Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nghiên cứu đề xuất nội dung cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện quan sơn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.77 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------

PHẠM BÁ THÁNH

NGHIẤN CỨU ĐỀ XUẤT NỘI DUNG CƠ BẢN QUY HOẠCH
LÂM NGHIỆP HUYỆN QUAN SƠN -TỈNH THANH HỐ

CHUN NGÀNH LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


Cơng trình được hồn thành tại:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. VŨ NHÂM

Người phản biện 1: TS. LÊ SỸ TRUNG
Người phản biện 2: TS. ĐỖ XUÂN LÂN

Luận văn đã được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn thạc sỹ khoa học lâm
nghiệp.Họp tại Trường Đại học Lâm nghiệp


Vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 29 tháng 10 năm 2011

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện trường Đại Học Lâm Nghiệp


1

MỞ ĐẦU
Quan S¬n là huyện miền núi, biên giới phía Tây ca tnh Thanh hóa, có diện
tích rừng và đất lâm nghiệp chiếm hơn 86% diện tích tự nhiên toàn hun.
Tuy nhiªn hiện nay do nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội của huyÖn
mà rừng càng ngày càng bị tàn phá nặng nề, nhất là các khu rừng phòng hộ
đầu nguồn, những khu vực còn nhiều tài nguyên, việc tàn phá rừng do nhiều
nguyên nhân khác nhau như nạn khai thác rừng bừa bãi, đốt rừng làm rẫy, du
canh du cư, lấn chiếm đất đai, ... dẫn đến diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp,
diện tích đất trống đồi núi trọc ngày càng tăng. Đứng trước thực trạng đó, để
phát triển tài nguyên rừng một cách bền vững và có hiệu quả địi hỏi phải có
sự phối kết hợp của các cấp, các ngành khơng riêng gì ngành lâm nghiệp.
Trong đó cơng tác quy hoạch, quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng là
một trong nhng nhim v ht sc quan trng.
Công tác quy hoch lâm nghiệp là việc tổ chức kinh doanh rừng và đất
rừng theo hướng bền vững về ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Quy
hoạch lâm nghiệp hướng tới tổ chức kinh doanh hợp lý, hiệu quả và lâu dài
các nguồn tài nguyên đa dạng của rừng, cung cấp cho xã hội gỗ, củi, lâm sản
ngoài gỗ, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và đời sống nhân
dân; đồng thời góp phần vào việc nâng cao tác dụng phịng hộ, bảo vệ mơi
trường, bảo vệ các hệ sinh thái rừng. Bởi vậy, việc quy hoạch lâm nghiệp cho
các cấp quản lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh và các hộ gia đình trở thành
một đòi hỏi thực tế khách quan và hết sức cấp thiết. Công tác quy hoạch lâm
nghiệp là tiền đề vững chắc cho các giải pháp nhằm phát huy đồng thời những

tiềm năng to lớn, cực kỳ đa dạng của tài nguyên rừng và các điều kiện tự
nhiên, kinh tế và xã hội, góp phần vào sự nghiệp phát triển bn vng cỏc a
phng. Công tác quy hoạch lâm nghiệp phải tổng hoà đ-ợc các mối quan hệ,
trong quá trình phát triển của tổng thể các ngành kinh tế, không gây cản trở,
trồng chéo mà phải thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đấy chính là lý do tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: Nghiờn cu xut ni dung cơ bản quy hoạch lâm
nghiệp huyện Quan S¬n - tỉnh Thanh Hãa”.


2

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên Thế giới
ë các n-ớc, các vùng lÃnh thổ, địa ph-ơng khác nhau cách nhìn nhận,
tiÕn hµnh quy hoạch lâm nghiệp sao cho hợp lý đã được nhiều tác giả đề cập
tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau.Việc đưa ra một khái niệm thống
nhất là một điều rất khó thực hiện, song phân tích qua các khái niệm cho thấy
có những điểm giống nhau, đó là dựa trên quan điểm về sự phát triển bền
vững thì các hoạt động có liên quan đến tài nguyên rừng phải được xem xét
một cách tồn diện và đồng thời đảm bảo sử dụng nó theo hướng lâu dài và
bền vững.
C¸c yÕu tè thường được quan tâm trong công tác quy hoạch là cỏc yu
t về mặt kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, các đặc
điểm xã hội và nhân văn. Quá trình phát triển của quy hoạch lâm nghiệp trên
thế giới luôn gắn liền với sự phát triển của Quy hoạch vùng, Quy hoạch cảnh
quan, Quy hoạch sử dụng đất . Quy hoạch vùng, Quy hoạch cảnh quan, Quy
hoch s dng t là những yếu tố mang tớnh nh hng cho công tác quy
hoch lõm nghip.
1.1.1. Quy hoch vùng

Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác – Lê Nin về phân bổ và phát
triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng .
Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra: “Mức độ phát triển lực lượng sản xuất
của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn ở chỗ sự phân cơng lao động của dân tộc
đó được phát triển đến mức nào”.
Lê Nin chỉ ra:”Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên, kinh
tế, xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bổ lực lượng sản


3

xuất”. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bổ lực lượng
sản xuất ở một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng tiềm tàng
và tương lai phát triển của vùng đó.
Dựa trên cơ sở học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I Lê Nin đã nghiên cứu các
hướng cụ thể về kế hoạch hoá phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ nghĩa.
Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác định theo nguyên tắc sau:
- Phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên tồn lãnh thổ của đất nước,
tỉnh, huyện nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động của tất
cả các vùng vào quá trình tái sản xuất mở rộng.
- Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của từng
tỉnh, từng huyện.
- Đưa các xí nghiệp công nghiệp đến gần nguồn nguyên liệu để hạn chế
chi phí vận chuyển.
- Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện
nhằm nâng cao năng xuất lao động và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Trên các cơ sở trên tôi tiến hành tìm hiểu cơng tác quy hoạch vùng của
một số nước trên thế giới như sau:
1.1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp

