Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và đa dạng loài của rừng trên núi đá vôi tại vườn quốc gia xuân sơn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

PHẠM THANH LOAN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ ĐA DẠNG LOÀI
CỦA RỪNG TRÊN NÚI ĐÁ VÔI TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN SƠN
- TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2009


1

LỜI NĨI ĐẦU

Trong q trình học tập và thực hiện luận văn Thạc sỹ Khoa học Lâm
nghiệp, tôi luôn nhận được sự động viên, giúp dỡ nhiệt tình của nhà trường,
các cơ quan và bạn bè đồng nghiệp.
Nhân dịp này, cho phép tôi gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo
Trường Đại học Lâm nghiệp, Trường Đại học Hùng Vương, Ban quản lý
VQG Xuân Sơn, đồng bào dân tộc tại khu vực nghiên cứu đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tơi trong q trình thu thập và xử lý số liệu. Đặc biệt cho tơi bày
tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn Hải Tuất, người đã trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo, động viên tôi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tơi gửi lời cảm ơn chân thành tới các bạn bè, các bạn đồng


nghiệp gần xa và những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ tơi
hồn thành luận văn này.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế, đề
tài mới chỉ nghiên cứu được một số đặc điểm cấu trúc, đa dạng loài trên núi
đá vôi tại VQG Xuân Sơn – tỉnh Phú Thọ. Do vậy, đề tài khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học cùng bạn bè đồng nghiệp để luận văn
được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Tây, tháng 3 năm 2009.
Tác giả

Phạm Thanh Loan


2

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi là một hệ sinh thái có tính đặc thù về
đa dạng sinh học, cấu trúc và tác dụng phong phú về giá trị cảnh quan, môi
trường và kinh tế. Tuy nhiên, hệ sinh thái này cũng rất mỏng manh, một khi
đã bị phá huỷ thì rất khó có thể tái tạo, phục hồi trở lại. Những cảnh quan núi
đá khô, trọc, mất rừng có thể thấy được ở Đà Bắc (Hồ Bình); Hạ Long
(Quảng Ninh); Kim Bảng (Hà Nam); Ý Yên (Nam Định); Hoa Lư, Tam Điệp,
Kim Sơn (Ninh Bình); Hà Trung, Triệu Sơn (Thanh Hoá); Yên Thành
(Nghệ An),... Việt Nam có diện tích núi đá vơi là 1.147.100 ha (Viện Nghiên
cứu Địa chất và Khoáng sản - 2005), chiếm khoảng 3% diện tích lãnh thổ tồn
quốc, trong khi đó rừng trên núi đá vơi chỉ cịn 396.200 ha, phân bố chủ yếu
từ Quảng Bình trở ra. Do tác động của con người trong nhiều thập kỷ đã làm

chất lượng rừng bị suy giảm rất nhiều, hiện nay rừng có trữ lượng trung bình
chỉ cịn khoảng 5%, tồn tại hầu hết ở các khu vực xa xôi hẻo lánh và khu rừng
đặc dụng như: Xuân Sơn, Tây Côn Lĩnh, Ba Bể, Na Hang, Phong Nha Kẻ Bàng,... Như vậy, công tác nghiên cứu, bảo tồn và phát triển hệ sinh thái
mỏng manh này có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
VQG Xuân Sơn có nhiều kiểu rừng độc đáo, bao gồm: Rừng nhiệt đới
thường xanh cịn mang tính ngun sinh ít bị tác động phân bố trên núi đất và
núi đá vơi vùng thấp; rừng á nhiệt đới ít bị tác động trên núi đất và núi đá vôi;
rừng thứ sinh nhiệt đới và á nhiệt đới; trảng cỏ cây bụi, cây gỗ; hệ sinh thái
nương rẫy; hệ sinh thái đồng ruộng. Đặc biệt, trong khu vực còn tồn tại
2.432 ha rừng trên núi đá vơi, trong đó có 883 ha phân bố ở độ cao trên
700 m.
Hiện nay, các công trình nghiên cứu về rừng trên núi đá vơi nói chung
và ở VQG Xn Sơn nói riêng cịn nhỏ lẻ, chưa đầy đủ và mang tính hệ


3

thống, dẫn tới những hiểu biết về rừng trên núi đá vơi cịn rất ít. Xuất phát từ
thực tiễn đó, tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và đa dạng loài của rừng trên
núi đá vôi tại Vườn Quốc Gia Xuân Sơn – tỉnh Phú Thọ”.


4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
1.1.1.1. Cấu trúc tổ thành

Theo Richard P.W (1952) [15], trong rừng mưa nhiệt đới, trên mỗi
hecta ln có hơn 40 lồi cây gỗ, có trường hợp cịn trên 100 lồi. Nhiều lồi
cây gỗ lớn sinh trưởng hỗn giao với nhau theo tỷ lệ khá đồng đều, nhưng cũng
có khi có một hoặc hai lồi chiếm ưu thế.
Baur G.N (1962) [15], khi nghiên cứu rừng mưa ở khu vực gần Belem
trên sông Amazon, trên ô tiêu chuẩn diện tích khoảng 2 ha đã thống kê được
36 họ thực vật và trên ô tiêu chuẩn diện tích hơn 4 ha ở phía Bắc New South
Wales cũng đã ghi nhận được sự hiện diện của 31 họ chưa kể cây leo, cây
thân cỏ và thực vật phụ sinh.
Ở châu Á, trong rừng thứ sinh nhiệt đới vùng Shanxin – Trung Quốc,
Zeng và các cộng sự (1998) [15] đã thống kê được khoảng 280 loài cây dược
liệu, 80 lồi cây có dầu và 20 lồi cây có sợi cũng như một số lồi cây gỗ có
giá trị khác. Mức độ phong phú của thành phần thực vật trong rừng thứ sinh ở
Nepal cũng được Kanel K.R và Shrestha K. (2001) nghiên cứu, có trên 6.500
lồi cây có hoa và 4.064 lồi cây khơng hoa, trên 1.500 lồi nấm và hơn 350
loài địa y.
1.1.1.2. Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1.3)
Phân bố số cây theo cỡ đường kính là quy luật kết cấu cơ bản của lâm
phần và được các nhà Lâm học, Điều tra rừng quan tâm nghiên cứu. Đầu tiên
phải kể đến công trình nghiên cứu của Meyer (1934), ơng đã mơ phỏng phân
bố số cây theo đường kính bằng phương trình tốn học (hàm Meyer), mà dạng
của nó là đường cong giảm liên tục. J.L.F Batista và H.T.Z. Docuto (1992),


