Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 123 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
<b>TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM </b>
---
<b>LỤC THUÝ HẰNG </b>
<b>T</b>
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
<b>TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM </b>
---
<b>LỤC THUÝ HẰNG </b>
<b>Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM </b>
<b>Mã số : 60.22.54 </b>
<b>T.S NGUYỄN XUÂN MINH </b>
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
<b>MỞ ĐẦU</b><sub> ... 1 </sub>
1. Lý do chọn đề tài ... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ... 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu ... 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu ... 5
3.3. Nhiệm vụ của đề tài ... 5
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ... 5
4.1. Phương pháp nghiên cứu ... 5
4.2. Nguồn tài liệu ... 5
5. Đóng góp của đề tài ... 6
6. Bố cục của đề tài ... 6
<b>Chương 1.</b> <b>ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG NHỮNG </b>
<b>THÁNG ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM </b>
<b>(9/1945 - 3/1946)</b><sub> ... 7 </sub>
1.1. Tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao ... 7
1.2. Quá trình đấu tranh ngoại giao dẫn đến Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3
năm 1946 ... 10
1.3. Ý nghĩa của Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 ... 25
<b>Chương 2.</b> <b>HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT </b>
<b>NAM </b>
<b>TỪ SAU NGÀY 6/3/1946 ĐẾN NĂM 1953</b><sub> ... 30 </sub>
2.2. Từ sau ngày 19/12/1946 đến năm 1949 ... 38
2.3. Từ năm 1950 đến năm 1953... 56
<b>Chương 3.</b> <b>ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TẠI HỘI NGHỊ </b>
<b>GIƠNEVƠ NĂM 1954 VỀ CHẤM DỨT CHIẾN </b>
<b>TRANH LẬP LẠI HỒ BÌNH Ở ĐƠNG DƯƠNG</b><sub> ... 68 </sub>
3.1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn tới Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương ... 68
3.2. Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương (8/5 - 21/ 7/ 1954) ... 74
3.2.1. Mục đích cuộc đàm phán ... 74
3.2.2. Tiến trình cuộc đàm phán ... 77
3.2.3. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hồ bình ở Đơng Dương ... 84
3.3. Ý nghĩa Hiệp định Giơnevơ ... 87
<b>KẾT LUẬN</b><sub> ... 93 </sub>
<b>1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI </b>
Chính sách đối ngoại của Đảng là biểu hiện cụ thể của chính sách đối
nội trên phạm vi quốc tế, phản ánh quan điểm, lập trường của Đảng và lợi ích
của cách mạng Việt Nam.
Chính sách đối ngoại có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chính
sách của Đảng. Sau vấn đề phòng thủ, ngoại giao là một vấn đề cốt yếu cho
một nước độc lập. Từ những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, hoạt động
ngoại giao đã góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, đấu tranh ngoại giao có tác dụng nâng cao địa vị của Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế, cô lập ngày càng cao độ kẻ
thù. Cuối cùng, bằng đấu tranh ngoại giao kết hợp với thắng lợi quân sự trên
Chặng đường đấu tranh đầy gay go, phức tạp giữa hai thời điểm gắn
với hai Hiệp định (6/3/1946 và 21/7/1954) đánh dấu những bước trưởng thành
của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp cũng chính là thắng lợi của đường lối đối ngoại do Đảng và
Nhà nước ta đề ra.
Bởi vậy, nghiên cứu đấu tranh ngoại giao từ tháng 3/1946 đến tháng
7/1954 để làm rõ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chính
phủ trong kháng chiến chống Pháp là điều cần thiết.
giao từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954, chúng ta có thể rút ra những bài học
kinh nghiệm cho đấu tranh ngoại giao trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Đi sâu tìm hiểu đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống thực dân
Pháp còn giúp cho công tác giảng dạy phần lịch sử dân tộc ở nhà trường phổ
thông đạt chất lượng tốt hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: <i><b>"Mặt trận ngoại giao </b></i>
<i><b>từ tháng 3-1946 đến tháng 7-1954</b></i><sub>" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Sử học. </sub>
<b>2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ </b>
Lịch sử ngoại giao Việt Nam nói chung, chính sách đối ngoại của
Đảng, sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh ngoại giao nói riêng đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Cho đến nay đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến ngoại
giao Việt Nam hiện đại từ những góc độ khác nhau, khẳng định nội dung cơ
bản của chính sách đối ngoại Việt Nam, trí tuệ và thiên tài ngoại giao Hồ Chí
Minh và những hoạt động phong phú trong đấu tranh ngoại giao và vận động
quốc tế qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam.
Ngay từ 1950 trong tác phẩm <i>"Hội nghị Việt - Pháp Phơngtennơblơ </i>
<i>tháng 7-1946",</i><sub> Nxb Văn hố, tác giả Trịnh Quốc Quang đã đề cập đến bối </sub>
cảnh lịch sử dẫn đến cuộc đấu tranh chính thức giữa Việt Nam và Pháp.
Năm 1979, Nxb Sự thật, Hà Nội cho ra đời cuốn sách <i>"Mặt trận </i>
<i>ngoại giao thời kỳ chống Mĩ cứu nước (1965-1975)"</i><sub>. Đây là một cuốn sách </sub>
tập hợp các bài viết, các bài trả lời phỏng vấn, các báo cáo về ngoại giao ...
trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước của cố Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Duy Trinh.
<i>ta"</i><sub>. Cuốn sách đã đề cập đến quá trình đấu tranh ngoại giao của nhân dân </sub>
ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ dẫn đến thắng lợi mang tính
thời đại sâu sắc mùa xuân năm 1975.
GS. Đinh Xuân Lâm, trong bài viết <i>"Thắng lợi ngoại giao đầu tiên có </i>
<i>tính chất quyết định của chính quyền cách mạng (1945-1946)"</i><sub> đăng trên tạp </sub>
chí Khoa học Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 6 - 7 năm 1990, đã đi sâu phân
Tạp chí Lịch sử Đảng số 6 năm 1993 đã đăng bài viết: <i>"Hồ Chí Minh </i>
<i>với quan hệ Việt - Mĩ"</i><sub> của hai tác giả Trịnh Vương Hồng và Nguyễn Minh </sub>
Đức. Bài báo đã đi sâu phân tích mối quan hệ giữa Việt Nam và Mĩ trong
lịch sử.
Năm 1994, Học viện Quan hệ Quốc tế xuất bản cuốn sách<i>: "Bác Hồ nói </i>
<i>về ngoại giao".</i><sub> Cuốn sách nêu rõ những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí </sub>
Minh về cơng tác ngoại giao trong đấu tranh cách mạng.
Đặc biệt vào năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành Ngoại
giao Việt Nam hiện đại, Học viên Quan hệ Quốc tế đã tổ chức hội thảo khoa
học. Cuộc hội thảo đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài ngành ngoại
giao. Nhiều báo cáo khoa học được gửi về cuộc hội thảo. Trên cơ sở đó, tập kỉ
yếu "<i>Hội thảo khoa học 50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của </i>
<i>Đảng Cộng sản Việt Nam</i><sub>" đã được xuất bản. Các báo cáo khoa học tại Hội thảo </sub>
Lưu Văn Lợi trong tác phẩm <i>"50 năm ngoại giao Việt Nam </i>
<i>(1945-1995)"</i><sub> do Nxb Công an nhân dân Hà Nội xuất bản năm 1996, đã nêu rõ quá </sub>
trình phát triển của ngành Ngoại giao Việt Nam trong 50 năm.
Năm 2001, Học viện Quan hệ Quốc tế cho ra mắt bạn đọc cuốn sách:
<i>"Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập tự do"</i><sub>. Cuốn sách </sub>
đã trình bày quá trình phát triển của nền ngoại giao Việt Nam từ sau khi nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, góp phần đem lại thắng lợi vĩ đại của nhân
dân ta vào mùa Xuân năm 1975.
Tác giả Nguyễn Phúc Luân trong tác phẩm <i>"Ngoại giao Việt Nam hiện </i>
<i>đại vì sự nghiệp giành độc lập tự do (1945-1975)"</i><sub>, Nxb Chính trị năm 2001, </sub>
đã trình bày khá cụ thể quá trình đấu tranh ngoại giao trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược (1945-1975).
Dưới góc độ đi sâu tìm hiểu đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam, năm 2005 tác giả Vũ Quang Hiển đã cho xuất bản cuốn <i>"Tìm hiểu </i>
<i>chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ 1945-1954"</i><sub>. </sub>
Ngồi ra, cịn nhiều cơng trình của các nhà nghiên cứu dưới những góc
độ khác nhau đề cập vấn đề đấu tranh ngoại giao trong lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào mang tính
chun khảo trình bày một cách hệ thống q trình đấu tranh ngoại giao từ
ngày ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) đến ngày kí Hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương (21/7/1954).
Mặc dù vậy, tất cả những cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố đều là
những nguồn tư liệu quý báu giúp cho chúng tôi hoàn thành Luận văn này.
<b>3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI </b>
Cuộc đấu tranh ngoại giao Việt Nam.
<b>3.2. Phạm vi nghiên cứu</b>
Quá trình đấu tranh ngoại giao của Chính phủ và nhân dân Việt Nam
trong thời gian từ Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 đến Hiệp định
Giơnevơ 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hồ bình ở Đơng Dương. Luận
văn cịn đề cập đến những hoạt động ngoại giao từ sau khi nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hồ ra đời đến trước ngày kí Hiệp định sơ bộ 6/3/1946.
<b>3.3. Nhiệm vụ của đề tài </b>
- Làm rõ bối cảnh lịch sử dẫn đến việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3
năm 1946.
- Quá trình đấu tranh ngoại giao từ sau ngày ký kết Hiệp định sơ bộ đến
trước Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
- Cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
- Thơng qua đó làm rõ lập trường kiên định, tính đúng đắn, sáng tạo
của Đảng và Chính phủ ta trong quá trình đấu tranh ngoại giao, rút ra những
bài học kinh nghiệm trong đấu tranh ngoại giao.
<b>4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU </b>
<b>4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu </b>
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch
sử, kết hợp với phương pháp lôgic là chủ yếu. Một số phương pháp cụ thể
(phân tích, tổng hợp...) cũng được sử dụng.
<b>4.2. Nguồn tài liệu </b>
Để đạt được mục đích của đề tài chúng tơi sử dụng:
- Các văn kiện chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Các chỉ thị về ngoại giao của Bộ Ngoại giao và Chính phủ trong thời
kỳ 1945-1954.
- Các tác phẩm, cơng trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả về
ngoại giao.
<b>5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI </b>
- Tập hợp, hệ thống hố các nguồn tư liệu về q trình đấu tranh ngoại
giao từ Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 đến Hiệp định Giơnevơ 1954 về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hồ bình ở Đơng Dương.
- Làm rõ đường lối đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở hai thời điểm
đầu và cuối cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Dùng tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy phần lịch sử dân tộc trong
trường phổ thông trung học.
<b>6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI </b>
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
được xây dựng thành 3 chương:
<b>Chƣơng 1.</b> <i>Đấu tranh ngoại giao trong những tháng đầu sau Cách mạng </i>
<i>tháng Tám (9/1945 - 3/1946) </i>
<b>Chƣơng 2.</b> <i>Hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt Nam từ sau ngày </i>
<i>6/3/1946 đến năm 1953 </i>
<b>ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU SAU </b>
<b>CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (9/1945 - 3/1946) </b>
<b>1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO </b>
Đường lối hay chính sách của một quốc gia bao giờ cũng gồm hai
mặt: Đối nội và đối ngoại nhằm phục vụ lợi ích tối cao của dân tộc. Đường
lối đó trước hết xác định bởi tính chất của chế độ kinh tế, xã hội, của quốc
gia. V.I. Lênin nói: "Những cội rễ sâu xa nhất của chính sách đối nội lẫn
đối ngoại của nhà nước chúng ta đều có lợi ích kinh tế, địa vị kinh tế của
giai cấp thống trị ở nước ta quyết định. Những luận điểm đó vốn là cơ sở
toàn bộ của thế giới quan của những người Mác xit... đã được kinh nghiệm
chứng thực" [55, tr.403-404].
Hai mặt đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một thể thống nhất vì
chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp và dân tộc trong quốc gia và quan
hệ giữa giai cấp, dân tộc trên trường quốc tế.
Song, từng quốc gia lại thi hành chính sách thống nhất để thực hiện
những lợi ích chiến lược của giai cấp cầm quyền ở trong nước và tạo điều
kiện tốt nhất thực hiện lợi ích ấy trên trường quốc tế. Chính sách đối ngoại
thống nhất với chính sách đối nội ở nội dung giai cấp, xuất xứ và phương
hướng. Nói cách khác, chính sách đối nội và đối ngoại của một quốc gia đều
giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ, duy trì hệ thống quan hệ kinh tế - xã hội hiện
hành ở quốc gia đó. Lênin thường nhấn mạnh: Đem tách chính sách đối ngoại
ra khỏi chính trị nói chung, hay hơn nữa, đem đối lập chính sách đối nội, đó là
tư tưởng hồn tồn sai lầm, khơng Macxit, khơng khoa học.
Chính trị đối nội quyết định nội dung, phương hướng chính trị đối ngoại,
đặt yêu cầu cho chính trị đối ngoại. Tuy nhiên, chính trị đối ngoại có tính độc
lập nhất định và tác động trở lại chính trị đối nội. Chính sách đối ngoại bao
gồm mục đích, lợi ích của một quốc gia, phương pháp hoạt động của nó trên
trường quốc tế. Phương pháp giải quyết các nhiệm vụ đối nội bằng cách Nhà
nước nắm quyền lực chính trong xã hội. Điều đó khơng thể áp dụng được trên
lĩnh vực đối ngoại. Trên sân khấu quốc tế khơng có một trung tâm quyền lực
thống nhất, trái lại, sự tồn tại các hoạt động của nhiều Nhà nước mà về nguyên
tắc thì các nhà nước này đều có quyền bình đẳng với nhau. Quan hệ giữa các
nhà nước này với nhau được thực hiện thông qua các cuộc đấu tranh thương
lượng, thông qua các hiệp định, thoả hiệp song phương hoặc đa phương.
Mục đích và lợi ích của một quốc gia trong quan hệ quốc tế được thực
hiện trước tiên thông qua quan hệ chính thức giữa các Chính phủ, nhưng đồng
thời cũng thực hiện thông qua quan hệ kinh tế và văn hố dưới sự bảo trợ của
Chính phủ cũng như của các cơng ty, đồn thể quần chúng, các tổ chức phi
Chính phủ... Cuối cùng được thực hiện thông qua việc sử dụng lực lượng vũ
trang. Lực lượng vũ trang này tuỳ thuộc vào tính chất giai cấp của nhà nước
và chính sách đối ngoại mang tính chất mục đích xâm lược hay tự vệ.
tắc: "<i>Dĩ bất biến, ứng vạn biến", "biết mình, biết người"</i><sub> để đưa ra mục tiêu </sub>
chính sách kịp thời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa
chính sách đối nội và đối ngoại, đánh giá cao vị trí, vai trò đối ngoại, vai trò
của nhân dân quốc tế, nhân tố bên ngoài đối với cuộc đấu tranh giành độc lập,
bảo vệ, xây dựng Tổ quốc. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, tư tưởng
của Người về đường lối cách mạng Việt Nam, bao gồm cả lĩnh vực đối nội và
đối ngoại đã dần dần hình thành, phát triển.
Trong cuốn sách: "Phép dùng binh của Tơn Tử", Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ: Đánh hơn trăm trận, không phải là giỏi nhất. Giỏi nhất là không đánh
mà quân địch phải thua. Cho nên dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu. Thứ
hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba là đánh bằng binh.
Tại Hội nghị đại biểu Đảng ở Tân Trào, Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú ý
tới công tác ngoại giao đối với đất nước Việt Nam độc lập. Nghị quyết của
Hội nghị đã đặt "<i>Vấn đề ngoại giao"</i><sub> thành mục riêng, mục IV, ngang với mục </sub>
III: "<i>Chủ trương của Đảng</i><sub>" và mục VI "</sub><i>Nhiệm vụ quân sự</i><sub>". Điều này nói lên </sub>
rằng, vào giai đoạn quyết định của cách mạng, ngoại giao phải là một mặt trận
quan trọng ngang với đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự.
Trong quá trình kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của đế quốc,
đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự nhằm mục tiêu cuối cùng
là đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, trong đó đấu tranh quân sự là quyết
định, đấu tranh ngoại giao phục vụ cho đấu tranh quân sự, cho phát triển lực
<i>như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn</i><sub>". </sub>
giao trở thành "<i>một mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược và dưới sự </i>
<i>lãnh đạo của Đảng, hoạt động ngoại giao đã gắn liền với các giai đoạn phát </i>
<i>triển của cách mạng. Ngoại giao luôn thể hiện là vũ khí bảo vệ và phát huy </i>
<i>thành quả, là một mặt trận đấu tranh góp phần tích cực giành và bảo vệ độc </i>
<i>lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước</i><sub>" [48, </sub>
tr.336].
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao trong đấu tranh
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
quan tâm đẩy mạnh hoạt động đối ngoại.
<b>1.2. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO DẪN ĐẾN HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6 </b>
<b>THÁNG 3 NĂM 1946 </b>
Nhà nước dân chủ nhân dân vừa ra đời, các lực lượng thù địch đã ập
tới, uy hiếp từ nhiều phía. Dựa vào đó, các lực lượng phản động, chủ yếu là
tay sai Tưởng ở miền Bắc và tay sai Pháp ở miền Nam, cũng ráo riết chống
phá từ bên trong. Trước mắt, chính quyền cách mạng phải chiến đấu đơn độc,
hầu như khơng có một lực lượng nào bên ngồi hỗ trợ. Mối liên hệ với phong
trào cộng sản quốc tế hầu như khơng có. Trong mối quan hệ quốc tế phức tạp,
chằng chéo sau chiến tranh, lại có nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại cấp bách
cần phải giải quyết, nên các Đảng Cộng sản, các lực lượng cách mạng trên thế
giới chưa có điều kiện giúp đỡ cách mạng Việt Nam.
nhanh chóng. Trong hồn cảnh ấy, hồn tồn có thể xảy ra khả năng chính
quyền nhân dân khơng đứng vững, nền độc lập dân tộc vừa giành được có
thể bị thủ tiêu.
Bên cạnh những khó khăn, trở ngại, cách mạng nước ta vẫn có nhiều
thuận lợi rất cơ bản. Cách mạng tháng Tám đem lại những đổi thay quan
trọng về thế và lực cho nhân dân Việt Nam. Bản thân chính quyền cách mạng
được thành lập đã là một nhân tố mới rất quan trọng, tạo ra những thuận lợi
cơ bản cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Lực lượng cách mạng lúc này đã
đứng trên tư thế của một nhà nước, có những quyền lực nhất định. Với Cách
mạng tháng Tám, cả một dân tộc bị áp bức gần một thế kỷ, có truyền thống
chống ngoại xâm lâu đời, đã tự khẳng định được sức mạnh quật khởi. Một
dân tộc bị đẩy xuống địa vị <i>"vong quốc nô"</i><sub> nay trở lại là chủ nhân đất nước, </sub>
tạo dựng một chế độ mới chưa từng có trong lịch sử của mình. Sự gắn bó của
nhân dân với chính quyền cách mạng do chính họ dựng lên, niềm hi vọng của
nhân dân ở chế độ mới tốt đẹp, ý chí của cả dân tộc quyết tâm bảo vệ chủ
quyền đất nước và thành quả cách mạng, uy tín của lãnh tụ, của Đảng và Mặt
trận Việt Minh sau thắng lợi của cách mạng..., tất cả những yếu tố đó sẽ trở
thành sức mạnh và phát huy tác dụng trong cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập
dân tộc.
Trước mắt, nhiều thế lực thù địch tràn vào nước ta, trong đó chủ yếu là
Tưởng và Pháp, gây cho ta những khó khăn nghiêm trọng. Mặc dù thống nhất
với nhau trong ý đồ chung nhằm tiêu diệt chính quyền cách mạng, song các
thế lực ấy lại mâu thuẫn với nhau về quyền lợi cụ thể. Những mâu thuẫn đó
cũng là một thuận lợi khách quan mà cách mạng cần tranh thủ.
phản động, hạn chế thế và lực của chúng ở nhiều nơi, khiến cho chúng khơng
thể hồn tồn cơng khai hành động theo ý muốn.
Thực tế ngay buổi chiều ngày 2/9/1945, tại Nam Bộ, trong lúc hàng
chục vạn đồng bào Sài Gịn - Chợ Lớn họp mít tinh mừng độc lập thì một
nhóm người Pháp đã nổ súng khiêu khích làm một số người bị thương và
chết. Phái bộ Anh đã tỏ rõ thái độ ủng hộ thực dân Pháp qua việc vu cáo
chính quyền Việt Nam không giữ được trật tự trong thành phố. Họ cho qn
Nhật tước khí giới và địi ta giải tán các đội tự vệ. Sau khi quân Anh kéo vào
phía Nam vĩ tuyến 16, việc đầu tiên của họ chưa phải là tước khí giới quân
Nhật mà là thả tù binh Pháp bị Nhật bắt giam từ ngày 9/3/1945. Đồng thời,
họ ra lệnh đóng cửa tất cả các báo chí của ta tại Sài Gịn. Ngày 21/9, Anh
chiếm đóng trụ sở Cảnh sát Quận 2, trang bị lại vũ khí cho tù binh người
Pháp, ban bố lệnh thiết quân luật, cấm nhân dân ta biểu tình hội họp, đem
theo vũ khí và đi lại ban đêm. Tối 22/9, sau khi chiếm đài vơ tuyến điện,
phía Anh làm ngơ cho qn Pháp nổ súng đánh úp ta ở Sài Gòn. Như vậy là,
quân Anh đã làm tấm bình phong, đồng thời làm nhiệm vụ dọn đường cho
thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Âm mưu và hành động
xâm lược của thực dân Pháp đã lộ rõ. Nhân dân Nam Bộ anh dũng đứng lên
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập chủ quyền
vừa giành được.
Trung ương Đảng và Chính phủ đã kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức
ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Trong lời kêu gọi ủng hộ kháng chiến Nam Bộ,
Chính phủ lâm thời đã khẳng định cần phải: "<i>hy sinh hết thảy vì kháng chiến. </i>
<i>Hy sinh hết thảy vì mặt trận Nam Bộ</i><sub>". </sub>
Trong toàn quốc, phong trào ủng hộ Nam Bộ diễn ra sơi nổi ở khắp nơi với
nhiều hình thức phong phú. Tháng 9 - 1945, hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung
Bộ đã lập các "<i>Phòng Nam Bộ</i><sub>" để ghi tên những người tình nguyện vào Nam </sub>
đánh giặc. Các đội quân Nam tiến được thành lập và nhanh chóng lên đường
vào Nam chiến đấu.
Xuất phát từ tình hình thực tế, trên cơ sở phân tích chính xác, âm mưu và
hành động của từng thế lực ngoại xâm có mặt ở nước ta sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai, trong bản Chỉ thị: "<i>Kháng chiến, kiến quốc" (25/11/1945), </i><sub>Trung </sub>
ương Đảng chỉ rõ: <i>"Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp</i><sub>" [72, tr.21]. </sub>
Trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo
vệ chính quyền, giữ gìn độc lập dân tộc, Trung ương Đảng và Chính phủ, đặc
biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng hoạt động ngoại giao.