Ở miền Tây Nam nước Cộng hồ Cơte D’ivoire người ta đã áp dụng
thành cơng mơ hình quy hoạch của M. Pierre Thénevin với cấu trúc của mơ
hình là:
*) Các hoạt động sản xuất:
- Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và
trồng trọt công nghiệp với các mức thâm canh cường độ cao, thâm canh trung
bình và cổ điển ( truyền thống ).
- Hoạt động khai thác tài nguyên rừng.


4

- Hoạt động đơ thị nh- : khai th¸c, chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển,
các loại hình dịch vụ kh¸c....
*) Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông - lâm nghiệp.
*) Cân đối xuất nhập khẩu, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về diện
tích đất, nhân lực, tiêu thụ sản phẩm:
Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng
thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mơ hình hố trong điều
kiện thực tiễn của vùng, so sánh với các vùng xung quanh và nước ngoài.
1.1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Thái Lan:
Từ nhng nm 70 ca th k trc công tác quy hoạch vùng đà đ-ợc
chú ý tại n-ớc này. Với hÖ thèng quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: Quốc
gia, Vùng, Á vùng hay Địa phương.
Vùng ( Region ): §ược coi như là một Á miền ( Subdivision ) của đất
nước, đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các Á miền theo các
phương diện khác nhau như bố trí dân cư, khí hậu, địa hình... đồng thời vì lý
do quản lý nhà nước hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như
đơn vị hành chính hay đơn vị bầu cử.
Quy mơ diện tích của vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của đất nước.

Thơng thường vùng có diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất. Sự
phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp Á miền được xây dựng
theo hai cách sau:
+ Thứ nhất: Sự bổ sung kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những
mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch vùng
được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
+ Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của
vùng, các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.


5

Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải có sự phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương.
Dự án phát triển của Hoàng gia Thái Lan đã xác định được vùng nơng
nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế xã hội và chính trị ở Thái Lan
và tập trung xây dựng ở hai vùng: Trung Tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm
(1961- 1988 đến 1992 - 1996 ) tổng dân cư nông thôn trong các vùng nông
nghiệp giảm từ 80% xuống 66,6%, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan
trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường.
1.1.2. Quy hoạch cảnh quan sinh thái:
Thuật ngữ “cảnh quan - Landscape” là tổng thể lãnh thổ tự nhiên của
bất kỳ một quy mơ nào, có sự đồng nhất tương đối về một số hợp phần tự
nhiên nào đó, chúng mang tính chất kiểu loại và được phân loại theo các chỉ
tiêu dấu hiệu của sự đồng nhất đó. Cảnh quan được các nhà cảnh quan học
Trung Quốc lý giải theo 3 cách:
- Theo phương diện mỹ học, thì cảnh quan đồng nghĩa với từ “phong
cảnh”. Cảnh quan là đối tượng thẩm mỹ, mà rừng được xem là phong cảnh
(rừng phong cảnh)

- Theo phương diện địa lý thì cảnh quan là tổng hợp các thành phần sinh
vật, địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu trên bề mặt địa cầu. Khái niệm cảnh quan
này rất gần gũi với thuật ngữ hệ sinh thái hoặc quần lạc sinh địa.
- Cảnh quan sinh thái học. Cảnh quan là sự tổ hợp các hệ sinh thái khác
nhau trong một không gian. Một cảnh quan bao gồm sự tụ họp của một số hệ
sinh thái ở liền kề nhau có sự ảnh hưởng lẫn nhau, có chức năng liên quan hỗ
trợ và phát sinh đặc điểm nhất định trong một không gian.
Cảnh quan có thể thay đổi phụ thuộc vào hình dáng vật lý và vị trí như
đỉnh núi, hồ, biển hay đất liền. Cảnh quan cũng có thể chia thành cảnh quan
nông thôn hay thành thị tùy thuộc vào mức độ “nhân tạo” của cảnh quan đó.


6

- Các nghiên cứu làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan sinh thái
* Nghiên cứu tính đa dạng sinh học. Tính đa dạng sinh học đối với mơi
trường sống của con người có tầm quan trọng đặc biệt, sự đa dạng sinh học có
quan hệ chặt chẽ tới đa dạng cảnh quan, Vì vậy, các nhà sinh học ở Mỹ
(California), Nam phi, Chi lê, Australia (Mayer, Lugo, Wilson) đã tiến hành
nghiên cứu sự đa dạng sinh học để làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan các
khu vực rừng ngun sinh. Duy trì tính đa dạng cảnh quan, đa dạng lồi và
tính đa dạng di truyền là một trong những mục tiêu chủ yếu của quản lý tài
nguyên thiên nhiên nói chung, quản lý rừng nói riêng.
* Để làm cơ sở quy hoạch cảnh quan sinh thái cho các khu bảo tồn, các
nhà khoa học gồm Simpson, Shannnon - Weiner, Richness đã tập trung
nghiên cứu về chỉ số đa dạng sinh học. Chỉ số đa dạng sinh học là cơ sở đánh
giá đa dạng cảnh quan sinh thái khi tiến hành quy hoạch cảnh quan.
1.1.3. Quy hoạch sử dụng đất.
Hiện nay có rất nhiều tài liêu nghiên cứu định nghĩa về quy hoạch sử
dụng đất khác nhau, từ đó đưa đến những việc phát triển quan điểm và