5

khi nghiên cứu 19 ơ tiêu chuẩn với 60 lồi cây của rừng nhiệt đới ở Maranhoo
– Brazin đã dùng hàm Weibull để mô phỏng phân bố N/D [27].
1.1.1.3. Quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N/Hvn)
Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của cấu trúc rừng nhiệt đới là

hiện tượng phân chia thành tầng. Để nghiên cứu sự phân tầng trong rừng mưa
ở Guana, Davis và Richard P.W (1933 – 1934) [15] đã dùng phương pháp vẽ
biểu đồ mặt cắt đứng của rừng, phương pháp này được đánh giá có giá trị nhất
về mặt nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn sản xuất. Kết quả đã phân rừng
hỗn giao nguyên sinh ở sông Moraballi tại Guana thành năm tầng với ba tầng
cây gỗ (A, B, C), tầng cây bụi (D) và tầng mặt đất (E).
Catinot. R (1974) [15] cũng cho rằng rừng ẩm nhiệt đới có sự phân hóa
mạnh, những tầng trong quần thụ rõ nét, cụ thể là có một tầng vượt tán với
những cây có chiều cao trên 40 m và những tầng bên dưới.
Tóm lại, mặc dù có các ý kiến trái ngược về sự phân tầng và phương
pháp thể hiện tầng tán trong rừng mưa nhiệt đới, nhưng quan điểm có sự phân
tầng trong rừng mưa nhiệt đới được nhiều nhà khoa học xác nhận.
1.1.1.4. Tương quan giữa chiều cao với đường kính (Hvn/D1.3)
Qua nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy, chiều cao tương ứng với
mỗi cỡ kính ln tăng theo tuổi, đó là kết quả tự nhiên của quá trình sinh
trưởng. Trong một cỡ kính xác định, ở các cấp tuổi khác nhau sẽ có cây thuộc
các cấp sinh trưởng khác nhau. Đối với rừng trồng, cấp sinh trưởng càng giảm
khi tuổi lâm phần tăng lên, dẫn đến tỷ lệ H/D tăng theo tuổi. Từ đó đường
cong quan hệ giữa H và D có thể bị thay đổi dạng và ln dịch chuyển về phía
trên khi tuổi lâm phần tăng lên. Prodan. M và Dittmar. O (1965) cho rằng, độ
dốc đường cong chiều cao có xu hướng giảm dần khi tuổi tăng lên. Curtis.
R.O (1967) [27] đã mô phỏng quan hệ chiều cao (H) với đường kính (D) và
tuổi (A) theo dạng phương trình:


6

LogH  D  b1

1

1
1
 b2  b3
D
A
D. A

Sau đó, tác giả nắn theo từng định kỳ 5 năm, tương ứng với định kỳ
kiểm tra tài nguyên rừng Linh sam, tại từng tuổi nhất định phương trình
có dạng:
LogH  b0  b1

1
D

1.1.1.5. Tương quan giữa đường kính tán với đường kính thân cây (Dt/D1.3)
Qua nghiên cứu, nhiều tác giả đã đi đến kết luận là có mối quan hệ mật
thiết giữa giữa đường kính tán và đường kính ngang ngực như: Zieger,
Ilvessalo, Willing [27],… Tùy theo loài cây và điều kiện khác nhau, mối quan
hệ này được thể hiện khác nhau, nhưng phổ biến nhất là dạng phương trình
đường thẳng:
Dt = a + b.D1.3
1.1.2. Nghiên cứu về đa dạng sinh học khu hệ thực vật
Các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu về hệ thực vật đầu tiên trên thế
giới bắt đầu vào thập kỷ 60 của thế kỷ 19, điển hình là: thực vật chí
Hồng Kơng (1861), thực vật chí Ấn Độ (1872) gồm 7 tập, thực vật chí Hải
Nam (1972 – 1977). Ở Nga, A.I. Tolmachop (1928 – 1932) khi nghiên cứu về
hệ thực vật rừng nhiệt đới đã đưa ra nhận định: Số loài trong một hệ thực vật
thường là 1500 – 2000 loài [24].
Về khu hệ thực vật Đơng Dương có các cơng trình nghiên cứu: Thực vật

Đông Dương gồm 8 tập của H. Lecomte (1905), rừng Đông Dương của
H. Guibier (1926) [25],…
1.1.3. Nghiên cứu về quản lý rừng bền vững
Ở Mỹ, Richard (1991) [4] đã nêu lên: “Rừng phải bền vững như thế
nào”. Vấn đề này ông đưa ra 8 câu trả lời:
- Chủ yếu là bền vững về sản phẩm


7

- Bền vững về xã hội
- Bền vững về lợi ích nhân loại
- Bền vững về thôn địa cầu
- Bền vững về khả năng tự duy trì hệ sinh thái
- Bền vững về loại hình sinh thái
- Bền vững về đảm bảo an toàn hệ sinh thái
- Bền vững hệ sinh thái hạt nhân và ơng chỉ rõ phải có phương thức
kinh doanh tổng hợp
Ở Ca Na Đa, tháng 8 năm 1990 thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp Canada,
Maini [4] đưa ra khái niệm “Phát triển lâm nghiệp bền vững”. Ông định
nghĩa khái niệm này là: Phát triển bền vững đất rừng và giá trị môi trường,
bao gồm cả đảm bảo năng lực sản xuất của đất rừng, khả năng tái sinh, tính đa
dạng lồi và hệ sinh thái khơng tổn thất.
Với định nghĩa “Quản lý rừng bền vững” là quá trình quản lý đất rừng
cố định để đạt được một hoặc nhiều mục tiêu được xác định rõ ràng của công
tác quản lý trong vấn đề sản xuất liên tục các lâm sản và dịch vụ rừng mà
không làm giảm đi đáng kể những giá trị vốn có và khả năng sản xuất sau này
của rừng và không gây ra những ảnh hưởng tiêu cực thái quá đến môi trường
và xã hội”. Tổ chức gỗ nhiệt đới (ITTO) đã xây dựng bảng tiêu chuẩn và chỉ
thị (Criteria and Indicators – C&I) cho việc quản lý rừng tự nhiên, theo đó

bên cạnh những vấn đề kỹ thuật như sản lượng, chất lượng bền vững, các vấn
đề kinh tế xã hội, chính sách, thể chế được nhấn mạnh như là những điều kiện
tiên quyết cho sự thành công của công tác quản lý rừng.
Tháng 9/1998, các nước trong khu vực Đông Nam Á đã họp hội nghị lần
thứ 18 tại Hà Nội để thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu chí
và chỉ số vùng ASEAN về quản lý rừng bền vững (viết tắt là C&I ASEAN).