Là người lãnh đạo Chính phủ, đồng thời trực tiếp phụ trách cơng tác
ngoại giao trong buổi đầu khó khăn của Nhà nước cách mạng, Hồ Chí Minh
ln theo đúng tinh thần các nghị quyết của Đảng ta về đối ngoại, hết sức
tránh trường hợp cùng một lúc đương đầu với nhiều lực lượng Đồng minh kéo
vào nước ta nhằm tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chính. Bản tuyên
bố về chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do
Người dự thảo, được Hội đồng Chính phủ thơng qua trong phiên họp ngày
28/9/1945 cũng thể hiện tinh thần ấy.
Việc giải quyết quan hệ với phía Pháp ln được Hồ Chí Minh đặt
trong bối cảnh chung, liên quan chặt chẽ với việc giải quyết quan hệ với các
lực lượng Đồng minh.
quy định. Ngày 26/9/1945, Người gửi điện cho tướng Anh Graxy (Gracey) để
kháng nghị việc quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn.
Phối hợp đấu tranh ngoại giao, Đảng ta đã phát động phong trào đấu
Để nâng cao vị trí của Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã cố gắng tranh thủ
các nước có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế lúc đó. Đối với Liên Xơ,
giai đoạn này Chính phủ ta khơng có mối quan hệ trực tiếp. Trong và sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng ta ln dành mối cảm tình đặc biệt đối với
Liên Xơ. Tuy nhiên, thời gian đó nước ta đang trong tình thế bị bao vây, các
đường liên hệ với bên ngoài rất hạn chế.
Với Mĩ, Hồ Chí Minh tiếp tục giữ vững quan hệ đã có trong thời gian
cuối chiến tranh. Là nước đứng đầu các nước tư bản trong phe Đồng Minh và
có vai trị quan trọng trong Liên hợp quốc, Mĩ có ảnh hưởng rất lớn tới các
mối quan hệ quốc tế sau chiến tranh. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng nếu khơng
có sự giúp đỡ của Mĩ và các nước Đồng Minh thì Pháp khơng thể trở lại được
Đông Dương. Điểm yếu nhất của Pháp là khơng có danh nghĩa hợp pháp để
vào Đơng Dương. Ở miền Nam, Pháp được Anh giúp, muốn vào miền Bắc,
Pháp phải được sự giúp đỡ của Mĩ - Tưởng. Đảng ta - đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh - đã chỉ rõ thái độ hai mặt của Mĩ: "<i>Mĩ tuy vẫn nói với Đơng Dương, </i>
<i>giữ thái độ trung lập, song Mĩ đã ngầm giúp Pháp bằng cách cho Pháp mượn </i>
<i>tàu chở quân sang Đông Dương. Một mặt, Mĩ muốn tranh giành quyền lợi với </i>
<i>Anh - Pháp ở Đông Dương và Đông Nam Á, nhưng mặt khác lại muốn hồ </i>
<i>hỗn với Anh - Pháp để cùng lập mặt trận bao vây Liên Xô</i><sub>" [73, tr.21]. Trên </sub>
cơ sở nhận định đó, Hồ Chí Minh đã quyết định khai thác "<i>mặt trung lập</i><sub>" của </sub>
Song Mĩ đã ngả hẳn về lập trường ủng hộ Pháp trong vấn đề Đông
Dương. Ngày 5/10/1945, khi tướng Lơcơlec đổ bộ lên Sài Gịn, Chính phủ Mĩ
đã gửi một bức điện nói rõ: Hoa Kỳ khơng hề có ý định chống lại việc khơi
Chính phủ Trùng Khánh được sự chỉ đạo của Mĩ và sự vận động của
Pháp có xu hướng nhường Bắc Việt Nam cho Pháp đổi bằng việc lấy lại
những đặc quyền kinh tế to lớn của Pháp.
Để đối phó với âm mưu ấy, Đảng đã vận dụng sách lược hồ hỗn hết
sức mềm dẻo. Đảng ta đã dự đoán Mĩ - Tưởng sẽ nhân nhượng với Anh -
Pháp, nhường Đông Dương cho Pháp. Như vậy, khả năng quân Tưởng ở miền
Bắc cũng không lâu dài được như chúng mong muốn. Ta sẽ bị đẩy vào thế
cùng lúc đương đầu với cả Pháp và Tưởng, rất nguy hiểm cho cách mạng.
Ngoài ra, cịn có các lí do khác về phương diện quốc tế. Chính phủ Trùng
Khánh trong Chiến tranh được Liên Xô giúp đỡ kháng Nhật. Đến thời gian
này, Liên Xô tiếp tục tranh thủ Tưởng để giữ yên biên giới phía Đơng. Hơn
nữa, cuộc hợp tác Quốc - Cộng ở Trung Quốc cũng chưa tan vỡ hẳn, thái độ
công khai của Tưởng cũng như Mĩ ủng hộ độc lập của các dân tộc, là khả
năng để ta tranh thủ.
Việc hồ hỗn được với qn Tưởng trong khi chúng sắp sẵn mưu đồ
đen tối, lại đem theo bọn tay sai đầy tham vọng và ngông cuồng chống phá
cách mạng nước ta quả là một việc vô cùng khó khăn. Nhưng với sự hiểu biết
cặn kẽ nội bộ các tên tướng cầm đầu quân Tưởng, với những địn chủ động tiến
cơng ngoại giao kết hợp với các biện pháp khơn khéo, mềm dẻo, Hồ Chí Minh
đã buộc chúng phải giao thiệp với Chính phủ ta và hồ hỗn với ta ngay từ đầu.
của các đảng phái tay sai. Trong lúc nhân dân đang bị nạn đói đe doạ, Chính
phủ vẫn phải nhận cung cấp lương thực cho quân Tưởng. Trước những yêu
sách của quân Tưởng đòi cho bọn tay sai tham gia chính quyền, Hồ Chí
Minh đã 2 lần quyết định mở rộng Chính phủ (tháng 12/1945 và tháng
Chủ trương và những hoạt động ngoại giao của Đảng cùng với sự chỉ
đạo cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc giữ mối quan hệ hồ hỗn
với qn Tưởng có ý nghĩa rất lớn. Thơng qua sách lược này, vị thế chủ nhân
đất nước của Chính phủ Việt Nam được củng cố, đồng thời khoét sâu thêm
mâu thuẫn giữa Tưởng và Pháp ở chừng mực nhất định. Cùng với việc tranh
thủ Mĩ, sự hồ hỗn với Tưởng đã tạo điều kiện cho chính quyền cách mạng
tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược.
Âm mưu trở lại xâm lược nước ta, chính thực dân Pháp đã đặt nhân dân
Việt Nam trong thế phải đối mặt với chúng như trước những năm 40 của thế
kỷ. Song, cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp sau Cách mạng tháng Tám
khơng cịn bó hẹp trong khuôn khổ một dân tộc thuộc địa chống chế đế quốc
thống trị như thời kỳ trước mà đã chuyển thành cuộc đấu tranh của một quốc
gia vừa giành được chủ quyền, chống lại kẻ xâm lược. Trong đó, đấu tranh
ngoại giao có ý nghĩa rất quan trọng, có khả năng mở ra một phạm vi rộng lớn
của các vấn đề quốc tế.
Pháp để giành lại chủ quyền đất nước. Còn ở thời kỳ sau, để tồn tại và phát
triển với tư cách một quốc gia có chủ quyền, điều quan trọng nhất và cũng là
điều kiện thuận lợi nhất, là cần phải có mối quan hệ hồ bình với các quốc gia
khác trên thế giới. Chính sách ngoại giao hồ bình lúc này mang ý nghĩa
chiến lược lâu dài đối với sự phát triển của đất nước, đồng thời cũng đáp ứng
yêu cầu cấp bách của việc bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ mới ra đời, lực lượng
Ở miền Nam, tuy đã bước đầu kìm chân được quân Pháp tại các đô thị,
song lực lượng kháng chiến của ta cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Ở miền Bắc, tuy hồ hỗn với quân Tưởng nhưng Chính phủ ta vẫn
phải thường xuyên đối phó với những thủ đoạn khiêu khích, gây rối của
chúng và tay sai. Trên thực tế, chúng là gánh nặng cho ta về cả kinh tế lẫn
chính trị. Dự đốn của Đảng về khả năng Mĩ - Tưởng thoả thuận cho Pháp trở
lại miền Bắc Đông Dương càng cho thấy vấn đề chống Pháp không đơn giản
trong phạm vi quan hệ giữa Việt Nam với Pháp.
Như vậy, việc Đảng ta tìm kiếm khả năng hồ hỗn với Pháp xuất phát
từ đường lối ngoại giao phù hợp với lợi ích lâu dài của quốc gia, đáp ứng yêu
cầu củng cố nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ. Điều đó phù hợp với tương
quan lực lượng giữa ta với Pháp và cũng phù hợp với hoàn cảnh quốc tế lúc
bấy giờ.
Tuy nhiên, nếu hồ hỗn chỉ là u cầu của một phía thì khó có thể trở
thành hiện thực. Nếu như khơng trùng hợp, thì ít nhất cũng phải có những chỗ
gặp nhau về lợi ích của cả hai phía trong sự hồ hỗn ấy.
như ý muốn. Bởi vì đối với Pháp, việc chiếm đóng cả miền Bắc Việt Nam có ý
nghĩa rất quan trọng. Để mở rộng xâm lược ra cả miền Bắc Việt Nam, theo sự
tính tốn của một số tướng tá Pháp, cần phải bổ sung một lực lượng lớn quân
viễn chinh, nhưng nước Pháp không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu ấy.
Thực tế cách mạng Việt Nam cùng với những chuyển biến của tình
hình thế giới và nước Pháp sau chiến tranh, cũng như sự lớn mạnh của
Như vậy là ở hai phía, Việt Nam và Pháp đều có những u cầu về hồ
hỗn, ít nhất là tạm thời. Nhà nước cách mạng Việt Nam, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra và tranh thủ, khai thác khả năng ấy. Đồng thời,
với cương vị của mình, Người ln cố gắng tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi để
khả năng ấy trở thành hiện thực.
Việc tiếp xúc giữa đại diện Chính phủ Việt Nam với phía Pháp đã bắt
đầu ngay từ sau khi ta giành được chính quyền. Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn ra
tại Hà Nội, ngày 27/8/1945 với sự có mặt của thiếu tá Mĩ Patti. Phía Việt
Nam có Võ Ngun Giáp và Dương Đức Hiền, phía Pháp là Xanhtơni, đây là
dịp để thực hiện việc nói chuyện với Việt Minh đã dự định từ trước khi chiến
tranh kết thúc. Trong cuộc gặp mặt này, đại diện phía Việt Nam đã tỏ thái độ
mềm mỏng khi tuyên bố rằng Việt Minh đã làm chủ đất nước và mong muốn
có sự tiếp xúc chặt chẽ giữa hai bên. Xanhtơni cũng nói rõ lập trường của
Pháp vẫn giữ "<i>chủ quyền</i><sub>" đối với Đông Dương và đang lựa chọn một đường </sub>
lối chính trị rộng rãi đối với Đơng Dương sau khi Đồng minh rút khỏi khu
vực này. Cuộc tiếp xúc thực ra chỉ mang tính chất thơng báo quan điểm và
thăm dò thái độ giữa hai bên.
Cho đến tháng 1/1946, các cuộc tiếp xúc Việt - Pháp vẫn chưa đem lại
kết quả gì cụ thể và thường rơi vào tình trạng bế tắc. Lập trường của phía
Pháp vẫn cơ bản dựa trên tinh thần tuyên bố ngày 23/4/1945 của Đờ Gôn, chỉ
thừa nhận cho Việt Nam tự trị trong Liên bang Đơng Dương. Tư tưởng chỉ
đạo của Chính phủ Đờ Gơn là khơng muốn ký kết với chính quyền bản địa
nếu như chính quyền ấy khơng do người Pháp tạo ra. Ngay cả những người
tán thành thương lượng như Lơcơlec thì cũng quan niệm rằng chỉ có thể điều
đình với Việt Minh khi đã tỏ rõ sức mạnh của Pháp.
Đảng (25/11/1945). Song song với lập trường kiên quyết chống xâm lược để
bảo vệ chủ quyền và thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh ln tỏ rõ thiện chí
hồ bình, sẵn sàng hợp tác với nước Pháp.
Tại Đông Dương, quân Tưởng cũng chạy đua với Pháp về thời gian.
Chúng dung túng cho bọn tay sai cố tình phá hoại cuộc đàm phán giữa ta
với Pháp. Chúng cho tay sai khiêu khích, đẩy ta xung đột với Pháp để
chúng lợi dụng. Do đó, yêu cầu về sự thoả thuận ở cả hai phía, ta và Pháp,
lúc này đều trở nên cần thiết. Trong bức điện gửi về cho Chính phủ Pháp
ngày 14/2/1946, Lơcơlec đề nghị: "<i>Nếu muốn đi đến thoả hiệp, khơng nên </i>
<i>do dự nói đến chữ Độc lập</i><sub>". Lơcơléc yêu cầu Xanhtơni: "</sub><i>Phải hết sức </i>
<i>tránh khi quân Pháp đổ bộ, Hồ Chí Minh đi vào chiến khu để làm một cuộc </i>
<i>chiến tranh thần thánh nào đó</i><sub>" [7, tr.14]. </sub>
Về phía ta, để tạo lối thoát cho cuộc đàm phán đang bế tắc, trong cuộc
trao đổi ngày 16/2/1946 với Xanhtơni, có Hồng Minh Giám cùng dự, Hồ Chí
Minh đã nhận đàm phán bí mật trên cơ sở nền độc lập của Việt Nam trong
khối Liên hiệp Pháp. Xanhtơni yêu cầu thêm là phía Pháp sẽ ký kết khơng chỉ
với Việt Minh mà với một Chính phủ bao gồm nhiều đảng phái chính trị tiêu
biểu cho các khuynh hướng chính trị ở Việt Nam.
Tiến hành thương lượng với Pháp khi những đội quân Tưởng đang
chiếm đóng miền Bắc nước ta và sẵn sàng kiếm cớ lật đổ chính quyền của ta,
là một việc rất khó khăn, phức tạp, vẫn còn đang tranh chấp về vấn đề miền
Bắc Việt Nam.
ngày càng nhận thấy rõ rằng lúc này, muốn giải quyết những vấn đề liên quan
đến Việt Nam, khơng thể thiếu vai trị của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hồ. Dù không đi đến kết quả cụ thể nào trong mối quan hệ Việt - Pháp, song
những cuộc tiếp xúc đã tạo được cơ sở thực tế cho việc thực hiện chủ trương
hồ hỗn với Pháp khi hai kẻ thù của ta (Pháp và Tưởng) đã bắt tay với nhau.
Hiệp ước Hoa - Pháp ký ngày 28/2/1946 quy định rõ việc quân Pháp
vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng với thời hạn chậm nhất là
31/3/1946. Mặc dù đó khơng phải là một điều bất ngờ, nhưng cũng đặt cách
mạng Việt Nam trước một tình thế mới cấp bách.
Với Hiệp ước này, việc quân Pháp vào miền Bắc nước ta khơng cịn chỉ
là khả năng mà sẽ là hiện thực chắc chắn trước mắt. Cuộc xâm lược của
chúng đã được khoác chiếc áo hợp pháp là thay quân Tưởng làm tiếp nhiệm
vụ của Đồng Minh. Như vậy trên thực tế, Đồng Minh đã hoàn thành nhiệm vụ
giúp thực dân Pháp trở lại Đơng Dương.
Tình thế đã đặt Nhà nước cách mạng Việt Nam trước hai khả năng cần
Ngày 3/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "<i>Tình hình </i>
<i>và chủ trương</i><sub>". Ban Chỉ thị nhận định: </sub><i>"... Hiệp ước Hoa - Pháp không phải </i>
<i>là chuyện riêng của Tưởng Giới Thạch và Pháp. Nó là chuyện chung của phe </i>
<i>đế quốc và bọn tay sai của chúng ở thuộc địa...</i><sub>" [73, tr.33]. Phân tích về chủ </sub>
trương đánh hay hoà lúc này, Chỉ thị nêu rõ: <i>"... Nếu Pháp công nhận Đông </i>
<i>Dương tự chủ thì có thể hồ, hoà để phá tan âm mưu của bọn Tưởng Giới </i>
<i>Thạch, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Pháp cịn sót lại, chúng định </i>
<i>hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải đánh nhiều kẻ thù một lúc..." </i><sub>[73, tr.33]; </sub>
đồng thời nhấn mạnh: "<i>Vấn đề lúc này không phải là muốn hay không muốn </i>
<i>đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận định một cách khách quan những </i>
<i>điều kiện lợi hại trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng...</i><sub>" [73, </sub>
tr.33].
Từ sau Hiệp ước Hoa - Pháp, nhịp độ các cuộc trao đổi giữa ta và phía
Pháp trở nên dồn dập. Riêng từ đầu tháng 3 đến khi ký Hiệp định sơ bộ có tới
4 cuộc tiếp xúc giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Xanhtơni để thảo luận nội
dung cụ thể của bản Hiệp định. Lúc đó, Xanhtơni đã nhận được những chỉ thị
của Đácgiăngliơ ngày 29/2/1946 về những nội dung làm cơ sở cho Hiệp định,
trong đó quyền lợi của Việt Nam vẫn rất hạn chế, với một Chính phủ tự trị,
trong khn khổ Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Đácgiăngliơ còn
nhấn mạnh thêm quyền của Pháp đại diện cho Việt Nam về ngoại giao; đồng
thời vẫn không thừa nhận sự thống nhất của Việt Nam, dù chỉ riêng Bắc Kỳ
với Trung Kỳ. Ngay cả đến tướng Lơcơlec trong bức điện gửi Xanhtơni ngày
22/2, còn phải e ngại rằng nếu đưa ra những điểm mà Cao uỷ nhấn mạnh, thì
sẽ "<i>làm hỏng kết quả bao nhiêu công sức</i><sub>" mà họ bỏ ra lâu nay trong các cuộc </sub>
đàm phán.
vẫn luôn chú ý quan sát và phân tích quan hệ giữa Tưởng và Pháp. Mặc dù
Tưởng và Pháp đã ký Hiệp ước nhưng ở miền Bắc Việt Nam, giữa hai bên
vẫn có sự bất đồng, thậm chí cả xung đột. Khi các thế lực điều khiển chúng đã
thống nhất thì trước sau chúng cũng phải dàn xếp với nhau. Tuy nhiên, chừng
nào chúng còn mâu thuẫn, dù nhỏ, dù tạm thời, ta vẫn cần khai thác.
Cho đến ngày 4/3, tướng Chu Phúc Thành vẫn tuyên bố chưa nhận
được mệnh lệnh cụ thể về việc để quân Pháp vào thay thế, vì vậy quân đội
Tưởng sẽ chống lại khi quân Pháp đổ bộ. Phía Tưởng nói rõ: Khơng thể để
qn Pháp vào miền Bắc nếu người Pháp chưa ký kết được với Chính phủ
Việt Nam. Lý do của họ là: Để tránh trường hợp người Việt Nam cho rằng
quân Tưởng phản bội, sẽ trả thù Hoa kiều sau khi quân Tưởng rút đi. Bởi vậy,
đối với Pháp lúc này, yêu cầu về ký kết với Việt Nam trở nên cấp thiết.
Ngày 5/3, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhờ Thiệu Bách Xương, sĩ quan trong
quân đội Tưởng, chuyển cho phía Pháp bản kiến nghị về một điều kiện và nội
dung các điều khoản ký kết theo yêu cầu của Chính phủ ta. Việc làm này tỏ ý
tơn trọng phía Tưởng, đồng thời dùng Tưởng tăng thêm áp lực với Pháp trong
việc đàm phán với ta.
chỉ thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị, không chịu chấp nhận hai chữ
<i>"độc lập</i><sub>". Giới lãnh đạo Pháp rất lo sợ hai chữ độc lập có thể từ Việt Nam </sub>
mà gây ra phản ứng dây chuyền đối với các thuộc địa của Pháp. Như vậy,
vấn đề cuối cùng còn bế tắc là khoảng cách giữa độc lập và tự trị. Trong tình
trạng căng thẳng cực độ, Hồ Chí Minh đã tuyên bố tạm dừng cuộc thảo luận
khiến phía Pháp vơ cùng lo lắng.
Sáng 6/3, tàu đổ bộ của Pháp tiến vào cửa biển Hải Phòng và quân
Tưởng ở đó đã nổ súng. Trong khi đó, mặc dù đã chuẩn bị rất chu đáo tại các
vị trí chiến đấu, nhưng lực lượng vũ trang của ta rất bình tĩnh theo lệnh Chính
phủ, mặc cho Tưởng - Pháp xung đột với nhau. Nguy cơ xung đột lớn đã bắt
đầu trở thành thực tế. Hồ Chí Minh thấy rõ đã đến lúc đi đến quyết định. Sau
khi hội ý với Thường vụ Trung ương Đảng và thơng qua Hội đồng Chính phủ,
Hồ Chí Minh đã cùng Hồng Minh Giám gặp Xanhtơni và Pinhơng. Người đã
thống nhất với phía Pháp một cách giải quyết dung hoà giữa độc lập và tự trị:
"<i>Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do...</i><sub>". Vấn đề cuối cùng đã </sub>
được tháo gỡ. Hiệp định sơ bộ đã được ký kết vào buổi chiều 6/3/1946 với chữ
ký của Hồ Chí Minh, Xanhtơni, Vũ Hồng Khanh. Theo yêu cầu của Hồ Chí
Minh, đại diện của các phái bộ Đồng Minh, Anh, Mĩ, Trung Quốc và ông Lui
Capuýt, với danh nghĩa đại diện nhân dân Pháp, đã được mời đến dự lễ ký kết.
Kèm theo Hiệp định, một bản Hiệp định phụ về quân sự cũng được ký kết cùng
+ Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ là một
quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng của mình
và là một phần tử trong Liên bang Đơng Dương, ở trong khối Liên hiệp Pháp.
+ Việc hợp nhất "<i>ba kỳ</i><sub>", Chính phủ Pháp cam kết thừa nhận những </sub>
quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết.
+ Chính phủ Việt Nam chấp nhận để 15000 quân Pháp vào Bắc Việt
Nam làm nhiệm vụ thay thế quân đội Trung Hoa. Số quân Pháp kể trên sẽ rút
hết trong vòng 5 năm, trừ số quân phụ trách quản lý tù binh Nhật sẽ rút sau
khi hoàn thành nhiệm vụ.
+ Sau khi Hiệp định được ký kết, hai Chính phủ lập tức quyết định mọi
phương sách cần thiết để đình chỉ ngay cuộc xung đột, giữ nguyên quân đội
hai bên tại vị trí tạm thời.