phương pháp c s dng trong quy hoạch sử dụng đất cng khỏc nhau.
Theo Dent (1988; 1993) quy hoạch sử dụng đất như là phương tiện giúp
cho lảnh đạo quyết định sử dụng đất đai như thế nào thông qua việc đánh giá
có hệ thống cho việc chọn mẫu hình trong sử dụng đất đai, mà trong sự chọn
lựa này sẽ đáp ứng với những mục tiêu riêng biệt, và từ đó hình thành nên
chính sách và chương trình cho sử dụng đất đai.
Một định nghĩa khác của Fresco và ctv., (1992), quy hoạch sử dụng đất
nh l dng hỡnh ca quy hoạch vùng, trực tiếp cho thấy việc sử dụng tốt nhất
về đất đai trên quan điểm chấp nhận những mục tiêu, và những cơ hội về môi
trường, xã hội và những vấn đề hạn chế khác.


7

Theo Mohammed (1999), những từ vựng kết hợp với những nh ngha v
quy hoạch sử dụng đất l hu ht đều đồng ý chú trọng và giải đoán những
hoạt động như là một tiến trình xây dựng quyết định cấp cao. Do ú quy
hoạch sử dụng đất, trong mt thi gian dài với quyết định từ trên xuống nên
cho kết quả là nhà quy hoạch bảo người dân phải làm những gì. Trong
phương pháp tổng hợp và người sử dụng đất đai là trung tâm (UNCED, 1992;
trong FAO, 1993) đã i li nh ngha v quy hoạch sử dụng đất nh sau
quy hoạch sử dụng đất l mt tin trỡnh xây dựng những quyết định để đưa
đến những hành động trong việc phân chia đất đai cho sử dụng để cung cấp
những cái có lợi bền vững nhất (FAO, 1995). Với cái nhìn về quan điểm khả
năng bền vững thì chc nng ca quy hoạch sử dụng đất l hng dẫn sự
quyết định trong sử dụng đất đai để làm sao trong nguồn tài nguyên đó được
khai thác có lợi cho con người, nhưng đồng thời cũng được bảo vệ cho tương
lai.Cung cấp những thông tin tốt liên quan đến nhu cầu và sự chấp nhận của
người dân, tiềm năng thực tại của nguồn tài nguyên và những tác động đến
mơi trường có thể có của những sự lựa chọn là một yêu cầu đầu tiên cho tiến

trình quy hoạch sử dụng đất đai thành công. Ở đây đánh giá đất đai giữ vai trị
quan trọng như là cơng cụ để đánh giá thực trạng của đất đai khi được sử
dụng cho mục đích riêng biệt (FAO, 1976), hay như là một phương pháp để
giải nghĩa hay dự đoán tiềm năng sử dụng của đất đai (Van Diepen và ctv.,
1988). Do đó có thể định nghĩa:
Thay đổi trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh tế xã hội để chọn
lọc và thực hiện các sự chọn lựa sử dụng đất đai tốt nhất. Đồng thời quy
hoạch sử dụng đất đai cũng là chọn lọc và đưa vào thực hành những sử dụng
đất đai đó mà nó phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tương lai”.
Do đó, trong quy hoạch cho thấy:


8

- Những sự cần thiết phải thay đổi,
- Những cần thiết cho việc cải thiện quản lý,
- Những cần thiết cho kiểu sử dụng đất đai hoàn toàn khác nhau trong các
trường hợp cụ thể khác nhau.
Các loại sử dụng đất đai bao gồm: đất ở, nông nghiệp (thủy sản, chăn
nuôi,…) đồng cỏ, rừng, bảo vệ thiên nhiên và du lịch đều phải được phân chia
một cách cụ thể theo thời gian được quy định. Do đó trong quy hoạch sử dụng
đất đai phải cung cấp những hướng dẫn cụ thể để có thể giúp cho các nhà
quyết định có thể chọn lựa trong các trường hợp có sự mâu thuẩn giữa đất
nông nghiệp và phát triển đô thị hay cơng nghiệp hóa bằng cách là chỉ ra các
vùng đất đai nào có giá trị nhất cho đất nơng nghiệp và nông thôn mà không
nên sử dụng cho các mục đích khác.
1.1.4. Quy hoạch lâm nghiệp.
Q trình phát triển của cơng tác quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với qua
trình phát triển kinh tế chủ nghĩa tư bản. Do công nghiệp và giao thông vận

tải phát triển nên khối lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền
kinh tế địa phương và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã khơng cịn bó hẹp trong trong việc sản xuất gỗ
đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu
hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý
luận quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng đã được hình thành trong hồn
cảnh như vậy.
Vào đầu thế kỷ 18, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết
việc:”khoanh khu chặt luân chuyển”, có nghĩa đem trữ lượng hoặc diện tích
tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành
khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này
phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.