8

C&I của ASEAN bao gồm 7 tiêu chí và chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc
gia và cấp đơn vị quản lý [9].
1.1.4. Nghiên cứu về rừng trên núi đá vôi
Ở Trung Quốc, trong thời kỳ 1985 – 1998 [33], Viện Lâm nghiệp
Quảng Đông và Quảng Tây đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của
một số lồi cây trồng trên núi đá vơi như: Tơng dù, Dầu choòng, Xoan nhừ,
Lát hoa, Bạch đàn, Nghiến. Những kết quả nghiên cứu đó đã được tổng kết sơ
bộ sau nhiều hội thảo khoa học ở Học viện Lâm nghiệp Bắc Kinh với sự tham
gia của nhiều nhà Lâm nghiệp đầu ngành của nước này. Các hướng dẫn tạm
thời về kỹ thuật phục hồi rừng trên núi đá vôi áp dụng cho vùng nghiên cứu
đã được xây dựng cho một số lồi như: Tơng dù, Lát hoa, Xoan nhừ,….
Tuy nhiên, những nguyên lý về phục hồi và phát triển rừng trên núi đá chưa
được tổng kết một cách có hệ thống nên chưa thể áp dụng cho các vùng khác.

Nhận xét:
Trên thế giới, các cơng trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng tự
nhiên rất phong phú và đa dạng. Hầu hết các tác giả đã đi sâu vào việc tìm ra
hàm tốn học thích hợp mơ phỏng các quy luật phân bố thực nghiệm và quy
luật tương quan. Bên cạnh đó là những nghiên cứu về tính đa dạng sinh học
của khu hệ thực vật đã được bắt đầu tiến hành từ thế kỷ 19. Tuy nhiên, các tác

giả mới chỉ thiên về việc xác định tên loài và số lượng lồi có trong khu vực,
chưa có những nghiên cứu mang tính định lượng. Đồng thời, cơng tác quản lý
bền vững tài nguyên rừng đã được các tác giả cũng như nhiều quốc gia trên
thế giới quan tâm và đang trong giai đoạn những bước đi ban đầu. Nhưng các
cơng trình nghiên cứu về rừng trên núi đá vơi thì hầu như rất ít, mới chỉ có
một số nghiên cứu của Trung Quốc về đặc điểm sinh trưởng của một số lồi
cây trên núi đá vơi, cịn rất khiêm tốn và đang trong giai đoạn thử nghiệm.


9

Vì vậy, hướng nghiên cứu về rừng trên núi đá vôi đang rất rộng mở đối với
các nhà Lâm nghiệp.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về phân loại trạng thái rừng
Mục đích chủ yếu của phân loại rừng là nhằm xác định các đối tượng
rừng với những đặc trưng cấu trúc cụ thể, từ đó lựa chọn, đề xuất các biện
pháp lâm sinh thích hợp để điều khiển, dẫn dắt rừng đạt trạng thái chuẩn.
Loeschau (1966) đã phân loại rừng theo trạng thái hiện tại trong cơng
trình: Phân chia kiểu trạng thái và phương hướng kinh doanh rừng hỗn giao lá
rộng thường xanh nhiệt đới. Viện Điều tra Quy hoạch rừng đã dựa trên hệ
thống phân loại của Loeschau cải tiến cho phù hợp với đặc điểm rừng tự
nhiên của Việt Nam và cho đến nay vẫn áp dụng hệ thống phân loại này
(QPN 6 – 84) [37].
Thái Văn Trừng (1978) [20] đứng trên quan điểm sinh thái đã chia rừng
Việt Nam thành 14 kiểu thảm thực vật. Đây là cơng trình tổng qt, đáp ứng
được u cầu về quy luật sinh thái. Xuất phát từ tính đa dạng, phong phú của
rừng nhiệt đới, Thái Văn Trừng đưa ra kết luận: Không thể dùng quần hợp
thực vật làm đơn vị phân loại cơ bản như các tác giả kinh điển đã sử dụng ở
vùng ơn đới. Ơng đề xuất dùng kiểu thảm thực vật làm đơn vị phân loại cơ

bản và lấy hình thái, cấu trúc quần thể làm tiêu chuẩn phân loại.
Bảo Huy (1993) [20] đã xác định trạng thái hiện tại của các lâm phần
Bằng Lăng ở Tây Nguyên theo hệ thống phân loại của Loeschau, đồng thời
tác giả cũng xác định các loại hình xã hợp thực vật với các ưu hợp khác nhau
thông qua trị số IV%.
Lê Sáu (1996) [18], Trần Cẩm Tú (1999) [27], Nguyễn Thành Mến
(2005) [15] khi phân loại trạng thái rừng tự nhiên tại Kon Hà Nừng –
Tây Nguyên, Hương Sơn – Hà Tĩnh, Phú Yên đã dựa trên hệ thống phân loại


10

rừng của Loeschau (1960) đã được Viện Điều tra Quy hoạch rừng Việt Nam
bổ sung (QPN6 – 84).
Gần đây một số tác giả đã sử dụng mơ hình tốn học để phân loại trạng
thái rừng, điển hình như: Ngơ Út (2003), bước đầu định lượng hoá việc phân
loại các trạng thái rừng thuộc kiểu rừng kín thường xanh và nửa rụng lá vùng
Đông Nam Bộ; Nguyễn Văn Thêm (2003), ứng dụng hàm lập nhóm trong
phân loại trạng thái rừng và đưa ra kết luận: Các trạng thái rừng theo hệ thống
phân loại của Loeschau có thể được nhận biết chính xác thơng qua các hàm
phân loại tuyến tính như Fisher được xây dựng dựa trên nhiều biến số định
lượng. Ngô Út, Nguyễn Phú Hùng (2003) đưa ra một số ý kiến về cải thiện hệ
thống phân chia trạng thái rừng lá rộng thường xanh Việt Nam… Các tác giả
này đã nghiên cứu và đề xuất các ý kiến nhằm bổ sung cho hệ thống phân loại
trạng thái rừng của Việt Nam, khả năng ứng dụng hàm toán học trong phân
chia trạng thái rừng.
Như vậy, các tác giả đều cho rằng: Việc phân loại trạng thái rừng ở
Việt Nam là rất cần thiết trong công tác nghiên cứu cũng như sản xuất kinh
doanh. Tùy các mục tiêu cụ thể mà lựa chọn các phương pháp phân loại khác
nhau, nhưng đều nhằm làm rõ hơn các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.