+ Hai bên đồng ý "<i>mở ngay cuộc đàm phán (chính thức) thân thiện và </i>
<i>thành thực</i><sub>" . Trong cuộc đàm phán đó sẽ bàn ba vấn đề: </sub>
a. Những liên lạc ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài.
b. Chế độ tương lai của Đông Dương.
c. Những quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam.
<b>1.3. Ý NGHĨA CỦA HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6 THÁNG 3 NĂM 1946 </b>
trang tại chỗ bị tan vỡ và chia sẻ, chúng ta có điều kiện thuận lợi để củng cố
chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới.
Vì vậy, trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ II, năm 1951,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Lúc kí hiệp định sơ bộ, nhiều người
thắc mắc cho đó là chính sách q hữu. Nhưng các đồng chí và đồng bào Nam
Bộ đã khéo lợi dụng dịp đó để xây dựng và phát triển lực lượng của mình.
Thực tế lịch sử đã chứng tỏ, việc ký Hiệp định sơ bộ - trong hồn cảnh
lúc đó - là một chủ trương cứu nước duy nhất đúng, "<i>một mẫu mực tuyệt vời </i>
<i>của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ của kẻ địch và </i>
<i>về sự nhân nhượng có nguyên tắc</i><sub>" [17, tr.31]. </sub>
Về cơ bản, Hiệp định sơ bộ khẳng định Việt Nam khơng cịn là thuộc
địa của Pháp. Đồng thời, Hiệp định đã xoá bỏ được ý định áp đặt của các
nước lớn tại Hội nghị Pôtxđam (7/1945) đối với ta và điều quan trọng là đã
điều chỉnh thoả hiệp Anh - Pháp và Hoa - Pháp một cách có lợi cho ta hơn.
Nó khẳng định sự tồn tại của Nhà nước Việt Nam độc lập.
Hiệp định sơ bộ phản ánh việc ta vận dụng sách lược phân hoá kẻ thù,
tạo thời cơ đẩy quân Tưởng và bọn tay sai của chúng ra khỏi đất nước ta,
tránh được nguy cơ phải đối phó với hai thế lực thù địch cùng một lúc. Hơn
thế nữa, Hiệp định đã tạo được khơng gian hồ hỗn trong cả nước để có thể
biến thời gian thành lực lượng vật chất, và cùng với kết quả đem lại trên thực
tế (Tưởng rút quân và Pháp phải dãn quân) đã góp phần làm thay đổi so sánh
lực lượng tồn cục có lợi hơn cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong cả
nước.
Trong bài phát biểu trước cuộc mít tinh của quần chúng tại Hà Nội một
ngày sau khi ký Hiệp định (7/3/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "<i>Cuộc </i>
<i>điều đình với Pháp sẽ mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta. Nó sẽ </i>
<i>dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế. Đó là thắng </i>
<i>lợi về chính trị"</i><sub> [34, tr.35]</sub><i>. </i>
Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 được dư luận quốc tế nhiệt liệt hoan nghênh.
Tờ báo "Kinh tế" (Economist) của Anh ngày 11/3/1946 viết: Họ (người
Pháp) đáng được khen ngợi ở chỗ họ đã nắm được tinh thần khó khăn đang
chờ đợi họ sau khi Nhật Bản đầu hàng. Họ đã phải hạ mình trước một việc
hiển nhiên là chủ nghĩa dân tộc của người Việt Nam khơng bao giờ tắt, do đó
họ đã đàm phán với Chính phủ do ơng Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Nhà sử học Pháp Philip Đơvile (Philippe Devilles) viết trong cuốn sách
<i>"Lịch sử Việt Nam"</i><sub> lời nhận xét, Hiệp định Pháp - Việt làm cho thế giới ngạc </sub>
nhiên, nước Pháp, một cường quốc châu Âu đã dẫn đầu việc thoả hiệp với chủ
nghĩa quốc gia châu Á trước Anh, Hà Lan và cả Mĩ nữa. Từ nhiều phía, Hiệp
định Xanhtơni - Hồ Chí Minh được đồng tình.
Ở Liên Xơ, hãng TASS đưa tin ngắn về đại diện Đông Dương và đại
diện Pháp ký hiệp định công nhận Việt Nam là nước tự do...
Ở Trung Quốc, cả chính quyền Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản đều
hoan nghênh Hiệp định. Trả lời phỏng vấn của AFP, Chu Ân Lai cho rằng "<i>đó là </i>
<i>một việc đáng làm khuôn mẫu cho các đế quốc ở Thái Bình Dương và Châu Á" </i><sub>. </sub>
<b>Tiểu kết chƣơng </b>
Dựa vào sức mạnh đồn kết dân tộc, phát huy yếu tố chính nghĩa của
cuộc đấu tranh vì độc lập, Đảng chỉ đạo dùng biện pháp chủ yếu là đối
thoại với các thế lực đế quốc, chuyển từ đối đầu về quân sự sang đối thoại
hoà bình, gắng sức tránh một cuộc chiến tranh, nhất là một cuộc chiến
tranh xảy ra quá sớm.
Lợi dụng những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, nhằm vào điểm yếu về
chính trị của chủ nghĩa thực dân, Đảng vận dụng sách lược mềm dẻo, thực
hiện nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ thù, lúc thì hồ hỗn với Tưởng để
rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm hồ hoãn với Pháp để đuổi cổ
quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng dành thời gian
củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, điều mà Đảng ta biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện pháp
cực kì sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu
mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng những mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc.
Với phương châm "thêm bạn bớt thù", chính sách đối ngoại của Đảng
khơng chỉ nhằm đối phó với các thế lực thù địch, mà cịn nỗ lực hướng tới
việc tìm bạn bên ngoài, kể cả bạn đồng minh chiến lược và bạn đồng minh
tạm thời, có điều kiện, tranh thủ làm thay đổi quan hệ giữa Việt Nam với
nước Pháp, nhân dân Pháp, dân tộc Pháp, các nước lớn, các nước láng giềng,
tranh thủ mọi sự ủng hộ có thể đối với nền độc lập của nước Việt Nam, góp
phần cơ lập cao độ kẻ thù chính.
<b>HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM </b>
<b>TỪ SAU NGÀY 6/3/1946 ĐẾN NĂM 1953 </b>
<b>2.1. TỪ SAU NGÀY 6/3/1946 ĐẾN NGÀY 19/12/1946 </b>
Sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, Chính phủ và nhân dân Việt
Nam thi hành nghiêm chỉnh mọi điều khoản đã cam kết. Ngày 8/3/1946,
Chính phủ ban hành <i>Nghiêm lệnh</i><sub>: "</sub><i>Chính phủ hạ lệnh cho tồn thể nhân dân </i>
<i>và bộ đội phải giúp đỡ cho quân đội Trung Hoa</i><sub>", "</sub><i>Ai xâm phạm đến tính </i>
<i>mạng, tài sản quân đội Trung Hoa sẽ nghiêm trị</i><sub>" [74, tr.70] . Ngày 9/3/1946, </sub>
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị "<i>Hoà để tiến</i><sub>", vạch rõ lí do </sub>
vì sao ta ký với Pháp Hiệp định sơ bộ và đề ra những việc cần làm sau khi
Hiệp định được ký kết.
Trong khi đó, thực dân Pháp sớm lộ rõ dã tâm phá hoại Hiệp định.
Ngày 9/3/1946, quân Pháp đổ bộ lên Hải Phịng và đóng trái phép ở Bến
Bính. Ngày 27/6/1946, quân Pháp ngang nhiên chiếm đóng Trụ sở Bộ Tài
chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hà Nội; đồng thời cho xe máy
chạy khắp phố, gây xô xát và cướp bóc tài sản của nhân dân... Ở miền Nam,
thực dân Pháp không những không ngừng bắn, mà còn tiếp tục cho quân càn
quét, đánh úp nhiều vị trí của bộ đội Việt Nam ở Đồng Tháp Mười, Bình
Thuận, Phan Rang... Tháng 6-1946, chúng huy động 5.000 quân có xe tăng và
máy bay yểm trợ đánh chiếm Tây Nguyên. Với ý đồ tách Nam Bộ ra khỏi
Việt Nam, thực dân Pháp thành lập Chính phủ Nam Kì tự trị (1/6/1946) do
Nguyễn Văn Thịnh cầm đầu.
lại, thực dân Pháp tìm cách hồ hỗn. Ta càng thấy rõ lập trường thực dân
xâm lược của giới phản động Pháp, nhưng vẫn kiên trì đấu tranh với cuộc
đàm phán chính thức.
Ngày 24/3/1946, trên tàu Êmin Béctanh (Emile Bertin) neo tại vịnh Hạ
Long đã diễn ra cuộc hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đơ đốc
Đácgiăngliơ. Cùng dự hội đàm, về phía Việt Nam cịn có Hồng Minh Giám
và Nguyễn Tường Tam; về phía Pháp có tướng Lơcle, Xanhtơni và một số trợ
lý của Đácgiăngliơ. Sau nhiều lần trao đổi, hai bên đã thoả thuận công bố một
bản thông cáo gồm ba điểm chủ yếu:
1. Vào một thời điểm càng gần mà các điều kiện quá cảnh cho phép,
nghĩa là trong nửa đầu tháng tư, một phái đoàn hữu nghị gồm 10 nghị sĩ Việt
Nam đi tới Pari mang tới Quốc hội lập hiến lời chào anh em Quốc hội nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hồ.
2. Cũng vào thời điểm đó sẽ tiến hành tại Đà Lạt một hội nghị trù bị
giữa một bên là một đoàn đại biểu của Pháp gồm 12 thành viên dưới sự chủ
trì của Cao uỷ Pháp tại Đơng Dương và một bên là một đồn đại biểu gồm 12
thành viên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hoặc người đại diện.
3. Cuộc hội nghị trù bị đó sẽ hồn thành cơng việc của mình để một
đồn đại biểu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ có thể lên đường trong
thời gian ngắn nhất, nghĩa là trong nửa cuối tháng năm để các cuộc thương
lượng cuối cùng chính thức có thể tiến hành tại Paris.
Ngày 16/4/1946, phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang thăm nước Pháp theo tinh
thần thông báo về nội dung cuộc hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đơ
đốc Đácgiăngliơ.
ban, cịn có nhiều cuộc trao đổi ngoài hành lang... Tuy vậy, trên tất cả các vấn
đề được đặt ra, cuộc đàm phán hầu như khơng có tiến triển. Ngồi những
cuộc tranh luận gay gắt tại Uỷ ban Chính trị, ở tất cả các Uỷ ban Quân sự,
Kinh tế, Văn hố đều có cuộc tranh cãi giằng co.
Về kinh tế, ta chủ trương giữ vững những quyền lợi kinh tế cơ bản của
ta, đảm bảo điều kiện cho kinh tế Việt Nam phát triển, đồng thời có những
nhân nhượng nhất định đối với quyền lợi kinh tế Pháp ở Đông Dương. Những
vấn đề được đặt ra trong Tiểu ban này thuộc về tiền tệ, thuế quan, những
doanh nghiệp hiện tại của Pháp tại Việt Nam; trong đó có những nỗi bất đồng
lớn xoay quanh vấn đề tiền tệ và kinh doanh của người Pháp tại Việt Nam.
Về văn hoá, hai bên đã đạt một số thoả thuận, ta chỉ khơng đồng ý về việc
Pháp địi đặt một số cơ quan văn hố ở Đơng Dương trực thuộc với Liên bang và
đề nghị dùng tiếng Pháp làm thứ tiếng chính thức thứ hai sau tiếng Việt.
Trong hai Tiểu ban Chính trị và Quân sự, các vấn đề đặt ra đều là
những vấn đề chủ yếu mà quan điểm hai bên hoàn toàn đối lập với nhau.
Lập trường có tính ngun tắc của ta là: Nước Việt Nam phải là một
nước tự do. Liên bang Đông Dương chỉ mang tính chất kinh tế khơng được
phương hại đến quyền lợi cơ bản của Việt Nam.
Về mối quan hệ của các nước Liên bang Đông Dương với nước Pháp,
phái đoàn ta tuyên bố chấm dứt chế độ Toàn quyền. Ta chủ trương tổ chức
một Liên bang thực tế có tính chất kinh tế. Đại diện của Pháp ở Liên bang chỉ
có tính cách một nhân viên ngoại giao. Liên bang Đông Dương sẽ phối hợp về
chính sách thuế quan và tiền tệ, về việc đạt kế hoạch kiến thiết trong các nước
Liên bang không làm phương hại đến chủ quyền của ba nước này.
về văn hoá, khoa học, kinh tế, viện thống kê, nhà Bưu điện và vô tuyến điện,
cơ quan phụ trách di dân đều phải thuộc về Liên bang. Với chủ trương này,
phía Pháp muốn khơi phục lại chế độ Tồn quyền trước đây.
Về ngoại giao, lập trường của phái đoàn Việt Nam là nước Việt Nam sẽ
có Đại sứ ở Pháp và viên Cao uỷ Pháp là đại diện ngoại giao của Pháp ở Việt
Nam. Nước Việt Nam tự do phải có quyền tự do đặt Đại sứ ở các nước trong
Liên hiệp Pháp và ở nước ngoài. Pháp chủ trương người đại diện Pháp ở Việt
Nam là một viên chức Pháp do viên Cao uỷ Pháp cử ra và nước Việt Nam chỉ
có đại diện ngoại giao với các nước khác thông qua Liên hiệp Pháp,...
Sau 3 tuần lễ (19/4 - 11/5/1946) trao đổi những vấn đề được đưa ra tại
cuộc đàm phán chính thức nhưng không đi đến thoả thuận nào, Hội nghị trù bị
Đà Lạt kết thúc thất bại do âm mưu phá hoại của thực dân Pháp.
Ngày 31/5/1946, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn
Đồng dẫn đầu lên đường sang Pháp đàm phán. Cùng ngày, nhận lời mời của
Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm nước Pháp với
tư cách là thượng khách. Trước khi lên đường, Người gửi thư cho đồng bào
Nam bộ nêu rõ: "<i>Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sơng có thể cạn </i>
<i>núi có thể mịn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi" </i><sub>[61, tr.246]. </sub>
Vừa đặt chân tới Thủ đô nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đồn
Việt Nam đã nhận được những thông tin bất lợi: Từ ngày 21/6, trong một chiến
dịch "<i>chớp nhoáng</i><sub>", quân đội Pháp theo lệnh Đô đốc Đácgiăngliơ và tướng </sub>
Lơcle đã chiếm đóng cả vùng Tây Nguyên, đặc biệt là Plecu và Kon Tum;
ngày 23/6, tại Hà Nội quân đội Pháp đã chiếm đóng Phủ Tồn quyền.
Ngày 7/7/1946, cuộc đàm phán chính thức giữa hai bên Chính phủ Việt
Nam và Pháp bắt đầu khai mạc, không phải ở Paris như Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ đề nghị, mà là Phôngtennơblô (Fontainebleau), cách Paris 60km,
"<i>để lẩn tránh dư luận báo chí và những giới khác mà Sài Gòn, các cơ quan dân </i>
<i>sự và bạn bè của họ hết sức kinh sợ" </i><sub>[68, tr.272]. Đoàn Việt Nam gồm có: Phạm </sub>
Văn Đồng (Trưởng đoàn) và các thành viên: Phan Anh, Trịnh Văn Bính, Tạ
Quang Bửu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Huyên, Bửu Bội, Huỳnh Thiện Lộc,
Dương Bạch Mai, Chu Bá Phượng, Đặng Phúc Thơng, Phạm Khắc H, Hồng
Minh Giám. Ngoài ra là các chuyên viên: Nguyễn Đệ, Hoàng Văn Đức, Vũ Trọng
Khánh, Hồ Đức Liên, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Đắc Khê.
Đồn Pháp gồm có: Mác Ăngđrê (Max André - Trưởng đồn), Giuygla (juglas),
Lơdơrây (Lozeray); Bôđê (Baudet), Xalăng (Salan), Bácgio (Barjot), Pinhông
(Pignon), Tôren (Torel), Rivê (Rivet), Métxme (Messmer), Gơnơng (Gonon),
Buốcgoanh (Bourgoin), Đacxy (D'Arcy), Gă (Gayet), Buxkê (Bousquet).
- Sự gia nhập của Việt Nam vào khối Liên hiệp Pháp và những mối
quan hệ ngoại giao của nó với nước ngồi.
- Vấn đề thống nhất ba kì và trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ.
- Những vấn đề kinh tế.
- Soạn thảo dự án hiệp ước.
Về tất cả những vấn đề trên, quan điểm của hai bên hoàn toàn khác
nhau. Quan điểm của Pháp về "<i>Khối Liên hiệp Pháp không phải là quan niệm </i>
<i>về một đồng minh mà là quan niệm về những quốc gia đoàn kết chặt chẽ với </i>
<i>nhau bởi những cơ quan chung" </i><sub>[68, tr.275]. Trái lại, quan điểm của phái </sub>
đoàn Việt Nam căn cứ trên ý niệm đồng minh, hoà hợp quyền lợi, quan hệ
song phương giữa các quốc gia độc lập, được nêu rõ trong bức công hàm trao
cho phái đoàn Pháp ngày 12/7: "<i>Những mối quan hệ giữa nước Pháp và nước </i>
<i>Việt Nam trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp là những quan hệ hợp đồng được </i>
<i>xác định qua con đường hiệp ước. Những quan hệ ấy được thiết lập trên </i>
<i>những nền tảng sau đây:</i>
<i>a. Tự do gia nhập </i>
<i>b. Quy chế bình đẳng. </i>
<i>c. Đồn kết bảo vệ quyền lợi chung" </i><sub>[68, tr.276] </sub>
Quan điểm trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung trong kì họp báo
ngày 12/7/1946.
Về vấn đề quân đội, phái đoàn Việt Nam dứt khoát bác bỏ nguyên tắc
một bộ chỉ huy duy nhất trong thời bình và mọi ý đồ "tập thể hoá" tiềm năng
quân sự.
Về vấn đề ngoại giao, cũng như ở Hội nghị Đà Lạt, phái đồn Việt
Nam u cầu có một nền ngoại giao riêng, có quyền trao đổi đại diện ngoại
giao với nước ngồi, có quyền cử đại diện riêng ở Liên Hiệp Quốc. Phái đoàn
Pháp vẫn giữ quan niệm của mình về một nền ngoại giao duy nhất, luôn luôn
chỉ chấp nhận sự tham gia của người Việt Nam vào các chức vụ ngoại giao
của Liên hiệp Pháp. Nhưng giờ đây, họ chấp nhận nguyên tắc tự quyết về mặt
đại diện ngoại giao cấp lãnh sự.
Cũng như ở Hội nghị trù bị Đà Lạt, vấn đề Nam Kì là vấn đề gay cấn
<i>thành đất của Pháp, thì Nam Bộ đã là đất của Việt Nam..." </i><sub>[68, tr.277]</sub><i>. </i><sub>Tại </sub>
phiên họp toàn thể ngày 26/7, Dương Bạch Mai - một thành viên trong phái
đoàn Việt Nam - công khai phát biểu: "<i>Số phận của hội nghị này phụ thuộc </i>
<i>chặt chẽ vào vấn đề ba kì. Chừng nào mà Nam Kì, bằng cách này hay cách </i>
<i>khác, cịn bị tách ra khỏi Việt Nam, thì việc thoả thuận giữa nước Pháp và </i>
<i>nước Việt Nam sẽ không bao giờ có được. Mọi sự đều tuỳ thuộc vấn đề Nam </i>
<i>Kì; tình hữu nghị Pháp - Việt, hồ bình cũng như trật tự ở Việt Nam tương lai </i>
<i>những quan hệ của chúng ta. Pháp giải quyết vấn đề này càng sớm càng hay"</i>
[68, tr.280].
14/9/1946, phái đoàn Việt Nam lên tàu trở về Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
ở lại Paris với hi vọng cứu vãn tình hình.
Trong khi đó, tại Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường các hoạt động
khiêu khích. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng, nguy cơ một cuộc
chiến tranh đến gần. Cần có một quyết định nhanh chóng nhằm kéo dài thời
gian hồ hỗn để xây dựng, củng cố thêm lực lượng cách mạng; đồng thời
làm cho nhân dân Pháp, nhân dân thế giới thấy rõ thiện chí hồ bình của Việt
Nam và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh kí với đại diện Chính phủ Pháp là Mutê (Moutet) - Bộ trưởng Bộ Pháp
quốc hải ngoại, bản Tạm ước ngày14/9/1946.
Nội dung bản Tạm ước gồm mấy điểm chủ yếu như sau:
- Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp cam kết tiếp tục chính sách
hợp tác như Hiệp định sơ bộ đã nêu, tiếp tục cuộc đàm phán sẽ được triển
khai chậm nhất vào tháng 1-1947.
- Chính phủ Việt Nam bảo đảm các quyền tự do dân chủ, quyền lợi
kinh tế - văn hoá của người Pháp ở Việt Nam.
- Chính phủ Pháp sẽ đình chỉ xung đột ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, bảo
đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
- Việt Nam và Pháp thả hết tù chính trị, chấm dứt tuyên truyền không
thân thiện.
- Việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ do hai bên quy định thời gian và
cách thức.
Tạm ước 14/9/1946 là sự nhân nhượng cuối cùng của ta nhằm cứu vãn
tình thế hết sức khó khăn của đất nước lúc bấy giờ.
Pháp tuy chưa giải quyết được mục tiêu cơ bản của cuộc đàm phán, nhưng đã
làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới hiểu rõ hơn vấn đề Việt Nam,
biểu thị sự đồng tình ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
Đúng như sự phán đoán của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, sau khi ký Tạm ước 14/9/1946, thực dân Pháp đẩy mạnh các hoạt động
xâm lược, nhất là từ sau vụ gân hấn ở Hải Phòng (11/1946). Đặc biệt ở Hà
Nội, hành động khiêu khích, xâm lược của thực dân Pháp càng trắng trợn hơn.
Trong hai ngày (18-19/12/1946), chúng liên tiếp gửi tối hậu thư địi Chính
phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ và giao quyền kiểm sốt Thủ đơ cho
chúng. Trong hoàn cảnh ấy, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
<b>2.2. TỪ SAU NGÀY 19/12/1946 ĐẾN NĂM 1949 </b>
Trong những năm 1947 - 1949, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến.
Liên Xơ và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu tiếp tục khôi phục kinh tế
sau chiến tranh. Các nước Đông Âu củng cố và bảo vệ thành quả cách mạng,
thiết lập nền chun chính vơ sản và hồn thành cách mạng dân chủ nhân dân.
Liên minh giữa Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đơng Âu hình thành.
Trong 5 năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi các nước tư bản
bị tổn thất nặng nề, nền kinh tế kiệt quệ, thì Mĩ giàu mạnh lên và vươn ra
khống chế thế giới tư bản.
Tình hình nước Pháp có nhiều biến đổi. Đờ Gơn, người có xu hướng
tương đối độc lập với Mĩ, bị gạt khỏi chính quyền (1-1946). Các Chính phủ
tiếp sau của Đảng Cộng hồ bình dân, Đảng Xã hội, Đảng Xã hội cấp tiến... đi
vào con đường phụ thuộc Mĩ về kinh tế. Pháp nhận viện trợ Mĩ thơng qua kế
hoạch Mácsan. Các Chính phủ Pháp ngả mạnh sang hữu và coi Đông Dương
là trọng điểm trong chính sách thuộc địa của Pháp nhằm ngăn chặn phong trào
đấu tranh giành độc lập đang phát triển tại các thuộc địa Pháp ở châu Phi. Tuy
nhiên, Pháp lo ngại Mĩ vũ trang lại Tây Đức và không muốn ảnh hưởng của
Mĩ thâm nhập vào hệ thống thuộc địa của mình.
