Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

mithuat6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.56 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tranh dân gian Việt Nam</b>


<b>Bách khoa toàn thư mở Wikipedia</b>



Bước tới: menu, tìm kiếm


Đấu vật - Một bức tranh của dịng tranh dân gian Đơng Hồ


<b>Tranh dân gian Việt Nam</b> là một loại hình mỹ thuật cổ truyền của dân gian Việt Nam.

<b>Mục lục</b>



[ẩn]


 1 Lịch sử
 2 Đặc điểm


o 2.1 Cách vẽ, in ấn


o 2.2 Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh
o 2.3 Bố cục của tranh


 3 Đề tài và nội dung của tranh dân gian
 4 Những dịng tranh chính


o 4.1 Dòng tranh dân gian Đông Hồ
o 4.2 Dòng tranh Hàng Trống
o 4.3 Tranh Kim Hoàng
o 4.4 Tranh làng Sình


 5 Liên kết ngồi


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Lịch sử</b>




</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Vào thời nhà Lý (thế kỷ 12) đã bắt đầu xuất hiện những gia đình hay thậm chí là cả một
làng chuyên làm khắc ván, làm tranh. Đến cuối đời nhà Trần nhiều nơi đã in được tiền
giấy (là một cách thể hiện của tranh dân gian) và sang đời nhà Hồ tiền giấy đã được phát
triển mạnh.


Tời thời kỳ Lê sơ việc in khắc tranh đã được tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của
Trung Quốc và sau khi vào Việt Nam đã được cải tiến thêm cho phù hợp. Cùng với đó là
sự phân hố của tranh dân gian xuất hiện ngày càng rõ nét.


Đến đời nhà Mạc (thế kỷ 16) một thay đổi đặc biệt đã xảy ra, tranh dân gian khơng cịn là
sản phẩm riêng của những người nơng dân nghèo khó nữa, mà đã được cả tầng lớp quý
tộc ở kinh thành Thăng Long ưa thích, thường sử dụng vào dịp Tết Nguyên Đán.


Sang thế kỷ 18 - 19, tranh dân gian đã dần đi vào giai đoạn ổn định và phát triển mạnh
mẽ. Nghề làm tranh đã lan truyền rộng rãi hầu khắp cả nước. Cùng với đó là sự phân hóa,
những dòng tranh mới xuất hiện, được gọi tên theo địa danh nơi sản xuất, đã có những
phong cách riêng của mình. Nét riêng của mỗi dịng tranh được thể hiện ngay từ quy trình
làm tranh cũng như trong mỗi đường nét của tranh. Đó là sự khác biệt giữa kỹ thuật khắc
ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu làm tranh, cách pha chế tạo màu sắc riêng...


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Đặc điểm</b>



Tranh dân gian Việt Nam dù có nhiều dịng tranh khác nhau nhưng nhìn chung đều được
dựng hình theo kiểu lấy các nét khoanh, lấy các mảng màu và bao lại tồn hình. Các
thành phần trong tranh khơng có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết kế để có
thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau. Cách tạo màu cũng vậy, tất cả đều nhằm
làm cho bức tranh thật dễ nhìn.


<b>[sửa] Cách vẽ, in ấn</b>




Do đặc điểm của tranh dân gian là để phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân,
phục vụ việc thờ cúng, trang hoàng cho ngày Tết cho nên cần phải có số lượng lớn mà
giá cả khơng được đắt. Vì thế mà người làm tranh đã sử dụng phương pháp khắc ván rồi
từ đó sao in ra nhiều bức tranh.


Nhìn chung cách in tranh chủ yếu là sử dụng ván khắc. Các bản ván khắc chủ yếu làm từ
gỗ. Đầu tiên nghệ nhân sẽ khắc lên bản gỗ đường nổi thể hiện những đường nét chính của
tranh, sau này khi in tranh ra giấy, người làm tranh lại tiếp tục tơ vẽ để hồn thiện bức
tranh đó, cịn đối với một số tranh đơn giản thì người thợ khơng cần tô vẽ thêm nữa mà
tranh được đưa ra khi in xong. Nghệ thuật in tranh qua các bản gỗ khắc nổi xuát hiện từ
xa xưa, được lưu truyền từ đời nay qua đời khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>[sửa] Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh</b>



