lần đó phải là ngày Tết” [46,
tr.254]. Tết là khoảng thời gian cả gia đình được quây quần
và tụ họp với nhau, cùng nhau nhìn lại một năm đã qua và
chào đón một năm mới tốt lành, đồng thời tết cũng là cơ hội
để hướng đến cội nguồn, nhớ đến tổ tiên, cùng nhau thắp
nén hương để tỏ lịng thành kính cùng với sự biết ơn của
con cháu.
Sẽ khơng có gì đặc biệt nếu như không phải tháng ba,
người Hà Nội không cùng nhau làm bánh trôi, bánh chay để
dâng lên ông bà tổ tiên. Tháng ba trong tết Hàn thực, mọi
người kiêng dùng lửa và ăn đồ lạnh “Tháng ba, có tết Hàn
thực kiêng dùng lửa” [46, tr.204]. Mặc dù tết Hàn thực được
bắt nguồn từ Trung Quốc nhưng khi du nhập vào Việt Nam
lại mang đậm bản sắc riêng của người Việt. Điều đó được
thể hiện ở việc mọi người làm bánh trôi và bánh chay thể
hiện sự ý thức về nguồn cội sâu sắc. Bánh trôi, bánh chay
cũng là quan niệm của người Việt về sự tích mẹ Âu Cơ,
bánh trôi tượng trưng cho năm mươi người con theo mẹ lên
núi còn bánh chay tượng trưng cho năm mươi người con
theo cha xuống biển. Dù cách biệt về địa lý nhưng tất cả
mọi người dân Việt Nam đều cùng chung một tổ tiên, nguồn
cội, vì vậy ln gắn bó u thương nhau khăng khít như ý
nghĩa của bánh trơ, bánh chay: sự dẻo dai của lớp vỏ bánh,
tình nghĩa như vị ngọt ngào của nhân bánh. Tuy hiện nay,
việc tự tay làm bánh trơi, bánh chay khơng cịn phổ biến
như trước, thay vào đó là việc mua sẵn nhưng họ vẫn ln
mang lịng thành kính để dâng lên tổ tiên. Vì vậy, tết Hàn
thực đối với người Hà Nội xưa hay người Hà Nội hiện nay
vẫn luôn mang ý nghĩa đặc biệt, góp phần lưu giữ truyền
thống tốt đẹp của dân tộc qua bao đời nay - đạo lý uống
nước nhớ nguồn.
Bên cạnh đó, đạo lý uống nước nhớ nguồn của người
Hà Nội còn được Vũ Bằng đặc biệt phác hoạ qua Lễ Vu Lan
hay còn gọi là tết Trung Nguyên, được người dân tổ chức
vào ngày rằm tháng bảy hàng năm “Tết cả năm không bằng
rằm tháng bảy”. Đây là đại lễ báo hiếu ông bà, cha mẹ, tổ
tiên - một tập tục đáng quý của người Việt. Theo như kinh
Vu Lan của đạo Phật “bà Thanh Đề - mẹ của Bồ tát Mục
Kiền Liên khi sống gây nhiều tội ác nên khi chết bị đày
xuống địa ngục làm quỷ đói. Ơng dùng mắt thần biết được
sự việc nên vơ cùng đau lịng, đã đem cơm xuống địa ngục
dâng mẹ. Tuy nhiên, khi bà Thanh Đề đưa cơm lên miệng,
đồ ăn đều hóa thành lửa đỏ. Mục Kiền Liên đau xót, cầu
khấn Đức Phật chỉ cách cứu mẹ. Đức Phật dạy, chỉ có hợp
sức của chúng tăng vào ngày rằm tháng 7 mới mong cứu
được mẹ. Mục Kiền Liên làm theo và đã giúp bà Thanh Đề
được giải thốt”. Chính vì vậy mà ngày rằm tháng bảy hằng
năm các đền chùa, miếu mạo đều làm chay chạy đàn, phá
ngục cho các tội nhân. Tục gọi là tết Vu lan. Mọi nhà cũng
đều làm lễ cúng bái rất thành kính vì tin rằng ngày đó là
người ở dưới âm, vong nhân xá tội cho những người quá
cố” [46, tr.214]. Lễ Vu Lan là một trong “tứ đại trọng ân”
của nhà Phật, ân lớn nhất là ân cha mẹ, kế đến là ân Tam
Bảo Sư trưởng, rồi đến ân quốc gia xã hội và cuối mới đến
ân chúng sinh nhân loại. Đây là ngày mà tất cả những người
con dành tình cảm, sự báo đáp cơng ơn dành cho bố mẹ đã
sinh thành và dưỡng dục mình. Ngồi ra, đây còn là dịp để
con cháu nhớ tới ơn của ông bà, tổ tiên, những người hy
sinh cho dân tộc. Đồng thời cùng nhau hướng về cội nguồn.