9

Từ thế kỷ thứ 19 sau cuộc cách mạng công nghiệp, phương thức kinh doanh
rừng chồi được thay bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác
dài. Và phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương
thức “Chia đều” của Hartig. Hartig đã chia đều chu kỳ khai thác thành nhiều thời
kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó, khống chế lượng chặt hằng năm. Đến 1816, xuất
hiện phương thức luân kỳ lợi dụng của H. Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20
thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp “Bình qn quy hoạch” ra đời. Quan điểm của
phương pháp này là giữ đến mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại,
đồng thời vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối
thế kỷ 19, xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich. Phương
pháp này khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản. Judeich
cho rằng những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ
được đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và

“lâm phần kinh tế”chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh
và tổ chức rừng khác nhau.
Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp
tuổi” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có
kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích và trữ lượng, vị trí và đưa các
cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng
này được dùng phổ biến ở các nước có tài ngun phong phú. Cịn phương
pháp “lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm phần” không căn
cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần để tiến hành
phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh, phương thức điều chế
rừng. Cũng từ phương pháp này, cịn phát triển phương pháp “Phương pháp
kinh doanh lơ” và “Phương pháp kiểm tra”.


10

1.2. Ở Việt Nam
1.2.1 Quy hoạch vùng chuyên canh.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên canh
lúa ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các vùng rau thực
phẩm cho các thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn ngày như mía
đường ở Thanh hố (hàng năm): Vùng bơng Thuận Hải, vùng đay Hưng Yên,
vùng thuốc lá Quảng An – Cao Bằng, Ba Vì - Hà Tây, Hữu Lũng – Lạng Sơn,
Nho Quan – Ninh Bình, vùng mía Vạn Điểm, Việt Trì, Sơng Lam, Quảng
Ngãi....Các vùng cây cơng nghiệp dài ngày (lâu năm): vùng cao su Sông Bé,
Đồng Nai, Buôn Hồ - Đắc Lắc, Chư Pả, Ninh Đức - Gia Lai Kon Tum ( hợp
tác với Liên Xô trước đây, cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari ), vùng
chè ở Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Thái Nguyên, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên
Quang, Lâm Đồng, Gia Lai Kon Tum, vùng dâu tằm Bảo Lộc – Lâm Đồng....
Quy hoạch vùng chuyên canh đã có tác dụng:

- Xác định phương hướng sản xuất, chỉ ra những vùng chun mơn hố và
những vùng có khả năng hợp tác kinh tế.
- Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp Nhà nước tập trung vốn
đầu tư đúng đắn.
- Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất sản phẩm và sản
phẩm hàng hoá của vùng, yêu cầu xây dựng cở sở vật chất, kỹ thuật phục vụ
sản xuất, nhu cầu lao động.
- Cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển nghiên cứu tổ chức quản lý kinh
doanh theo ngành và theo lãnh thổ.
Quy hoạch vùng chuyên canh đã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí cơ
cấu cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo hướng
tập trung để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng xuất, sản lượng


11

sản phảm cây trồng, đồng thời phân bố các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho từng
cơ sở sản xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch của các cơ sở sản xuất.
Quy hoạch vùng chuyên canh có các nội dung chủ yếu sau:
- Xác định quy mô, ranh giới vùng.
- Xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất.
- Bố trí sử dụng đất đai.
- Xác định quy mô ranh giới, nhiệm vụ chủ yếu cho các xí nghiệp trong
vùng và tổ chức sản xuất ngành nơng nghiệp.
- Xác định hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất đời sống.
- Tổ chức và sử dụng lao động.
- Ước tính đầu tư và hiệu quả kinh tế.
- Dự kiến tiến độ thực hiện quy hoạch.
1.2.2. Quy hoạch cảnh quan.
Một quá trình xây dựng kế hoạch quản lý đất đai cho một vùng đất trên cơ

sở nghiên cứu sinh thái cảnh quan đươ ̣c coi như là quy hoa ̣ch cảnh quan, nghiên
cứu đến thế giới sinh vật, vật chất và năng lượng có thể tồn tại và lưu thơng ngay
trong Cảnh quan đó.

Tác động của con người tới thiên nhiên là một yếu tố then chốt ảnh
hưởng tới các chức năng của Cảnh quan. Sinh thái cảnh quan giúp xác định
những khiếm khuyết của chúng ta trong quá khứ, và cũng như vậy giúp ta xác
định cách tiếp cận tốt hơn để có thể đáp ứng nhu cầu của con người mà không
gây ảnh hưởng không bền vững tới các hệ sinh thái tự nhiên. Mục tiêu của
quy hoạch cảnh quan là để bảo vệ các thành phần chủ yếu của hệ sinh thái
cảnh quan và giữ lại các dòng chuyển động sống và … Một mục tiêu khác là
hướng các hoạt động của con người khỏi những nơi dễ bị tổn hại sinh thái.
Một Cảnh quan khơng có một kích thước cố định, do vậy quy hoạch
cảnh quan có thể thực hiện ở những quy mô khác nhau


12

Nguyễn Thế Thôn cho rằ ng: “Cảnh quan sinh thái là tổng thể lãnh thổ
hiện tại, có cấu trúc cảnh quan địa lý và có chức năng sinh thái của các hệ
sinh thái đang tồn tại và phát triển trên đó. Các cảnh quan sinh thái được phân
biệt với nhau theo cấu trúc cảnh quan và theo chức năng sinh thái khác nhau
trên các phần lãnh thổ khác nhau”.
- Quá trình nghiên cứu cảnh quan trong lâm nghiệp đã được Nguyễn Văn
Khánh vận dụng trong đề tài “Góp phần nghiên cứu phân vùng lập địa lâm
nghiệp Việt Nam”. Tác giả xác lập cho toàn quốc theo 6 cấp phân vị: Miền - á
miền - vùng - tiểu vùng - dạng đất đai - dạng lập địa.
- Hai tác giả Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình chủ biên cơng trình
“Đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp Việt Nam” (2001)[6]. Trong
cơng trình các tác giả đã tiến hành đánh giá đất lâm nghiệp trong phạm vi