Tranh thường được in hoặc vẽ trực tiếp lên giấy. Loại giấy phổ biến thường được các
dòng tranh dùng hơn cả là giấy dó. Từ loại giấy này có thể làm ra giấy điệp, loại giấy mà
tranh Đông Hồ sử dụng in hình. Đặc điểm của loại giấy này là độ bền rất cao, mà lại xốp
nhẹ, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc gịn gẫy, ẩm nát. Với đặc tính chống ẩm
rất cao, giấy dó giúp cho các bức tranh không bị ẩm mốc, trường tồn cùng thời gian.
Mỗi dịng tranh thường có cách tạo màu, pha chế màu sắc riêng, nhưng nhìn chung thì
màu sắc cho những bức tranh thường được tạo nên từ những nguyên liệu đơn giản, dân dã
bằng rất nhiều phương pháp khác nhau.


Ví dụ như trong tranh Đơng Hồ, thường chỉ có 3 đến 4 màu mà thơi, màu sắc được tạo
nên từ:


 Than xoan tạo màu đen,
 Rỉ đồng tạo màu xanh,
 Hoa hòe tạo màu đỏ,


 Lá chàm tạo màu xanh mát,


 Màu vàng ấm lấy từ hoa hoè hay quả dành dành,


 Màu trắng óng ánh thì dùng vỏ trai điệp ở biển nghiền mịn...


Cịn với tranh Hàng Trống, thì:


 Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ,
 Màu vàng cũng tạo nên từ hoa hoè,


 Màu chàm từ các nguyên liệu của rừng núi,
 Màu son của sỏi đồi tán nhuyễn.


Những màu sắc đó lại được pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh Hàng
Trống một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại không thể nào có được.

<b>[sửa] Bố cục của tranh</b>



Hầu hết tranh dân gian được vẽ theo quan niệm "sống" hơn "giống". Đường nét của mỗi
bức tranh hết sức gạn lọc, thuần khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn là
vẽ đúng luật. Các thành phần trong tranh khơng có một điểm nhìn cố định mà hầu hết
được thiết kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Đề tài và nội dung của tranh dân gian</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Những truyện Nôm như <i>Truyện Kiều</i> và <i>Nhị Độ Mai</i> cũng được dùng làm đề tài tranh.
<i>Truyện Kiều</i> thì có cảnh ba chị em đi tảo mộ gặp Kim trọng. <i>Nhị Đọ Mai</i> thì vẽ cảnh
Hạnh Nguyên đi cống Hồ.


Những đề tài dân dã như: cóc, chuột, đàn gà, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh


vật... Cùng tồn tại với những đề tài như: Phú Quý, Tố Nữ, ...


Lịch sử Việt Nam cũng là một đề tài được tranh dân gian đề cập đến rất nhiều, như: bà
Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh cờ lau
tập trận... rồi sang thời kỳ lịch sử hiện đại có Việt Nam độc lập, bình dân học vụ, bắt sống
giặc lái máy bay, Bác Hồ về thăm làng...


Nội dung của tranh cũng hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi bức tranh đều mang một ý
nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người, mang trong nó là
cả những ước vọng của người dân, từ những ước mong giản dị cho tới những điều cao
quý. Đó có thể là mong ước về một cuộc sống no ấm của nhà nông với sự thể hiện của
tranh "Mẹ con đàn lợn", hay sự thể hiện ý chí kiên cường bất khuất của đấng nam nhi với
"Tranh gà trống" sặc sỡ và oai vệ, và nó cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con người:
văn (vẻ đẹp – mào gà), vũ (cứng rắn – cựa gà), nhân (lòng thương yêu đồng loại – khi
kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn), dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên quyết
chống lại), tín (hàng ngày báo giờ rất đúng). Tranh gà đẹp và ý nghĩa như thế, nên nhà
thơ Đoàn Văn Cừ đã viết trong bài thơ <i>Chợ têt</i>: "Lũ trẻ còn mải ngắm bức tranh gà/ Quên
cả chị bên đường đang đứng gọi".


Còn tranh "Đám cưới chuột" lại là một minh chứng sống động và hóm hỉnh cho quan hệ
mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống cho mèo, cầu xin
mèo để yên cho đám cưới được tiến hành.


Dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng tranh dân gian của các dịng
tranh đều có điểm giống nhau là luôn đề cao cái đẹp, đề cao đạo lý làm người, giáo dục
những phẩm chất tốt và cầu mong những điều tốt đẹp trong cuộc sống.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Những dòng tranh chính</b>



Cùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có nhiều dịng tranh xuất


hiện. Có dịng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dịng tranh nhanh
chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng tranh dân gian hiện
khơng cịn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn của mỗi dòng tranh vẫn cịn đó,
như là một chứng tích của xã hội Việt Nam một thời, nó sẽ vãn mãi là di sản của dân tộc
Việt Nam.