Đế quốc Anh có nhiều khó khăn về kinh tế, cải tiến chính sách thuộc
địa, phải tính đến việc bỏ Hy Lạp ở châu Âu cho Mĩ, trao trả độc lập chính trị
cho các nước Nam Á, nhất là việc thay đổi chính sách thống trị ở Ấn Độ, chia
Ấn Độ thành hai quốc gia trên cơ sở tôn giáo (Ấn Độ của người theo Ấn Độ
giáo và Pakixtan của người theo Hồi giáo); tập trung vào vùng nhiều giàu mỏ
Trung Cận Đông và vùng nhiều nguyên liệu quý Đông Nam Á.
Tại châu Á, cách mạng Trung Quốc phát triển nhanh chóng làm cho
Pháp lo ngại. Khi Quân giải phóng Trung Quốc đang phản cơng, Bộ trưởng
Mutê nói với tướng Salăng, chỉ huy quân Pháp ở miền Bắc Đông Dương,
rằng: Trung Hoa đỏ nổi lên và bắt đầu tiến xuống phía Nam rồi đó. Tơi u
cầu ơng làm mọi việc để không cho Việt Minh tiếp xúc được với đơn vị của
Mao.
công nhận, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vẫn nằm trong tình thế
khó khăn.
Tất cả tình hình trên đều tác động đến cách mạng Việt Nam và được
Đảng ta xem xét cẩn thận khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thắng lợi của chiến tranh phụ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các
bên tham chiến. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra trong điều
kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch.
Nền kinh tế Việt Nam vốn là kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu,
phải chịu những quả nặng nề của thực dân phong kiến; bị thực dân Pháp và
phát xít Nhật tranh nhau vơ vét trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai;
thiên tai tàn phá liên miên, giặc đói hồnh hành dữ dội. Ngoài 25 triệu
người dân giàu lòng yêu nước, cùng 2,4 - 2,7 triệu tấn thóc mỗi năm, Việt
Nam khơng có gì để so sánh với đối phương về lực lượng vật chất và kỹ
thuật chiến tranh.
Điều kiện đó khơng cho phép ta dùng lực lượng quân sự đơn thuần mà
thắng được giặc. Nó địi hỏi phải huy động sức mạnh của cả dân tộc, lấy lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt tiến hành đấu tranh trên tất cả các mặt
trận, trong đó đấu tranh quân sự giữ vai trị quyết định. Nó khơng cho phép ta
đánh nhanh, thắng nhanh, dốc hết lực lượng vào một số trận sống mái với kẻ
vận động quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với
cuộc kháng chiến chính nghĩa, đồng thời tiến hành đấu tranh ngoại giao với
Pháp để kết thúc chiến tranh, lập lại hồ bình.
Mặc dù chiến tranh đã nổ ra nhưng với quan điểm nhân đạo và hồ
bình, Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương khơng bỏ lỡ cơ hội chấm dứt chiến
tranh bằng giải pháp thương lượng trên cơ sở Pháp phải tôn trọng nền độc lập
và thống nhất của nước Việt Nam.
Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương (4/1947) đề ra chủ
trương "<i>phải lợi dụng hết khả năng ngoại giao, làm cho cuộc đổ máu Việt - </i>
<i>Pháp rút ngắn lại</i><sub>" [21, tr.186]. </sub>
Tuy nhiên, nếu thực dân Pháp ngoan cố dùng chiến tranh xâm lược thì
nhân dân Việt Nam sẽ chiến đấu đến cùng. Chỉ thị của Trung ương Đảng
ngày 22/5/1947 nêu rõ: <i>"Nếu Pháp không công nhận ta độc lập và thống nhất </i>
<i>thì ta tiếp tục kháng chiến đến tồn thắng mới thôi"</i><sub> [21, tr.209 ]. </sub>
Chủ trương vãn hồi hồ bình của Đảng được thực hiện thơng qua vai
trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là nguyên thủ Quốc gia, với những
biện pháp cụ thể: gửi thư cho Chính phủ Quốc hội và nhân dân Pháp, tiếp xúc
trực tiếp với đại diện Chính phủ Pháp.
Cuối tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi <i>Lời kêu gọi Liên hợp </i>
<i>quốc </i><sub>và Hội đồng bảo an, nêu rõ nguồn gốc và tình hình cuộc chiến tranh ở </sub>
Đông Dương. Người viết: "<i>Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng nhân dân </i>
<i>chúng tôi thành thật mong muốn hồ bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng </i>
<i>kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn </i>
<i>vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước</i><sub>". Người nêu những nguyên </sub>
<i>một phần thế giới này, để cho Hiến chương Đại Tây Dương được tôn trọng và </i>
<i>để khôi phục lại những quyền cơ bản của Việt Nam là được thừa nhận độc lập </i>
<i>dân tộc và thống nhất lãnh thổ</i><sub>" [61, tr.471]. </sub>
Từ ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946) đến đầu tháng
3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội và
nhân dân Pháp, nêu rõ nguyên nhân xung đột, đề nghị ngừng bắn và nối lại
các cuộc đàm phán để lập lại hồ bình. Trong thư gửi Quốc hội và nhân dân
Pháp (7/1/1947), Người viết:
"Muốn lập lại hồ bình, chỉ cần:
a. <i>Trở lại tình trạng trước ngày 20/11 và 17/12/1946, đình chỉ ngay và </i>
<i>đình chỉ thực sự những cuộc xung đột trong toàn cõi Việt Nam (Nam Kỳ, </i>
<i>Trung Kỳ và Bắc Kỳ). </i>
<i>b. Làm xúc tiến ngay công việc của các uỷ ban đã dự định đặt ra để thi </i>
<i>hành Tạm ước 14/9/1946, các uỷ ban này phải họp ở Sài Gòn và Hà Nội, </i>
<i>nhưng không ở Đà Lạt. </i>
<i>c. Tiếp tục ngay những cuộc điều đình ở Phơngtennơblơ để giải quyết </i>
<i>một cách vĩnh cửu vấn đề giao thiệp giữa hai nước Pháp, Việt...</i><sub> Chính phủ và </sub>
nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ cơng nhận độc lập và thống nhất của
nước Việt Nam là chấm dứt được những tai biến này; hồ bình và trật tự sẽ
trở lại ngay tức khắc, dân tộc Việt Nam đang chờ đợi cử chỉ đó" [62, tr.12].
Trong lời kêu gọi Chính phủ và nhân dân Pháp ngày 10/1/1947, Người
viết: "<i>Chúng tơi muốn hồ bình để máu người Pháp và người Việt ngừng chảy. </i>
<i>Những dòng máu đó chúng tơi đều q như nhau. Chúng tơi mong đợi ở Chính </i>
<i>phủ và nhân dân Pháp mang lại một cử chỉ hồ bình. Nếu khơng, chúng tơi bắt </i>
<i>buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hồn toàn đất nước</i><sub>" [62, tr.19]. </sub>
<i>một nước chỉ muốn hợp tác như anh em với nước ngài sao? Phải chăng đó là </i>
<i>một cơng việc bạc bẽo đau đớn</i><sub>" [62, tr.5]. </sub>
Lập trường hồ bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam tác động
đến dư luận nước Pháp. Đảng Cộng sản và các lực lượng cánh tả đòi Chính
phủ Pháp nối lại thương lượng với Chính phủ Việt Nam. Thủ tướng Ramađiê
buộc phải hứa xem xét mọi u cầu đình chiến (3/4/1947).
Cao uỷ Pháp Bơlae cử P.Mt gặp Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hồng
Minh Giám tại Thái Nguyên (11/5/1947). Phía Pháp nêu những điều kiện
ngừng bắn:
<i>"1. Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho quân đội Pháp. </i>
<i>2. Quân đội Pháp đi lại và đóng binh tự do khắp nơi trên đất nước </i>
<i>Việt Nam. </i>
<i>3. Giao trả những tù binh lính Pháp hay lính Lê dương đảo ngũ chạy </i>
<i>qua phía Việt Nam. </i>
<i>4. Thả những người Pháp và người Việt Nam thân Pháp do Chính phủ </i>
<i>Việt Nam giam giữ</i><sub>" [21, tr.207-208]. </sub>
Đó là những điều kiện mà việc thực hiện đồng nghĩa với sự đầu hàng..
Hồ Chí Minh phê phán những điều kiện của phía Pháp, nêu rõ những
lập trường của Chính phủ nhân dân Việt Nam là muốn có hồ bình và quan hệ
tốt với nhân dân Pháp. Người khẳng định: Chúng tơi muốn có hồ bình nhưng
khơng phải là bất cứ giá nào, mà phải là hoà bình trong độc lập tự do. Trong
thư gửi nhân dân Pháp (25/5/1947), Người vạch trần thái độ của bọn thực dân
Pháp "<i>cố ý đưa ra những điều kiện vô lý và nhục nhã để cho hai dân tộc ta </i>
<i>không thể thân thiện với nhau được</i><sub>". Thực chất ý đồ của những thế lực hiếu </sub>
chiến đó là "<i>muốn tiếp tục chiến tranh</i><sub>". Người kêu gọi nhân dân Pháp "</sub><i>hãy </i>
<i>giúp chúng tơi cứu lấy tính mạng của bao nhiêu thanh niên Pháp và Việt Nam, </i>
<i>cứu lấy tình thân thiện giữa hai dân tộc và cứu lấy khối Liên hiệp Pháp</i><sub>" [62, </sub>
Trong khi nỗ lực để đem lại hồ bình, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng
khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam: "<i>Hễ cịn một tên lính </i>
<i>thực dân trên đất nước Việt Nam, thì Việt Nam cứ đánh, đánh cho đến thắng </i>
<i>lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thật sự</i><sub>" [62, tr.220]. </sub>
Hành động chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp không chỉ vi phạm
thô bạo chủ quyền dân tộc Việt Nam mà cịn phá hoại hồ bình thế giới. Kẻ
thù của dân tộc Việt Nam cũng là kẻ thù của nhân dân u chuộng hồ bình,
dân chủ và tiến bộ thế giới. Mục tiêu đấu tranh của nhân dân ta cũng là mục
tiêu đấu tranh của nhân dân thế giới. Hồ Chí Minh khẳng định: Thực dân
Pháp luôn luôn uy hiếp hồ bình thế giới. Nền độc lập của dân tộc Việt Nam
ln ln là để củng cố hồ bình thế giới.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam có quan hệ mật thiết với hai
dân tộc Lào và Campuchia, các dân tộc địa phương, các nước láng giềng, các
nước trong khu vực, các lực lượng hồ bình dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Chỉ thị "<i>Toàn dân kháng chiến"</i><sub> của Ban Thường vụ Trung ương Đảng </sub>
chủ trương: "<i>Đoàn kết hai dân tộc Miên, Lào và các dân tộc bị áp bức trong </i>
<i>khối Liên hiệp Pháp"</i><sub>, "</sub><i>Thân thiện với các dân tộc Tàu, Xiêm, Miến Điện, Ấn </i>
<i>Độ, Nam Dương và các nước yêu chuộng dân chủ, hồ bình trên thế giới" </i>
[21, tr.151]<i>. </i>
Tháng 12/1946, trong lời kêu gọi Liên hợp quốc, Hồ Chí Minh tuyên
bố những nguyên tắc trong chính sách đối ngoại rộng mở và hợp tác của Việt
Nam, kể cả chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. Người khẳng định Việt Nam
sẵn sàng thực thi chính sách mở rộng cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
- Dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ
- Chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh
đạo của Liên hợp quốc.
- Sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ
của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên
quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân.
Sự phân biệt bạn và thù là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, góp phần phân
hố và cơ lập cao độ kẻ thù. Đó cũng là một yêu cầu khách quan của cuộc kháng
chiến. Trong thư gửi Quốc hội và nhân dân Pháp (7/1/1947), Hồ Chí Minh viết:
<i>"Thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam, tơi trịnh trọng tuyên bố </i>
<i>với nước Pháp rằng: </i>
<i>1. Nhân dân Việt Nam không đấu tranh chống nước Pháp và nhân dân </i>
<i>Pháp. Đối với nước Pháp và nhân dân Pháp, nhân dân Việt Nam vẫn thân </i>
<i>thiện, tin cậy và khâm phục. </i>
<i>2. Nhân dân Việt Nam thành thực muốn cộng tác với nhân dân Pháp </i>
<i>như anh em trên một căn bản tín nghĩa và bình đẳng. </i>
<i>3. Nhân dân Việt Nam chỉ đòi độc lập và thống nhất quốc gia trong </i>
<i>khối Liên hiệp Pháp, một khối liên hiệp do sự tự do thoả thuận tạo nên. </i>
<i>4. Nhân dân Việt Nam chỉ mong muốn có hồ bình, một nền hồ bình </i>
<i>thật sự, để kiến thiết quốc gia với sự cộng tác của những người bạn Pháp </i>
<i>chân chính. </i>
<i>5. Nhân dân Việt Nam cam kết không những tôn trọng những quyền lợi </i>
<i>kinh tế và văn hoá Pháp ở Việt Nam, mà còn giúp cho những quyền lợi đó </i>
<i>phát triển thêm để lợi ích chung cho cả hai nước. </i>
<i>tộc chúng tôi, cắt xén Tổ quốc chúng tôi, xâm phạm chủ quyền quốc gia của </i>
<i>chúng tôi, ngăn cản không cho chúng tôi độc lập và phá hoại sự hợp tác </i>
<i>thành thực của hai dân tộc Việt - Pháp" </i><sub>[62, tr.11]</sub><i>.</i>
Những quan điểm cơ bản về chính sách đối ngoại hữu nghị và hợp tác
rộng rãi của Đảng và Chính phủ Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định nhiều lần trong <i>Thư gửi các lãnh tụ và nhân dân các nước </i><sub>(13/1/1947), </sub>
các thư gửi Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp, trong trả lời phỏng vấn
của phóng viên báo chí nước ngoài. Người khẳng định: "<i>Việt Nam chỉ muốn </i>
<i>hoà bình và độc lập, để cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới, </i>
<i>trước là với các dân tộc anh em Á Đông và dân tộc Pháp"</i><sub> [62, tr.22]. "</sub><i>Thái </i>
<i>độ nước Việt Nam đối với các nước Á Châu là một thái độ anh em, đối với </i>
<i>ngũ cường là một thái độ bạn bè</i><sub>" [62, tr.136]. </sub>
Tháng 7/1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ: Chính sách đối ngoại là thân thiện với các láng giềng Trung
Hoa, Ấn Độ, Xiêm, Lào, Campuchia, v.v... mà không thù ốn gì với nước
nào.
Về quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế, Người khẳng định: "<i>Chúng tôi </i>
<i>chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển, mà chỉ có sự thống nhất và </i>
<i>Đồng thời chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và các tư bản các </i>
<i>nước khác thật thà cộng tác với chúng tôi. Một là, xây dựng lại Việt Nam sau </i>
<i>lúc bị chiến tranh tàn phá, hai là để điều hoà kinh tế thế giới và giữ gìn hồ </i>
<i>bình</i><sub>" [62, tr.170]. </sub>
Trong tác phẩm <i>"Kháng chiến nhất định thắng lợi",</i><sub> Tổng Bí thư Đảng </sub>
Trường Chinh viết: "<i>Ta phải làm cho các lực lượng tiến bộ trên thế giới </i>
<i>nhận rõ rằng: ta hy sinh, cố gắng vì hồ bình trên thế giới nữa. Đấu tranh </i>
<i>cho hồ bình và dân chủ, các lực lượng ấy khơng thể đứng bàng quan hoặc </i>
<i>chỉ ủng hộ Việt Nam bằng lời nói mà phải ủng hộ Việt Nam bằng việc làm. </i>
<i>Phải lơi thực dân Pháp ra tồ án dư luận quốc tế mà hỏi tội mà bắt chúng </i>
<i>đình chỉ cuộc chiến tranh ăn cướp ở Đơng Dương, một cuộc chiến tranh trái </i>
<i>hẳn Hiến chương Liên hợp quốc</i><sub>" [13, tr.248]. </sub>
Giải thích cụ thể đường lối kháng chiến của Đảng, về mặt đối ngoại,
Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ rõ:
"<i>Phải cô lập kẻ thù, kéo theo nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và </i>
<i>nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta, chống lại thực dân phản </i>
<i>động Pháp; làm cho các lực lượng hồ bình và dân chủ trên thế giới bênh vực </i>
<i>ta, tán thành mục đích kháng chiến của ta</i><sub>" [13, tr.248]. </sub>
Hội nghị Trung ương mở rộng (1/1948) chủ trương: "<i>Mở rộng tuyên </i>
<i>truyền ở nước ngoài là cho thế giới hiểu ta và giúp ta nhiều hơn</i><sub>" [22, tr.37]. </sub>
Hội nghị chỉ rõ: "<i>Cuộc kháng chiến của nước ta trực tiếp chịu ảnh </i>
<i>hưởng lớn lao của tình hình Pháp và Trung Hoa</i><sub>". Cho nên, Đồn thể ta phải </sub>
chuẩn bị đối phó với mọi biến chuyển quốc tế, nhất là biến chuyển ở hai nước
đó. "<i>Phải theo dõi thật sát tình hình chính trị thế giới, đặc biệt là tình hình </i>
<i>Pháp, Trung Hoa và các nước Đông Nam Á, Châu Á và các chính sách thủ </i>
<i>đoạn của phản động Mĩ, có thể thấy trước các biến cố. Liên lạc chặt chẽ với </i>
<i>các Đảng anh em để thi hành những phương sách giúp đỡ nhau một cách </i>
<i>thiết thực, tích cực chuẩn bị về quân sự, chính trị để lâm thời có thể hành </i>
<i>động một cách táo bạo và mau lẹ, xoay chuyển tình thế, để thu thật nhiều </i>
Bản báo cáo "<i>Chúng ta chiến đấu cho độc lập và dân chủ</i><sub>" đọc tại Hội </sub>
nghị cán bộ Trung ương lần thứ năm (8/1948) nêu rõ các dân tộc Đông
Dương đứng trong hàng ngũ phe dân chủ chống đế quốc là một đoàn quân
xung trận của phe dân chủ. "<i>Cuộc chiến đấu của các dân tộc Đông Dương </i>
<i>thật là vì tự do độc lập của mình mà cũng vì hồ bình và dân chủ thế giới. Nó </i>
<i>khơng bị lẻ loi. Nó có một sức hậu thuẫn rộng lớn của các phe dân chủ chống </i>
<i>đế quốc trên thế giới giúp đỡ</i><sub>" [22, tr.177]. </sub>
Bản báo cáo khẳng định:
"<i>Về ngoại giao, chính quyền nhân dân thân thiện với Liên Xô và mật </i>
<i>thiết liên lạc với các nước dân chủ mới, kiên quyết không để bọn đế quốc </i>
<i>lừa phỉnh, và hăm doạ. Trị khơn khéo của chính sách ngoại giao là ln </i>
<i>ln thêm bạn bớt thù; nhưng cách mạng Đông Dương là một bộ phận </i>
<i>cách mạng thế giới, quyền lợi cách mạng thế giới, nên chính sách ngoại </i>
<i>lợi cho ta</i><sub>" [22, tr.205-206]. </sub>
Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu (1/1949) chủ
trương về mặt ngoại giao:
- Ra sức tuyên truyền quốc tế, giành thêm sự ủng hộ của các lực lượng
dân chủ thế giới.
- Gửi các phái đoàn ra ngoại quốc.
Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ là một phương hướng đối ngoại
hết sức cơ bản nhằm tập hợp lực lượng bên ngoài ủng hộ cuộc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam.
"<i>Vì điều kiện địa lý, lịch sử, kinh tế, v.v... đã mấy nghìn năm dân tộc Việt </i>
<i>Nam và dân tộc Trung Hoa như là bà con thân thích. Chính phủ Trung Hoa </i>
<i>nào được nhân dân Trung Hoa ủng hộ thì Chính phủ Việt Nam sẽ thừa </i>
<i>nhận Chính phủ ấy</i><sub>" [62, tr.23]. </sub>
Trả lời phỏng vấn của phóng viên các báo New Republic, Christian
Monitor và Chicago Tribune (3/1949), Người khẳng định: "<i>Một khi đã độc </i>
<i>lập, Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao </i>
<i>dịch với Việt Nam một cách thật thà</i><sub>" [62, tr.23]. </sub>
Trong thư gửi lãnh tụ và nhân dân các nước Trung Hoa, Miến Điện, các
<i>dân Việt Nam mong các vị giúp đỡ mọi phương diện</i><sub>" [62, tr.23]. </sub>
Tuy nhiên, với tinh thần độc lập tự chủ, "<i>tự lực cánh sinh</i><sub>", dựa vào sức </sub>
mình là chính, nhân dân Việt Nam khơng bị động trơng chờ vào sự giúp đỡ
bên ngồi.
Trong điều kiện bị bao vây, cô lập, hoạt động ngoại giao của Việt Nam
không nhiều. Nhưng thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng của Đảng đã tạo
được những điều kiện nhất định để từng bước tiến tới phá thế bị bao vây cô
lập, nối liền cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với thế giới bên ngoài.
Trong giai đoạn 1947 - 1949, Đảng và Nhà nước đẩy mạnh chủ trương
đoàn kết với Lào và Campuchia, giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân hai
nước chống kẻ thù chung.
Dương (đến Đại hội lần thứ II của Đảng, tháng 2/1951). Đó là một đặc điểm,
một nhân tố cơ bản để hình thành liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung.
Việc ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau là nghĩa vụ quốc tế của mỗi nước. Giúp đỡ
cách mạng Lào và Campuchia là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước
Việt Nam, coi giúp bạn là tự giúp mình, trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ
quyền của nhau. Trong điều kiện bị bao vây, cơ lập thì sự đồn kết, giúp đỡ
ba nước Đơng Dương càng có ý nghĩa quan trọng.
Tinh thần cơ bản của Đảng trong chính sách đoàn kết với Lào và
Kẻ thù của dân tộc Việt Nam không phải là nước Pháp, nhân dân Pháp
và dân tộc Pháp nói chung, mà chỉ là bọn phản động thực dân Pháp xâm lược.
Dân tộc Việt Nam khơng có thù ốn gì với dân tộc Pháp.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến tồn quốc, Trung ương Đảng nêu rõ mục
đích: <i>"Đánh phản động thực dân Pháp, chống bọn phản động thực dân </i>
<i>Pháp"</i><sub>. Đó là một quan điểm nhất quán trong chính sách đối ngoại của Đảng </sub>
suốt cuộc kháng chiến.