toàn quốc trên 8 vùng kinh tế sinh thái lâm nghiệp, ở trên 4 đối tượng
chính: đất vùng đồi núi, đất cát biển, đất ngập mặn sú vẹt, đất chua phèn.
Qua nghiên cứu các tác giả đã đề xuất được các vùng thích hợp đối với một
số lồi cây trồng.
- Các mơ hình quy hoạch cảnh quan trong lâm nghiệp có: Quy hoạch
khơng gian Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang - Hà Tĩnh. Quy hoạch không
gian Vườn quốc gia Bến En - Thanh Hóa....Trong các phương án quy hoạch cho
các khu rừng đặc dụng này đã đề xuất và chấp nhận sự tham gia của cộng đồng
vào hoạt động quản lý bảo vệ , vì vậy đã nâng cao được nhận thức, hạn chế xung
đột giữa hoạt động của con người với nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học.
- Vào tháng 10/2009, với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB), tại
Thừa Thiên Huế đã tiến hành hội thảo quy hoạch cảnh quan cho 7 xã thuộc 3
huyện. Các vấn đề nêu ra tại hội thảo đang còn là bước đi đầu tiên trong việc
tiếp cận một cách nhìn mới trong quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp, thậm chí


13

mới dừng lại ở phương pháp quy ho¹ch sư dơng ®Êt l©m nghiƯp có sự tham
gia của cộng đồng dân cư và cấp chính quyền sở tại....
Do vậy, viê ̣c nghiên cứu và ứng dụng phương pháp quy hoạch cảnh
quan vo trong quy hoạc lâm nghiệp l vn tng đối mới lạ, mặc dù cơng
tác quy hoạch l©m nghiƯp đã và đang thực hiện đều trên cơ sở đề cập và phân
tích đầy đủ các yếu tố tự nhiên, kinh tế- xã hội.
1.2.3. Quy hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngày càng được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm, chỉ đạo một cách sát sao bằng các văn bản pháp luật và được xem
như là một luận chứng cho việc phát triển nền kinh tế đất nước. Điều ngày
được thể hiện qua các giai đoạn sau:
1.2.3.1. Thời kỳ trước những năm 1980

- Thời kỳ này, nước ta mới thống nhất, đang chú trọng khắc phục hậu
quả chiến tranh, quy hoạch sử dụng đất chưa được coi trọng. Tuy nhiên đến
cuối năm 1978 các phương án phân vùng nông - lâm nghiệp và chế biến nông
- lâm sản của 7 vùng kinh tế ở tất cả các tỉnh đã được lập kế hoạch và được
Chính Phủ phê duyệt. Thời kỳ này, Chính Phủ chỉ đạo phân vùng quy hoạch
nông - lâm nghiệp phục vụ cho phát triển nơng - lâm nghiệp, cịn các loại đất
khác chưa được đề cập tới. Hạn chế của thời kỳ này là thiếu số liệu điều tra cơ
bản về đất đai, tính khả thi của các phương án cịn thấp vì chưa tính được khả
năng đầu tư.
1.2.3.2. Thời kỳ 1981 - 1986
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra: “Xúc tiến công tác điều tra
cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất,
nghiên cứu chiến lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị
cho kế hoạch 5 năm sau (1986 - 1990).


14

Kết quả trong tài liệu quy hoạch sử dụng đất chỉ đề cập từ cấp tỉnh trở
lên và chưa đề cập đến cấp xã.
1.2.3.3. Thời kỳ 1987 - 1992
Năm 1987 luật đất đai đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ra đời tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho quy hoạch sử dụng đất.
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
đời, cụ thể tại Điều 17 trong hiến pháp nêu rõ: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước thống nhất quản lý” và Điều 18 hiến pháp nêu rõ: “Nhà nước
thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo đúng
mục đích và có hiệu quả.
1.2.3.4. Thời kỳ từ năm 1993 đến nay
Tháng 7 năm 1993 luật đất đai sửa đổi được công bố

Từ năm 1993 đến nay, Tổng cục địa Chính đã triển khai quy hoạch đất
đai tồn quốc giai đoạn 2006 - 2020. Dự án quy hoạch được Chính Phủ thơng
qua và Quốc hội phê chuẩn. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng quy hoạch
đất đai của bộ, ngành, tỉnh.
Luật đất đai năm 2003 quy định cụ thể về công tác quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất. Điều 21 quy định nguyên tắc, căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Điều 23 quy định về nội dung chủ yếu của quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Điều 25 quy định rõ cả 4 cấp hành chính trong cả nước phảo lập
quy hoạch sử dụng đất. Điều 26 quy định về thẩm quyền phê duyệt quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 29 thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Ngày 01/7/2004 Luật đất đai mới chính thức có hiệu lực. Luật quy định
rõ về cơng tác quản lý đất đai, trong đó nêu rõ nội dung, công tác quản lý quy
hoạch sử dụng đất.
Ngày 01/11/2004 Chính Phủ ban hành nghị định số 181/2004/NĐ-CP
về việc thi hành luật đất đai.