Có một số dịng tranh dân gian chính đã một thời cực thịnh và ngày nay còn lưu giữ được
một phần, như:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

 Tranh Kim Hồng (Hà Tây)
 Tranh làng Sình (Huế)


<b>[sửa] Dịng tranh dân gian Đơng Hồ</b>


<i>Đọc bài: Tranh Đơng Hồ</i>


Chơi bịt mắt bắt dê


Nhắc tới tranh dân gian Việt Nam khơng thể khơng nói tới dịng tranh khắc gỗ Đơng Hồ.
Dịng tranh này ra đời từ khoảng thế kỷ 17 và phát triển cho đến nửa đầu thế kỷ 20 sau đó
suy tàn dần. Mang trong mình những nét tinh túy riêng với những giá trị văn hóa to lớn.
Những khác biệt của dòng tranh này so với cách dòng tranh khác được thể hiện từ những
khâu như vẽ mẫu, khác bản in, sản xuất và chế biến màu cho đến in vẽ tranh. Đây là dòng
tranh khắc ván, sử dụng ván gỗ để in tranh, tranh có bao nhiêu màu thì có bấy lần in.
Dịng tranh này có đề tài rất phong phú, nó phản ảnh hầu như tất cả những gì diễn ra
trong cuộc sống, sinh hoạt thường ngày cũng như những mối quan hệ xã hội ở miền nông
thôn Bắc Bộ. Từ những gì dân dã nhất như hái dừa, đánh ghen, gà trống,... cho tới những
bức tranh thờ: Phú Quý, Nhân Nghĩa...


Do đề tài gần gũi tranh Đông Hồ đã được người dân đón nhận và sớm đi vào đời sống
văn hoá của họ. Mỗi khi Tết đến dường như hầu hết các gia đình ở nơng thơn miền Bắc


đều có treo một vài tờ tranh Đơng Hồ. Cùng với thời gian, với sức mạnh mang trong
mình, tranh Đông Hồ ngày càng lan tỏa ra các vùng xung quanh, để rồi nó đã trở thành
một phần khơng thể thiếu của đời sơng văn hóa tinh thần của người dân.


Dù đã có thời gian đi vào lãng quên, nhưng ngày nay dòng tranh này vẫn còn giữ được
những giá trị to lớn của nó. Tranh Đơng Hồ vẫn tồn tại như là một biểu tượng văn hoá
của người dân Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tranh thờ Ngũ Hổ


Tranh Hàng Trống là một dòng tranh dân gian được làm chủ yếu ở các phố Hàng Trống,
Hàng Nón... của Hà Nội. Dịng tranh này có nhiều điểm riêng biệt so với các dịng tranh
dân gian khác.


Nhìn chung thì tranh Hàng Trống có phần nổi trội hơn về thể loại tranh thờ, do ảnh
hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện khả công
phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa.


Tranh được tạo hình khơng giống tranh hiện đại mà cũng không giống tranh cổ điển. Với
các gam màu chủ yếu là lam, hồng, đơi lúc có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... Tỷ lệ được
tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ sao cho thật thuận mắt và ưa nhìn.
Khác với dịng tranh Đơng Hồ, nó khơng được in tất cả bằng ván khắc mà chỉ in "một
nửa", in những đường nét chính sau đó lại tơ vẽ lại, cụ thể kỹ thuật tranh Hàng Trống kết
hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quệt
phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế làm cho màu sắc rất
uyển chuyển. Nhờ vậy, mà nó đáp ứng được địi hỏi của khách mua tranh chốn kinh kỳ.

<b>[sửa] Tranh Kim Hoàng</b>



<i>Đọc bài: Tranh Kim Hoàng</i>



Tranh Kim Hoàng là sản phẩm tranh ra đời từ sự hợp nhất 2 làng Kim Bảng và Hoàng
Bảng vào năm Chính Hịa thứ 22 (1701). Dân làng thường làm tranh từ Rằm tháng 11 âm
lịch cho tới Tết Nguyên Đán.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>[sửa] Tranh là />

<b>%E1%BB%87t_Namng Sình</b>



<i>Đọc bài: Tranh làng Sình</i>


Nghề làm tranh tại làng Sình (nằm ven bờ sơng Hương, Huế) đã ra đời không biết từ bao
giờ, và tranh của làng đa phần phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng.
Tranh làng Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng. Với khoảng hơn 50 đề tài tranh
phản ảnh tín ngưỡng cổ sơ, người dân thờ tranh cầu mong người yên, vật thịnh ... Tranh
có nhiều cỡ khác nhau, ứng với nó là kiểu in vẽ cũng khác nhau. In tranh khổ lớn thì đặt
bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một
đầu, quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa
đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy
ván in dập lên.


