Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

TƯ TƯỞNG SINH THÁI TRONG THƠ THƠ và gửi HƯƠNG CHO GIÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.28 KB, 57 trang )

TƯ TƯỞNG SINH THÁI TRONG THƠ THƠ VÀ
GỬI HƯƠNG CHO GIÓ

Thiên nhiên – nơi trú ngụ đầy chất thơ
Nơi chứa đựng vẻ đẹp và sự sống thực tại
Trong giai đoạn đầu, sự phê phán chủ nghĩa “nhân loại
trung tâm” trong tư tưởng học thuyết phương Tây của phê
bình sinh thái đôi khi bị đẩy tới cực đoan. Thơ mới đánh
dấu sự lên tiếng mạnh mẽ của cái tôi cá nhân và đối tượng
trung tâm, hay còn gọi là xung lực của nó là cái tơi cá nhân.
Quan điểm này khiến nhiều người nghi ngại về việc nhìn
nhận Thơ mới từ góc độ sinh thái, bởi dường như nó mâu
thuẫn với bản chất của “thời đại thi ca” này. Thế nhưng, cái
tơi cá nhân trong Thơ mới liệu có thể tạo nghĩa nếu nó nằm
ngồi sự tác động của tự nhiên ? Cảm hứng lãng mạn tìm
đến những nơi chốn của tinh thần, và trong đó thiên nhiên là
một “nguồn” quan trọng. Phê bình sinh thái chú ý tới vấn đề
nơi chốn bởi đã nhận ra sự kết nối, tương giao giữa đời
sống con người và mơi trường vật lí. Thế nhưng, đi vào văn
học, sinh thái cịn là mơi trường của tinh thần và ngôn từ
với sức mạnh của riêng nó có khả năng đào sâu nơi chốn đó


trong tâm hồn con người. Thiên nhiên là nơi trú ngụ khơng
chỉ của thể xác mà cịn tâm hồn, là nơi “tơi” soi chiếu chính
mình. Do đó, đặt cái tơi cá nhân trong thế giới tự nhiên
không làm mất vị thế của nó, mà góp phần tạo nên những
nét nghĩa mới, tránh việc nhìn nhận phiến diện về quan
niệm trung tâm của thơ lãng mạn, cho rằng con người là
thước đo vạn vật và làm chủ tự nhiên.
Trong thơ Xuân Diệu, chất thơ của thế giới tự nhiên là nơi


trú ngụ của tâm hồn thi sĩ, nơi tác giả tái hiện vẻ đẹp phong
phú, sự chuyển mình của tự nhiên và tìm thấy mình ở trong
“ngơi nhà” ấy. “Chất thơ” (thi vị) thường được hiểu là một
khía cạnh của cảm hứng thẩm mĩ nhân văn, gắn liền với cái
đẹp. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, cái đẹp ấy có thể do
tự nhiên mang lại như cảnh mây trắng bay trên bầu trời xanh
thẳm, tạo ra cảm giác dễ chịu cho người ngắm nhìn, đồng thời
có thể tạo ra “từ tình cảm, hành động của con người như sự
nhớ nhung, sự uyển chuyển của các điệu múa”. Từ góc nhìn
sinh thái, thế giới tự nhiên trong thơ Xuân Diệu gắn liền với
quan niệm thẩm mỹ, cảm quan tự nhiên và được khắc họa, tôn
lên qua cách sử dụng từ ngữ, vần điệu...
Như vậy, chất thơ trước hết phải xuất phát từ chính vẻ
đẹp vốn có của đối tượng. Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu


không phải một khách thể, là nền của cái tôi, mà nhiều lần ở
vị trí trung tâm, được tái hiện trong vẻ đẹp phong phú, tổng
hòa của âm thanh, ánh sáng, màu sắc, mùi hương…Vẻ đẹp
thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu gắn liền với bước đi của
thời gian, nó là vẻ đẹp của thực tại, khơng phải trong hồi
niệm q vãng, cũng khơng phải mộng tưởng xa vời và siêu
hình:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn bng xuống lệ ngàn hàng,
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Đây mùa thu tới)
Thiên nhiên trong thơ Xn Diệu khơng nằm ngồi sự
đan bện chặt chẽ giữa những yếu tố của âm thanh: tiếng

chim hót, màu sắc của hoa tươi, ánh sáng của nắng xuân,…
Sự ảnh hưởng của phương Tây tới Thơ mới đã chi phối tới
cách cảm nhận về thế giới tự nhiên trong thơ Xuân Diệu.
Viết về thiên nhiên không phải sự tả lại đơn thuần bằng
ngơn từ, nó thể hiện nhịp điệu của tự nhiên, những khoảnh
khắc tế vi khó nắm bắt. Càng đi sâu vào những chi tiết nhỏ