Các thế lực phản động thực dân Pháp xâm lược không chỉ là kẻ thù của
dân tộc Việt Nam, mà cũng là kẻ thù của dân tộc Pháp. Vì thế, đấu tranh
chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp cũng là bổn phận và trách
nhiệm của nhân dân Pháp.
và nhờ sự hăng hái của Việt Nam mà mau chóng kiến thiết lại mặc dầu hiện
nay chiến tranh đã đưa đến một sự phá hoại khơng thể tưởng tượng.
Chính thực dân Pháp xâm lược là kẻ phá hoại hồ bình và quan hệ hữu
nghị giữa hai dân tộc Việt - Pháp, đẩy người Pháp, nhất là thanh niên vào
cuộc chiến tranh phi nghĩa. Với tinh thần nhân đạo và hồ bình, Hồ Chí Minh
viết:
<i>"Tơi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam </i>
<i>đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh. </i>
<i>Tơi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. </i>
<i>Than ơi! trước lịng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là </i>
<i>máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người" </i><sub>[61, tr.457]</sub><i>. </i>
Hồ Chí Minh nhắc nhở chiến sĩ quân đội và nhân dân Việt Nam đối xử
tử tế, nhân đạo với tù binh, khoan dung, độ lượng với những người lầm đường
lạc lối, giúp họ cải tà quy chính.
Trong những năm 1947 - 1949, quan điểm của Đảng, Chính phủ Việt
Nam là "<i>Sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp </i>
<i>tư bản hay cơng nhân, thương gia hay trí thức nếu họ muốn thật thà cộng tác </i>
<i>với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu </i>
<i>bạn. Song nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân </i>
<i>phiệt. Nói rõ hơn là: cũng như những nước độc lập khác cự tuyệt quân đội </i>
<i>ngoại quốc đóng trên đất nước mình, nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt </i>
<i>quân đội Pháp đóng ở Việt Nam</i><sub>"[62, tr.587]. </sub>
trọng của cuộc kháng chiến. Mục tiêu độc lập, thống nhất phải gắn liền với
bảo vệ chế độ chính trị.
Về đế quốc Mĩ, trong nửa sau những năm 40 thế kỷ XX, trọng tâm
chiến lược của chúng chưa phải là Đông Dương. Mĩ xem Đông Dương là vấn
đề của Pháp, ủng hộ lợi ích của Pháp. Nhưng do sự phát triển của phong trào
giải phóng dân tộc châu Á, Mĩ lo ngại cuộc chiến tranh ở Đơng Dương có thể
thúc đẩy xu hướng chống thực dân phương Tây có lợi cho Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa. Chính sách của Mĩ ở châu Á là tập hợp lực lượng dân
tộc dưới ảnh hưởng của Mĩ để chống lại ảnh hưởng của Liên Xô, ngăn chặn
Tháng 1/1947, Bộ Ngoại giao Mĩ tỏ ý định muốn làm trung gian hoà
giải cuộc xung đột Việt - Pháp, nhưng Pháp từ chối và còn buộc tội vì Mĩ và
Pháp chậm khẳng định lại chủ quyền của mình ở Đơng Dương.
Tháng 5/1947, Bộ Ngoại giao Mĩ nêu quan điểm: "<i>Trong khi chúng </i>
<i>ta sẵn sàng làm mọi điều xét ra có ích, người Pháp nên hiểu chúng ta </i>
<i>khơng hề có ý định đưa ra bất kỳ giải pháp hay can thiệp nào vào tình </i>
<i>hình. Tuy nhiên, họ cũng nên hiểu rằng chúng ta không thể không quan tâm </i>
<i>tới việc phát triển ở Đơng Dương có thể tác động sâu sắc tới tình hình Viễn </i>
<i>Đơng nói chung</i><sub>" [16, tr.32]. </sub>
Bộ Ngoại giao Mĩ chỉ thị cho Đại sứ Mĩ ở Paris giải thích rõ hơn lập
trường của Mĩ. Mĩ cho rằng mặc dù Hồ Chí Minh có liên hệ với cộng sản, nhưng
chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp cũng đã lỗi thời, Mĩ khuyên Pháp nên biết điều.
Ngày 17/6/1947, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mĩ tuyên bố: <i>"Mĩ </i>
<i>mong có giải pháp hồ bình cho vấn đề Đơng Dương"</i><sub>. Mĩ lo sợ việc Pháp sử </sub>
với mục tiêu lơi kéo Pháp để chống lại chính sách của Liên Xô trong vấn đề
Đức, Đông Âu và Nhật Bản.
Mâu thuẫn giữa Mĩ và Pháp lúc này là vấn đề ta cần lợi dụng để phân
hố và cơ lập kẻ thù.
Đối với Mĩ, Đảng chủ trương phải có sách lược thích hợp nhằm tác
động tới chính quyền của Tưởng Giới Thạch trong khi quân đội Tưởng Giới
Thạch vẫn kiểm soát vùng Hoa Nam, việc giữ yên biên giới phía Bắc là một
u cầu cần thiết. Điều đó liên quan đến mối quan hệ với chính quyền của
Tưởng. Chỉ thị của Trung ương (22/5/1947) chủ trương trong cơng tác tun
truyền khơng cơng kích chính quyền Tưởng, chỉ phê phán bọn tay sai người
Việt của Tưởng như Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.
Đảng sớm nhận thấy khả năng can thiệp của Mĩ vào Đông Dương
nhưng đó chưa phải là nguy cơ trực tiếp. Vì thế về sách lược, ta vẫn tuyên bố
thân thiện với Mĩ.
Thông cáo của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12/12/1947
nhận định: "<i>Hiện nay, Mĩ đã có những âm mưu đối với Việt Nam" </i><sub>và chủ </sub>
trương:<i> "Vạch rõ tham vọng của Mĩ và nguy cơ Mĩ. Chống xu hướng thân Mĩ </i>
<i>và sợ Mĩ".</i><sub> Nhưng mặt khác, bản thông cáo cũng nêu rõ tham vọng của Mĩ và </sub>
nguy cơ Mĩ <i>"chưa trực tiếp đối với ta nên ta vẫn phải lợi dụng triệt để những </i>
<i>mâu thuẫn dù nhỏ đến mấy, giữa Pháp và Mĩ. Về ngoại giao vẫn tuyên bố </i>
<i>thân thiện với Mĩ vẫn phải dùng hội Việt - Mĩ làm lợi khí tuyên truyền quốc tế </i>
<i>một phần nào</i><sub>" [21, tr.339]. </sub>
<i>hai cuộc đại chiến vừa rồi, đem chiến tranh nguyên tử ra doạ nạt và lừa bịp </i>
<i>thế giới</i><sub>" [21, tr.339].</sub>
Trong bối cảnh tiến hành cuộc kháng chiến giữa vòng vây kín của
Nhằm tạo ra môi trường không gian thuận lợi, chúng ta chủ trương phối
hợp với Quân giải phóng Trung Quốc chống quân Tưởng Giới Thạch, chuẩn
bị mở đường thông ra thế giới.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Việt Nam đã có liên hệ với
Nam lộ Bát lộ quân Trung Quốc ở Hoa Nam và Bộ Tư lệnh biên khu Điền
Quế gần biên giới Việt - Trung.
Tháng 8/1948, Hội nghị cán bộ lần thứ năm đánh giá cách mạng Trung
Quốc phát triển thuận lợi, Quân giải phóng Trung Quốc chuẩn bị đánh xuống
Hoa Nam. Hội nghị xác định: Lực lượng dân chủ Trung Hoa là bạn đồng
minh của ta. Nếu Hoa Nam lọt vào tay Quân giải phóng thì cách mạng Đơng
Dương có cả một núi Thái Sơn để tựa. Cố nhiên ta không ỷ lại vào người,
nhưng hai bên tựa vào nhau, dân chủ Trung Hoa và dân chủ Việt Nam thành
một mặt trận thống nhất chống bọn đế quốc thực dân Mĩ - Pháp. Ta phải
chuẩn bị để đón lấy thời cơ tốt cho cuộc kháng chiến của ta.
Từ tháng 4/1949, Quân giải phóng Trung Quốc vượt Trường Giang để
tiến vào Nam Kinh, thủ phủ của Tưởng Giới Thạch.
<i>quan những tin tức có lợi cho lực lượng dân chủ Trung Hoa và những tin tức </i>
<i>bất lợi cho bọn Quốc dân Đảng</i><sub>", </sub><i>"Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Hoa kiều, </i>
<i>nhất là công nhân Hoa kiều</i><sub>" [23, tr.217]. </sub>
Theo đề nghị của Đảng Cộng sản Trung Quốc, từ tháng 6 đến tháng
10/1949, một số đơn vị bộ đội Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng
Trung Quốc đánh quân Tưởng vào vùng Việt Quế và Điền Quế, mở rộng
vùng giải phóng Ung Châu và Thập Vạn Đại Sơn cho đến khi Quân giải
phóng Trung Quốc tiến sát biên giới Việt - Trung quét sạch tàn quân
Tưởng Giới Thạch.
Ngày 1/10/1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố thành
lập. Ngày 5/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Chủ tịch Mao Trạch
Đông chúc mừng và khẳng định: "<i>Hai dân tộc Việt - Hoa có mối quan hệ anh </i>
<i>em trải mấy nghìn năm lịch sử. Từ đây, mối quan hệ ấy sẽ càng mật thiết để </i>
<i>phát triển tự do và hạnh phúc của hai dân tộc ta, để bảo vệ dân chủ thế giới </i>
<i>và hồ bình lâu dài</i><sub>" [62, tr.717]. </sub>
Trong những năm đầu tồn quốc kháng chiến, Đảng và Chính phủ rất
coi trọng việc đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại để tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của quốc tế. Để tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngồi, Chính phủ ta đã cử
các đặc phái viên đi thăm một số nước châu Á, tham gia một số hoạt động của
các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Tháng 2/1948, tiếp theo cơ quan đại
diện tại Băng Cốc (Thái Lan), Chính phủ ta lập cơ quan đại diện ở Miến Điện
(Mianma) và sau đó ở Ấn Độ, Pakixtan, Inđơnêxia .
<b>2.3. TỪ NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1953 </b>
Bước vào giai đoạn này, tình hình trong và ngồi nước có nhiều sự
kiện quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà
nước Việt Nam.
Đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân
lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ. Cách mạng Việt Nam thốt khỏi tình thế bị bao vây cơ lập. Từ năm
1950 trở đi, Việt Nam bắt đầu nhận được sự giúp đỡ quốc tế khơng chỉ về
chính trị, tinh thần, mà cả về vật chất.
Khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường, vừa tạo cơ sở
chính trị vững chắc cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, vừa là điều kiện để
thực hiện đoàn kết quốc tế.
Trên mặt trận quân sự, từ sau chiến thắng Biên giới Thu - Đông (1950),
cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuyển sang bước phát triển mới. Quân và
dân ta đã giành, giữ và phát triển quyền chủ động chiến lược trên chiến
trường chính. Hậu phương kháng chiến được xây dựng và củng cố vững
mạnh. Lực lượng vũ trang ba thứ quân ngày càng trưởng thành, có sự bố trí
hợp lý trên các chiến trường, làm nòng cốt để đưa chiến tranh nhân dân lên
đỉnh cao; liên tiếp mở nhiều chiến dịch tiến công lớn, kết hợp chặt chẽ chiến
tranh du kích với chiến tranh chính quy, đánh địch ở cả mặt trận chính diện và
sau lưng chúng; kết hợp tác chiến tập trung với tác chiến phân tán, đánh tiêu
diệt và đánh tiêu hao; vừa chủ động tiến công địch trên mặt trận chính diện,
vừa đánh bại những cuộc hành quân càn quét của chúng, làm thất bại mọi âm
mưu quân sự và chính trị của thực dân Pháp.
Trên thế giới, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được mở rộng và nối
liền từ Tây sang Đông, không ngừng được củng cố và lớn mạnh
Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu vượt qua nhiều thử
thách, hồn thành khơi phục kinh tế sau chiến tranh và bắt tay vào thực
hiện những kế hoạch kinh tế - xã hội dài hạn. Năm 1949, Liên Xô thử
thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền về vũ khí hạt nhân của
Liên minh các mặt giữa Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa hình
thành. Nhiều hiệp ước hữu nghị và hợp tác được ký kết. Ngày 8/1/1949, Hội
đồng tương trợ kinh tế (SEV) được thành lập, đẩy mạnh quan hệ hợp tác, giúp
đỡ lẫn nhau về kinh tế giữa các nước thanh viên. Ngày 14/2/1950, Chính phủ
Liên Xơ và Chính phủ Cộng hồ nhân dân Trung Hoa ký Hiệp ước hữu nghị
liên minh tương trợ Xô - Trung, xác định về mặt pháp lý khối liên minh hai
nước, góp phần tăng cường sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Sự đoàn kết, thống nhất trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tạo
chỗ dựa cho phong trào đấu tranh cách mạng trên thế giới vì hồ bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, tạo thế đối trọng với Mĩ và các nước
phương Tây trong chiến tranh lạnh và trật tự hai cực Ianta.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa đang được củng cố là chỗ dựa vững chắc
cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Cùng với sự lớn mạnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào
giải phóng dân tộc và phong trào bảo vệ hồ bình thế giới ngày càng phát triển.
thể hiện sức mạnh khơng gì cưỡng nổi của phong trào giải phóng dân tộc. Phong
trào đấu tranh cho hồ bình, dân chủ và tiến bộ của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động cũng phát triển ngay tại các nước tư bản chủ nghĩa. Đấu tranh bảo
vệ hồ bình thế giới trở thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Trong khi đó, tình hình kinh tế và chính trị nước Pháp không ổn định.
Pháp bị thất bại ngày càng nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông
Dương, kinh tế nước Pháp suy thoái phải nhận viện trợ Mĩ, ảnh hưởng
<i>chiến tranh</i><sub>" [50, tr.28]. </sub>
Một thách thức lớn đối với giới cầm quyền Pháp là phong trào phản đối
chiến tranh lên cao ngay tại nước Pháp với sự tham gia của nhiều tầng lớp
nhân dân, đòi đưa quân đội viễn chinh về nước, địi hồ bình ở Việt Nam, địi
điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng
Cộng sản Pháp, Tổng Cơng đồn Pháp phát động những cuộc bãi cơng ở các
cảng có tàu chở vũ khí và trang thiết bị đi Đông Dương. Các vụ Raymông
Điêng (Raymond Dien) và Hăngri Máctanh (Henri Martin) đã làm chấn động
toàn nước Pháp.
Auriol): Tiếp tục duy trì cuộc chiến tranh Đông Dương đẫm máu là tội ác
chống lại nước Pháp.
Tình hình nước Pháp tạo ra khả năng phối hợp cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp; tạo điều kiện vận
dụng sách lược cô lập và suy yếu thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, cũng
cần thấy rằng, từ sau khi thất bại trên lục địa Trung Quốc, đế quốc Mĩ can
thiệp ngày càng sâu hơn vào Đông Dương.
Mĩ thực hiện chiến lược "<i>trả đũa ồ ạt</i><sub>" nhằm </sub><i>"đẩy lùi chủ nghĩa cộng </i>
<i>sản</i><sub>"; đưa quân vào Triều Tiên (1950 - 1953) đồng thời tăng cường giúp Pháp </sub>
ở Đông Dương, đưa cuộc chiến tranh Đông Dương vào quỹ đạo chiến lược
những cứ điểm chống Cộng.
Hội nghị ba Ngoại trưởng Mĩ - Anh - Pháp ở Pari (11/1949) thống nhất
nhận định mối quan hệ giữa cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với
"<i>các quốc gia cộng sản</i><sub>"; quyết định cho Pháp được dùng vũ khí mà Mĩ cấp </sub>
theo kế hoạch giúp đỡ binh bị ở ngoài nước Pháp; ba nước cùng bảo vệ lãnh
thổ Việt Nam, đề phịng Qn giải phóng Trung Hoa tràn sang; Mĩ sẽ gửi
thẳng vũ khí sang Đơng Dương nếu Pháp bị Cộng sản Trung Hoa đánh.
Từ chỗ là kẻ thù tiềm tàng, Mĩ dần trở thành kẻ thù chủ yếu của cách
mạng Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam đồng
thời cũng là cuộc đấu tranh chống bọn can thiệp Mĩ.
một bộ phận của các lực lượng dân chủ trên thế giới. Bản báo cáo "<i>Bàn về </i>
<i>cách mạng Việt Nam</i><sub>" do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội nêu </sub>
rõ mục tiêu cách mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành
thống nhất độc lập hoàn toàn và bảo vệ hồ bình thế giới. Mọi chính sách đối
nội và đối ngoại đều phải thực hiện mục tiêu đó.
"<i>Chính sách ngoại giao của ta là chính sách ngoại giao có tính chất </i>
<i>dân tộc và dân chủ. Nguyên tắc cơ bản của chính sách đó là: bảo vệ tồn vẹn </i>
<i>độc lập, dân chủ, chủ quyền lãnh thổ và thống nhất quốc gia; ủng hộ phong </i>
<i>trào giải phóng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa; bảo vệ hồ bình </i>
<i>dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến, đồn kết chặt chẽ với Liên Xơ, Trung </i>
<i>Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, hợp tác thân thiện, tự do và bình </i>
<i>đẳng với Chính phủ và nhân dân các nước</i><sub>" [25, tr.145]. </sub>
Đại hội lần thứ II của Đảng đánh dấu bước phát triển mới về chính sách
đối ngoại. Đảng cơng khai xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
phong trào dân chủ trên thế giới, Việt Nam là một tiền đồn của hệ thống xã
hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á. Từ đây, ngoại giao Việt Nam ngày càng phát
triển trên cả ba mặt: Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Việc liên lạc với các Đảng Cộng sản anh em là một nội dung quan trọng
trong chính sách đối ngoại của Đảng. Bản báo cáo do Tổng Bí thư Đảng
Trường Chinh trình bày tại Hội nghị toàn quốc lần thứ ba đầu năm 1950 nêu
rõ:
"<i>Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của phong trào hồ bình, </i>
<i>dân chủ và xã hội chủ nghĩa chung của thế giới, bổn phận Đảng ta phải liên </i>
<i>lạc mật thiết với các Đảng anh em, để trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ lẫn nhau </i>
<i>và thực hiện việc thống nhất hành động với nhau. Không phải ta chỉ cần liên </i>
<i>lạc với các Đảng anh em ở Đông Nam Á, mà còn phải mật thiết liên lạc với </i>
Hồ bình khơng chỉ là nguyện vọng của dân tộc Việt Nam mà còn là
nguyện vọng chung của nhân loại. Đại hội Hồ bình thế giới lần thứ II họp tại
Vácsava ra nghị quyết đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Triều Tiên và Đông
Dương. Từ năm 1950 đến năm 1953, có 9 hội nghị quốc tế về bảo vệ hồ bình
đều có nghị quyết về Việt Nam.
Đảng ta khẳng định: Hồ bình là nguyện vọng tha thiết của hàng trăm
triệu nhân dân thế giới. Hồ bình có thể giữ gìn và củng cố được vì nhân dân
thế giới đang đồn kết, thống nhất, tích cực bảo vệ nó, chống lại bọn đế quốc
gây chiến.
Gắn cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với phong trào bảo vệ
hồ bình thế giới là một chủ trương quan trọng của Đảng, nhằm kết hợp mục
tiêu đấu tranh của nhân dân Việt Nam với mục tiêu đấu tranh của nhân loại
tiến bộ, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc kháng chiến, đồng thời góp
phần tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: Việt Nam
là một bộ phận trong phe hồ bình và dân chủ thế giới chống bọn đế quốc gây
chiến. Cuộc kháng chiến Việt Nam và cuộc đấu tranh bảo vệ hồ bình của
nhân dân thế giới đều có ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng chủ trương thiết lập quan hệ ngoại
giao về mặt nhà nước và xây dựng liên minh với các nước xã hội chủ nghĩa.
Ngày 2/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung Quốc, hội đàm với
lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc chấp nhận đề nghị giúp đỡ cuộc kháng
chiến chống Pháp ở Việt Nam.
<i>hồ bình và xây đắp dân chủ thế giới</i><sub>"</sub><sub>[63, tr8]. Tuyên bố này tạo điều kiện </sub>
thuận lợi cho việc các nước công nhận về mặt ngoại giao với nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hồ.
Ngày 15/1/1950, Bộ Ngoại giao tun bố Chính phủ Việt Nam "<i>cơng </i>
<i>nhận Chính phủ nhân dân Trung Quốc do Chủ tịch Mao Trạch Đông lãnh </i>
<i>đạo và quyết định kiến lập quan hệ ngoại giao chính thức và trao đổi đại sứ </i>
<i>với Chính phủ nhân dân Trung Quốc</i><sub>"</sub><sub>[24, tr.14]. </sub>
Ngày 18/1/1950, Cộng hồ Nhân dân Trung Hoa tun bố cơng nhận
Ngày 3/2/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Liên Xơ. Tại Matxcơva,
Người đã có cuộc gặp gỡ với nhà lãnh đạo cao nhất của Liên Xô là Xlatin và
của Trung Quốc là Mao Trạch Đông. Thông qua cuộc gặp gỡ này, Liên Xô,
Trung Quốc khẳng định sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam tất cả những gì có thể.
Việc thiết lập quan hệ giữa nhà nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa
mở ra bước ngoặt mới trong quan hệ của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đánh giá:
"<i>Mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to </i>
<i>lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn nhất trên thế giới - Liên </i>
<i>Xô và Trung Quốc dân chủ và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt </i>
<i>Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước ngang hàng trong đại gia đình dân chủ </i>
<i>thế giới. Nghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào khối 800 triệu </i>
<i>nhân dân chống đế quốc. </i>
<i>Chắc rằng cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho những thắng lợi </i>
Từ nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng trong hàng ngũ dân
chủ thế giới do Liên Xô đứng đầu, chống phe đế quốc chủ nghĩa do Mĩ cầm
đầu. Sự giúp đỡ của các nước bạn đối với ta, về tinh thần cũng như về vật chất
sẽ thiết thực hơn.
Việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân thừa nhận và
đặt bang giao với Việt Nam chứng tỏ phe dân chủ thế giới do Liên Xô đứng
đầu quyết tâm giúp đỡ Việt Nam, đặt Việt Nam một cách công khai và chính
tế. "<i>Từ nay chúng ta công nhiên đứng vào hàng ngũ các nước dân chủ thế </i>
<i>giới do Liên Xô lãnh đạo chống bọn đế quốc gây chiến do Mĩ cầm đầu. Nước </i>
<i>ta là một tiền đồn trong phòng tuyến dân chủ chống đế quốc ở Đông Nam </i>
<i>châu Á, chúng ta được sự ủng hộ nhiệt liệt của Liên Xô, Trung Hoa, các nước </i>
<i>dân chủ khác và của nhân dân toàn thế giới</i><sub>" [24, tr.225]. </sub>
Đảng và Chính phủ chủ trương tăng cường các hoạt động đoàn kết,
giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và Campuchia phát triển. Ngày
11/3/1951, Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương được tổ chức. Hội nghị
quyết định thành lập khối Liên minh chiến đấu Việt - Miên - Lào trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau.