Bản in đen chờ cho khô thì đem tơ màu. Màu tơ của tranh làng Sình tuy khơng được tỉa
tót và vờn đậm nhạt như tranh Hàng Trống, nhưng mỗi màu đều có chỗ cố định trên
tranh, tạo nên sự hòa sắc phù hợp với ý nghĩa từng tranh.


Điểm nỗi bật ở tranh làng Sình là đường nét và bố cục cịn mang tính thô sơ chất phác
một cách hồn nhiên. Nhưng nét độc đáo nhất của nó lại là ở chỗ tơ màu. Khi đó nghệ
nhân mới được thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên


2 <b>Tranh dân gian Việt Nam</b>


Trường tồn cùng lịch sử, không trau chuốt cầu kỳ,đa dạng và độc đáo, mang đậm bản sắc
dân tộc tranh dân gian Việt Nam từ thế kỷ 12 ( Đời nhà Lý) đã xuất hiện những gia đình


hay thậm chí cả làng chuyên khắc ván làm tranh. Đến thế kỷ 16 thay đổi đặc biệt là tranh
dân gian không phải dành riêng cho người nông dân nghèo nữa mà được giới quí tộc ở
thành Thăng Long ưa thích thường sử dụng vào tết nguyên đán.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>(Tranh dân gian khuyết thế kỷ 19)</i>


Nhắc đến tranh dân gian không thể nhắc đến tranh Đông Hồ tranh Đông Hồ được tạo bởi
các họa sĩ Đông Hồ vẽ bằng bút lơng trên giấy bản, sau đó tranh được khắc trên gỗ thị
vàng ươm. Bản khắc được in trên giấy Điệp. giấy được làm kỳ công từ vỏ cây dó giã
nhuyễn, ninh kỹ hớt lấy các sợi tơ mềm làm nên tờ giấy xốp, dai, mềm mại như lụa gọi là
giấy dó các màu trong tranh Đơng Hồ được tạo bởi Than xoan tạo màu đen, rỉ đồng tạo
màu xanh, hoa hòe tạo màu đỏ, lá chàm tạo màu xanh mát, màu vàng ấm lấy từ hoa hoè
hay quả dành dành, màu trắng óng ánh thì dùng vỏ trai điệp ở biển nghiền mịn...


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>(Đấu vật, rước trống )</i>


Phản ảnh khát vọng dân gian được sống phong lưu sung túc, thanh bình như Tranh cưỡi
trâu thổi sáo có chữ: "Hà diệp cái thanh thanh" (Lọng lá sen xanh xanh). Một tàu lá sen
dựng đứng như chiếc ô . Con trâu nghển cổ thưởng thức tiếng sáo, tư thế, dáng vẻ của nó
khiến ta cùng nghe thấy tiếng sáo réo rắt, thấy bầu trời trong xanh lồng lộng, thấy cuộc
sống thanh bình...


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Bức "Đánh ghen" khơi hài, gây hấn, nực cười. Một người đàn ông, đứng giữa hai người
đàn bà, tay trái đang đặt lên ngực người đàn bà cởi trần, tay phải giang ra như đang đỡ
chiếc kéo của người đàn bà đứng trước mặt đang giơ lên để cắt tóc người đàn bà cởi trần .
Bức tranh sinh động, châm biếm cảnh đa thê


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Khuyến khích các trẻ em chăm chỉ học hành có tranh "thầy đồ cóc dạy học" với quang
cảnh nhà trường



3

Vốn Quý Tranh Dân Gian />


id=594



Tranh dân gian xuất hiện cách đây từ nhiều thế kỷ, là kho tàng quý giá của nền
văn hoá dân tộc Việt Nam. Nổi tiếng có tranh Đơng Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống
(Hà Nội),