1.2.2. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
1.2.2.1. Cấu trúc tổ thành
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc sinh thái và hình
thái của rừng. Tổ thành rừng là chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá mức độ
đa dạng sinh học, tính ổn định, tính bền vững của hệ sinh thái rừng. Cấu trúc
tổ thành đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam đề cập trong cơng trình
nghiên cứu của mình.
Bảo Huy (1993), Đào Cơng Khanh (1995) [5] khi nghiên cứu tổ thành
loài cây đối với rừng tự nhiên ở Đắc Lăk và Hương Sơn – Hà Tĩnh đều xác


11

định: Tỷ lệ tổ thành của các nhóm lồi cây mục đích, nhóm lồi cây hỗ trợ và
nhóm lồi cây phi mục đích cụ thể, từ đó đề xuất biện pháp khai thác thích
hợp cho từng đối tượng theo hướng điều chỉnh tổ thành hợp lý.
Lê Sáu (1996) [18], Trần Cẩm Tú (1999) [27] khi nghiên cứu cấu trúc
rừng tự nhiên ở Kon Hà Nừng – Tây Nguyên và Hương Sơn – Hà Tĩnh đã xác
định danh mục các loài cây cụ thể theo cấp tổ thành và các tác giả đều kết
luận sự phân bố của số loài cây theo cấp tổ thành tuân theo luật
phân bố giảm.
1.2.2.2. Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1.3)
Thống kê các cơng trình nghiên cứu về rừng tự nhiên ở Việt Nam cho
thấy: Phân bố N/D1.3 của tầng cây cao (D ≥ 6 cm) có 2 dạng chính:
- Dạng giảm liên tục và có nhiều đỉnh phụ hình răng cưa
- Dạng một đỉnh hình chữ J
Với mỗi dạng cụ thể, các tác giả đã chọn những mơ hình tốn học thích
hợp để mơ phỏng. Đồng Sỹ Hiền (1974), khi lập biểu thể tích cây đứng rừng
tự nhiên miền Bắc Việt Nam đã đưa ra kết luận: Dạng tổng quát của phân bố
N/D là phân bố giảm, nhưng do quá trình khai thác chọn thơ khơng theo quy

tắc nên đường thực nghiệm có dạng hình răng cưa. Với kiểu phân bố thực
nghiệm như vậy, tác giả đã dùng hàm Meyer và họ đường cong Pearson để
mô tả. Nguyễn Hải Tuất (1986) [14] đã sử dụng hàm Khoảng cách để mô tả
phân bố thực nghiệm dạng một đỉnh ở ngay sát cỡ đường kính bắt đầu đo. Kết
quả mơ tả phân bố N/D theo hàm Khoảng cách đã được Trần Cẩm Tú (1999)
[27] kiểm nghiệm khi nghiên cứu đặc điểm rừng sau khai thác ở Hương Sơn –
Hà Tĩnh và cho kết quả tốt. Trần Văn Con (1991) [27] đã thử nghiệm một số
phân bố xác suất mô tả phân bố N/D và đưa ra nhận xét là phân bố Weibull
thích hợp nhất cho rừng tự nhiên ở Đắc Lăk.


12

Lê Sáu (1996) [18] khi nghiên cứu cấu trúc rừng tại Kon Hà Nừng –
Tây Nguyên đã kết luận: Hàm Weibull là thích hợp nhất khi mơ tả phân bố
N/D cho tất cả các trạng thái rừng tự nhiên, cho dù phân bố thực nghiệm có
dạng giảm liên tục hay một đỉnh.
Gần đây nhất, Nguyễn Thành Mến (2005) [15] đã khẳng định:
Hàm Weibull mô phỏng phân bố N/D trên các lâm phần sau khai thác tại tỉnh
Phú Yên là tốt nhất.
1.2.2.3. Quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N/Hvn)
Những nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974) cho thấy: Phân bố số cây
theo chiều cao (N/H) ở các lâm phần tự nhiên hay trong từng lồi cây thường
có nhiều đỉnh, phản ánh kết cấu phức tạp của rừng chặt chọn. Thái Văn Trừng
(1978), trong cơng trình nghiên cứu của mình đã đưa ra các kết quả nghiên
cứu cấu trúc của tầng cây gỗ rừng loại IV. Gần đây, một số tác giả khác như:
Bảo Huy (1993), Lê Sáu (1996), Trần Cẩm Tú (1999), Nguyễn Thành Mến
(2005),… đã nghiên cứu phân bố N/H để tìm tầng tích tụ tán cây. Các tác giả
đều đi đến nhận xét chung là: Phân bố N/H có dạng một đỉnh, nhiều đỉnh phụ
hình răng cưa và mơ tả thích hợp bằng hàm Weibull [15].

1.2.2.4. Tương quan giữa chiều cao với đường kính (Hvn/D1.3)
Trong điều tra rừng kinh doanh rừng, việc nghiên cứu mối quan hệ này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thơng qua tương quan Hvn/D1.3, dựa vào giá trị
ở từng cỡ kính để suy diễn giá trị chiều cao tương ứng mà khơng cần thiết đo
cao tồn bộ, từ đó làm cơ sở để xác định trữ lượng chung của lâm phần, xác
định kiểu trạng thái rừng, kết cấu rừng,… Từ đó đề xuất các biện pháp kỹ
thuật lâm sinh để điều chỉnh kết cấu rừng hiện tại tiến tới một kết cấu rừng
mới ổn định hơn.
Đồng Sỹ Hiền (1974) khi nghiên cứu rừng tự nhiên nước ta đã thử
nghiệm 5 dạng phương trình tương quan và cho thấy chúng đều phù hợp:


13

h  a 0  a1 .d  a 2 .d 2
Logh  a  b. log d
h  a  b. log d

h  a 0  a1 .d  a 2 . log d
h  a 0  a1 .d  a 2 .d 2  a3 .d 3

Vũ Văn Nhâm (1988) [7] sử dụng phương trình H = a + b.LogD để xác
lập quan hệ Hvn/D1.3 cho mỗi lâm phần Thông Đuôi Ngựa làm cơ sở lập biểu
thương phẩm.
Đào Công Khanh (1996), Trần Cẩm Tú (1999) [27] đã chọn phương
trình LogH = a + b.LogD để biểu diễn quan hệ Hvn/D1.3 cho rừng tự nhiên hỗn
loài ở Hương Sơn - Hà Tĩnh.
Nguyễn Thành Mến (2005) [15] khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên
lá rộng thường xanh sau khai thác ở tỉnh Phú Yên cho thấy:
hàm LogH = a + b.LogD biểu thị tốt nhất mối tương quan Hvn/D1.3 cho các xã

hợp thực vật nghiên cứu.
1.2.2.5. Tương quan giữa đường kính tán với đường kính thân cây (Dt/D1.3)
Vũ Đình Phương (1985) [24] đã thiết lập quan hệ Dt/D13 cho một số
loài cây lá rộng, như Ràng ràng, Lim xanh, Vạng trứng, Chò chỉ ở lâm phần
hỗn giao khác tuổi, qua đó tác giả khẳng định: quan hệ giữa Dt với D1.3 tuân
theo dạng phương trình đường thẳng.
Nguyễn Ngọc Lung và các cộng sự (1985) [24] đã xây dựng biểu tỉa
thưa tạm thời và biểu thể tích cây đứng tạm thời cho Keo lá tràm trên cơ sở
xác lập mối quan hệ Dt/D1.3 và mối quan hệ giữa các nhân tố điều tra với thể
tích thân cây.
Phạm Ngọc Giao (1996) [7] khi nghiên cứu mơ hình động thái các lâm
phần Thông đuôi ngựa khu vực Đông bắc đã xây dựng mơ hình động thái
tương quan Dt/D1.3 và cho thấy chúng tồn tại dưới dạng đường thẳng.


14

Trần Cẩm Tú (1999) [27] cũng sử dụng phương trình đường thẳng để
nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên phục hồi sau khai thác ở Hương Sơn Hà Tĩnh.
Nhìn chung, các tác giả trong nước khi xây dựng mối tương quan đều
có cùng quan điểm, tương quan Dt/D1.3 sử dụng phương trình đường thẳng để
mơ phỏng là thích hợp nhất. Trên cơ sở đó, dự đốn diện tích tán bình quân và
xác định mật độ tối ưu cho từng lâm phần.
1.2.3. Nghiên cứu về đa dạng sinh học khu hệ thực vật
Đã có nhiều tác giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu về đa dạng sinh
học, đặc biệt là đa dạng hệ thực vật. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên
cứu: “Thảm thực vật rừng Việt Nam” của cố GS.TS. Thái Văn Trừng
(1963, 1978) [5]. Tác giả đã tổng kết và cơng bố cơng trình nghiên cứu của
mình với 7.004 lồi thực vật bậc cao có mạch thuộc 1.850 chi và 189 họ ở
Việt Nam.

Viện Điều tra Quy hoạch rừng đã công bố 7 tập Cây gỗ rừng Việt Nam
(1971 – 1978) và được Vũ Văn Dũng dịch ra tiếng Anh (1996).
Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thị Thời (1998) đã giới thiệu 2.024 loài
thực vật bậc cao, 771 chi, 200 họ thuộc 6 ngành của vùng núi cao Sa Pa –
Phansipan.
Trần Ngọc Hải (2000) đã giới thiệu 1282 loài thuộc 660 chi và 176 họ
thực vật bậc cao có mạch phân bố ở VQG Tam Đảo và khẳng định: Tại khu
vực nghiên cứu, phân bố của các loài thực vật theo đai độ cao thể hiện khá rõ.
Nguyễn Nghĩa Thìn, Phạm Bình Quyền (2000) cơng bố cuốn: “Đa dạng
sinh học”.
Nguyễn Nghĩa Thìn (2003) cơng bố cuốn: “Đa dạng sinh học và tài
nguyên di truyền thực vật” nhằm cung cấp những cơ sở cho công tác nghiên
cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam.


15

Gần đây nhất, Danh lục thực vật Việt Nam của Nhà xuất bản
Nông nghiệp Hà Nội tập 1, 2, 3 (xuất bản năm 2003 – 2005) do tập thể nhiều
tác giả trong và ngoài ngành Lâm nghiệp biên soạn đã được xuất bản. Đây là
bộ sách đầy đủ nhất trong nghiên cứu hệ thực vật ở Việt Nam [17].
Phùng Đình Trung (2007) [34], khi so sánh tính đa dạng lồi của khu
vực phía Bắc và phía Nam đèo Hải Vân đã dựa trên cơ sở các chỉ số đa dạng:
Chỉ số mức độ phong phú của Kjayaraman, chỉ số Shannon – Weiner, chỉ số
Simpson, chỉ số đa dạng bằng lý thuyết thông tin, chỉ số hợp lý và tác giả đưa
ra một số nhận định: Mức độ phong phú của loài cũng như mức độ đa dạng
loài tầng cây gỗ và sự đồng đều về số lượng cá thể trong một lồi ở các khu
rừng phía Bắc cao hơn ở phía Nam đèo Hải Vân.
1.2.4. Nghiên cứu về quản lý rừng bền vững
1.1.3.1. Cơ sở lâm học để quản lý rừng tự nhiên bền vững

Theo Trần Văn Con [4], cơ sở lâm học để quản lý rừng tự nhiên bền
vững là: chúng ta phải xem xét hai nhóm đối tượng:
- Các nhân tố bên trong của hệ sinh thái
- Các nhân tố bên ngoài phụ thuộc vào cơ cấu thể chế xã hội.
Do vậy, cơ sở để quản lý rừng bền vững chính là kiến thức về các nhân
tố bên trong của hệ sinh thái rừng (kiến thức lâm học).
Hiện nay, hệ thống quản lý rừng ở các nước tiên tiến đều dựa vào:
- Một định nghĩa về “Rừng chuẩn” (bằng một mơ hình rừng có cấu trúc
phù hợp nhất với các mục đích quản lý)
- Kiến thức về quá trình tái sinh và diễn thế của rừng
- Sự cần thiết phải bảo tồn độ phì của đất và đa dạng sinh học
- Kiến thức về năng suất lập địa và sinh trưởng của các loài cây
kinh doanh