Ngày nay trong ngày lễ Vu Lan, mỗi người thường được cài
lên áo một bông hoa hồng. Với ai may mắn được cài bơng
hồng màu đỏ thì được nhắc nhở hãy cố gắng hết lịng vâng
lời, hiếu kính, lễ phép với cha mẹ. Còn người cài hoa trắng
sẽ thấy như một sự nhắc nhở không bao giờ quên ơn cha
mẹ, đồng thời giữ nề nếp gia phong anh em hịa thuận.
Hành động này, góp phần tăng thêm ý nghĩa văn hóa cho lễ
hội này, nhất là để con cái nhớ về cha mẹ dù còn hay mất.
Thứ hai, phong tục tập quán người Hà Nội “Đề cao
giá trị của tổ ấm gia đình”.
Hình ảnh trăng từ trước đến nay ln được trưng cho
sự bình n, vẻ thanh bình. Trăng càng trịn, càng sáng bao
nhiêu thì hạnh phúc càng viên mãn bấy nhiêu. Một năm
mười hai tháng, tháng nào cũng có trăng nhưng khơng mùa
trăng nào lại đẹp và sáng như rằm tháng tám. Chính vì vậy,
trong quan niệm của người Việt rằm tháng tám chính là thời
điểm để mọi người cùng nhau ngắm cảnh thiên nhiên, ăn
bánh, uống trà còn trẻ em được rước đèn, phá cỗ. Tết Trung
thu trong văn hoá người Việt đều mang những giá trị chung,
đều có những đặc trưng chung “sao cứ đến Trung thu ở Bắc
cũng như Nam, nhà hát nào cũng đưa vở tủ “Đường Minh
Hoàng du Nguyệt điện” để chài người đi xem; còn hàng
bánh dẻo, bánh nướng thập cẩm, đậu đen, hạt sen trứng
muối, ôi thôi hàng nào mà khơng có một bức tranh thật lớn
vẽ ơng vua mê gái đó lúng liếng con mắt nhìn Dưng Q
Phi hay làm thành hình đen cho chạy đèn kéo quân để hấp
dẫn nhiều người bu lại” [4, tr.85]. Tuy đều mang ý nghĩa
đoàn viên nhưng tết Trung thu ở hai miền cũng có những
điểm khác biệt: “miền Nam, đồng bào ăn tết Trung thu kể
đã vui đáo để, nhưng khơng có những khu hoàn toàn tết.
Mua một cái đèn con thỏ, ở Chợ Lớn có, ở Sài Gịn cũng có
cả cái tàu chạy trong thau nước, có đầu sư tử, có ở đường
Thủ Khoa Huân có mà ở Nancy cũng có; có đèn quả đào, có
cả ngựa nghẽo bằng nilơng nữa… nhưng ở Bắc thì khơng
thế” [4, tr.85]. Tết Trung thu ở miền Nam cũng rực rỡ sắc
màu, cũng ngập tràn ánh sáng của những đồ chơi làm bằng
giấy. Nhưng không khí của tết Trung thu ở đây khơng giống
như Bắc Việt - Hà Nội “Từ đầu tháng tám, các phố Hàng
Gai, Hàng Hài, Hàng Mã, Hàng Hịm, Hàng Thiếc, Hàng
Bơng, Hàng Trống hoá trang một cách kỳ diệu đến nỗi làm
cho du khác không thể nào nhận ra được nữa. Các hàng tạp
hoá, hàng sách, hàng giấy, hàng tơ lụa, nhất nhất đều thu cả
hàng hoá lại một chỗ để bày bán tồn những đồ chơi tháng
tám. Ơi chao, sao mà lắm kiểu đèn thế, đèn quả dưa, đèn
xếp, đèn trái trám, đèn con thỏ, đền kéo quân, đèn thiềm
thừ, đèn ông sao”. Trong khi người lớn sắp lễ để lễ trời, lễ
phật thì trẻ con rộn vang cùng tiếng trống và múa sư tử
trước sân, rồi cùng nhau nghe trống quân. Như vậy, có thể
thấy Tết Trung thu của người Hà Nội gắn liền với đặc trưng
của những con phố mà chỉ riêng Hà Nội mới có, 36 sáu phố
phường là 36 khung cảnh rực rỡ. Tết Trung thu là thời điểm
để gắn kết mọi người lại với nhau, cha mẹ với con cái, anh
chị em với nhau, siết chặt mối quan hệ gia đình và mong
ước về một mái ấm bình an.