bé, vẻ đẹp của tự nhiên càng trở nên chân thực. Bức tranh
mùa xuân trong thơ Xuân Diệu đã được nghiên cứu, nhắc
đến nhiều lần như một đặc trưng trong thơ Xuân Diệu, đặc
biệt trong tập Thơ thơ, nó được thi sĩ tái hiện một cách nổi
bật với những hình ảnh bướm chim, hoa trái, nắng gió,…
“Ánh sáng bao ơm trùm những ngọn cao
Cây vàng rung nắng lá xôn xao
Sao buổi đầu xuân êm ái thế !
Đem đụng cành mai sát cành đào”
(Nụ cười xuân)
Bức tranh mùa xuân đại diện cho sức sống mạnh mẽ,
rạo rực của thiên nhiên. “Chất thơ” của tự nhiên với Xuân
Diệu thời kì đầu là vẻ đẹp sống động, trạng thái hòa quyện,
gắn kết của những sinh thể. Khác với thơ ca trung đại, thiên
nhiên được ngợi ca với cảnh điền viên, tĩnh tại, là nơi lánh
trú của tâm hồn nhà nho, đồng thời là phương tiện biểu đạt
lối sống thanh cao, tự tại: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người
khơn người đến chốn lao xao”(Nguyễn Bỉnh Khiêm), nhịp
điệu của tự nhiên trong thơ Xuân Diệu thường là sự chuyển
mình mạnh mẽ, ấn tượng hóa các thanh sắc:



“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
(Đây mùa thu tới)
Trong những buổi đầu xuất hiện trên thi đàn, cách dùng
từ của Xuân Diệu mang đậm ảnh hưởng phương Tây. Sự
kiếm tìm tự do trong hình thức biểu hiện nói lên khát khao
biểu đạt những tình điệu riêng của con người Thơ mới.
Thiên nhiên vẫn là nơi bao bọc cho tâm hồn nghệ sĩ như
quy luật cổ xưa, nhưng cách nhìn, cách khám phá chất thơ
của tự nhiên lại phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi tạng tâm
hồn. Ở đây, thiên nhiên được tập trung miêu tả trong sự vận
động và ở ngay thực tại, trong cõi thực. Đây là điều khác
biệt của thế giới tự nhiên trong thơ Xuân Diệu so với những
nhà thơ có khuynh hướng tượng trưng, siêu hình cùng thời.
Trong thơ Hàn Mặc Tử, bên cạnh những vần thơ về thiên
nhiên trong trẻo, cũng có những cảnh trộn lẫn giữa biểu
tượng siêu hình với cảnh thực:
Hàng cây lấp lống đứng trong im


Cành lá im như đã lặng chìm
Hư thực làm sao phân biệt được
Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm
(Đà Lạt trăng mờ)
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Hàn Mặc Tử cũng
không thiếu vắng những bức tranh phong cảnh trong trẻo,
tươi sáng (Mùa xn chín, Đây thơn Vĩ Dạ,…), thế nhưng
cũng là sự hồi niệm xa xơi, là một “cõi” để hướng về trong

tâm tưởng. Thiên nhiên cũng khơng cịn ngun hình, đi
gần tới bến bờ siêu thực khi sự cơ đơn của cái tôi thi sĩ được
đẩy lên cao độ. Cùng với Hàn Mặc Tử, nơi trú ngụ trong
thơ Chế Lan Viên là nước Chàm, là những tháp Chàm cổ
kính, một cõi ma quái, đau thương:“Dưới trời huyết, tháp
Chàm buồn tư lự /Khói lam chiều nũng nịu lướt ngàn
xanh” (Sơng Linh). So với các nhà thơ có khuynh hướng
siêu thực, thiên nhiên trong góc nhìn của Xn Diệu mang
sắc thái riêng. Cõi trú ngụ của cái tôi Thơ mới trong Thơ
thơ và Gửi hương cho gió khơng chỉ mang theo các sắc điệu
buồn, cô đơn, tuyệt vọng, trốn tránh, mà nó là vẻ đẹp tự
nhiên ở trần thế, ở “cõi này”. Nó khơng nghiêng về thế giới
của cõi mộng, của phần vơ thức mà ngược lại, nó đại diện