Cùng với việc thiết lập và mở rộng ngoại giao Nhà nước, hoạt động
Việc mở rộng hoạt động đối ngoại, nhất là sự giúp đỡ của các nước xã
hội chủ nghĩa là một nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi cho cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam, nhưng cuộc kháng chiến của Việt Nam cũng
góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới. "<i>Nếu nhân dân Đơng Dương có </i>
<i>bổn phận giữ cái pháo đài hồ bình ở Đơng Nam châu Á này, thì các lực </i>
<i>lượng hồ bình dân chủ thế giới cũng có bổn phận tích cực giúp đỡ nhân </i>
<i>dân Đơng Dương hơn nữa</i><sub>"</sub><sub>[24, tr.84]. Nhân dân Việt Nam không bị động, ỷ </sub>
quyền lợi, Mĩ - Anh đang chuẩn bị can thiệp trực tiếp vào Đông Dương giúp
Pháp. Nhân dân Đơng Dương cần phải có sức giúp đỡ của các lực lượng hồ
bình, của dân chủ thế giới mới có thể giành được thắng lợi cuối cùng.
Thực tế cuộc kháng chiến giai đoạn 1950-1953 cho thấy, sự giúp đỡ
quốc tế, mà chủ yếu là của Trung Quốc và Liên Xô, làm tăng thêm sức mạnh
chiến đấu của quân và dân ta. Tính đến ngày 1/6/1954, Việt Nam đã nhận
được viện trợ 21.517 tấn vật chất, trị giá 136 triệu nhân dân tệ (tương đương
34 triệu rúp). Tính riêng về vũ khí, trang bị kỹ thuật, ta nhận được 24 khẩu
sơn pháo 75 ly, 24 khẩu lựu pháo 105 ly, 76 khẩu pháo cao xạ 37 ly (của Liên
Xô), 12 khẩu pháp hoả tiễn H6 (của Liên Xơ), 715 xe ơtơ vận tải (trong đó
685 xe của Liên Xô). Việt Nam đã học tập và vận dụng thành công một số
kinh nghiệm của các nước anh em, trong đó có kinh nghiệm của cách mạng
Trung Quốc, nhất là những kinh nghiệm tác chiến và huấn luyện qn đội. Đó
là một thành cơng trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng, là một
trong những nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến.
<b>Tiểu kết chƣơng </b>
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng chủ trương chuyển hướng
đấu tranh, từ hoà hoãn với Pháp chuyển sang dùng đấu tranh quân sự, đồng
thời phối hợp đấu tranh ngoại giao.
ở các cơng hội, các đồn thanh niên, phụ nữ lên tiếng ở nước ngoài hưởng
ứng các đoàn thể trong nước.
Từ năm 1950, cùng với sự cơng nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà của các nước Xã hội Chủ nghĩa, ngoại giao Nhà nước đã được thiết
lập và ngày càng mở rộng. Trong q trình đó, ngoại giao nhân dân vẫn tiếp
tục được đẩy mạnh.
Chính sách "<i>làm bạn với mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với </i>
<i>một ai</i><sub>" và phương châm "</sub><i>thêm bầu bạn bớt kẻ thù</i><sub>" phản ánh một chủ trương </sub>
đối ngoại rộng mở, góp phần hố giải được tình thế khó khăn do hồn cảnh
quốc tế đem lại, chuẩn bị đưa cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới.
Trong thế chủ động tiến cơng chiến lược của cuộc kháng chiến chống
Pháp, chính sách đối ngoại của Đảng vừa nhằm tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối
với cách mạng Việt Nam, vừa tích cực góp phần vào sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội; kế hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh có thể tranh thủ được từ bên
ngồi; nhằm mục tiêu lớn nhất là góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ này
là: đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân; đồn
kẻ thù, phân hoá và cô lập cao độ thực dân Pháp xâm lược để giành các quyền
dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
<b>3.1. HỒN CẢNH LỊCH SỬ DẪN TỚI HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ VỀ ĐÔNG DƢƠNG </b>
Lập trường trước sau như một của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta là
ln giương cao ngọn cờ hồ bình. Bởi vậy, trước và trong quá trình tiến
hành cuộc kháng chiến, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ đã nhiều
lần đề nghị Chính phủ Pháp cùng thương lượng để giải quyết một cách hồ
bình vấn đề Việt Nam nhưng đều bị khước từ.
Từ cuối năm 1953, cùng với chủ trương mở các cuộc tiến cơng chiến
lược trên tồn chiến trường Đơng Dương trong Đông - Xuân (1953 - 1954),
Trung ương Đảng quyết định đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại
giao, nhanh chóng đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hồ bình. Ngày
26/11/1953, trả lời phỏng vấn nhà báo Thuỵ Điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh
tuyên bố: "<i>... nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì </i>
<i>nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng </i>
<i>trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam" </i><sub>[76, tr.194]. </sub>
<i>chiến. Chiến tranh Triều Tiên là một ví dụ. Hơn nữa, hiện nay đường lối </i>
<i>chung của phe ta trên thế giới là: dùng mọi cách để gây lại và tăng </i>
<i>cường hồ hỗn quốc tế, gìn giữ củng cố hồ bình trên thế giới và tình </i>
<i>hữu nghị giữa các dân tộc.."</i><sub>, "</sub><i>Ngọn cờ hồ bình do tay ta nắm lấy và </i>
<i>giương cao lên..." </i><sub>[63, tr.195]. </sub>
Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ thiện chí hồ bình của
Việt Nam, đồng thời gây chấn động lớn trong dư luận nước Pháp, có tác
dụng thúc đẩy phong trào đấu tranh cho hồ bình của nhân dân Pháp và
nhân dân thế giới mở ra khả năng giải quyết bằng con đường hồ bình cuộc
chiến tranh ở Đơng Dương.
Trong khi đó, các cường quốc quốc tế đều có sự điều chỉnh chính
sách đối ngoại. Liên Xơ phấn đấu làm dịu tình hình quốc tế căng thẳng, tạo
điều kiện thuận lợi để xây dựng đất nước. Liên Xô chủ trương sớm đi tới
giải pháp hồ bình cho vấn đề Đông Dương với mục đích ngăn chặn đế
quốc Mĩ mở rộng cuộc chiến tranh nóng trên bán đảo này và đẩy mạnh xu
thế hồ hỗn ở Viễn Đơng cũng như trên thế giới. Báo Cờ đỏ số ra ngày
3/8/1953 bình luận: từ việc đình chiến ở Triều Tiên phải thúc đẩy đi tới
chấm dứt chiến tranh ở Đơng Dương. Theo hướng đó, ngày 4/8/1953, trong
nước và do đó sẽ ảnh hưởng tới vai trò cường quốc số 1 ở châu Á và thế
giới. Ngày 24/8/1953, Thủ tướng Chu Ân Lai tun bố: "<i>Cuộc đình chiến ở </i>
<i>Triều Tiên có thể làm mẫu mực cho những cuộc xung đột khác"</i><sub>[77,tr.445]. </sub>
Tờ "<i>Nhân dân Nhật báo</i><sub>" ngày 3/9 đăng bài xã luận tố cáo Mĩ tìm cách mở </sub>
rộng sự xâm lược đối với các nước láng giềng của Trung Quốc ở Đông
Nam Á và khẳng định: "<i>Dư luận ở châu Á và phần còn lại của thế giới địi </i>
<i>hỏi rằng cuộc đình chiến ở Triều Tiên phải đưa đến hồ bình ở tồn châu </i>
<i>Á" </i><sub>[77, tr.456]. Từ ngày 8 đến ngày 14/9, các đài phát thanh Bắc Kinh, Cơn </sub>
Minh nói về khả năng chấm dứt chiến tranh Đông Dương theo kiểu đình
chiến ở Triều Tiên.
Với đế quốc Anh, một nước bị suy yếu nhiều sau Đại chiến thế giới lần
2 và bị mất nhiều thuộc địa ở Nam Á nhưng vẫn còn nhiều quyền lợi ở Đông
Nam Á, cũng chủ trương sớm giải quyết hồ bình vấn đề Đơng Dương, khơng
muốn để cho cuộc chiến tranh ở đây mở rộng và bị quốc tế hoá.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và
can thiệp Mĩ đã góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, tăng thêm sức
mạnh đấu tranh cho phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ hồ bình ở
châu Á và trên thế giới, ngày càng được sự đồng tình và ủng hộ của nhân
loại tiến bộ. Ngày 10/9/1953, Uỷ ban Thường trực Hội đồng Hồ bình thế
<i>Về phía Mĩ,</i><sub> khi khơng được Quốc hội chấp thuận đưa lực lượng bộ </sub>
binh can thiệp vào Đông Dương, chính quyền Mĩ chủ trương đưa lực lượng
tiếp cận Nam Trung Hoa và Đông Dương. Đồng thời, Mĩ tăng cường viện
trợ (lên đến 78% chi phí chiến tranh ở Đông Dương) để giúp Pháp không
bỏ chạy vội vã khỏi Đông Dương và ràng buộc Pháp vào chủ trương lập
các liên minh kinh tế, chính trị, quân sự trong chiến lược "<i>ngăn chặn chủ </i>
<i>nghĩa cộng sản"</i><sub> của Mĩ. Sau chiến tranh Triều Tiên, Mĩ càng can thiệp </sub>
mạnh vào Đông Dương, tăng cường viện trợ cho Pháp nhằm kéo dài và mở
rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên bán đảo này. Tháng 8/1953, Hội đồng
an ninh quốc gia Mĩ xác định: "<i>Trong điều kiện hiện nay, mọi giải pháp </i>
<i>thương lượng đều có nghĩa là cuối cùng khơng những để mất Đơng Dương </i>
<i>vào tay cộng sản, mà cịn để mất Đơng Nam Á. Mất Đông Dương sẽ nguy </i>
<i>kịch cho nền an ninh của Mĩ" </i><sub>[77, tr.445]. Trong chuyến sang Đông Dương </sub>
thị sát tại chỗ ngày 23/11/1953, Phó Tổng thống Mĩ Níchxơn tuyên bố với
các sĩ quan Pháp và bù nhìn rằng, trong bất cứ trường hợp nào cũng không
thể đàm phán với Việt Minh. Bởi vậy, cùng với việc tăng cường mở rộng
chiến tranh đi đôi với việc lợi dụng sự suy yếu của Pháp, Mĩ còn thực hiện
mưu đồ từng bước nắm và củng cố nguỵ quân, nguỵ quyền (giành quyền
Về phía Pháp, trước sức ép từ nhiều phía, ngày 19/11/1953, Thủ
tướng Lanien phải tuyên bố: "<i>Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện trong </i>
<i>khung cảnh quốc tế, nước Pháp sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp ngoại </i>
<i>giao cho cuộc xung đột"</i><sub> [3, tr.83]</sub><i>.</i>
thắng, Mĩ sẽ nắm bọn bù nhìn và chiếm đoạt các thành quả. Cịn Pháp cố
tranh thủ viện trợ của Mĩ nhằm tăng cường chiến tranh và giành một số
thắng lợi quân sự để tạo điều kiện đàm phán đạt tới một giải pháp trong
danh dự. Do đó, bên cạnh những cố gắng về quân sự, Pháp tán thành họp
một hội nghị quốc tế gồm Mĩ, Anh, Pháp, Liên Xô và cả Trung Quốc để
giải quyết vấn đề ở Đông Dương, nhấn mạnh việc tranh thủ Trung Quốc có
thể đạt tới một thoả hiệp có lợi cho Pháp. Anh cũng tán thành giải quyết
hoà bình vấn đề Đơng Dương vì lo ngại chiến tranh lan rộng, có thể ảnh
hưởng đến các thuộc địa của Anh ở Đông Nam Á và quyền lợi của Anh ở
Viễn Đơng nói chung. Trước đó, ngày 18/8/1953, đại diện của Anh tại Liên
hợp quốc tuyên bố: Anh tin rằng sự tiến bộ trong vấn đề Triều Tiên ở bàn hội
nghị sẽ dẫn đến việc đàm phán về những vấn đề rộng lớn hơn liên quan đến
Viễn Đơng, trong đó có vấn đề Đơng Dương. Đồng thời, Anh cũng chịu sự
tác động của nhiều nước trong Liên hiệp Anh muốn chấm dứt chiến tranh
Đơng Dương. Liên Xơ nhận rõ tình hình Đơng Dương sau Đơng Xn
1953-1954 và sự chuyển hố trong chính trường nước Pháp, mở ra khả năng đi tới
một thoả thuận quốc tế để kết thúc cuộc chiến tranh và lập lại hồ bình ở
Đơng Dương. Cạnh đó, Trung Quốc đang phải chống lại sự phong toả toàn
diện của chủ nghĩa đế quốc. Do vậy, thực hiện chính sách chung sống hồ
bình giữa các quốc gia có thể chế chính trị khác nhau, ngăn trở việc các liên
minh quân sự - chính trị của các đế quốc phương Tây... đã trở thành một yêu
Như vậy, xét một cách tồn diện, hồn cảnh quốc tế cho thấy chính phủ
cũng như dư luận nhiều nước trên thế giới đều đồng tình đấu tranh mạnh mẽ
thúc đẩy xu thế đòi rút quân, chấm dứt chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp. Phương thức đấu tranh là thông qua thương lượng làm giảm ý chí của
quân xâm lược Pháp và kiềm chế mưu đồ đe doạ, tăng cường mở rộng chiến
tranh của đế quốc Mĩ. Vấn đề Việt Nam và vấn đề Đông Dương lúc này đã trở
thành điểm nóng dư luận thế giới quan tâm theo dõi. Đó là nhân tố thuận lợi
cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Đầu năm 1954, khi chiến tranh lạnh đã đến điểm cao thì lại xuất hiện
xu thế hồ hỗn giữa các nước lớn. Sau một q trình thương lượng khó khăn
và mặc dù Mĩ chống đối, Hội nghị ngoại trưởng 4 nước lớn Liên Xô, Mĩ,
Anh, Pháp ở Beclin từ ngày 25/1/1954 đến ngày 18/2/1954 đã quyết định sẽ
triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơnevơ (bắt đầu từ 26/4/1954) để bàn về vấn
đề Triều Tiên và việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hồ bình ở Đơng Dương
với sự tham gia của Trung Quốc và một số nước hữu quan.
Quyết định về việc triệu tập Hội nghị Giơnevơ trên đây đã được dư
luận quốc tế hoan nghênh. Ngày 20/2, Thủ tướng Ấn Độ ra lời kêu gọi ngừng
bắn ở Đông Dương để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thảo luận vấn đề Đông
Dương tại Hội nghị Giơnevơ sắp tới.
Ngày 25/2, Ngoại trưởng Inđônêxia ra tuyên bố ủng hộ lời kêu gọi của
Thủ tướng Ấn Độ. Tờ <i>"Nhân dân nhật báo</i><sub>" Trung Quốc ra ngày 22/2 đăng xã </sub>
luận nêu rõ: "<i>không nghi ngờ chút nào là sự thoả thuận tại hội nghị Beclin sẽ </i>
<i>góp phần làm dịu tình hình trên thế giới. Nhân dân Trung Quốc ủng hộ nghị </i>
<i>quyết đó" </i><sub>[77, tr.449]. Chính phủ Pháp chủ trương khai thác mọi khả năng </sub>
đặc biệt về vấn đề Đông Dương. Mặc dù có sự cản trở của phái chủ chiến,
ngày 10/3 Quốc hội Pháp đã ra nghị quyết hoan nghênh việc triệu tập Hội
nghị Giơnevơ để tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng đi tới chấm dứt chiến
tranh, đảm bảo hồ bình, an ninh của các quốc gia liên kết trong khuôn khổ
Liên hiệp Pháp.
Ngày 26/4/1954, Hội nghị Giơnevơ chính thức khai mạc, có sư tham
gia của Ngoại trưởng các nước Liên Xô, Trung Quốc, Mĩ, Anh, Pháp, Cộng
hịa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Cộng hồ Triều Tiên, tập trung thảo
luận vấn đề Triều Tiên. Cho đến lúc này, giữa 5 nước lớn vẫn chưa thống
nhất việc xác định thành phần các nước có liên quan tham gia Hội nghị
Giơnevơ về Đơng Dương. Phía Pháp đề nghị chỉ có đại diện ba Chính phủ
bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia tham dự hội nghị cùng với năm cường
quốc. Phía Liên Xơ đề nghị phải có đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Anh, Pháp, Mĩ không chấp nhận đề nghị này. Nhưng khi quân đội
Việt Nam mở đợt tấn công cuối cùng vào Điện Biên Phủ (1/5/1954), biết rõ
thất bại thể cứu vãn, ngày 2/5 ba nước Phương Tây vội vã thông báo cho
Liên Xô biết họ chấp nhận sự có mặt của đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà tại Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
Ngày 4/5/1954, theo lời mời của Chính phủ Liên Xơ và Chính phủ
Trung Quốc, phái đồn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, do Phó Thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tới
Giơnevơ.
<b>3.2. HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ VỀ ĐÔNG DƢƠNG (8/5 - 21/ 7/ 1954) </b>
<b>3.2.1. Mục đích cuộc đàm phán </b>
cuộc đàm phán thứ 2, có tính chất hai phe tại Giơnevơ sau cuộc đàm phán và
đi đến xác nhận đình chiến ở Triều Tiên dưới sự đảm bảo của các nước lớn
với nội dung tương tự như hai bên đã đạt được ở Bàn Môn Điếm. Sự thay đổi
nhanh chóng về so sánh lực lượng và chiều hướng phát triển của chiến tranh
Đông Dương sau Điện Biên Phủ cùng với sự thoả hiệp của hai phía đạt được
trong cuộc đàm phán về vấn đề Triều Tiên, thúc đẩy cố gắng của các nước lớn
nhằm sớm tìm giải pháp hồ bình cho cuộc chiến tranh Việt Nam - Đông
Dương. Trừ Mĩ, bốn nước lớn khác đều tìm thấy lợi ích của mình trong một
giải pháp hồ bình kết thúc cuộc chiến tranh, đặc biệt là Pháp và Trung Quốc.
Pháp có thể kết thúc tấn bi kịch, thốt được thất bại hoàn toàn "<i>trong </i>
<i>danh dự"</i><sub>. Trung Quốc đẩy lùi được ảnh hưởng của Mĩ, tạo ra khu vực an tồn </sub>
ở phía Nam mà khơng cần đối đầu bằng chiến tranh với Mĩ. Hơn nữa, Trung
Quốc có thể củng cố vị trí của mình qua việc tham dự và đóng góp vào thoả
hiệp hai bên. Có lập trường mềm mỏng thoả hiệp trong đàm phán về vấn đề
chấm dứt chiến tranh Đông Dương là nhân tố có lợi cho Trung Quốc trong
việc cải thiện quan hệ tay đôi với các nước phương Tây và tạo được lợi thế để
mở rộng quan hệ với các nước Á - Phi mà không nhất thiết phải nhờ cậy vào
ai hết. Pháp tuy là kẻ thù của ba dân tộc Đông Dương nhưng là nước không
có nhiều sự đối chọi quyền lợi với Trung Quốc. Hơn nữa, hai nước đã xích lại
gần nhau đến mức có thể cơng nhận lẫn nhau về ngoại giao trước cuộc đàm
phán ở Giơnevơ về vấn đề chấm dứt chiến tranh và lập lại hồ bình ở Đơng
Dương. Đó là lí do vì sao Trung Quốc tỏ ra năng động trong cuộc đàm phán ở
Giơnevơ. Đó cũng là cơ sở để hiểu được sự phối hợp có phần "<i>ăn ý"</i><sub> của </sub>
Trung Quốc với Pháp trong quá trình Hội nghị.
lực lượng ở chiến trường. Mặt khác, Liên Xơ coi việc giải quyết hồ bình ở
Đơng Dương là một phần trong chính sách thúc đẩy hồ dịu Đông - Tây,
hướng tới việc chống chiến lược tồn cầu của Mĩ, chống chính sách can thiệp
của Mĩ vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Theo hướng đó, Liên Xơ cũng tìm
cách lợi dụng sự khác nhau giữa các nước phương Tây, nhất là giữa Mĩ và xu
hướng muốn chấm dứt chiến tranh, không để Mĩ lợi dụng để tăng cường mở
rộng chiến tranh, tăng cường vai trò "<i>sen đầm quốc tế"</i><sub> của mình. Chấm dứt </sub>
chiến tranh, Pháp sẽ đỡ phụ thuộc vào Mĩ. Điều đó có lợi cho Liên Xơ trong
khuyến khích tham gia vào q trình hồ dịu ở châu Âu.
Liên Xơ sau Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Triều Tiên, diễn biến Đông
Dương sau Điện Biên Phủ và sự chuyển hoá lực lượng trong chính giới Pháp
ngày càng có lợi cho hồ bình kết thúc chiến tranh, đã thấy rõ khả năng đi đến
một thoả hiệp kết thúc chiến tranh. Liên Xơ cho rằng đem lại hồ bình Đơng
Dương phù hợp với mong muốn của Liên Xô cũng như phong trào thế giới
chống chiến tranh địi hồ bình.
Sau chiến tranh Triều Tiên, Mĩ tích cực lập tuyến phịng thủ ở châu Á
(bao gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Thái Bình Dương và Tây Bắc Á) để
đối phó với ảnh hưởng của Liên Xơ, Trung Quốc và hệ quả của thắng lợi của ý
nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến Việt Nam và Đông Dương. Mĩ lợi dụng sự
suy yếu của đồng minh, nhất là Pháp đang trong cơn nguy khốn vì chiến tranh để
ràng buộc đồng minh vào liên minh châu Âu do Mĩ chi phối và tham gia vào
hoạt động phịng thủ chung ở châu Á - Thái Bình Dương.
<i>Dương vào tay Trung Quốc, Liên Xơ"</i><sub> - điều mà Mĩ xem là hồn tồn trái với </sub>
lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh trong chiến lược của Mĩ. Chủ trương của
Đối với cuộc đàm phán ở Giơnevơ, Mĩ ngăn cản Pháp, Anh và phe ta
sớm đi đến thoả hiệp kết thúc chiến tranh. Mĩ tỏ ra khơng hài lịng về Hội
nghị, doạ bỏ không tham gia cuộc đàm phán để gây sức ép chống lại xu
hướng chủ hoà ở Pháp.
Như vậy, vào thời điểm đầu năm 1954, vì mục tiêu, ý đồ chiến lược khác
nhau, các nước lớn phương Tây cũng như các nước bạn bè phe ta và cả Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đều tán thành ở mức độ khác nhau việc triệu tập Hội
nghị quốc tế ở Giơnevơ để bàn giải pháp kết thúc chiến tranh ở Đơng Dương.
<b>3.2.2. Tiến trình cuộc đàm phán </b>
Cuộc đàm phán ở Giơnevơ phản ánh xu thế hồ hỗn giữa hai bên. Hội
nghị được triệu tập theo đề nghị của Liên Xô, được các nước phương Tây
chấp thuận. Đây là Hội nghị quốc tế đầu tiên về Đông Dương với sự tham gia
của các nước lớn Đông - Tây. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh bước đầu có
hồ dịu Đơng - Tây sau chiến khi chiến tranh Triều Tiên đã lắng dịu và quân
đội viễn chinh Pháp ở Việt Nam đang trong cơn hấp hối.