16

Cần phải xác định ngay rằng, đối với rừng tự nhiên nhiệt đới không dễ
dàng để xác định và đạt được các cơ sở nói trên. Đây là một thách thức đã dẫn
đến hai quan điểm cực đoan mà chúng ta cần tránh:
+ Thứ nhất, một số người cho rằng không thể đạt được kết quả khả
quan trong các cố gắng quản lý rừng nhiệt đới bền vững khi mà sự hiểu biết
về nó cịn q ít ỏi.
+ Thứ hai, một số khác cho rằng rừng nhiệt đới không phải là nguồn tài
nguyên có khả năng tái tạo do đó khơng thể quản lý nó theo phương thức bền
vững.
Chúng ta có thể thấy rằng: Khơng thể sử dụng một khu rừng nhiệt đới
mà vẫn giữ được nguyên trạng tính đa dạng sinh học, sự hỗn giao và kích
thước ban đầu của nó. Tuy nhiên, các kỹ thuật lâm sinh và các biện pháp quản
lý dựa trên cơ sở khoa học đúng đắn có thể được phát triển để bảo đảm tương

đối giá trị của tài nguyên rừng nhiệt đới.
1.1.3.3. Những mục tiêu cơ bản của quản lý rừng bền vững
- Bền vững về môi trường: Đảm bảo hệ sinh thái ổn định, giữ gìn bảo
tồn sản phẩm của rừng, đáp ứng khả năng phục hồi rừng trên quá trình tự
nhiên.
- Bền vững về xã hội: Phản ánh sự liên hệ giữa sự phát triển tài nguyên
rừng và tiêu chuẩn xã hội, khơng diễn ra ngồi sự chấp nhận của cộng đồng.
- Bền vững về kinh tế: Lợi ích mang lại lớn hơn chi phí đầu tư và được
truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ở Việt Nam cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu phân tích những yếu
tố ảnh hưởng đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Một số đề tài
nghiên cứu đã bước đầu đề xuất các giải pháp cụ thể áp dụng cho một số vùng
như quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê San của
Phạm Đức Lân và Lê huy Cường, quản lý bền vững rừng khộp ở Ea Súp -


17

Đăc Lắc của Hồ Viết Sắc, du canh với vấn đề quản lý rừng bền vững ở Việt
Nam của Đỗ Đình Sâm [9],…
Như vậy, quản lý rừng bền vững tức là điều kiển các hệ sinh thái rừng
sao cho rừng sẽ vừa đảm bảo đáp ứng được các nhu cầu kinh tế vừa thoả mãn
các lợi ích về mơi trường - xã hội một cách liên tục, lâu dài và các giải pháp
quản lý rừng về kỹ thuật, về kinh tế, xã hội phải được tiến hành một cách hợp
lý và đồng bộ.
1.2.5. Nghiên cứu về rừng trên núi đá vơi
Việt Nam có gần 20% diện tích lãnh thổ phần đất liền là đá vôi (khoảng
60.000 km2). Đá vôi chủ yếu tập trung ở các vùng núi miền Bắc, có nơi chiếm
một diện tích lớn của tồn tỉnh như: Hịa Bình (54%), Cao Bằng (49,47%),
Hà Giang (38,01%). Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Địa chất và

Khoáng sản Việt Nam, cả nước có 1.147.100 ha núi đá mà chủ yếu là núi đá
vơi, trong đó diện tích núi đá vơi có rừng là 396.200 ha [17].
Thái Văn Trừng (1978) trong quá trình phân loại thảm thực vật rừng
Việt Nam đã xem xét loại hình thực vật trên núi đá vơi. Theo đó, rừng trên núi
đá vơi được xác định thuộc kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên đất đá vôi
xương xẩu và nằm trong các kiểu thảm thực vật sau:
- Kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới (Rkx)
- Kiểu rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới (Rkn)
- Kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp (Rka)
- Kiểu rừng kín hỗn hợp cây lá rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới
núi thấp (Rkh)
Ngoài ra, tại những khu vực sau hoạt động nương rẫy hoặc những khu
rừng bị khai thác quá nhiều lần đến cạn kiệt ở nhiều tỉnh như: Lạng Sơn,
Cao Bằng, Hà Giang, Hịa Bình,… xuất hiện một số dạng thực bì có diện tích
tương đối lớn với những lồi cây bụi, cây gỗ nhỏ như: Ơ rơ, Mạy tèo,


18

Xẻn gai,… dạng thực bì này được gọi là Quần lạc cây bụi, cây gỗ rải rác trên
núi đá vôi.
Theo Nguyễn Bá Thụ (1995) [22], rừng trên núi đá vôi ở Cúc Phương
được xếp vào quần hệ phụ rừng rậm nhiệt đới thường xanh mưa mùa cây lá
rộng trên đất thấp (dưới 500 m so với mặt nước biển) thoát nước phong hóa từ
đá vơi và quần hệ phụ này gồm 6 quần xã, trong đó các lồi cây chính tham
gia gồm: Chò đãi, Sấu, Nhội, Vàng anh, Mạy tèo, Sâng, Dẻ gai, Re đá,
Côm lá lớn, Trường nhãn, Vải guốc, Mang cát, Hồng bì rừng, Ơ rơ.
Được sự tài trợ của Quỹ MC Athur, Viện Điều tra Quy hoạch rừng phối
hợp với một số cơ quan như: Viện Sinh thái Tài nguyên Sinh vật, Viện Dược
liệu, đã tiến hành điều tra, nghiên cứu về một số đặc điểm tài nguyên rừng và

đa dạng sinh học trên núi đá vôi, quản lý, bảo vệ, sử dụng tài nguyên rừng
trên núi đá vôi ở Cao Bằng và rải rác ở một số tỉnh khác như: Tuyên Quang,
Hà Giang [33],…
Trường Đại học Lâm nghiệp (1990 – 1999) đã tiến hành nghiên cứu
đặc điểm sinh vật học, sinh thái học và khả năng gây trồng các loài: Nghiến,
Mạy sao, Trai lý, Hoàng dàn, Dầu choòng, Xoan nhừ, Mắc mật,… ở một số
tỉnh biên giới phía Bắc và miền Trung nước ta. Hiện nay, một số loài được
trồng thử nghiệm tại một số địa phương như: Lạng Sơn, Cao Bằng,
Bắc Kạn [33].
Phạm Nhật (2002) , với cơng trình nghiên cứu về đa dạng động thực vật
một số vùng núi đá vôi ở Việt Nam đã đưa ra nhận xét: Số loài động - thực
vật ở 4 vùng núi đá vơi (Tân Hóa, Đa Phúc, Tự Do, Phú Linh) có tính đa dạng
khơng cao so với nhiều vùng ở Việt Nam, nhưng trong số loài thực vật ghi
nhận được thì số lồi cây thuốc chiếm tỷ lệ lớn [26].
Bùi Thế Đồi (2002), khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự
nhiên quần xã thực vật rừng trên núi đá vôi tại ba địa phương ở miền Bắc