15

Ngày 01/11/2004 Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành thông tư số
30/2004/TT-BTNMT về việc hướng dẫn, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất.
1.2.4. Quy hoạch lâm nghiệp.
Quy hoạch lâm nghiệp là tiến hành phân chia, sắp xếp hợp lý về mặt
không gian tài nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh
doanh theo các cấp quản lý lãnh thổ và các cấp quản lý sản xuất khác nhau,
làm cơ sở cho việc lập kế hoạch định hướng cho sản xuất kinh doanh lâm
nghiệp đáp ứng nhu cầu lâm sản cho nền kinh tế quốc dân, cho kinh tế địa
phương, đồng thời phát huy những tác dụng có lợi khác của rừng.
Ở nước ta quy hoạch lâm nghiệp được áp dụng ngay từ thời kì Pháp

thuộc. Như việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi. Điều
chế rừng Thông theo phương pháp hạt đều...
Trong những năm 1955 – 1957 tiến hành sơ thám và mô tả ước lượng tài
nguyên rừng. Đến năm 1958 – 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền
Bắc. Và mãi đến năm 1960 – 1964 chúng ta mới áp dụng công tác quy hoạch
lâm nghiệp ở miền Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm
nghiệp ngày càng được tăng cường, mở rộng và phát triển. Công tác quy
hoạch được Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều
tra quy hoạch của các Sở Lâm nghiệp (nay là sở Nông Nghiệp và Phát triển
nông thôn) không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm
nghiệp của các nước cho phù hợp với trình độ và điều kiện tài nguyên rừng ở
nước ta. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch
lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy, những
nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, kỹ thuật và tài nguyên rừng làm cơ sở
cho công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa nghiên cứu và áp dụng.


16

Căn cứ theo chiến lược phát triển lâm nghiệp Quốc gia giai đoạn 2006 2020 thì một trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá là:
“Công tác quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới,
chưa kết hợp chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, cịn mang nặng tính
bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch được 3 loại rừng hợp lý và
chưa thiết lập được lâm phần ổn định trên thực địa...” Đây chính là nhiệm vụ
nặng nề và cấp bách đối với ngành lâm nghiệp ở nước ta hiện nay. (Chiến
lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020)
Các văn bản chính sách Nhà nước đề cập đến quy hoạch phát triển lâm
nghiệp thể hiện qua: Hiến pháp của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 nêu “ Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo qui hoạch
và phát luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Nhà nước giao đất

cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Luật đất
đai năm 1993 quy định rõ 6 loại đất và 5 quyền sử dụng, tuỳ theo từng loại đất
và mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng.
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở
cho quy hoạch lâm nghiệp. Theo biên bản hội thảo quốc gia về “Quy hoạch
sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp” năm 1997, nhiều ý kiến cho rằng cần
phải nghiên cứu thống nhất giữa hai luật: Luật đất đai và Luật bảo vệ và phát
triển rừng trong quy hoạch và giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp, xác định rõ
vai trò của địa phương trong quy hoạch và giao đất rừng. Năm 1999, thực
hiện tổng kiểm kê rừng toàn quốc nhằm chuẩn bị cho thực hiện Dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp, nhiều địa phương đã lập
dự án quy hoạch rừng của địa phương. Kể từ đó, cơng tác quy hoạch rừng
ngày càng được quan tâm.
Từ trước tới nay, công tác quy hoạch lâm nghiệp đã được triển khai trên
toàn quốc ở nhiều cấp độ quy mô khác nhau phục vụ cho mục tiêu phát triển


17

ngành. Song căn cứ vào yêu cầu, trong mỗi giai đoạn cụ thể, trong từng thời
điểm, căn cứ vào nguồn vốn được cấp và yêu cầu mức độ kỹ thuật khác nhau
mà nội dung các phương án quy hoạch dự án đầu tư cũng được điều chỉnh cho
phù hợp.
Theo nghị định 52/1999 NĐ-CP ngày 8/7/1999 của chính phủ về việc ban
hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, thì phần lớn các phương án quy
hoạch lâm nghiệp đều thuộc dạng quy hoạch tổng thể. Chỉ có các dự án chuẩn
bị đầu tư là thể hiện được nội dung của báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo
cáo nghiên cứu khả thi. Song, do đặc thù của lâm nghiệp (địa bàn rộng, địa
hình chia cắt phức tạp , tư liệu sản xuất là đất đồi núi và sinh vật sống...) nên
các phương án quy hoạch lâm nghiệp cũng mang những đặc thù riêng biệt,

không thể theo khuôn mẫu quy định như các điều 23, 24 trong nghị định 52
( chủ yếu áp dụng cho các cơng trình cơng nghiệp, xây dựng cơ bản). Các
cơng trình quy hoạch lâm nghiệp lâu nay vẫn thường được gọi là “Các cơng
trình quy hoạch và chuẩn bị đầu tư”. Căn cứ vào mức độ và tính chất quy
hoạch có thể phân thành các loại sau:
- Quy hoạch sơ bộ:
Xây dựng kế hoạch dài hạn mang tính chiến lược, trong đó đánh giá tình
hình hoạt động và dự báo xu thế phát triển chung của ngành trên phạm vi thế
giới, quốc gia hay lãnh thổ. Đây sẽ là những nội dung cơ bản mang tính chất
định hướng cho quy hoạch phát triển ngành trong cả thời kỳ quy hoạch, làm
cơ sở cho việc triển khai các bước quy hoạch tiếp theo. Sản phẩm quy hoạch
bao gồm: Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh và quốc gia, các đề án tổng
quan, báo cáo định hướng phát triển...
- Quy hoạch tổng thể:
Nhằm đánh giá chính xác tiềm năng thông qua các yếu tố cần thiết cho
mục tiêu phát triển ngành. Quy hoạch tổng thể là cơ sở cho việc lập kế hoạch


18

dài hạn, trung hạn, ngắn hạn và hoàn thiện cơ chế chính sách, tổ chức sản xuất
và quản lý ngành lâm nghiệp. Quy hoạch phát triển bao gồm các công trình
mang tính chất chun ngành và cả những cơng trình đòi hỏi sự phối hợp liên
ngành nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành.
+ Quy hoạch chuyên ngành bao gồm:
 Quy hoạch các loại rừng phòng hộ, đặc dụng, sản xuất của tỉnh, vùng và toàn quốc.
 Quy hoạch các vùng trọng điểm lâm nghiệp, quy hoạch các vùng rừng
nguyên liệu công nghiệp tập trung....
+ Quy hoạch đòi hỏi sự phối hợp đa ngành bao gồm:
 Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh, vùng và toàn quốc.