cho quan niệm về cuộc sống chỉ trọn vẹn, ý nghĩa nhất khi ở
trong khoảnh khắc thực tại. Cảm thức về sự hư vô thôi thúc
cái tôi thu nhận thế giới tự nhiên bằng mọi giác quan, đặc
biệt chú ý tới sức sống dạt dào của tự nhiên như nó vốn có.
Thế nhưng, khi đặt những bức tranh tự nhiên trong thơ
Xuân Diệu trong tương quan đối sánh với các nhà thơ của
cảnh q, tình q như Anh Thơ, Đồn Văn Cừ, Nguyễn
Bính, thế giới thiên nhiên của Xuân Diệu vẫn là vẻ đẹp trần
thế, nhưng lại mang tính khái quát hơn. Những bức tranh
thiên nhiên của Anh Thơ, Nguyễn Bính gắn với văn hóa,
phong cảnh làng q, những “lũy tre”, “cỏ xanh”, “thơn
làng”, “mưa xn”,“hoa bưởi”,…Những hình ảnh thiên
nhiên ấy gắn liền với văn hóa, phong cảnh làng quê một
cách cụ thể, chi tiết. Đó là những cảnh đặc trưng của làng
quê Việt, mang phong vị truyền thống ngay trong những

khung cảnh giản đơn:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trơi trước gió.
Những trâu bị thong thả cúi ăn mưa”


(Chiều xn – Anh Thơ)
Xn Diệu khơng có sự gắn bó quá sâu sắc với đời sống
làng quê, thiên nhiên trong thơ ơng chứa đựng những biểu
tượng có tính lặp: chim, bướm, vườn, hoa,… Nó rất trần
thế, rất chân thực (gắn với thời gian của mùa và những
khoảnh khắc chuyển mình tinh tế), thế nhưng đồng thời
cũng khơng hịa lẫn với những bức tranh thiên nhiên khác,
bởi nó phản ánh cảm quan thẩm mỹ độc đáo của Xuân Diệu
về thế giới. “Chất thơ” trong tự nhiên được thể hiện qua thế
giới nghệ thuật riêng tràn đầy cảm xúc, xúc cảm: “Hương
hiu hiu nên gió cũng ngọt ngào/ Hơn nho nhỏ mà đầu hoa
nặng trĩu” (Hoa đêm), “Sắc lạ rung rinh bốn phía hè/ Hồn
ai hiu hắt lá xanh tre” (Nhớ mơng lung); “Mấy vắng, trời
trong đêm thủy tinh/Lung linh bóng sáng, bỗng rung mình”
(Nguyệt cầm). Tự nhiên là cõi trụ ngụ tinh thần, do đó nó
cũng nhuốm sắc màu rất riêng của hồn thơ Xuân Diệu. Do
đó, bức tranh trong thơ Xn Diệu nói vẻ đẹp trần thế,
nhưng hịa quyện với cách cảm nhận của nhà thơ về thế
giới: không tách bạch về các giác quan và đặc biệt tinh nhạy
với những rung động của thế giới tự nhiên.
Tuy nhiên, giữa hai tập thơ Thơ thơ và Gửi hương cho
gió, thế giới tự nhiên cũng không đồng nhất, bất biến. Ở



Thơ thơ, thiên nhiên mang vẻ đẹp tươi sáng, gắn liền với
sắc xuân và tình thì tới Gửi hương cho gió, cảnh thiên nhiên
thêm nhiều những sắc thái khác: lạnh, mộng, buồn,...Sự đổi
thay này làm phong phú hơn bản thân đối tượng, đồng thời
phản ánh sự trưởng thành trong những chặng sáng tác của
Xuân Diệu.
Sức sống và vẻ đẹp của tự nhiên sống động, phong phú
trong thơ Xuân Diệu chịu sự ảnh hưởng từ thơ ca tượng
trưng Pháp, tiêu biểu là Baudelaire – một trong những
“người mở đường của thơ hiện đại”. Quan niệm về sự tương
giao giữa màu sắc, âm thanh và ánh sáng đã tác động tới
cách tái hiện tự nhiên của Xuân Diệu. Ở đây, tư tưởng sinh
thái biểu hiện trong việc nhìn nhận tự nhiên như một nơi trú
ngụ đầy chất thơ – trước hết bởi chính vẻ đẹp vốn có của tự
nhiên. Thi sĩ nhạy cảm và khám phá vẻ đẹp ấy, truyền tải nó
vào thơ ca dưới góc nhìn của riêng mình. Tái hiện “nơi trú
ngụ của tinh thần” cũng là một cách bày tỏ cái tôi mà không
dễ làm được ở thời đại trước. Con người trung đại nằm
trong phạm trù của “Văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngơn chí”. Văn
thơ được xem là nơi chở đạo trung quân ái quốc, tỏ chí của
người quân tử. Trong cảm quan của họ, Thiên, Địa, Nhân
nhất thể và con người tự tìm sự an bằng trong việc hòa nhập