19

Việt Nam cho thấy: thảm thực vật trên núi đá vơi tại Đa Phúc – Hịa Bình,
Tự Do – Cao Bằng, Tân Hóa – Quảng Bình thuộc kiểu rừng kín thường xanh
mưa ẩm nhiệt đới, bao gồm 5 kiểu phụ và 16 quần xã thực vật [6].
Nguyễn Thanh Nhàn (2006) [17], khi nghiên cứu tính da dạng hệ thực
vật trên núi đá vôi VQG Pù Mát cho thấy: Thảm thực vật trên núi đá vôi
VQG Pù Mát thuộc quần hệ rừng nhiệt đới thường xanh lá rộng mưa mùa. Hệ
thực vật có 494 lồi thuộc 323 chi và 112 họ, trong đó có 17 lồi cần phải bảo
vệ nghiêm ngặt.
Cơng trình nghiên cứu về rừng trên núi đá vơi ở Việt Nam toàn diện
nhất cho đến hiện nay là của Trần Hữu Viên (2004) [33] với cơng trình:

“Cơ sở khoa học xây dựng các giải pháp quản lý bền vững rừng trên núi đá
vôi ở Việt Nam”. Tác giả đã đưa nhận định: Rừng trên núi đá vôi là một hệ
sinh thái có tính đặc thù về đa dạng sinh học, cấu trúc. Đây cũng là hệ sinh
thái nhạy cảm, rất dễ bị phá vỡ, khó tái tạo lại và cho đến nay sự hiểu biết về
hệ sinh thái này vẫn rất hạn chế.
1.2.6. Một số cơng trình có liên quan đến khu vực nghiên cứu
Trần Thị Trang (2006) [23], khi nghiên cứu về vai trị của lâm sản
ngồi gỗ trong quản lý rừng bền vững tại vùng đệm VQG Xuân Sơn –
Phú Thọ cho thấy: Tài nguyên rừng vùng đệm VQG Xuân Sơn đã bị cạn kiệt
nghiêm trọng, tài nguyên lâm sản ngoài gỗ trong khu vực đa dạng về lồi
(103 lồi với 4 nhóm dạng sống khác nhau và 4 nhóm giá trị sử dụng), tuy
nhiên trữ lượng mỗi loài rất thấp.
Nguyễn Văn Thanh (2005) [19], khi nghiên cứu tính đa dạng thực vật
thân gỗ ở VQG Xuân Sơn – Phú Thọ cho thấy: Trong khu vực có 301 lồi
thuộc 197 chi, 76 họ, trong đó có 18 lồi cây gỗ q hiếm có tên trong sách
đỏ Việt Nam và sự phân bố của thực vật phụ thuộc khá chặt chẽ vào các
kiểu rừng.


20

Nhận xét:
Chúng ta có thể thấy rằng: Nhiều cơng trình nghiên cứu về tài nguyên
rừng ở Việt Nam đã được triển khai trên diện rộng khắp từ miền Bắc đến
miền Nam. Hiện trạng tài nguyên rừng của cả nước đã được thống kê. Điều
đó giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về thực trạng tài nguyên rừng của đất
nước, nhận thức được những tiềm năng, lợi ích to lớn mà rừng mang lại, đồng
thời thấy được những nguy cơ đã và đang phá hoại tài nguyên rừng của
Việt Nam.
Các nghiên cứu từ cấu trúc rừng đến việc đề xuất các giải pháp kỹ thuật

lâm sinh tác động vào rừng ngày càng mang tính định lượng nhiều hơn. Nhiều
cơng trình nghiên cứu về tính đa dạng sinh học khu hệ động – thực vật cũng
như công tác quản lý rừng bền vững đã được triển khai, nhưng việc định
lượng mức độ đa dạng sinh học thông qua các chỉ số đa dạng sinh học vẫn
còn bị bỏ ngỏ. Trong khi đó, những nghiên cứu về rừng trên núi đá vơi cịn
nhỏ lẻ, chưa đầy đủ và có hệ thống. Do đó, tiếp tục nghiên cứu về cấu trúc
rừng và tính đa dạng thực vật trên núi đá vôi là điều cần thiết.


21

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU

2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
VQG Xuân Sơn nằm về phía Đơng của huyện Tân Sơn, trên vùng tam
giác ranh giới giữa 3 tỉnh: Phú Thọ, Hồ Bình và Sơn La, với tổng diện tích là
15.048 ha, xếp thứ 12 trong số 25 Vườn Quốc Gia ở Việt Nam. VQG Xuân
Sơn bao gồm các xã: Đồng Sơn, Lai Đồng, Xuân Sơn, Xuân Đài và
Kim Thượng.
Toạ độ địa lý:
21o03’ đến 21o12’ vĩ độ Bắc
104o51’ đến 105o01’ kinh độ Đơng
- Phía Bắc giáp xã Thu Cúc
- Phía Nam giáp huyện Đà Bắc tỉnh Hồ Bình
- Phía Tây giáp huyện Phù n tỉnh Sơn La
- Phía Đơng giáp các xã: Tân Phú, Mỹ Thuận, Long Cốc và Vĩnh Tiến
2.1.2. Địa hình, địa mạo
VQG Xuân Sơn nằm trong một vùng đồi núi thấp và trung bình thuộc
lưu vực sơng Bứa, nơi kết thúc của dãy Hồng Liên. Nhìn tồn cảnh các dãy

đồi núi chỉ cao chừng 600 - 700 m, hình dáng khá mềm mại vì chúng được
cấu tạo bởi các loại đá phiến biến chất. Cao nhất là đỉnh núi Voi 1.386 m, tiếp
đến là núi Ten, núi Cẩn đều cao trên 1.200 m.
Các thung lũng trong vùng mở rộng và uốn lượn khá phức tạp. Sự chia cắt
theo chiều sâu cũng khá lớn, các sườn núi khá dốc, bình quân 20o.