 Các phương án quy hoạch sử dụng nguồn nước bền vững theo các lưu
vực sông Đà, sông Hồng, sông MêKông....
- Quy hoạch chi tiết:
- Là những dự án đầu tư xây dựng cho từng cơng trình cụ thể, sau khi
được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ được ghi vào kế hoạch để chuẩn bị đầu
tư. Những dự án loại này bao gồm:
+ Các dự án xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn các sông, hồ....
+ Dự án xây dựng các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu
rừng văn hoá - lịch sử – môi trường.
+ Dự án xây dựng các khu nguyên liệu công nghiệp giấy, ván nhân tạo, gỗ
trụ mỏ....
Với 3 mức độ quy hoạch nêu trên thì yêu cầu về nội dung và phương pháp
trong công tác điều tra thu thập số liệu, xử lý tính tốn cũng như quy cách
chất lượng sản phẩm của mỗi loại quy hoạch không như nhau. Quy hoạch sơ
bộ chỉ nhằm xác định những nội dung chính mang tính định hướng phát triển
của ngành cho cả thời kỳ quy hoạch và thường khơng xác định vốn đầu tư và
phân tích hiệu quả kinh tế. Quy hoạch tổng thể phải tiến hành quy hoạch sử


19

dụng đất đai; quy hoạch phân chia 3 loại rừng; xác định các giải pháp lâm
sinh và các giải pháp thực hiện mục tiêu quy hoạch; khái toán nhu cầu đầu tư
(về vốn, lao động); đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và mơi trường; Xác định
các cơng trình, dự án trọng điểm cần ưu tiên tư. Đối với quy hoạch chi tiết địi
hỏi sự chính xác và chi tiết trong tất cả các khâu công việc: Điều tra cơ bản,
thu thập các tài liệu và văn bản liên quan; tổng hợp tính tốn và phân tích các
loại tài liệu cơ bản về tài nguyên rừng, quỹ đất, năng xuất và cơ cấu cây trồng,
các định mức kinh tế kỹ thuật, giá cả thị trường ...để làm cơ sở cho việc xây
dựng các hạng mục và khối lượng đầu tư, các giải pháp thực hiện theo nội

dung quy hoạch; tính tốn đầy đủ nhu cầu đầu tư (vốn, lao động, thiết bị);
phân kỳ đầu tư; phân tích hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.
* Đặc thù của công tác quy hoạch lâm nghiệp;
- Địa bàn quy hoạch lâm nghiệp rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả vùng
ven biển, trung du, núi cao và biên giới, hải đảo), thường có địa hình cao, dốc,
chia cắt phức tạp và giao thơng đi lại khó khăn, có nhiều ngành kinh tế hoạt động.
- Là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp
kém, kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất tinh thần cịn gặp nhiều
khó khăn. Đối tượng của công tác quy hoạch lâm nghiệp là rừng và đất lâm
nghiệp, từ bao đời nay là “của chung” của đồng bào các dân tộc nhưng thực
chất là vô chủ.
- Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8-10 năm, dài 40-100
năm); con người chỉ tự giác bỏ vốn tham gia trồng rừng nếu biết chắc chắn sẽ
có lợi.
- Mục tiêu của quy hoạch lâm nghiệp cũng rất đa dạng: Quy hoạch rừng
phòng hộ (phòng hộ đầu nguồn, phong hộ ven biển, phịng hộ mơi trường);
rừng đặc dụng (các vườn Quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu di
tích văn hố, lịch sử, danh thắng) và quy hoạch phát triển các loại rừng sản xuất.


20

- Quy mô của công tác quy hoạch lâm nghiệp bao gồm cả tầm vĩ mô và vi
mô; Quy hoạch tồn quốc, từng vùng lãnh thổ, từng tỉnh, huyện, xí nghiệp,
lâm trường, quy hoạch phát triển lâm nghiệp xã và làng lâm nghiệp.
- Lực lượng tham gia làm công tác quy hoạch lâm nghiệp thường luôn phải
lưu động, điều kiện ăn ở khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn về mọi mặt....
Đội ngũ cán bộ xây dựng phương án quy hoạch cũng rất đa dạng, bao gồm cả
lực lượng của trung ương và địa phương, thậm chí các ngành khác cũng tham
gia làm quy hoạch lâm nghiệp (nông nghiệp, cơng an, qn đội...), trong đó có

một bộ phận được đào tạo bài bản qua các trường lớp, song phần lớn chỉ dựa
vào kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong ngành lâm nghiệp.
1.2.4.1. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ.
Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành
chính: Từ toàn quốc tới tỉnh (Thành phố trực thuộc trung ương), huyện (thành
phố trực thuộc tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát triển mỗi đơn vị
đều phải xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội,
quy hoạch phát triển các ngành sản xuất và qui hoạch dân cư, phát triển xã
hội...
Ở những đối tượng có tiềm năng phát triển lâm nghiệp thì quy hoạch lâm
nghiệp là một vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc phát triển sản xuất nghề
rừng nói riêng và góp phần phát triển kinh tế, xã hội nói chung trên địa bàn.
1) Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc: Quy hoạch lâm nghiệp toàn quốc là
quy hoạch phát triển sản xuất lâm nghiệp trên phạm vi lãnh thổ quốc gia.
2) Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh.
Quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh giải quyết những vấn đề: Xác định phương
hướng nhiệm cụ phát triển lâm nghiệp trong phạm vi tỉnh căn cứ vào phương
hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, căn cứ quy hoạch lâm
nghiệp toàn quốc đồng thời căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của