với vịng tuần hồn của vũ trụ vơ cùng vơ tận. Đến thời hiện
đại, con người tách mình ra khỏi thế giới để nhìn ngắm,
khám phá nó, đồng thời ý thức mình là một thực thể tồn tại
với số phận, quy luật riêng để ngắm nhìn và khám phá vẻ
đẹp tự nhiên như nó vốn có.

2.1.2. Thiên nhiên là dưỡng chất cho tâm hồn thi sĩ
Nếu chỉ dừng ở việc kiếm tìm và phân tích những đặc
điểm của hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca, phê bình sinh
thái sẽ khơng có gì mới mẻ so với những nghiên cứu đi
trước. Đặc biệt, với những cây bút phong phú, dồi dào về
sáng tác, thiên nhiên đã là đối tượng được khám phá ở
nhiều cấp độ, từ không gian tới những biểu tượng nghệ
thuật. Góc nhìn sinh thái chú trọng vào việc nhìn nhận mối
quan hệ giữa thiên nhiên và con người, sự tác động qua lại
giữa hai bên và chỉ ra vị trí của tự nhiên đối với tâm hồn thi
sĩ. Nếu như với sự tồn tại của sinh thể, thiên nhiên cung cấp
nguồn sống vật chất thì với tâm hồn, thiên nhiên là đem tới
“dưỡng chất” – nguồn cảm hứng dồi dào, phong phú. Nó
được biểu hiện ở phương diện cảm xúc biểu đạt qua tự
nhiên và sự tự nhận thức của người nghệ sĩ.
Thế giới thiên nhiên đã được đề cập tới trong thơ Xuân


Diệu với đặc điểm của sức sống dồi dào trong thực tại, tính
sinh động và khái quát. Thi sĩ cảm nhận vẻ đẹp của tự
nhiên, đồng thời tìm thấy nguồn thi cảm trong những
khoảnh khắc đẹp đẽ của thế giới bên ngồi. Thiên nhiên có
thể trở thành nguồn cảm hứng sáng tác, nhưng không phải
người nghệ sĩ nào cũng cảm nhận nhịp điệu, tìm thấy niềm
hạnh phúc trong thế giới tự nhiên. Lord Byron (1788- 1824)
nhà thơ lãng mạn nước Anh thế kỉ XIX đã ngợi ca về vị trí
của tự nhiên với tâm hồn con người: “Có niềm hạnh phúc
trong những khu rừng khơng lối đi, có say mê trong những bờ
biển đơn độc, có một hình thái xã hội dưới biển sâu, nơi
người ta không thể xâm phạm, và có âm nhạc trong tiếng

biển gầm gào... Tơi khơng bớt u lồi người nhưng tơi u
thiên nhiên nhiều hơn”.
(Childe Harold, Canto IV, Verse 178)
Trong thơ Xuân Diệu, thiên nhiên là nơi bao bọc về thể
xác và tinh thần, nâng đỡ những xúc cảm của thế giới tâm
hồn phức tạp. Sự gắn bó càng chặt chẽ, sự biểu đạt cảm xúc
càng dạt dào, bởi thiên nhiên cung cấp những phương tiện
biểu đạt, những hình ảnh ẩn dụ cho các tâm trạng khác nhau
của con người. Nhà thơ gọi tên những cảm xúc, đong đếm
mức độ bằng các từ ngữ kết hợp độc đáo như: “chùm mong


nhớ”, “khóm yêu đương”, “nụ mơ màng”,… Chất thơ của
tự nhiên là nguồn cảm hứng để thi sĩ bày tỏ lịng mình. Đó
thường là những cung bậc của cảm xúc ái ân, của những
rung động, thương nhớ trong tình u:
“Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều
Bên màu hoa mới thắm như kêu
Nỗi gì âu yếm qua khơng khí
Như thoảng đưa mùi hương mến yêu”
(Nụ cười xuân)
Xuân Diệu sử dụng những từ ngữ vốn gắn với con
người để nói về tự nhiên: “tóc liễu”, “mỹ miều”. Sự giao
hịa của màu sắc và âm thanh “thắm như kêu” trở thành đòn
bẩy để xúc cảm mến yêu được bày tỏ. Những cảm xúc vốn
chỉ nảy sinh trong gắn kết giữa người và người nay được thi
sĩ nói lên từ chính thế giới thiên nhiên: “Ngồi ấy vui
khơng, anh của em/Trong này đã có nắng vàng êm/Mỗi lần
nắng rọi, em ra cửa/ Em nghĩ gì đâu, đứng lặng im”. (Đơn
sơ). Với Xn Diệu, có “chất thơ” trong thiên nhiên và nó

có liên kết chặt chẽ với “chất thơ” trong hồn người:
“Trăng vừa đủ sáng để gây mơ,