Bên cạnh đó, “Sự thờ cúng ông Táo và sự tiễn đưa ông
Táo lên trời trong hôm hai mươi ba tháng Chạp chứng tỏ
rằng người mình lúc ấy đã tổ chức thành gia đình nhỏ, mà
cái bếp của ông Táo là tượng trưng cho gia đình, cái bếp là
đơn vị nhỏ nhất của xã hội. Cái gia đình ấy, cái đơn vị ấy
đồng nhất từ Bắc vào Nam cho nên khơng có kẻ nào chia rẽ
được Nam với Bắc” [46, tr.247]. Tục này nguồn gốc từ sự
tích “Vua bếp”. Cũng theo truyền thuyết kể rằng: “Hằng
năm, Táo quân được ông Trời phái xuống trần gian theo dõi
và ghi chép việc làm thiện ác của lồi người và sau đó cứ
vào ngày 23 tháng chạp hằng năm, Táo quân lại cưỡi cá
chép hoá rồng lên thiên đình để báo cáo. Đến đêm giao thừa
mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi bếp lửa gia
đình”. Chính vì vây, hằng năm người Hà Nội, cũng như
người Việt nói chung đều cúng ơng Táo vào ngày 23 tháng
chạp. Tuy nhiên giữa các miền cũng có sự khác nhau trong
ngày này, Vũ Bằng nói “ơng Táo ở Bắc, hôm hai mươi ba
tháng chạp, lên chầu trời cưỡi một con cá chép thì cũng
ngày ấy ở Trung, ơng Táo cưỡi một con ngựa n cương
chĩnh chạc, cịn ở trong Nam thì giản dị hơn, đồng bào ta
cúng ơng một cặp giị để cho ơng đi lên Thiên Đình cho lẹ!”
[4, tr.147]. Qua đó, thấy được sự khác nhau trong tết ơng
Cơng ơng Táo giữa các miền. Người Hà Nội trong ngày đó
lại làm lễ cúng cá chép. Cá chép thả trong chậu nước, sau
khi cúng xong thì được đem phóng sinh ở ao hồ, sơng ngịi.
Bởi lẽ, người Hà Nội quan niệm rằng “cá vượt vũ mơn” hay
“cá chép hóa rồng” tượng trưng cho sự thăng hoa, biểu
tượng của tinh thần vượt khó, sự kiên trì, sức mạnh chinh
phục tri thức để đi tới thành công, biểu trưng cho nhân cách
thanh cao tiềm ẩn hoặc hướng đến một kết quả tốt đẹp. Với
xã hội hiện nay, khi những sự thay đổi trong lối sống đã,
đang và sẽ làm rạn nứt sợi dây kết nối trong tình cảm gia
đình, thì qua phong tục tết này đã làm con người phải suy
nghĩ nhiều hơn về việc giữ gìn văn hố, truyền thống của
gia đình.
Thứ ba, phong tục tập quán của người Hà Nội thể
hiện “khát vọng về một cuộc sống an lành, hạnh phúc”. Sự
bình an cũng như may mắn trong cuộc sống là điều mà bất
kỳ một ai cũng khao khát có được nhất là trong tâm thức
của người Việt Nam. Với một điều kiện tự nhiên nhiều khó
khăn, thiên tai, lũ lụt ảnh hưởng khơng hề nhỏ đến đời sống
con người, từ lao động sản xuất cho đến sinh hoạt vật chất,
tinh thần, thậm chí cướp đi cả tính mạng bản thân. Chính vì
vậy, người Việt Nam ln mong ước một cuộc sống n
bình, mọi việc suôn sẻ. Quan niệm này trong phong tục của
người Hà Nội, được thể hiện ở việc đi lễ chùa đầu năm.
“Mỗi khi đến tháng giêng, trên khắp mọi ngôi chùa, đền
cũng như miếu ở Hà Nội, sẽ chẳng khó để bắt gặp hình ảnh
đồn người tấp nập đổ xơ vào bên trong để dâng hương lễ
Phật. Nhất là đối với những ngơi chùa lớn, có lịch sử lâu
đời thì lại càng được đông đảo mọi người lui tới hơn” [46,
tr.176]. Có thể kể đến như Phủ Tây Hồ, Chùa Trấn Quốc,
Thăng Long tứ trấn…. Chính vì vậy, tháng giêng được ví
như tháng mà người Hà Nội “dành ra trước là để lễ Phật,
sau là lễ tổ tiên ông bà. Người sống cảm thông với người
chết trong tháng ấy, lấy tâm tư mà nói chuyện với nhau, lấy
đạo lý mà khuyên bảo, dạy dỗ nhau cách nào cho vẹn đạo
làm người, chớ thấy giàu mà ham, chớ vì sang mà bỏ nghĩa,
chớ vì cầu an mà làm tơi cho người ngồi” [46, tr.176]. Đi
lễ chùa đầu năm trở thành một nét đẹp trong phong tục tập
quán của người Hà Nội, cũng như người Việt. Bởi lẽ Phật
giáo ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến tâm thức người Việt, khi
người ta khát khao sự an lành trong tâm hồn. Đến với cửa
Phật từ bi để gột rửa những tội lỗi phàm tục mà bản thân đã
gây ra, xin được Đức phật từ bi hỉ xả tha thứ cho những lầm
lỡ. Đồng thời, để gạt bỏ đi những điều không may trong
năm cũ và hy vọng mong ước vào một năm mới hạnh phúc.