21

tỉnh, căn cứ vào điều kiện đất đai tài nguyên rừng, đồng thời căn cứ vào nhu
cầu phòng hộ và cỏc nhu cu c bit khỏc.
3) Quy hoạch lâm nghiệp cÊp huyÖn.
Quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện về cơ bản các nội dung quy hoạch lâm
nghiệp cũng tương tự như quy hoạch lâm nghiệp tỉnh, tuy nhiên nó được thực
hiện cụ thể, chi tiết hơn và được tiến hành trên phạm vi địa bàn huyện. Quy
hoạch lâm nghiệp huyện đề cập giải quyết các vấn đề sau:

- Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổng thể kinh tế - xã hội
của huyện, căn cứ vào phương án phát triển lâm nghiệp của tỉnh và điều kiện
tự nhiên kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện tài nguyên rừng của huyện để
xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển trên địa bàn huyện.
- Căn cứ phương hướng phát triển lâm nghiệp huyện và điều kiện đất đai
tài nguyên rừng, nhu cầu phòng hộ và các nhu cầu đặc biệt khác. Tiến hành
quy hoạch đất lâm nghiệp trong huyện theo 3 chức năng: sản xuất, phòng hộ
và đặc dụng.
- Quy hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng tài nguyên rừng hiện có.
- Quy hoạch các biện pháp tái sinh rừng: Trồng rừng, khoanh nuôi phục
hồi rừng tự nhiên. Quy hoạch thực hiện nông lâm kết hợp và sản xuất hỗ trợ
trên đất lâm nghiệp.
- Quy hoạch khai thác lợi dụng lâm đặc sản, chế biến lâm sản gắn liền
với thị trường tiêu thụ.
- Quy hoạch tổ chức sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch đất lâm nghiệp cho
các thành phần kinh tế trong huyện, tổ chức phát triển lâm nghiệp xã hội.
- Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải.
- Xác định tiến độ thực hiện.


22

Thời gian quy hoạch lâm nghiệp cấp huyện thường là 10 năm. Các nội
dung quy hoạch lâm nghiệp cũng cần phải phù hợp với phương hướng phát
triển kinh tế - xã hội chung của từng tiểu vùng trong huyện.
4). Quy hoạch lâm nghiệp cấp xã.
Xã là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là đơn vị cơ bản quản lý và tổ chức sản
xuất lâm nghiệp trong các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. Quy hoạch
lâm nghiệp trên địa bàn xã cần chi tiết cụ thể hơn và được tiến hành trong thời
gian 10 năm.

Về cơ bản nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ từ
toàn quốc đến tỉnh, huyện, xã là tương tự nhau. Tuy nhiên mức độ giải quyết
khác nhau về chiều sâu và chiều rộng tuỳ theo các cấp.
1.2.4.2. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh.
Quy hoạch cho các cấp quản lý kinh doanh bao gồm: Quy hoạch liên
hiệp các lâm trường, công ty lâm nghiệp. Quy hoạch lâm nghiệp cho các đối
tượng khác ( Quy hoạch cho các khu rừng phòng hộ, quy hoạch các khu rừng
đặc dụng và quy hoạch phát triển sản xuất lâm nông nghiệp cho các cộng
đồng làng bản và trang trại lâm nghiệp hộ gia đình ). Các nội dung quy hoạch
lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo
điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất
lâm nghiệp mà lựa chọn các nội dung quy hoạch cho phù hợp.


23

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát:
Quy hoạch lâm nghiệp phát triển ổn định cho huyện Quan s¬n-tØnh
Thanh hãa trong 10 năm (giai đoạn 2011 - 2020).
2.1.2. Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích điều kiện cơ bản ảnh hưởng đến phát triển lâm nghiệp huyện.
- Đánh giá tình hình sản xuất lâm nghiệp và dự báo nhu cầu lâm sản.
- Xác định được định hướng, nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp.
- Đề xuất các nội dung cơ bản cho quy hoạch lâm nghiệp.
- Phân tích hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của phương án quy hoạch.
- Đề xuất giải pháp thực hiện.

2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Rừng và đất lâm nghiệp của huyện
Quan s¬n-tØnh Thanh Hãa (79.993,65 ha).
- Phạm vi nghiên cứu:
+13 xã, thị trấn có rừng và đất lâm nghiệp của huyện Quan s¬n.
+ Các hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển sản xuất kinh doanh lâm
nghiệp, cơ chế chính sách, luật pháp liên quan.
2.3. Nội dung của đề tài, các vấn đề cần giải quyết:
2.3.1. Cơ sở quy hoạch lâm nghiệp huyện Quan s¬n.
(1) Cơ sở pháp lý: Tìm hiểu các luật, văn bản dưới luật và các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến quy hoạch lâm nghiệp (Luật,
Quy định, tiêu chuẩn, vv…)


×