Gió nhịp theo đêm, khơng vội vàng
Khí trời quanh tơi làm bằng tơ
Khí trời quanh tơi làm bằng thơ”
(Nhị Hồ)
Cấu trúc quen thuộc trong thơ Xuân Diệu là sự miêu tả
thiên nhiên như một chủ thể độc lập, với vị trí trung tâm và
sau đó mới bộc bạch lịng mình. Đó khơng phải sự “tức
cảnh sinh tình” trong thơ ca trung đại, bởi đôi khi tự nhiên
trong thơ Xuân Diệu là thế giới khái qt, lí tưởng hóa.
Thiên nhiên trở thành nguồn thi cảm cho tâm hồn thi sĩ
khơng hồn toàn bởi đường nét, âm thanh, sắc màu đơn
thuần, mà còn là tinh thần, nhịp điệu của thế giới ấy.
Chỉ trong 15 năm, sự ra đời và phát triển của Thơ mới
được ví như một cuộc cách mạng trong thi ca. Đó là sự lên
tiếng của cái tơi cá nhân sau bao vịng kiềm tỏa. “Tơi” là
một giá trị. “Tơi” là một, là không thể trộn lẫn. Thế nhưng,
sự tự khẳng định là một hành trình khơng dễ dàng. Ý thức
sâu sắc về tính cá nhân: “Ta là một, là riêng, là thứ nhất”,
Xn Diệu phản tư chính mình, khẳng định về mình trong
“nơi trú ngụ đầy chất thơ” – thiên nhiên.


Cái tơi trữ tình thường mượn hình ảnh, sự vật trong tự
nhiên để nói về mình, ví mình với tự nhiên để diễn đạt
những cung bậc cảm xúc. Trong đó, nổi bật hơn cả là sự lạc
lõng, vô định:

“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối”
Hay mượn lời chiếc lá để đối thoại với chính mình:
“Lìa cành, thân héo khơ,
Hỡi chiếc lá giang hồ,
Đi đâu ?
- Tôi chẳng biết
Xưa ở cành cây thông
Bão đánh, cây gần chết.
Chiều thổi đổi khơng cùng,…
(Chiếc lá)
Có lúc Xuân Diệu diễn đạt trực tiếp, cũng có lúc tự tạo
lập tình huống để nói lên nỗi lịng mình. Những hình ảnh
thiên nhiên gắn với sự lạc lõng, cơ đơn thường nhỏ bé, đơn lẻ:


con chim, chiếc lá, con nai,... Trong khuynh hướng phê bình
sinh thái, có những quan điểm cực đoan cho rằng việc dùng
hình ảnh tự nhiên để miêu tả chính mình thực chất vẫn là góc
nhìn coi thiên nhiên như một cơng cụ, một khách thể của văn
chương. Thế nhưng, đó là biểu hiện của mối quan hệ chặt chẽ
giữa con người và thiên nhiên, ở phương diện chiều sâu là tự
nhận thức về mình qua nơi trú ngụ của tâm hồn.
Khi người thi sĩ tìm thấy cảm hứng để truyền tải cảm
xúc của mình trong tự nhiên, anh ta có thể dần định nghĩa
về mình qua thế giới ấy. Như đã diễn giải, thiên nhiên là nơi
trú ngụ của con người, do đó sự nhận thức về cái tơi cá
nhân cũng không thể biệt lập với thiên nhiên. Sự vô định,
cảm xúc buồn bâng khng khơng phải là tình điệu của
riêng Xuân Diệu thời Thơ mới, nhưng với sự nhạy cảm đặc

biệt với tự nhiên, trong thơ Xuân Diệu, “chất thơ” của tự
nhiên không chỉ nằm ở những bức tranh ngoại hiện, mà cịn
biểu hiện trong những hình ảnh có tính phản tư với con
người như:
“Tơi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm


Sao lại trách người thơ tình lơi lả?”
(Cảm xúc – tặng Thế Lữ)
Trong hành trình tự nhận thức, cần chú ý tới vị trí của
con người giữa tự nhiên. Dù cái tôi Thơ mới đã ngẩng cao
đầu kiêu hãnh, đối đầu với những khung tư tưởng truyền
thống, ở giữa tự nhiên, dẫu khơng phải thế giới đại ngàn
hoang dã, kì vĩ, con người vẫn chỉ là một cá thể nhỏ bé.
Trong thơ Xn Diệu khơng có khúc ngợi ca sự thắng thế,
làm chủ của con người với tự nhiên. Là một trong những cái
tôi Thơ mới ảnh hưởng mạnh mẽ nhất từ văn hóa phương
Tây, trong cốt cách Xuân Diệu vẫn là tinh thần Á Đơng từ
cổ đại gắn bó chặt chẽ với tự nhiên. Những chuyển mình,
đổi thay của thiên nhiên đều có thể chi phối tới con người,
đặc biệt trong trạng thái tinh thần.
Xuân Diệu là một trong những cây bút thường thể hiện
những trăn trở của mình về sứ mệnh, vị trí của người nghệ
sĩ. Mở đầu tập Gửi hương cho gió, ơng viết:
“Tơi là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hát chơi.
Khi gió sớm và reo um khóm lá



Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời”
Ví mình như con chim đến từ núi lạ, “ngứa cổ hát
chơi” – việc làm thơ khơng phải vì mục đích nào cụ thể,
rõ ràng, làm thơ là nói lên lịng mình giữa những cảnh tình
thiên nhiên. Tự nói cái “cất tiếng” ấy của chim là vơ ích,
thế nhưng lại hót đến “vỡ cổ”, “héo tim”, “sa rụng”... Dẫu
ở hoàn cảnh nào, ta vẫn bắt gặp một Xn Diệu ln cháy
hết mình như quan niệm sống đã xuyên suốt hành trình
sáng tác của ông. Trước đó, trong Thơ thơ, Xuân Diệu khi
nói về người nghệ sĩ cũng nhấn mạnh sự gắn bó với thiên
nhiên, bởi đó đó là nguồn cảm hứng, là nơi chứa chất thơ
bất tận của tâm hồn:
“Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình u mến”
(Cảm xúc)
Cảm thức về sự cơ đơn, lạc lõng là một điểm nổi bật
trong Thơ mới giai đoạn đầu. Nó chi phối tới cả cách nhà
thơ nhìn nhận về sứ mệnh của mình. Gắn bó với thiên nhiên


là một con đường giải tỏa sự cô đơn. Khác với Xuân Diệu,
Chế Lan Viên trong lời tựa của tập “Điêu tàn” (1937) đã
tuyên ngôn: “... nhà thơ là loại người siêu phàm, nửa thần
thánh nửa ma quỷ, vừa tỉnh thức vừa điên dại...” Trong
những sáng tác đầu tay, ông tìm kiếm câu trả lời về bản thể
trong một thế giới siêu hình. Nhà thơ chối từ cuộc sống của
hiện tại, tìm về thế giới trong q khứ xa xơi: “Trời hỡi trời

hôm nay ta chán hết/ Những sắc màu hình ảnh của trần
gian”(Tạo lập). Cịn Xn Diệu kiếm tìm mình ở ngay cõi
thực tại, trong thế giới tự nhiên chứa vẻ đẹp đầy sức sống
và nguồn thi cảm dồi dào, phong phú:
“Khi ấy lịng xanh mới đón tình
Rào trường ngăn giữ kín vườn xinh
Chàng trai nhỏ nhẹ, tơi khi ấy,
Đi giữa thiên nhiên để kiếm mình”
(Lưu học sinh)
Nâng niu, trân trọng vẻ đẹp của tự nhiên
Tình yêu và thiên nhiên vốn luôn được coi là hai đề tài
nổi bật trong thơ Xn Diệu, do đó khi tìm hiểu sáng tác
của ơng dưới góc nhìn sinh thái, người nghiên cứu đối diện