22

2.1.3. Điều kiện khí hậu, thủy văn
* Khí hậu
- Chế độ nhiệt
+ Nhiệt độ trung bình năm biến động từ 22o – 23oC, tương đương với
tổng nhiệt năng từ 8.300o - 8.500oC (nằm trong vành đai nhiệt đới).
+ Mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, ảnh hưởng của gió mùa
Đơng Bắc. Nhiệt độ trong các tháng này xuống dưới 20oC, nhiệt độ trung bình
tháng thấp nhất là tháng 1.
+ Mùa nóng, do ảnh hưởng của gió mùa Đơng Nam, nên thời tiết ln
nóng ẩm, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình trên 25oC, nóng nhất là vào tháng
6 và 7 (28oC).
- Chế độ mưa ẩm
+ Lượng mưa đạt mức trung bình từ 1.660 mm ở Thanh Sơn đến
1.826mm ở Minh Đài. Tập trung gần 90% vào mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng
10 hàng năm), 2 tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8 và tháng 9.
+ Mùa khô hạn từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa chỉ còn
chiếm dưới 10% tổng lượng mưa trong năm, nhưng hạn hán ít xảy ra vì có
mưa phùn (mỗi năm có trên 20 ngày) làm hạn chế sự khơ hạn trong mùa khơ.
+ Độ ẩm khơng khí trong vùng bình qn đạt 86%, những tháng có
mưa phùn độ ẩm khơng khí thường đạt chỉ số cao nhất.
+ Lượng bốc hơi khơng cao (653mm/năm) điều đó cho thấy khả năng

che phủ đất của lớp thảm thực bì cịn tương đối tốt, hạn chế được lượng nước
bốc hơi, làm tăng lượng nước thấm, duy trì được nguồn nước ngầm trong
khu vực.
- Một số hiện tượng thời tiết đáng chú ý
+ Gió Tây khơ nóng: Vùng này chỉ chịu gió Tây (khơ và nóng) vào các
tháng 4, 5, 6, 7. Trong các tháng này nhiệt độ khơng khí có ngày lên tới


23

39  40oC, bốc hơi cũng cao nhất > 70-80 mm, độ ẩm khơng khí hạ xuống
thấp tuyệt đối.
+ Mưa bão: Vùng này tuy ở sâu trong nội địa, nhưng cũng chịu ảnh
hưởng nhiều của mưa bão. Hai tháng nhiều mưa bão nhất là tháng 8 và
tháng 9. Bão thường kèm theo mưa lớn, gây lũ và lụt lội làm thiệt hại khá
nghiêm trọng cho nền kinh tế của địa phương và nhân dân sinh sống
trong vùng.
+ Sương muối: Thường xuất hiện vào mùa Đông, những ngày nhiệt độ
xuống thấp dưới 5oC, sương muối thường xuất hiện trong các thung lũng núi
đá vôi, mỗi đợt kéo dài vài ba ngày, ảnh hưởng rất lớn đến cây con, cây ăn
quả và cây lấy giống ra hoa kết quả vào thời điểm này.
* Thủy văn
VQG Xuân Sơn nằm trong lưu vực đầu nguồn sông Bứa với nhiều
nhánh suối bắt nguồn từ các đỉnh núi cao trong Vườn. Hệ thống Sơng Bứa có
các nhánh toả rộng ra khắp các vùng. Với lượng mưa khá dồi dào, trung bình
năm từ 1.500 - 2.000 mm, lượng mưa cực đại có thể tới 2.453 mm nhưng có
năm ít mưa chỉ đo được 1414mm. Địa hình lưu vực lại thuận lợi cho việc xây
dựng các hồ thuỷ lợi để phục vụ sản xuất nông nghiệp.
2.1.4. Thổ nhưỡng
Được hình thành trong một nền địa chất phức tạp (có nhiều kiểu địa

hình và nhiều loại đá mẹ tạo đất khác nhau) cùng với sự phân hố khí hậu,
thuỷ văn đa dạng và phong phú,... nên có nhiều loại đất được tạo thành trong
khu vực này.
Một số loại đất chính trong khu vực:
- Đất feralit có mùn trên núi trung bình (FH): Được hình thành trong
điều kiện mát ẩm, độ dốc lớn, khơng có nước đọng, khơng có kết von và tầng
mùn dầy, tỷ lệ mùn cao (8 - 10%). Phân bố từ độ cao 700 – 1.386 m, tập trung


24

ở phía Tây của khu vực, giáp với huyện Đà Bắc (Hồ Bình), Phù n
(Sơn La).
- Đất feralit đỏ vàng phát triển ở vùng đồi núi thấp (F): Là loại đất có
q trình Feralit mạnh và điển hình, màu sắc phụ thuộc vào từng loại đá mẹ
và độ ẩm của đất. Phân bố ở độ cao dưới 700 m thành phần cơ giới nặng, tầng
đất dầy, ít đá lẫn, đất khá mầu mỡ, thích hợp cho các lồi cây rừng sinh
trưởng và phát triển.
- Đất Rangin (hay đất hình thành trong vùng núi đá vôi) - R: Đá vôi là
loại đá cứng, khó phong hố, địa hình lại dốc đứng nên khi phong hố đến
đâu lại bị rửa trơi đến đó, dẫn tới đất chỉ hình thành trong các hang hốc hoặc
chân núi đá.
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.2.1. Đặc điểm dân cư
Trong VQG Xuân Sơn có 10 xóm gồm: Cỏi, Lấp, Dù, Lạng, Lùng
Mằng (thuộc xã Xuân Sơn); Thân (thuộc xã Đồng Sơn); Nước Thang (thuộc
xã Xuân Đài); Xoan, Tân Ong, Hạ Bằng (thuộc xã Kim Thượng).
Các xóm này phân bố chủ yếu dưới chân các dãy núi đá vôi và núi đất,
ở độ cao từ 200 - 400 m so với mực nước biển, tập trung phần lớn ở phía
Đơng, một phần phía Bắc và phía Nam của VQG.

2.2.2. Đặc điểm dân tộc
Dân cư của các xóm này chủ yếu là 2 dân tộc chính: Dao (Mán) chiếm
65,42% dân số và Mường chiếm 34.43% dân số, chỉ có 4 khẩu người Kinh
sinh sống tại khu vực này.
2.2.3. Đời sống sinh hoạt
Theo các chỉ tiêu phân loại hộ gia đình quốc gia, tồn bộ các hộ gia
đình trong VQG được xếp vào loại nghèo đói. Thu nhập bình quân các hộ gia
đình chưa đạt 700.000 đồng/năm.


×