Đến với không gian thanh tịnh của chốn phật đường, tạm
quên đi những vất vả trong cuộc sống mưu sinh, lặng nghĩ
về mọi việc, sự đời. Cho đến hôm nay, người Hà Nội vẫn
luôn giữ được sự trang nghiêm, thành kính khi bước chân
đến chốn cửa Phật linh thiêng. Chất Hà Nội dường như vẫn
luôn được bảo tồn.
Cũng với mong ước về cuộc sống an lành mà người
Hà Nội có tục đi hái lộc, xin xăm, xin quẻ đầu năm để biết
“kiết hung”. Vũ Bằng nói “cái Tết đẹp nhất, mê ly nhất
chính là ở vào giây phút thần tiên đó. Lát nữa, cúng kiến
trời đất tổ tiên xong rồi, người vợ thoa tí phấn, điểm một
giọt hồng lên má rồi bận cái áo nhung màu hoa sim cùng
chồng và con mở cửa đi ra đền Ngọc Sơn, rẽ sang đình
Hàng Trống, đi lên Hồ Tây, vào đền Quán Thánh, lễ giao
thừa, rồi người thì cầm cành lộc, người cầm hương lộc, đi
thong thả về nhà, sự mê ly còn gấp trăm gấp ngàn lần nữa”
[46, tr.252]. “Lộc” là sức sống, sự tươi trẻ, tràn đầy, gợi về
một sự tái sinh, một sự bắt đầu đang chớm nở. Chính vì vậy,
cùng với ước mong về sự hạnh phúc, sau khoảnh khắc giao
thời của năm cũ và năm mới, mọi người lại có tục đi xin lộc
để cầu có được sức khoẻ dồi dào, dẻo dai như các lồi cây
đang sinh sơi, nảy lộc. Lộc được xin tại các đình, chùa, lựa
chọn một cành lộc non, tuỳ vào loại cây thì lại mang ý
nghĩa riêng. Nếu là đa, sung, si sẽ mang đến cho gia chủ
những điều tốt đẹp nhất. Còn lộc được hái từ một trong bốn
loại cây tứ quý - tùng, cúc, trúc, mai - tượng trưng cho
người qn tử thì cả gia đình sẽ có nhiều niềm vui, hạnh
phúc cũng như sức khoẻ. Với một ý nghĩa tốt đẹp, tục hái
lộc đầu năm này của người Hà Nội cho đến ngày nay vẫn
được bảo tồn và giữ nguyên giá trị của nó. So với một số
địa phương, thì tục này đã có những sự biến chất nhất định
khi phá huỷ khung cảnh chùa chiền, để tranh giành lộc.
Hành động này đã phản lại tính chất cũng như giá trị thiêng
liêng của việc hái lộc đầu năm. Tục xin xâm, ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống tinh thần của người Hà Nội:
“Nhưng tất cả cái đó đều khơng màu nhiệm bằng việc xin
xâm. Có ai đứng xem những nguời xuýt xoa lễ bái xin
“Ngài” một quẻ đầu năm để biết “kiết hung”, theo dõi từ lúc
lấy xâm cho đến lúc nhờ thầy đoán thẻ xong rồi, mới biết ở
đời chỉ một câu nói, một nụ cười, một mảnh giấy không to
bằng bàn tay mà có thể tạo vui, buồn, sướng, khổ cho người
ta nhiều quá.” [46, tr.262]. Có phải họ q cảm tin hay
khơng, q mê tín đó hay khơng. Có lẽ có nhưng chỉ là một
phần, họ sống với khát khao được hạnh phúc, một cuộc
sống an lành cho gia đình, những điều tốt đẹp sẽ đến với
mọi người thân của họ cho nên họ luôn đặt ra hy vọng “Tôi
đã thấy những ông mặt trông ngổ ngáo run lên như tờ lá khi
biết là mình đã xin phải quẻ xấu “mọi việc đều không nên”;
nhưng trái lại, lại có những cơ mặn mà mắt lé, cười tươi đáo
để khi cầm một quẻ thẻ “thượng” Ngài bảo cho biết là trong
năm sẽ khỏi bịnh, người đi xa sẽ trở về và gặp lại “lương
duyên” [46, tr.262].