với câu hỏi về sự đổi mới: có gì khác biệt so với những
hướng đi trước về thiên nhiên trong thơ Xn Diệu? Những
cơng trình đó ở nhiều quy mơ khác nhau đã làm nhiệm vụ
tổng hợp, phân tích, khái quát lại những đặc điểm nổi bật
của thế giới tự nhiên trong thơ Xuân Diệu, đồng thời chỉ ra
thái độ của người nghệ sĩ về thế giới tự nhiên đó. Tuy nhiên,
quy trình nghiên cứu đó vẫn chủ yếu xoay quanh hướng tập
trung vào thiên nhiên như một đề tài văn học, một yếu tố
của nội tại tác phẩm. Phê bình sinh thái chú trọng và đặt vấn
đề ý thức của con người với thiên nhiên làm trung tâm và lý
giải cảm quan, thái độ đó trên góc độ văn hóa. Ý thức ấy
trước hết là góc nhìn của con người về thiên nhiên, sau đó
tới cảm thức, thái độ về thế giới tự nhiên. Ở thơ Xuân Diệu,
tự nhiên khơng chỉ được nhìn nhận như một nơi trú ngụ đầy
chất thơ, mà còn là đối tượng được nâng niu, trân trọng. Đó

là sắc thái nổi bật trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho
gió, thế hiện qua việc coi tự nhiên như một sinh thể và khát
khao nắm giữ những khoảnh khắc, vẻ đẹp của tự nhiên.
Thiên nhiên như một sinh thể
Cái tôi trong thơ Xuân Diệu nhạy cảm với sự sống, dù ở
con người hay tự nhiên. Cũng bởi lẽ đó, tự nhiên hiện lên
cũng mang theo cảm xúc, linh hồn của con người. Trong


thơ trung đại, thiên nhiên là cái nền cho xúc cảm của con
người: “Bước tới đèo ngang bóng xế tà/ Cỏ cây chen đá, lá
chen hoa…Nhớ nước, đau lòng, con cuốc cuốc/ Thương
nhà, mỏi miệng cái gia gia” (Qua đèo ngang – Bà Huyện
Thanh Quan). Nói thiên nhiên là nền cho tình được giãi bày,
bởi tình cảm của nhà thơ trung đại thường là những nghĩ
suy về vận nước, về những khát khao gắn với cái “ta
chung”, không phải sự say đắm bởi vẻ đẹp thiên nhiên. Bức
tranh cảnh ngày hè được tái hiện rất đỗi tài hoa, đặc sắc
cũng là dẫn dắt tới ước mơ về một đất nước “dân giàu đủ
khắp đòi phương”. Thơ mới cất lên tiếng nói, những cảm
xúc cá nhân, thiên nhiên khơng cịn ở vị thế làm nền, là bức
tranh phụ của ý chí, lí tưởng cao đẹp. Ta gặp trong Thơ thơ
và Gửi hương cho gió những hình ảnh tự nhiên được nhân
hóa, mang theo dáng điệu của con người. Đó thường là
những hình ảnh quen thuộc, gắn với “thiên đường trên mặt
đất” trong quan điểm thẩm mỹ của nhà thơ:
“Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu;
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.
Hư vơ bóng khói trên đầu hạnh;
Cành biếc run run chân ý nhi”



(Thu)
Hay:
“Gió qua, như một khách thừa lương
Lay nắng trên mình lá lống sương”
Hoa cúc dường như thơi ẩn dật
Hoa hồng có vẻ bận soi gương”
Gắn với dáng điệu của con người, thiên nhiên thường
mang vẻ đẹp giàu nữ tính, duyên dáng, trẻ trung, tươi mới.
Vẻ đẹp ấy được tái hiện qua những tính từ vốn để miêu tả
người nữ, những chi tiết tinh tế, gợi cảm: “tháng Giêng
ngon như một cặp môi gần”, “ánh sáng chớp hàng mi”.
Quan niệm thẩm mỹ về con người gắn bó chặt chẽ trong
cách tái hiện hình ảnh tự nhiên, đặc biệt trong những
khoảnh khắc của mùa xn và trong tình u.
Góc nhìn tự nhiên như một sinh thể bên cạnh dáng điệu
của con người cịn là tình cảm, những rung động mong
manh của tâm hồn. Các sự vật tự nhiên gắn với những cung
bậc cảm xúc trong tình u, gắn bó, giao hịa với nhau. Tình
u và tự nhiên là khơng phải hai chủ đề tách biệt trong thơ
Xuân Diệu, mà luôn lồng ghép, đan xen. Góc nhìn về tình


u lứa đơi khiến thiên nhiên mang tình điệu của con người,
đồng thời sự gắn kết của tự nhiên là nguồn cảm hứng để thi
sĩ biểu đạt tình yêu. Bức tranh thiên nhiên trong thơ Xuân
Diệu hiếm khi hiện lên với chỉ một hình ảnh đơn lẻ, mà
ln trong trạng thái kết duyên, gửi gắm những yêu thương:
Ở “Rạo rực”, Xuân Diệu đã diễn đạt rất gợi cảm nét