Kim Hoàng (Hà Tây), Nam Hoàng (Nghệ An), Sình (Huế), tranh Nam Bộ. Mỗi
vùng, mỗi dân tộc đều mang đậm sắc thái và kỹ thuật riêng. Các tranh thờ, vẽ
hay in gỗ của các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan... thường là tranh tôn giáo,
gắn liền với đạo Phật hay đạo Lão. Một số bức như "Cầu Hoa" của dân tộc Tày,
thờ "Mé Hoa" cầu sinh con cái, "Bàn Cổ" thờ thủy tổ của dân tộc Dao, "Thần
Nông" thường là thờ vị thần cày cấy trồng trọt của dân tộc Cao Lan. Phần lớn
tranh vẽ bằng bột màu, trên giấy dó, bồi dày. Màu sắc, đường nét chân phương
nhưng mang đậm vẻ u huyền, trang trọng của thẩm mỹ miền sơn cước, và thể
hiện ước vọng ấm no, yên vui, qua khỏi bệnh tật của người dân tộc vùng cao.


Do nhu cầu tín ngưỡng và nhất là thú chơi tranh ngày Tết, tranh vẽ tay không đủ
đáp ứng, các nghệ nhân phải tìm cách in tranh thành nhiều bản. Từ đó tranh dân
gian bằng kỹ thuật in bản gỗ ra đời. Vì vậy, tranh dân gian mang yếu tố nghệ
thuật đồ hoạ, nổi bật lên hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống. Sự khác biệt
về đề tài, chất liệu, đến kỹ thuật khắc ván và in tranh đã tạo nên tính cách riêng
biệt giữa hai dịng tranh.


Tranh Đơng Hồ, màu in trước, nét in sau. Có bao nhiêu màu thì bấy nhiêu lần in.
Những mảng màu to bẹt, đồng bộ. Giấy in tranh là giấy dó, dai, bền, bề mặt quét
phủ một lớp điệp cứng, xốp và tạo nên những thớ điệp phát sáng lung linh. Màu
mực in được chế từ nguyên liệu thiên nhiên, cỏ cây đất đai sẵn có ở trên rừng,
dưới biển. Màu đen xốp êm nhẹ là than tre lá khô. Màu xanh mát chiết từ lá
chàm. Màu vàng ấm lấy từ hoa hoè hay quả dành dành. Màu đỏ tươi chắc nịch


là bột sỏi son tán nhỏ hay đỏ vàng từ chất gỗ cây vang trên rừng. Màu trắng óng
ánh thì dùng vỏ trai điệp ở biển nghiền mịn. Khác với tranh Đông Hồ, tranh Hàng
Trống thể hiện kỹ thuật nửa in, nửa vẽ. Nghĩa là tranh chỉ in ván nét lấy hình, cịn
màu là thuốc nước tơ bằng bút lơng mềm rộng bản, theo kỹ thuật vờn màu.
Đường nét của tranh uyển chuyển, đậm nhạt tinh tế. Do buôn bán cạnh tranh
nên tranh thường in kèm tên hiệu như: Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình, Nhân
Hưng... có tranh in cả tên tác giả. Tranh in trên giấy dó, bồi dày, khổ rộng, phù
hợp nơi nào nhà cao cửa rộng như thành thị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

từ kinh phật, chuyện cổ tích.


Tranh dân gian vẽ theo quan niệm "sống" hơn "giống". Đường nét hết sức gạn
lọc, thuần khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn là vẽ đúng luật.
Đó cũng là xu hướng vươn tới của hội hoạ hiện đại.


Bức "Hứng dừa" dí dỏm, hài hước, với hai câu thơ:


<i>"Khen ai khéo dựng lên dừa</i>


<i>Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi" </i>


Chị nông dân trẻ, phốp pháp, yếm hở mình, tóc xỗ ngang lưng, với bộ mặt vênh
vênh hồn nhiên, hớn hở vén váy hứng đón dừa. Một anh trai tráng vạm vỡ, cởi
trần đang trèo lên ngọn dừa có mấy buồng trĩu quả rũ xuống, tay phải bám thân
dừa, tay trái cầm trùm dừa 2 qủa với bỏ xuống. Đường nét giản dị mà sinh động,
màu son đỏ tươi trên nền vàng giấy dó quét điệp.