Và để được sống hạnh phúc, người ta không chỉ cầu
mong điều phúc mà cịn biết kiêng những điều dữ “khơng
được qt nhà vì sợ đuổi thần tài ra khỏi cửa, không được
đánh vỡ chén bát để tránh đổ vỡ suốt năm, không được
khâu vá vì kim chỉ tượng trưng cho cơng việc làm ăn vất
vả” [4, tr.156]. Vũ Bằng nói tuy tục này khơng ai biết chính
xác thời gian xuất hiện nhưng người Hà Nội khi ấy ln tin
và kiêng “Có từ lúc nào cũng được, nhưng tựu trung thì
cũng chẳng có hại gì, vì tin Thần Đất như thế cũng như thờ
cúng ông bà cha mẹ, ai cũng phải nhận là một tục hay mà
người phương Tây không thể cho là dị đoan mê tín” [4,
tr.157]. Tất cả điều này được xuất phát từ tín ngưỡng thờ
thần đất, từ cuộc sống nơng nghiệp, phụ thuộc vào thiên
nhiên mà hơn cả đó là đất, chính vì vậy tín ngưỡng thờ
Thần Đất đã ra đời. Theo đó “Họ tin rằng trong khơng, thời
gian mà Thần Đất vắng mặt trên trần thì khơng ai được
động chạm đến đất như cày bừa, cuốc xới đất lên hay giã
gạo làm cho vang động đất. Ngày Tết, do đó cịn có ý nghĩa
đón sự trở về của thần đất: người ta chờ lúc cây cối đâm
lộc, nảy mầm, muôn vật trở lại cuộc sống bình thường, chỉ
sợ vì một cớ gì bí mật, khơng phồn thịnh và khơng sản xuất
như xưa nữa. Họ tin rằng nếu khơng kiêng kỵ thì thần Đất
khơng phù hộ cho lồi người và sẽ làm cho cây cối, con
người, xúc vật, của cải không thể nào phát triển” [4, tr.157].
Qua đó có thể thấy, đã có nhất nhiều phong tục tập
quán của người Hà Nội đã có sự biến đổi, và phần nào đó
đã làm mai một những giá trị nguyên vẹn của nó. Tuy nhiên
như đã nhắc tới ở trên thì lối sống khơng có định mà nó
thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện. Chính vì vậy, sự
biến đổi trong lối sống trong phong tục tập quán của người
Hà Nội là một tất yếu. Từ những sự biến đổi này, cần đặt ra
câu hỏi về vấn đề bảo tồn.
Văn hóa ẩm thực của người Hà Nội trong “Vũ Bằng tuyển
tập”
Hà Nội được xem như cái nôi của sự hội tụ và kết tinh
những giá trị tinh hoa từ những cái ngàn xưa cho đến hiện
tại. Những ai đã từng đến Hà Nội hay cho dù Hà Nội chỉ là
hình ảnh tồn tại trong tâm thức qua những trang sử của thời
gian, hoặc trong hy vọng của chính mình. Hà Nội ln là
hình ảnh phản chiếu của một vùng đất ưu tú nhất, với những
gì được xem là tinh tú nhất. Trong đó, văn hố ẩm thực
chính là một phần trong lối sống của người Hà Nội.