tình tự trong màu trời:
“Mặt trời vừa mới cưới trời xanh
Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt, mắt long lanh”
Trong những bức tranh thiên nhiên, Xuân Diệu nhắc
nhiều tới “duyên” trong tình ái, và những sự vật đan cài
trong tình u đơi lứa. Đó có thể là những cảnh được lí
tưởng hóa trong thế giới quan của nhà thơ, có thể là cảnh
sắc thực của tự nhiên, nhưng điều quan trọng hơn cả, là
cách Xuân Diệu cảm nhận về nhịp điệu, về thứ “âm nhạc”
riêng có của thiên nhiên:
“Chiều mộng hịa thơ trên nhánh duyên


Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
(Thơ duyên)
Trong những tình điệu của tự nhiên, ta bắt gặp cả những
giọng buồn sầu, lẻ loi khi tình dun khơng thành:
“Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều,
Là truyền tin thắm gọi tình u
Song le hoa đợi càng thêm tủi:
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều”
(Gửi hương cho gió)
Cũng có lúc giọng điệu buồn được đẩy lên cao độ:
“Có nhiều lúc gió kêu thê thiết q
Như gió đau một nỗi khổ vơ hình
Như bao điều ảo não của nhân sinh

Đã in vết ở nơi hồn của gió...
Hỡi gió mờ! Người chứa cả mùa đông


Trong phổi của người u uất vơ cùng”
(Tiếng gió)
Thực chất, thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu chủ yếu
vẫn hiện lên như một khách thể, được cái tơi mượn để nói
lịng mình. Nỗi buồn vu vơ hay não nề của hoa, của gió
trong hình dung của người đọc vẫn là nỗi buồn của riêng
Xuân Diệu. Nhà Thơ mới gửi gắm tình điệu của mình vào
thiên nhiên, khiến thế giới tự nhiên mang dáng dấp của con
người ở dáng điệu và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.
Việc nhân hóa tự nhiên, đem tới cho hình ảnh tự nhiên sức
sống của một con người khơng cịn mới mẻ trong thi ca.
Trong bài thơ “Cảm giác”, nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của
Pháp Arthur Rimbaud (1854 – 1891) đã nhìn nhận tự nhiên
như một người đồng hành:
“Không nghĩ suy, không lời trên môi lặng
Nhưng con tim yêu hết thảy trên đời
Và ngọt ngào trong hồng hơn thơ thẩn
Thiên nhiên tựa hồ như người đẹp cùng tôi”
(Cảm giác – Rimbaud)


Nét tương đồng trong thơ Xuân Diệu với Rimbaud là tự
nhiên thường mang dáng vẻ duyên dáng, e lệ của người
thiếu nữ, chứa đựng những cảm xúc của tình yêu đơi lứa.
Tìm về với vẻ đẹp của thiên nhiên như một nguồn thi cảm,
một nơi giải tỏa những khát khao, những bi kịch tinh thần là

một đặc trưng của cảm hứng lãng mạn. Có quan điểm ngợi
ca đó là một biểu hiện tiến bộ trong việc tôn vinh vị thế của
con người trong văn chương bởi qua sự nhân hóa, con
người đã đem tới cái đẹp cho thế giới vô tri. Tuy nhiên, từ
góc nhìn sinh thái, đó là một đánh giá phiến diện. Cách nhìn
nhận tự nhiên như một sinh thể ở cả dáng vẻ và tình điệu
bộc lộ sự nhạy cảm của thi sĩ trước vẻ đẹp vốn có của thế
giới tự nhiên. Nó khơng phải một thế giới vơ tri mà có
những nhịp điệu, linh hồn, thậm chí là cảm xúc. Trong
nghiên cứu hiện đại, Suzane Simard, nhà sinh thái học
người Canada, đã đưa ra lý thuyết và kết quả thực nghiệm
về cách thức cây cối trò chuyện cùng nhau. Theo Suzane, có
vơ vàn những “tin nhắn” được cây cối chuyển cho nhau
dưới lòng đất và qua những tán lá và “điều quan trọng là
chúng ta có đủ thời gian và sự quan tâm để lắng nghe giai
điệu và lời thì thầm của những chiếc lá ấy”. Quan điểm ấy
mở ra những giá trị trong việc kết nối giữa tư tưởng sinh
thái hiện đại với các nhà thơ lãng mạn. Cái tôi trong Thơ


×