Thành phần tham dự Hội nghị gồm 9 đồn, trong đó có 5 nước lớn (Mĩ,
Anh, Pháp, Liên Xơ và Cộng hồ Nhân dân Trung Hoa) và 4 bên khác được
gọi là các chính phủ hữu quan (Việt Nam Dân chủ Cộng hồ và ba chính
quyền "<i>liên kết</i><sub>" với Pháp ở Lào, Việt Nam và Campuchia). Điều đáng chú ý </sub>
Đông Dương, họ tham gia với tư cách là nước lớn ở châu Á. Đây là lần đầu
tiên Trung Quốc có được vị trí như vậy, nhất là một hội nghị quốc tế đặt trong
Vào thời điểm các nước lớn đi đến quyết định triệu tập Hội nghị
Giơnevơ, ta cho rằng đó là "<i>một thắng lợi của phe hồ bình, dân chủ tiến lên </i>
<i>một bước để làm dịu bớt căng thẳng thế giới"</i><sub>. Ngày 10/4/1954, trong báo cáo </sub>
trước Quốc hội về chủ trương của ta đối với Hội nghị Giơnevơ, Phó Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh lập trường của nhân dân và Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về vấn đề lập lại hồ bình ở Đơng Dương là:
hồ bình, độc lập, thống nhất và dân chủ.
Ban Bí thư Trung ương Đảng họp trong hai ngày 1 và 2/5/1954 đã chỉ
ra rằng: ta không đánh giá quá cao Hội nghị Giơnevơ, nhưng không nên bỏ lỡ
cơ hội, phải tranh thủ dư luận và tranh thủ làm cho Hội nghị Giơnevơ có thể
bắt đầu để đi đến cuộc gặp gỡ sau.
Sau thắng lợi Đông Xuân 1953-1954, qua phân tích tình hình Đơng
Dương và thế giới, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (7/1954) đã nhận định:
Những thắng lợi đó đã làm cho lực lượng so sánh ta và địch biến chuyển có
lợi cho ta nhưng chưa phải biến chuyển căn bản có tính chất chiến lược, vì
vậy, nếu đế quốc Mĩ trực tiếp tham gia chiến tranh Đơng Dương thì lực lượng
so sánh giữa ta và địch sẽ có thể thay đổi khơng có lợi cho ta. Đồng thời
Trung ương cũng nhấn mạnh: Đế quốc Mĩ đang trở thành kẻ thù chính, trực
tiếp của nhân dân Đông Dương và Mĩ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại
hồ bình ở Đơng Dương.
- Phương châm đấu tranh của ta tại Hội nghị là: "<i>Tích cực, chủ động, </i>
<i>linh hoạt, chắc chắn"</i><sub>. </sub>
- Ta tham gia Hội nghị với ba phương án: yêu cầu tối cao của ta là
tranh thủ đi đến một hiệp định về tồn bộ, nếu khơng được thì cố gắng tranh
thủ ký một số điều khoản về đình chiến. Nếu hiệp định đình chiến khơng đạt
được thì cố gắng tranh thủ một hội nghị sau lại bàn.
Hội nghị phải tập trung giải quyết 4 vấn đề lớn trong một giải pháp kết
thúc chiến tranh:
- Vấn đề đình chiến và khu vực tập kết;
- Vấn đề hồ bình, độc lập, thống nhất và dân chủ;
- Vấn đề quân sự, chính trị trong mối quan hệ giữa ba nước Đơng
Dương và giữa ba nước này với bên ngồi;
- Vấn đề quan hệ với nước Pháp.
- Ngoài ra, ta cịn kiên trì lập trường: Qn đội nước ngoài phải rút hết
khỏi Việt Nam, Lào và Campuchia; khơng có căn cứ qn sự nước ngồi nào
ở ba nước; quân đội Pháp chia từng bước rút hết khỏi Đông Dương; Pháp và
các nước khác phải thừa nhận và tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, Lào và
Campuchia; quan hệ giữa các nước Đông Dương với bên ngồi phải dựa theo
ngun tắc tơn trọng độc lập, bình đẳng, hai bên cùng có lợi và tuỳ tình hình
từng nước mà định ra việc đình chỉ chiến sự, tổ chức tổng tuyển cử tự do để
thành lập Chính phủ thống nhất ở mỗi nước. Ta cũng nêu ra địi hỏi phải có
đại diện của lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia tham dự Hội nghị.
Cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán giữa hai bên diễn ra gay gắt. Có thể
<i>Giai đoạn 1:</i><sub> Từ khi khai mạc Hội nghị ngày 8/5 đến ngày 19/6/1954. </sub>
Ngay trong ngày khai mạc Hội nghị, ông Biđôn (Bidault), Trưởng phái
đoàn Pháp đã phát biểu nêu lên giải pháp 5 điểm của phía Pháp:
1. Tập kết quân đội hai bên vào các vùng quy định;
2. Giải pháp các lực lượng dân quân du kích;
3. Trao trả tù binh và dân thường bị bắt;
4. Kiểm sốt quốc tế;
5. Đình chỉ chiến sự
Lập trường của Pháp lúc này là muốn Hội nghị chỉ giải quyết vấn đề
quân sự để đạt đến mục đích đình chỉ chiến sự, mà khơng nói gì đến vấn đề
chính trị và khăng khăng địi tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt
Nam, đòi Việt Nam đơn phương rút khỏi Lào, giải giáp lực lượng dân quân,
du kích, trao trả tù binh, lập cơ quan kiểm soát quốc tế ở Lào và Campuchia.
Ngày 10/5/1954, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trình bày lập
trường đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hồ trên cơ sở hồ bình, độc
lập, thống nhất và dân chủ, đồng thời đề ra giải pháp 8 điểm cho việc chấm
dứt chiến tranh, lập lại hồ bình ở Việt Nam và Đơng Dương.
1. Pháp cơng nhận độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, Lào và Campuchia.
2. Ký một hiệp định về rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam,
3. Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong ba nước nhằm thành lập chính phủ
duy nhất cho mỗi nước;
5. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Campuchia và Lào thừa nhận các
quyền lợi kinh tế, văn hoá của nước Pháp ở ba nước. Sau khi các Chính phủ
duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hoá được giải quyết theo
đúng nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi;
6. Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương
trong thời gian chiến tranh;
7. Trao tù binh;
8. Các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện sau khi đình chỉ chiến sự.
Pháp và ba nước Đông Dương ký hiệp định về từng nước trên cơ sở dưới đây:
a. Ngừng bắn trên tồn Đơng Dương đồng thời với việc điều chỉnh các
lãnh thổ và khu vực mà các bên chiếm giữ;
b. Ngừng việc đưa thêm quân đội mới, vũ khí và đạn dược vào Đông
Dương;
c. Thiết lập một hệ thống kiểm soát của Uỷ ban Liên hợp gồm các đại
diện của các bên tham chiến.
Đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hồ có tính tồn diện cả về qn
Dương. Nghĩa là vấn đề quân sự và chính trị sẽ được thảo luận song song tại
cuộc đàm phán.
Cuộc đấu tranh ở Giơnevơ trong giai đoạn đầu còn chịu nhiều tác động
của các sự kiện đáng chú ý khác. Sau Điện Biên Phủ, ta tấn công và giải
phóng nhiều khu vực, tỉnh, thành quan trọng ở đồng bằng Bắc Bộ. Ngày
25/5/1954, tướng Nava (Navarre) được Chính phủ Pháp trao cho quyền quyết
định việc tổ chức phòng thủ hoặc rút khỏi Hà Nội khi cần để tránh một Điện
Biên Phủ thứ hai. Ngày 27/5 và 16/6/1954, đoàn Trung Quốc trình bày 6 điểm
về đình chỉ chiến sự ở ba nước Đơng Dương, chưa đề cập mặt chính trị của
giải pháp. Ngày 3/6/1954, cuộc họp quân sự cấp cao Anh, Mĩ, Pháp tại
Oasinhtơn kết thúc mà khơng tìm ra phương thức giúp Pháp về quân sự ở
Đông Dương. Thủ tướng Chu Ân Lai có cuộc gặp quan trọng với Ngoại
trưởng Pháp Biđôn (Bidault) và Ngoại trưởng Anh Êđen bên lề Hội nghị vào
ngày 16 và 17/6/1954. Đáng chú ý là ngày 14/6/1954, Mĩ báo cho Pháp biết
thời cơ để Mĩ can thiệp vào Đơng Dương đã qua rồi và ngày 18/6/1954, Ngơ
Đình Diệm được đưa lên làm Thủ tướng thay thế Chính phủ Bảo đại thân
Pháp.
<i>Giai đoạn II:</i><sub> Là thời kỳ các Trưởng đoàn về nước báo cáo và trao đổi </sub>
và Đông Dương, trong đó nhấn mạnh điều kiện dành cho phương Tây, phần
lãnh thổ phía Nam và một vùng ổn định của phía kháng chiến; tự do di cư.
Ngay sau chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Chu Ân Lai, tuyên bố về 5
Cuộc gặp giữa Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra
tại Liễu Châu (Trung Quốc) từ ngày 3 đến 5/7/1954. Hai bên đã trao đổi ý
kiến thẳng thắn và toàn diện về những vấn đề trong giải pháp kết thúc chiến
tranh ở Đông Dương, nhất là vấn đề phân vùng tập kết, giới tuyến quân sự
tạm thời và thời hạn của cuộc tổng tuyển cử để thống nhất hai miền.
Như vậy là, giai đoạn II của Hội nghị, thông qua thương lượng và bàn
cãi gay go bên ngoài Hội nghị, đã tạo cơ sở chung của cả hai phía cho việc
tiến đến thoả hiệp cuối cùng.
<i>Giai đoạn III:</i><sub> Kết thúc cuộc thương lượng, bắt đầu từ ngày 11 đến </sub>
ngày 20/7/1954. Đây là thời kỳ đấu tranh gay go nhất, quyết định nhất của
cuộc đàm phán, tập trung vào những vấn đề trọng yếu như phân vùng tập kết,
giới tuyến quân sự tạm thời, rút qn đội nước ngồi khỏi Đơng Dương, thời
hạn tổng tuyển cử, vấn đề đình chiến ở Campuchia và Lào... Nổi bật trong các
cuộc đàm phán đa phương hoặc tay đôi để tháo gỡ những vấn đề bế tắc là các
cuộc gặp gỡ và thảo luận giữa Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Thủ tướng
Pháp Măngđét Phrăng trong các ngày 13, 16 và 19/7/1954. Lúc này, Mĩ cũng
quay trở lại với diễn đàn Hội nghị. Giơn Xmít (John Smith), Thứ trưởng
Ngoại giao Mĩ thay Ngoại trưởng Đalét (J.F.Dulles) làm Trưởng đoàn.
nhưng đã ra một bản tuyên bố riêng cam kết tôn trọng những điều khoản của
Hiệp định.
<b>3.2.3. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, </b>
<b>lập lại hồ bình ở Đơng Dƣơng </b>
Hiệp định Giơnevơ gồm các văn bản với những nội dung chủ yếu sau đây:
a. Văn bản được coi là quan trọng nhất thể hiện sự nhất trí của các
Đoàn tham gia Hội nghị là "<i>Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định Giơnevơ"</i><sub>. </sub>
Tuyên bố gồm 13 điều, lược trích như sau:
1. Hội nghị được chứng nhận các bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Cao Miên, Lào và Việt Nam.
2. Hội nghị tin tưởng việc thi hành bản tuyên bố và các Hiệp định đình
chỉ chiến sự sẽ làm cho Cao Miên, Lào, Việt Nam từ nay có thể đảm nhận độc
lập, chủ quyền hoàn toàn của mình.
3. Hội nghị chứng nhận tuyên bố của hai Chính phủ Cao Miên và Lào
về việc để tất cả mọi công dân tham gia tổng tuyển cử tự do tiến hành trong
năm 1955.
4. Hội nghị chứng nhận những điều khoản cấm đưa vào Việt Nam
quân đội, nhân viên quân sự ngoại quốc, cũng như vũ khí đạn dược; chứng
nhận những tuyên bố của Chính phủ Cao Miên và Lào chỉ yêu cầu viện trợ
quân sự, nhân viên, huấn luyện viên trong phạm vi cần thiết để bảo vệ lãnh
thổ hiệu quả.
Hiến chương Liên hợp quốc, hoặc nếu hiệp định đó buộc họ phải lập những
căn cứ quân sự nước ngoài khi mà an ninh hai nước đó khơng bị đe doạ.
6. Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt
Nam là cách giải quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự và giới tuyến
quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hồn tồn khơng thể coi là một ranh giới về
chính trị hay về lãnh thổ.
7. Hội nghị tuyên bố đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề
chính trị, thực hiện trên cơ sở tơn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; cuộc tổng tuyển cử tự do sẽ tổ chức tháng 7 năm 1956; kể từ
ngày 20 tháng 7 năm 1955, hai bên sẽ gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.
8. Phải để cho tất cả mọi người Việt Nam tự do lựa chọn vùng họ muốn
sinh sống.
9. Ở Bắc và Nam Việt Nam, Lào và Cao Miên không được báo thù
những người đã hợp tác với một trong hai bên trong chiến tranh.
10. Hội nghị chứng nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp khẳng định việc
sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi Cao Miên, Lào và Việt Nam, trừ trường hợp
do thoả thuận hai bên, một số có thể ở lại những điểm nhất định trong thời
gian nhất định.
11. Hội nghị chứng nhận tun bố của Chính phủ Pháp sẽ tơn trọng độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Cao Miên, Lào và Việt Nam.
12. Trong quan hệ với Cao Miên, Lào, Việt Nam mỗi nước tham gia
hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau và không can thiệp vào nội trị của các nước đó.
b. Qua cuộc đấu tranh gay gắt trong các cuộc thương lượng chính thức
và tại hành lang của Hội nghị, các bên đã đi đến ký được bản Hiệp định về
đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Cao Miên.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam có 6 chương với 47 điều
khoản, các chương gồm các vấn đề lớn:
- Giới tuyến quân sự tạm thời và khu phi quân sự gồm 9 điều khoản,
trong đó quy định việc Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ở phía Bắc, quân
đội Liên hiệp Pháp ở phía Nam giới tuyến, với một khu phi quân sự; thời hạn
di chuyển hoàn toàn lực lượng hai bên không vượt quá 300 ngày.
- Nguyên tắc và cách thức thi hành hiệp định, gồm 6 điều khoản, trong
đó theo ngun tắc ngừng bắn trên tồn cõi Đơng Dương, sự đình chỉ chiến sự
phải đồng thời trên toàn cõi Việt Nam.
- Cấm đưa thêm quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí đạn dược mới, căn
cứ quân sự, gồm 5 điều khoản, trong đó cấm khơng được đưa thêm vào Việt
Nam quân đội đội và nhân viên quân sự, vũ khí, dụng cụ chiến tranh, tuy
nhiên cho phép thay thế ngang cấp, một thay một; cấm không được lập căn cứ
quân sự ngoại quốc, không gia nhập liên minh quân sự, không bị sử dụng để
gây lại chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược.
- Tù binh và thường dân bị giam giữ, gồm một điều khoản, quy định tất
cả tù binh và thường dân Việt, Pháp hoặc quốc tịch khác bị giam giữ từ đầu
chiến tranh sẽ được tha trong vòng 30 ngày.
- Mục linh tinh, gồm 6 điều khoản, trong đó quy định Tư lệnh hai bên
trừng phạt những người thuộc quyền mình làm trái điều khoản hiệp định; cho
phép các chuyên viên liên quan vào trong vùng của phía bên kia lấy thi hài
của quân nhân hoặc tù binh chết...
Bộ Tổng tư lệnh hai bên; thành lập một Ban Quốc tế giám sát và kiểm soát
thực hiện hiệp định gồm các nước Ấn Độ, Ba Lan, Canađa, với số đại biểu
bằng nhau, do Ấn Độ làm Chủ tịch.
c. Ngồi ra, cịn có các tun bố đơn phương của Pháp về việc sẵn sàng
rút quân khỏi ba nước Đông Dương và tôn trọng độc lập, chủ quyền của ba
nước Việt - Miên - Lào; của Vương quốc Lào về việc không tham gia chính
sách xâm lược; của Vương quốc Campuchia về việc bảo đảm quyền tự do của
công dân Miến Điện trong phiên họp bế mạc, chiều ngày 21/7, các Trưởng
đồn của Liên Xơ, Trung Quốc và Việt Nam đã đưa ra tuyên bố riêng.
Đại diện của Chính phủ Hoa Kỳ cũng ra tuyên bố cam kết Mĩ sẽ
không dùng vũ lực phá hoại các Hiệp định và 12 điều đầu tiên của Tuyên
bố chung, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và sẽ xem mọi hành
động xâm lược mới là vi phạm các Hiệp định và đe doạ hồ bình và an ninh
quốc tế. Tại Washington, ngày 21/7, Tổng thống Mĩ Aixenhao tuyên bố:
"<i>Tơi khơng có gì phê phán cái đã làm được ở Giơnevơ bởi vì tơi khơng có </i>
<i>một giải pháp thay thế"</i><sub>. </sub>
Như vậy là Hiệp định đình chỉ chiến sự - những văn bản duy nhất được
ký kết và tuyên bố cuối cùng do các bên tham gia hội nghị thoả thuận trong
hai ngày 20 và 21/7 cùng với các tuyên bố đơn phương tôn trọng Hiệp định
của Chính phủ Mĩ, Pháp, Liên Xơ, Trung Quốc đã tạo thành khung pháp lý
của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương.
Nhân dịp kết thúc Hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Thủ
tướng Pháp M.France đã trao đổi các công hàm về các quan hệ giữa hai nước
Việt - Pháp trong thời gian tới.
Với nội dung trên, Hiệp định Giơnevơ về "<i>chấm dứt chiến tranh, lập </i>
<i>lại hoà bình ở Đơng Dương"</i><sub> được dư luận rộng rãi trên thế giới hoan </sub>
nghênh, làm cho dư luận thế giới thấy được quyết tâm giành độc lập, tự do
của nhân dân ta, đồng thời cũng nhận rõ thiện chí hồ bình, lịng mong muốn
giải quyết xung đột bằng biện pháp hồ bình thơng qua thương lượng của
Đảng và Nhà nước ta.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (7/1954) cho rằng: do tình hình mới ở
trong nước và thế giới hiện nay, Hội nghị hoàn toàn đồng ý với đường lối của
Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị trong thời gian vừa qua: dùng phương pháp
thương lượng để lập lại hồ bình ở Đơng Dương.
Sau khi Hiệp định được ký kết, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định ý
nghĩa to lớn của giải pháp đã đạt được ở Giơnevơ, đồng thời nêu lên những
nhân tố đưa đến thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
Trong lời kêu gọi ngày 22/7/1954, Hồ Chủ tịch nêu rõ: "<i>Hội nghị </i>
<i>Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to... </i>
<i>Chúng ta giành được thắng lợi to lớn cũng là do nhân dân các nước </i>
<i>bạn, nhân dân Pháp và nhân dân u chuộng hồ bình thế giới ủng hộ cuộc </i>
<i>đấu tranh chính nghĩa của ta</i><sub>" [64, tr.321]. </sub>
Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta (9/1954) nhận định:
Hội nghị Giơnevơ đã đi đến thoả thuận lập lại hồ bình ở Đơng Dương, đã ký
kết hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Lào và Campuchia... Thắng lợi to lớn đã
kết thúc ách thống trị của thực dân Pháp ở miền Bắc, làm cho nhân dân miền
Bắc được hồn tồn giải phóng, tạo nên những điều kiện thuận lợi cho cơng
cuộc hồ bình kiến thiết nước Việt Nam sau này...
nhất nước Việt Nam là một thắng lợi của nhân dân ta, đồng thời là một thắng
- Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ III (14/1/1964) Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phân tích: "<i>Sau kháng chiến, đến Hội nghị Giơnevơ năm 1954, lúc </i>
<i>đó thì ngoại giao của ta thành quốc tế rồi. Ta đã có Liên Xơ, Trung Quốc và </i>
<i>các anh em khác giúp đỡ. Lúc đó, trong nước ta thắng, nên ngồi nước cũng </i>
<i>thắng, nó ảnh hưởng lẫn nhau... Hồi đó, nếu ta khơng nhận hồ bình thì tức </i>
<i>là mắc mưu Mĩ. Tất nhiên thắng lợi thu được cũng là do mình có Điện Biên </i>
<i>Phủ, ngồi ra, lại cịn có sự giúp đỡ của các nước anh em nữa" </i><sub>[45, tr.11]</sub><i>. </i>
Đánh giá một cách toàn diện và khách quan về Hiệp định Giơnevơ năm
1954, tháng 11/1988, Thường vụ Đảng uỷ quân sự Trung ương đã nêu một số
kết luận như sau:
Ta ký Hiệp định Giơnevơ là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp
là phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng ta, địch trên chiến trường và
hoàn cảnh quốc tế lúc đó. Vì lúc này, về phía địch, thực dân Pháp tuy thất bại
lớn, nhưng còn lực lượng và đứng sau là đế quốc Mĩ đang có mưu đồ trực tiếp
can thiệp vào chiến tranh Đơng Dương. Cịn ta lúc đó tuy đang thắng to,
nhưng cũng có những khó khăn mới, chưa đủ điều kiện tiếp tục chiến tranh để
giải phóng cả nước. Trên trường quốc tế, các nước anh em, trong đó có Liên
Xơ và Trung Quốc, đều muốn có hồ bình để xây dựng đất nước và đều muốn
cuộc chiến tranh ở Đông Dương đi tới một giải pháp.
Đặt Hiệp định Giơnevơ trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, phân tích
<i>giao" </i><sub>[64, tr.318]. </sub>
Như lịch sử đã chứng minh, Hiệp định Giơnevơ về Đơng Dương có ý
nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy tiến trình đấu tranh của nhân dân ta cho tự
do, độc lập, hồ bình.
<i>Một là,</i><sub> Hiệp định đã ghi nhận thắng lợi to lớn có tính bước ngoặt của </sub>
vũ lực để thúc ép, lôi kéo các nước độc lập dân tộc vào các liên minh quân sự,
chính trị, đặt các nước này dưới các ô bảo vệ của Mĩ và phương Tây, gây đối
đầu căng thẳng trong quan hệ quốc tế, phục vụ cho yêu cầu chiến lược của Mĩ
và phương Tây.
<i>Hai là</i><sub>, Hiệp định Giơnevơ là một giải pháp đồng bộ về chính trị và </sub>
quân sự. Nó vượt ra ngồi ý đồ ban đầu của các nước lớn định giới hạn
Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương trong khuôn khổ một hiệp định ngừng
bắn đơn thuần.
<i>Ba là, </i><sub>ở Hội nghị Giơnevơ, ta gặp nhiều hạn chế về khuôn khổ đàm </sub>
phán và phương thức thương lượng. Có một số vấn đề chưa thống nhất
được giữa các đồn của các nước anh em; chưa có kinh nghiệm trong đàm
phán đa phương nhất là với các nước lớn; chưa thấu hiểu hết ý định chiến
lược của họ khi bước vào cuộc thương lượng nên có lúc chưa phát huy hết
Hơn nữa, miền Bắc được hồn tồn giải phóng, gắn liền với hệ thống
xã hội chủ nghĩa trở thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam, đồng thời là hậu phương quan trọng để làm nghĩa vụ
quốc tế đối với Lào và Campuchia.
chiến tranh mà còn đưa đến làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho xu
hướng đấu tranh vì độc lập tự do, hồ bình ở mỗi nước Đơng Dương.