“Ẩm thực” theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa chính là
ăn uống, là hoạt động để cung cấp năng lượng cho con
người. Ẩm thực là một trong những nhu cầu cơ bản của con
người để duy trì cũng như phát triển sự sống. Cũng như
Mác đã từng nói rằng “người ta phải có khả năng sống đã
rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì
trước hết phải có thức ăn, thức uống, nhà cửa, quần áo và
một vài thứ khác nữa” [14, tr.39 - 40]. Ẩm thực với con
người không chỉ là nhu cầu để đáp ứng cho sự tồn tại mà
ẩm thực còn trở thành một nét văn hố của một vùng miền
hay một dân tộc nào đó, và nó được nâng lên thành văn hố
ẩm thực. Văn hóa ẩm thực theo đó được hiểu là những tập
quán, khẩu vị của con người, những ứng xử của con người
trong ăn uống cho đến những phương thức chế biến, trình
bày và cách thức thưởng thức món ăn. Hiểu và sử dụng
đúng các món ăn sao cho có lợi cho sức khỏe nhất của gia
đình và bản thân, cũng như thẩm mỹ là mục tiêu hướng tới
của mỗi con người. Văn hóa ẩm thực hiểu rộng hơn thì nó
cịn là một phần văn hóa nằm trong tổng thể, phức thể, các
đặc trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, trí thức, tình cảm,
khắc họa một số nét cơ bản, đặc sắc của một gia đình, làng
xóm, vùng miền, quốc gia, dân tộc. Nó chi phối một phần
khơng nhỏ cách ứng xử, giao tiếp tạo nên đặc thù của cộng
đồng ấy. Trên bình diện văn hóa tinh thần, văn hóa ẩm thực
là cách ứng xử, giao tiếp trong ăn uống và nghệ thuật chế
biến thức ăn, ý nghĩa biểu tượng, tâm linh. Như vậy, con
người đã nâng vấn đề ẩm thực lên thành văn hóa, phạm trù
nghệ thuật. Ẩm thực khơng chỉ là sự tiếp cận về góc độ văn
hóa vật chất mà cịn chứa đựng trong đó văn hóa tinh thần,
bản sắc của từng dân tộc. Văn hóa ẩm thực góp phần quan
trọng trong cơng cuộc bảo tồn và giữ gìn những nét truyền
thống của mỗi địa phương, mỗi quốc gia trong thời kỳ hội
nhập. Như vậy, có thể thấy văn hóa ẩm thực cùng với những
yếu tố khác đã tham gia tích cực vào việc phản ánh bản sắc
văn hóa dân tộc.
Vì vậy, có thể nói văn hố ẩm thực chính là một phần
trong lối sống của con người, cho nên văn hoá ẩm thực Hà
Nội cũng là sự phản ánh tốt nhất cho con người Hà Nội trên
phương diện lối sống. Viết về văn hoá ẩm thực Hà Nội sẽ
thật thiếu sót khi khơng nhắc đến những tên tuổi lớn như
Băng Sơn, Thạch Lam, Nguyễn Tn và một Tơ Hồi với
những trang viết bất hủ của mình đã làm bừng sáng một
khía cạnh quan trọng trong di sản văn hóa của người Hà
Nội ta về nghệ thuật ăn uống. Nhưng hơn cả, văn hố ẩm
của người Hà Nội dưới ngịi bút của Vũ Bằng lại được hiện
lên trọn vẹn một cách đặc biệt. Vũ Bằng đã khắc hoạ nét
đẹp văn hoá - lịch sử trong mỗi miếng ăn của người Hà Nội
“Ai đã bảo ăn uống là một nghệ? Hơn thế ăn uống là cả một
nền văn hoá đấy” [46, tr.125]. Qua đó, có thể thấy Vũ Bằng
đã nhận ra được cội rễ sâu xa của vẻ đẹp văn hoá ẩm thực,
của mỗi miếng ngon là tinh hoa sáng tạo của cả dân tộc đúc
rút qua bao thế hệ: “Ăn một miếng ngon của đất nước thấy
bừng lên ở trong lịng một mối hạnh phúc, vì đã được ăn
vào trong mình một chút gì của đất nước, một tinh tuý
truyền từ năm, tháng nọ sang tháng, năm kia” [46, tr.127].
Sự tự hào ấy xuất phát từ cách ăn “đã đi đến chỗ tinh vi,
triệt để, khơng dễ gì các nước vỗ ngực là văn minh, mà
cũng khơng dễ gì các nước có một nền văn hố hai ba trăm
năm đã biết ăn như vậy”. Qua con mắt chiêm ngưỡng, tấm
lòng nhung nhớ của Vũ Bằng, miếng ngon Hà Nội khơng
cịn thuần t là chuyện ẩm thực nữa mà đã thành nghệ
thuật. Nghệ thuật ẩm thực của người Việt mang tính tổng
hợp cao cả trong cách chế biến lẫn cách ăn.
Trước tiên, trong cách chế biến, các món ăn của người
Hà Nội là sự kết hợp của nhiều loại nguyên liệu, thực phẩm,
gia vị với màu sắc, hương vị khác nhau, hoà quyện vào
nhau thể hiện rõ sự cân bằng âm dương ngũ hành.
Văn hoá ẩm thực Hà Nội là sự kết tinh của nền văn
hoá ẩm thực Việt Nam mà đặc biệt là nền ẩm thực Bắc Bộ.
Cho nên, ẩm thực Hà Nội mang những nét chung của ẩm
thực Việt Nam và do đó nó được đặc trưng bởi tính hịa
đồng, sự đa dạng trong các món ăn cũng như cách chế biến;
sự đặc biệt trong hương vị bởi sự gia giảm các loại gia vị
cũng như cách ăn thành mâm, sử dụng đũa và cơm là món
ăn chính.