Ngược với "Hứng dừa" nhẹ nhàng tình tứ, bức "Đánh ghen" khơi hài, gây hấn,
nực cười. Một người đàn ông, đứng giữa hai người đàn bà, tay trái đang đặt lên
ngực người đàn bà cởi trần, tay phải giang ra như đang đỡ chiếc kéo của người


đàn bà đứng trước mặt (chắc là vợ cả) đang giơ lên để cắt tóc người đàn bà cởi
trần (chắc là vợ hai). Bức tranh sinh động, châm biếm cảnh đa thê:


<i>"Thôi thôi bớt giận làm lành</i>


<i>Chi điều sinh sự nhục mình nhục ta"</i>


Tranh "Đám cưới chuột", có người cịn gọi là "Nghè chuột vinh quy", đề tài này
cả hai dịng tranh Đơng Hồ và Hàng Trống đều có. Bố cục tranh phóng túng, táo
bạo, cắt đám cưới ra làm hai giai đoạn mà vẫn đảm bảo tính nghệ thuật cả về
hình thức lẫn nội dung. Người xem tranh vẫn thấy đám cưới vẫn tiếp diễn một
cách đều đặn chứ không bị gián đoạn trong sự chia cắt. Chủ đề phần trên là "giữ
thân", có hai chú chuột thổi kèn và chú chuột đi trước, một chú sách con cá chép
to tướng, một chú hai tay bưng con chim câu béo ("Gà trống thiến"- tranh Hàng
Trống), trước mặt chúng là một anh mèo đẫy đà đang ngồi chễm chệ chắn
đường, tay phải giơ ra nhận của lễ. Chủ đề phần dưới "Nghênh hôn", một chú
chuột cưỡi ngựa đi trước đang quay đầu nhìn lại ra hiệu là lễ đã xong, được
phép đi qua, một chú chuột đi sau cầm lọng che, chú thứ ba cầm tấm biển gỗ có
chữ chúc mừng, và sau cùng là bốn chú chuột khiêng kiệu, trên kiệu là một chú
chuột chễm chệ cân đai, áo mũ chỉnh tề. Bức tranh đả kích tệ nạn tham nhũng
của giai cấp thống trị. Người dân phải lo lót biếu xén bọn cường hào, quan lại
sâu mọt.


Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: các bức tranh trên xuất hiện rất sớm, có thể là
những năm đầu thế kỷ XI (đời Lý) hoặc trước đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tứ tuyệt về cơ cầm quạt:


<i>"Mơi son vừa hé nụ anh đào</i>
<i>Răng ngọc hai hàng nhả điệu cao</i>


<i>Trước gió nghìn cành hoa nhún nhảy</i>
<i>Gót sen lần nhịp đến Dương Châu"</i>


Bộ tranh rất đẹp, đậm nét văn hoá dân tộc. Nhiều nhà thơ từ thế kỷ XVIII đã cảm
khái đề thơ, trong đó có nữ sĩ Hồ Xn Hương:


<i>"Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cơ mình</i>
<i>Chị cũng xinh mà em cũng xinh</i>
<i>Đôi lứa như in tờ giấy trắng</i>


<i>Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh". </i>


Bức "Gà đàn" tả một gia đình gà đơng vui, gà mẹ kiếm mồi cho đàn gà con, gà
trống đứng hùng dũng bảo vệ, các chú gà con tính cách tinh nghịch.


Sang giai đoạn văn hoá thị trường, kỹ thuật in ấn phát triển thì làng tranh chỉ cịn
mươi gia đình trên 4000 dân theo nghề, và cũng chỉ còn khoảng chục nghệ nhân
tường tận nghề tranh. Lẽ nào "mẹ con đàn lợn âm dương chia lìa trăm ngả. Đám
cưới chuột tưng bừng rộn rã. Bây giờ tan tác về đâu" (Bên kia sơng Đuống)?


Thích thú khi ngắm tranh, liệu có ai đồng cảm với Đông Hồ, một vùng quê chất
phác, hồn hậu và mộc mạc:


<i>"...Ai về bên kia sơng Đuống</i>
<i>Có nhớ từng khn mặt búp sen</i>
<i>Những cơ hàng xóm răng đen</i>
<i>Cười như mùa thu toả nắng...</i>
<i>Những cô nàng cắn chỉ mơi trầu</i>
<i>Những cụ già bồng bềnh tóc trắng</i>
<i>Những em sột soạt quần nâu</i>


<i>Bây giờ đi về đâu, về đâủ". </i>


</div>

<!--links-->


mithuat6-tiet20-vetheomaumaucohaidovat
  • 6
  • 144
  • 0
  • mithuat6daydu mithuat6daydu
    • 100
    • 159
    • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×