Đặt Hiệp định Giơnevơ trong bối cảnh lúc đó, khi trả lời phỏng vấn của
tờ: "<i>Nhật báo công nhân Anh"</i><sub> về Hiệp định Giơnevơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh </sub>
nhấn mạnh: "<i>Tôi cho rằng những điều khoản quan trọng nhất là: phải tôn </i>
<i>trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước Việt </i>
<i>Nam; không nước nào được lập căn cứ quân sự ở nước Việt Nam; Việt Nam </i>
<i>không liên minh quân sự với bất kỳ nước nào; thi hành quyền tự do dân chủ, </i>
<i>tạo điều kiện thuận lợi để lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam Bắc </i>
<i>đặng đi tới thực hiện thống nhất nước nhà" </i><sub>[64, tr.458]</sub><i>.</i>
<b>1.</b> Đấu tranh ngoại giao trong thời kỳ từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1945
phản ánh lợi ích của dân tộc Việt Nam, phục vụ cuộc đấu tranh vì độc lập tự
do vì hồ bình và dân chủ.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hồ hiếu, nhân đạo và hồ bình,
có ý thức sâu sắc về chủ quyền quốc gia, hữu nghị với các nước láng giềng,
khiêm nhường với nước lớn. Trước những thế lực xâm lược lớn mạnh, ông
cha ta đã kết hợp việc giành thắng lợi về quân sự, kết hợp với giải pháp ngoại
giao để kết thúc chiến tranh.
Với ngọn cờ độc lập dân tộc và ý chí "<i>Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định </i>
<i>không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"</i><sub>, Đảng và Hồ Chí Minh </sub>
ln ý thức đầy đủ về các quyền dân tộc cơ bản; u chuộng hồ bình, nhưng
kiên quyết chống chiến tranh xâm lược; phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ,
đồng thời coi trọng đoàn kết quốc tế; hữu nghị với các nước láng giềng, khéo léo
trong quan hệ với các nước lớn; cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược,
bình tĩnh trong những lúc nguy nan; biết lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ
thù, phân hoá kẻ thù, nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ thù, vừa đánh vừa đàm.
Bằng những hoạt động tích cực và tư duy nhạy bén, sáng tạo, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã góp phần làm xoay chuyển vận nước trong lúc nguy nan,
từng bước cải thiện quan hệ quốc tế, gắng sức vận dụng những điểm tương
đồng, khai thác mọi khả năng có thể để tìm kiếm bạn đồng minh trong những
điều kiện lịch sử vô cùng phức tạp, từng bước tiến đến thắng lợi cuối cùng.
<b>3.</b> Từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954 là một chặng đường phát triển của
đấu tranh ngoại giao Việt Nam, được mở đầu bằng việc kí Hiệp định sơ bộ và
kết thúc bằng việc kí Hiệp định Giơnevơ. Đó là chặng đường đấu tranh đầy
gay go, phức tạp, đánh dấu thắng lợi từng bước của mặt trận ngoại giao.
Trong buổi đầu, thế và lực của ta còn non yếu, do vậy trên bàn đàm phán,
chúng ta chưa buộc được kẻ thù công nhận nền độc lập. Trên văn bản pháp lí,
chúng chỉ thừa nhận nước Việt Nam là một quốc gia tự do nằm trong khối
<b>4.</b> Đấu tranh ngoại giao từ tháng 3/1946 đến 7/1954 có tác dụng vơ
cùng to lớn:
<i>- Góp phần phá thế bị bao vây cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế </i>
Sau cách mạng Trung Quốc thành công, trong bối cảnh quốc tế có
nhiều sự thay đổi, chính sách đối ngoại của Đảng có nhiều sự điều chỉnh,
hướng mạnh về hệ thống xã hội chủ nghĩa, chủ động đề ra phương hướng
phối hợp với phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc chống tàn quân
Tưởng Giới Thạch ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc, tranh thủ sự công
nhận về mặt nhà nước; tranh thủ giúp đỡ của Trung Quốc, giành thắng lợi
trong chiến dịch Biên giới, phá thế bị bao vây cô lập; từ đó càng mở rộng
quan hệ với các nước và các lực lượng đồng minh bên ngoài; kết hợp với sự
kháng chiến trong nước với phong trào đấu tranh chung của nhân dân thế giới
và nhân dân Pháp.
<i>- Góp phần buộc chủ nghĩa đế quốc phải công nhận các quyền dân tộc </i>
<i>cơ bản của Việt Nam </i>
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta nhằm mục tiêu giành các quyền dân
tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và vẹn toàn lãnh thổ.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cuộc đấu tranh kiên trì
bền bỉ, khi bằng những biện pháp nhân nhượng, khi buộc phải tiến hành
chiến tranh, qua nhiều cuộc tiếp xúc với các thế lực thù địch, đều nhất quán
ở nguyên tắc cao nhất là không vi phạm chủ quyền dân tộc. Bằng sự kết
hợp đấu tranh quân sự, chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, cuối
cùng chúng ta đã buộc kẻ thù phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ.
<b>5.</b> Đấu tranh ngoại giao từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954 đã cho Đảng
ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu:
- Luôn luôn giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với đoàn kết quốc tế.
- Biết lợi dụng mâu thuẫn hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ bạn đồng minh,
làm thay đổi so sánh lực lượng theo hướng có lợi cho ta.
1. Archimedes L.A.Patti (2001), <i>Tại sao Việt Nam</i><sub>, Nxb Đà Nẵng. </sub>
2. Ban Ký sự lịch sử, (1985), <i>Trận đánh 30 năm, </i><sub>Nxb Quân đội nhân </sub>
dân, Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ (2004), <i>Lịch sử Chính phủ </i>
<i>Việt Nam 1945 - 1955</i><sub>, Hà Nội. </sub>
4. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, (1975), <i>Cách mạng tháng </i>
<i>Tám, </i><sub>Nxb Sự thật, Hà Nội. </sub>
5. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), <i>Tổng kết </i>
<i>cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học</i><sub>, Nxb </sub>
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam<i> (</i><sub>1996),</sub><i> Từ Đà Lạt đến Pari</i><sub>, Nxb Hà Nội. </sub>
7. Bộ Ngoại giao: <i>Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân </i>
<i>chủ nhân dân (1945-1954)</i><sub>, tập I,</sub> <sub>Tài liệu lưu hành nội bộ. </sub>
8. Bộ Nội vụ, Viện Khoa học công an (1993), <i>Lịch sử biên niên về cuộc đấu </i>
<i>tranh bảo vệ an ninh trật tự ở Việt Nam</i><sub>,</sub> <sub>Tập I (1945-1954), Hà Nội, mã </sub>
số 93-071-006.
9. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1965), <i>Lịch sử cuộc </i>
<i>kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)</i><sub>,</sub> <sub>tập I, Nxb Quân đội </sub>
nhân dân, Hà Nội.
10. Nguyễn Đình Biên (2002), <i>Ngoại giao Việt Nam</i><sub> (1945-2000), Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Lương Bích, <i>Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ phong kiến, </i>
tài liệu lưu hành nội bộ, lưu tại Học viện Quan hệ Quốc tế.
<i>12.</i> <sub>Biettinggiơ (1967), </sub> <i>Xung quanh hội nghị Phôngtenblô, Newyork,</i>
<i>13.</i> <sub>Trường Chinh (1975), </sub><i>Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt </i>
<i>Nam, </i><sub>Nxb Sự thật, Hà Nội.</sub>
<i>14.</i> <sub>Trường Chinh (1965), </sub><i>Kháng chiến nhất định thắng lợi</i><sub>, Nxb Quân đội </sub>
nhân dân, Hà Nội.
15. Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) (2000), <i>Thắng lợi và </i>
<i>bài học, </i><sub>Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. </sub>
16. Các tài liệu Lầu năm góc, tập 1, Beacon Press, Bston, Bản dịch lưu tại
Thư viện Quân đội.
17. Lê Duẩn (1970), <i>Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ </i>
<i>nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, </i><sub>Nxb Sự thật, Hà Nội. </sub>
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), <i>Cương lĩnh xây dựng đất nước trong </i>
<i>thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, </i><sub>Nxb Sự thật, Hà Nội. </sub>
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng toàn tập, </i><sub>tập 1,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng toàn tập, </i><sub>tập 7,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng toàn tập, </i><sub>tập 8,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng toàn tập, </i><sub>tập 9,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng toàn tập, </i><sub>tập 10,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng tồn tập, </i><sub>tập 11,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng toàn tập, </i><sub>tập 12,</sub> <sub>Nxb </sub>
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng toàn tập, </i><sub>tập 13,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng tồn tập, </i><sub>tập 14,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng tồn tập, </i><sub>tập 15,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), <i>Văn kiện Đảng tồn tập, </i><sub>tập 21,</sub> <sub>Nxb </sub>
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Trần Hữu Đính (1990), <i>Tiếp xúc Việt - Mĩ năm 1945, </i><sub>Tạp chí </sub><i>Nghiên </i>
<i>cứu Lịch sử</i><sub>, số 4. </sub>
31. Nguyễn Kiên Giang (1961), <i>Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng </i>
<i>tháng Tám</i><sub>, Nxb Sự thật, Hà Nội. </sub>
32. Võ Nguyên Giáp (1974), <i>Những năm tháng không thể nào quên, </i><sub>quyển </sub>
II, Nxb Quân Đội, Hà Nội.
33. Võ Nguyên Giáp (1997), <i>Tư tưởng Hồ Chí Minh và Con đường Cách </i>
<i>mạng Việt Nam</i><sub>, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </sub>
34. Võ Nguyên Giáp (1994), <i>Những chặng đường lịch sử</i><sub>, Nxb Chính trị </sub>
Quốc gia Hà Nội.
35. Võ Nguyên Giáp (2001), <i>Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử</i><sub>, Nxb Quân </sub>
đội nhân dân, Hà Nội.
36. Gra (Yvơ) (1979), <i>Lịch sử của chiến tranh Đông Dương, </i><sub>Bản dịch lưu </sub>
tại Thư viện Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
37. Lê Mậu Hãn (1995), <i>Đảng Cộng sản Việt Nam, Các Đại hội và Hội </i>
<i>nghị Trung ương</i><sub>, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </sub>
38. Lê Mậu Hãn (1993), <i>Chiến lược đại đoàn kết hợp tác với các nước </i>
<i>Đơng Nam Á của Hồ Chí Minh, Quan điểm lịch sử và triển vọng, </i><sub>Tạp </sub>
39. Lê Văn Hiến (1995), <i>Nhật kí của một Bộ trưởng</i><sub>, tập I, Nxb Đà Nẵng. </sub>
40. Lê Văn Hiến (1995), <i>Nhật kí của một Bộ trưởng</i><sub>, tập II, Nxb Đà Nẵng. </sub>
41. Vũ Quang Hiển (2005), <i>Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời </i>
<i>kỳ 1945-1954, </i><sub>Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. </sub>
42. Học viện Quan hệ quốc tế (1990), <i>Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác </i>
<i>ngoại giao, </i><sub>Nxb Sự thật, Hà Nội. </sub>
43. Học viện Quan hệ Quốc tế (2001), <i>Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự </i>
<i>nghiệp giành độc lập tự do </i><sub>(1945-1975) Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </sub>
44. Học viện Quan hệ Quốc tế (1985), <i>Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu </i>
<i>tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, </i><sub>Nxb Sự thật, Hà Nội. </sub>
45. Học viện Quan hệ Quốc tế (1994), <i>Bác Hồ nói về ngoại giao, </i><sub>Hà Nội. </sub>
46. Học viện Quan hệ quốc tế (1995), <i>Hội thảo khoa học 50 năm ngoại </i>
<i>giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, </i><sub>Hà Nội. </sub>
47. Trịnh Vương Hồng, Nguyễn Minh Đức (1993), <i>Hồ Chí Minh với quan </i>
<i>hệ Việt - Mĩ</i><sub>, Tạp chí </sub><i>Lịch sử Đảng</i><sub>, số 6. </sub>
<i>48.</i> <sub>Vũ Dương Huân (2001), </sub> <i>Công tác đối ngoại với sự nghiệp cứu </i>
<i>nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tư </i>
<i>tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước và giữ nước,</i><sub> Nxb Quân đội nhân </sub>
dân, Hà Nội.
49. Vũ Dương Huân (2000), <i>Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, </i><sub>Nxb </sub>
Thanh niên, Hà Nội.
50. Henri Nava (1956), <i>Đông Dương hấp hối, </i><sub>Nxb Plon, Paris, bản dịch lưu </sub>
tại Thư viện Quân đội.
51. Nguyễn Văn Khoan (1992) <i>Sự thật lịch sử,</i><sub> Tạp chí </sub><i>Lịch sử Đảng</i><sub>, số 1. </sub>
52. Đinh Xuân Lâm (1993), <i>Tư tưởng đoàn kết và chiến lược đại đoàn kết </i>
53. Đinh Xuân Lâm (1990), <i>Thắng lợi ngoại giao đầu tiên có tính chất quyết </i>
<i>định của chính quyền cách mạng (1945-1946), </i><sub>Tạp chí </sub><i>Khoa học Đại </i>
<i>học Tổng hợp Hà Nội</i><sub>, số 6-7. </sub>
54. Lênin (V.I) (1977), <i>Toàn tập, </i><sub>tập 30, Nxb Tiến bộ, Maxcơva. </sub>
55. Lênin (V.I) (1977), <i>Toàn tập, </i><sub>tập 36, Nxb Tiến bộ, Maxcơva. </sub>
56. Nguyễn Thành Lê (1990), <i>"Dĩ bất biến ứng vạn biến" thể hiện chiến lược </i>
<i>kiên định, sách lược linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và </i>
<i>Nhà nước ta trong cuốn: Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ kiên </i>
<i>cường của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản và </i>
<i>công nhân quốc tế,</i><sub> Nxb Thống tin lý luận, Hà Nội. </sub>
57. <i>Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960 </i><sub>(2000), Nxb Chính trị Quốc gia, </sub>
Hà Nội.
58. Lưu Văn Lợi (1996), <i>Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), </i>
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
59. Nguyễn Phúc Luân (2001), <i>Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp </i>
<i>giành độc lập tự do (1945 - 1975)</i><sub>, Nxb Chính trị, Hà Nội. </sub>
60. Hồ Chí Minh (2000), <i>Tồn tập, </i><sub>tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </sub>
61. Hồ Chí Minh (2000), <i>Tồn tập, </i><sub>tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </sub>
62. Hồ Chí Minh (2000), <i>Tồn tập, </i><sub>tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </sub>
63. Hồ Chí Minh (2000), <i>Tồn tập, </i><sub>tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </sub>
64. Hồ Chí Minh (2000), <i>Tồn tập, </i><sub>tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </sub>
65. Hồ Chí Minh (1970), <i>Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, </i><sub>Nxb Sự thật, </sub>
Hà Nội.
66. Nguyễn Xuân Minh (2006), <i>Lịch sử Việt Nam 1945 - 2000</i><sub>, Nxb Giáo </sub>
dục, Hà Nội.
67. Nguyễn Dy Niên (2002), <i>Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, </i><sub>Nxb Chính </sub>
68. Philip Đơvile (1993), <i>Pari - Sài Gịn - Hà Nội</i><sub>, Nxb Hồ Chí Minh. </sub>
69. Trịnh Quốc Quang (1950), <i>Hội nghị Việt - Pháp Phongtenơblô tháng </i>
<i>7-1946, </i><sub>tập II, Nxb Văn hoá. </sub>
70. Nguyễn Duy Trinh (1979),<i> Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mĩ cứu </i>
<i>nước (1965 - 1975),</i><sub> Nxb Sự thật, Hà Nội. </sub>
71. <i>Văn kiện Đảng về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược</i>
(1986), Nxb Sự thật, Hà Nội.
72. <i>Văn kiện nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa</i><sub>, tập 18A, Phòng Lưu trữ, Bộ </sub>
Ngoại giao
73. <i>Văn kiện quân sự của Đảng 1945 - 1950 (1976), </i><sub>Nxb Quân đội nhân dân, </sub>
Hà Nội.
74. Viện Sử học (2005), <i>Lịch sử Việt Nam (9/1945 - 1950)</i><sub>, Hà Nội. </sub>
75. Viện Sử học (1997), <i>Nửa thế kỷ nhìn lại ngày toàn quốc kháng chiến </i>
<i>19/12/1946 - 19/12/1996</i><sub>, Nxb Văn hố - Thơng tin, Hà Nội. </sub>
76. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), <i>Lịch sử cuộc kháng chiến chống </i>
<i>thực dân Pháp (1945 - 1954)</i><sub>, tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. </sub>
77. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), <i>Lịch sử cuộc kháng chiến chống </i>
<b>HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ </b>
Một bên là Chính phủ Cộng hồ Pháp do ơng Xanhtơni (Sainteny),
người thay mặt và có uỷ nhiệm chính thức của Thuỷ sư đô đốc Đácgiăngliơ
(Georges Thierry d' Argenlieu), Thượng sứ Pháp thụ nhiệm uỷ quyền các
Chính phủ Cộng hoà Pháp, làm đại diện.
Một bên là Chính phủ Cộng hào Việt Nam do Cụ Chủ tịch Hồ Chí
Minh, và đặc uỷ viên của Hội đồng các Bộ trưởng là ông Vũ Hồng Khanh,
làm đại biểu.
<b>Hai bên đã thoả thuận về các khoản sau này: </b>
1. Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam Cộng hoà là một quốc
gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, qn đội của mình, tài
chính của mình, và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương ở trong khối
Liên hiệp Pháp. Về việc hợp nhất ba "kỳ", Chính phủ Pháp cam đoan thừa
nhận, nhưng quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết.
2. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện tiếp đoán quân đội
Pháp khi nào quân đội ấy chiểu theo các hiệp định quốc tế đến thay thế quân
đội Trung Hoa. Một hiệp định phụ khoản đính theo Hiệp định sơ bộ này sẽ
định rõ cách thức thi hành công việc thay thế ấy.
3. Các điều khoản kể trên sẽ được tức khắc thi hành. Sau khi ký hiệp
định, hai Chính phủ lập tức quyết định mọi phương sách cần thiết để đình chỉ
ngay cuộc xung đột, để giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí hiện thời và để
gây một bầu khơng khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay cuộc điều đình thân
thiện và thành thực. Trong cuộc điều đình ấy sẽ bàn về:
c. Những quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam.
Các thành phố Hà Nội, Sài Gịn, Pari có thể được chọn làm nơi hội họp
cuộc Hội nghị.
Làm tại Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1946.
<b>HỒ CHÍ MINH </b> <b>VŨ HỒNG KHANH </b> <b>XANHTƠNI </b>
Báo <i>Cứu quốc</i><sub>, số 180 </sub>
<b>PHỤ KHOẢN </b>
<b>Đính theo Hiệp định sơ bộ của Chính phủ Cộng hào Pháp </b>
<b>và Chính phủ Việt Nam </b>
Hai Chính phủ kể trong bản Hiệp định sơ bộ đã thoả thuận các khoản
sau này:
1. Những lực lượng quân đội bị thay thế quân đội Trung Hoa sẽ gồm
có:
a. 10.000 quân Việt Nam với các sĩ quan Việt Nam thuộc quyền điều
khiển của các nhà chức trách quân sự Việt Nam.
b. 15.000 qn Pháp, trong số đó đã kể số lính Pháp hiện nay đã đóng
trong cõi Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 16.
15.000 lính Pháp ấy phải là những người Pháp chính tơng, trừ những
đội phụ trách canh phòng tù binh Nhật Bản.
Tổng cộng các lực lượng kể trên sẽ đặt dưới quyền của Tư lệnh Pháp
do các đội viên Việt Nam cộng tác.
Khi các đội quân Pháp đã đổ bộ, một hội nghị tham mưu gồm các đại
biểu của Bộ tư lệnh Pháp và Bộ tư lệnh Việt Nam sẽ định rõ sự tiến triển,
sự du nhập và cách sử dụng các đội quân Pháp và các đội quân Việt Nam
đã kể trên.
Sẽ lập ra những Uỷ ban binh vụ Pháp - Việt ở tất cả các cấp quân đội
để chuyên việc liên lạc binh sĩ Pháp và Việt Nam theo tinh thần cộng tác
thân hữu.
2. Những đội quân Pháp dùng để thay thế quân đội Trung Hoa sẽ chia
ra làm 3 hạng:
a. <i>Những đội phụ trách việc canh phòng tù binh Nhật Bản - </i><sub>Các đội </sub>
binh Nhật Bản đã được đem ra khỏi xứ này; dù sao thời gian ấy không được
quá 10 tháng.
b. <i>Những đội quân cùng với quân đội Việt Nam phụ trách về việc công </i>
<i>an và phòng vệ đất nước Việt Nam </i><sub>- Cứ mỗi năm một phần năm (1/5) các đội </sub>
quân sẽ về Pháp để quân đội Việt Nam thay thế. Vậy trong 5 năm, quân đội
Việt Nam sẽ thay thế toàn số quân đội Pháp này.
c. <i>Những đội quân phụ trách việc phòng vệ các căn cứ hải và không </i>
<i>quân -</i><sub> Thời hạn của nhiệm vụ giao cho các đội này sẽ do các cuộc hội nghị </sub>
sau quyết định.
3. Ở các nơi đồn trú có quân đội Pháp và quân đội Việt Nam đóng giữ,
những khu vực riêng biệt cho đôi bên sẽ được định rõ.
4. Chính phủ Pháp cam đoan khơng dùng các tù binh Nhật vào những
việt có mục đích qn sự.
<i>Làm tại Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1946 </i>
<b>HỒ CHÍ MINH </b> <b>VŨ HỒNG KHANH </b> <b>XANHTƠNI </b>
Báo <i>Cứu quốc</i><sub>, số 180 </sub>
<b>NHỮNG THOẢ THUẬN GIỮA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI ĐƠ ĐỐC </b>
<b>ĐÁCGIĂNGLIƠ TẠI CUỘC HỘI KIẾN TRÊN VỊNH HẠ LONG NGÀY 24 </b>
<b>THÁNG 3 NĂM 1946 </b>
1. Vào độ trung tuần tháng 4, một đoàn phái bộ đại biểu Quốc hội Việt
Nam sẽ đi Pháp để tỏ tình thân thiện giữa Quốc hội và nhân dân Việt Nam đối
với Quốc hội và nhân dân Pháp.
2. Cũng trong thời gian đó, sẽ có một phái bộ chừng độ 10 người từ
Pháp qua Việt Nam để cùng đại biểu Việt Nam sửa soạn các tài liệu cần thiết.
3. Đến hạ tuần tháng 5, phái bộ ta sẽ qua Pháp để mở cuộc đàm phán
chính thức.
Báo <i>Cứu quốc</i>
<i>Binh lính người Việt Nam Paris mit tinh phản đối chính sách chia rẽ </i>
<i>của thực dân Pháp, ngày 21-4-1946 </i>