Từ quan niệm của người Việt, mọi sự vật đều có âm
dương hồ quyện tạo nên bản chất của sự vật, là nguyên tắc
tạo nên sự cân đối, hài hòa của đời sống. Trong đó, “âm”
đặc trưng bởi sự tối tăm, nét mềm mại cũng như tính thụ
động, còn “dương” biểu hiện cho vẻ tươi sáng, sự cứng rắn
và chủ động. Cho nên, ăn uống cũng không nằm ngoài sự
tác động của triết lý này. Chẳng hạn như tục ăn trầu, âm
dương hài hoà khi kết hợp một thức dương - cau (cây thẳng,
hướng lên trời) với thức âm - vơi (đá là hình phẳng). Cũng
như Tết có bánh chưng - trời, dương; bánh dày - đất, âm.
Các dụng cụ dùng trong ăn uống như mâm, bát, đũa…đều
mang ý nghĩa biểu trưng cho cân bằng âm dương. Trong đó,
các dụng cụ có hình trịn như mâm, bát, đĩa là âm, cịn đơi
đũa dài và động là dương.
Là xứ kinh kỳ, với những điều kiện thuận lợi từ việc
tiếp xúc văn hoá cho đến sự đặc biệt của khí hậu. Chính vì
vậy, văn hố ẩm thực Hà Nội cịn thể hiện sự hài hồ, biện
chứng ở sự cân bằng âm dương và ngũ hành tương sinh. Sự
cân bằng này được thể hiện qua ba mặt: sự cân bằng âm
dương trong việc kết hợp các nguyên liệu trong món ăn; cân
bằng âm dương giữa cơ thể con người với món ăn; cân bằng
âm dương với mơi trường thiên nhiên.
Thứ nhất, cân bằng âm dương trong sự phối kết hợp
các nguyên liệu trong các món ăn. Trong chế biến món ăn,
người Hà Nội coi trọng luật âm dương bù trừ và chuyển hoá
trong việc kết hợp các nguyên liệu, thực phẩm với nhau để
vừa lợi cho sức khoẻ lại ngon miệng. Cụ thể, một món ăn
ngon về bản chất phải chứa đựng cả hai trạng thái âm dương cho cân bằng “cứ có rươi là có qt; rươi và qt
cùng tốt đơi; khơng có món rươi nào mà lại có thể làm
khơng vỏ quýt” [4, tr.105]. Hay “Ăn một bữa cháo ám mà
thiếu thì là, cải cúc thì ra trị gì? Thưởng thức một bữa mắm
tôm chua, mà về gia vị không tìm được mấy cánh là bạc hà
hay một chút rau thơm, nhất định không thể nào tồn bích.
Cũng vậy, người nội trợ muốn làm ăn khéo tay đến mấy đi
nữa, mà canh dưa nấu lạc thiếu rau diếp và mùi tô điểm, hay
ăn cuốn mà không có giấm cái, bún thang mà không có
mắm tôm, thì cũng không thể làm cho ta mãn nguyện” [46,
tr.164]. Người Hà Nội ngay từ xưa đã ý thức rất rõ về việc
cân bằng, cũng như sự hài hồ trong các thức ăn của mình,
dần dà trở thành văn hoá chế biến hết sức tự nhiên, khơng
gị bó. Khi ngun liệu mà khơng hài hồ thì khó lịng mà
tạo nên một món ăn ngon về mặt hương vị cũng như tốt về
mặt sức khoẻ cho con người.
Ngoài ra, trong chế biến, sự cân bằng âm dương cịn
được thể hiện qua sự hài hồ về màu sắc, hương vị tương
ứng với ngũ hành. Theo học thuyết âm dương ngũ hành
“thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ
tượng sinh bát quái”. Theo đó, ngũ hành được sinh ra từ hai
khí âm dương, tương ứng với năm yếu tố cấu thành vạn vật
trong thế giới, đó là: Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ. Các
yếu tố đó vừa tương sinh lại tương khắc với nhau. Nếu
chúng tương sinh thì sẽ hỗ trợ, nâng đỡ nhau cùng nhau
phát triển theo hướng có lợi, ngược lại nếu tương khắc sẽ
triệt tiêu lẫn nhau, phá huỷ nhau. Theo đó, khi xem xét về
nguyên liệu để chế biến, tính chất của thực phẩm sẽ được
căn cứ như sau: hàn - tính lạnh, âm nhiều, thuộc thủy; nhiệt
- tính nóng, dương nhiều, hành hỏa; ơn - tính ấm, dương ít,
hành mộc; lương - tính mát, âm ít, hành kim; bình - trung
tính, hành thổ. Hoặc dựa vào vị của thực phẩm: chua - mộc,
đắng - hỏa, ngọt - thổ, cay - kim và mặn - thủy. Đó chính là
nguồn gốc để lý giải cho miếng ăn của người Hà Nội khi có
sự kết hợp đầy đủ của ngũ chất, ngũ vị, ngũ sắc. “Một nhúm
phở, một tí hành hoa thái nhỏ, điểm mấy cọng rau thơm
xanh biêng biếc, mấy nhát gừng thái mượt như tơ, mấy
miếng ớt mọng vừa đỏ màu hoa hiên, vừa đỏ sẫm như hoa
lựu” [46, tr.24]. Bằng tình yêu của mình với Hà Nội, Vũ
Bằng đã phác hoạ lên hình ảnh một tơ phở bị chứa đựng
đầy đủ triết lý ẩm thực của người Hà Nội: màu trắng chủ
đạo của bánh phở; màu xanh biếc của hành lá, rau thơm;
màu vàng mỡ gà của mấy lát gừng rồi màu đỏ của ớt chín,
thêm một chút nước dùng sóng sánh trong vắt. Khơng chỉ
hài hoà về màu sắc mà ngay cả trong hương vị khi “vừa có
cái mềm của thịt bị tái màu hồng nhạt, cái dẻo của bánh
phở trắng, cái cay dìu dịu của lát gừng vàng, hạt tiêu đen,
cái cay xuýt xoa của ớt đỏ, cái thơm nhè nhẹ của hành hoa
thơm nhạt, cái thơm hăng hắc của rau thơm xanh đậm, vị
chua thanh của chanh và hòa hợp tất cả lại là nước phở
dùng được nấu từ xương” [46, tr.132]. Với những điều kiện
thuận lợi, cũng như đặc trưng riêng về địa lý, ẩm thực Hà
Nội có thể nói là sự kết tinh đầy đủ nhất những giá trị của
triết lý âm dương. Khác với ẩm thực Hà Nội - ẩm thực Bắc
Bộ, ẩm thực miền Trung với khí hậu khắc nghiệt - nắng như
đổ lửa, thiêu cháy cây cỏ, mưa tầm tã như trút nước, đất trời
ít có sự dung hoà hơn nên ẩm thực miền Trung đặc trưng
“Chặt to, kho mặn”, các món ăn vị đậm, nồng hơn nhưng
cũng đơn giản hơn. Hay như món bún riêu “Bún óng mướt,
chan riêu nóng lên trên, lấp la lấp lánh màu gạch cua sắc
tím điểm những chấm vàng kim nhũ li ti giữa vài cái dong
cà chua hồng tái; rồi gia thêm một tí mắm tôm vào, ăn với
rau diếp non thái nhỏ như sợi chỉ xanh.” [46, tr.114]. Có thể
nói triết lý âm dương ngũ hành trong ẩm thực Hà Nội được
thể hiện rõ nhất trong các món bún, phở bởi sự đa dạng về
nguyên liệu mà ta có thể nhìn thấy ngay được. Như vậy, sự
phối hợp các nguyên liệu và phương thức nấu nướng của
người người Hà Nội chính là sự tuân thủ luật tương sinh
Ngũ hành một cách nghiêm ngặt.
Thứ hai, cân bằng âm dương trong cơ thể con người
qua thức ăn. Ăn uống trước giờ luôn được người Hà Nội
xem như một phương pháp, một vị thuốc để điều tiết sự mất
cân bằng âm dương trong cơ thể. Nếu như cơ thể mất cân
bằng âm dương, trường hợp âm nhiều thì cơ thể sẽ có
những biểu hiện như ln cảm thấy lạnh hơn bình thường,
sự bất thường trong nhịp tim với số nhịp giảm, ăn uống,
tiêu hố trở nên khó khăn. Ngược lại với trường hợp dương
nhiều, thì cơ thể thấy nóng hơn, ra nhiều mồ hôi, tim đập
nhanh. Bởi vậy, nếu cơ thể khơng được cân bằng âm dương
thì cuộc sống, sức khoẻ sẽ khơng được đảm bảo “có sức
khoẻ là có tất cả”. Theo nguyên tắc cân bằng âm dương thì
người bệnh do khí âm thì nên ăn nhiều những thực phẩm
tính dương, cịn ngược lại những người bệnh do sự dư thừa
khí dương trong cơ thể thì nên bổ sung thực phẩm âm
nhiều. Ví dụ những người bị táo bón nên ăn các món ăn từ
các loại chè đậu, cịn người bị tiêu chảy thì ăn nhiều thực
phẩm chứa riềng, gừng. Người Hà Nội đã sử dụng thực
phẩm để giữ gìn sức khoẻ “cái vỏ quýt thì quả dùng được