TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
-------------------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ÂM NHẠC TRONG GIÁO
DỤC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƢỜNG MẦM NON
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : Th.S Tôn Nữ Diệu Hằng
Sinh viên thực hiện
: Trần Thị Yến
Lớp
: 12SMN1
Đà Nẵng, tháng 4/2016
2
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
“Âm nhạc giúp trung tâm xử lí ngơn ngữ của não phát triển tốt hơn. Những trẻ
được phát huy khả năng âm nhạc ở độ tuổi sớm nhất sẽ giúp cho việc học tốt hơn
những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình khơng có cơ hội tiếp cận với
âm nhạc”_Giáo sư Michael Schulte- Markwort, thuộc Viện Tâm lý trẻ em ở bệnh
viện của đại học Hamburg, Đức. Đúng thật như vậy! Âm nhạc là nhu cầu cuộc
sống, là món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với đời sống con người. Âm
nhạc là ngôn ngữ chung của nhân loại. Nếu cuộc sống mà thiếu âm nhạc thì chẳng
khác gì thiếu ánh sáng mặt trời. Đặc biệt đối với trẻ mầm non thì những nốt nhạc
trầm bổng, những giai điệu mượt mà vui tươi, trong trẻo của các tác phẩm âm nhạc
như là dịng sữa ngọt ngào ni dưỡng cho tâm hồn trẻ thơ, qua đó giúp trẻ phát
triển tồn diện nhân cách. Thực tế cho thấy, trẻ em ở tuổi mầm non rất nhạy cảm
với âm nhạc. Trẻ thích nghe nhạc và hứng thú tham gia vào các hoạt động âm nhạc.
Mục đích của việc sử dụng âm nhạc trong giáo dục trẻ mầm non là giáo dục tình
cảm đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ. Giáo dục âm nhạc hình thành cho trẻ lịng u thiên
nhiên, Tổ quốc, tình u thương con người; hình thành và phát triển ở trẻ những
thói quen tốt trong sinh hoạt tập thể như: Tính tổ chức kỷ luật, tự chủ, mạnh dạn
trước mọi người. Âm nhạc còn là phương tiện nâng cao khả năng trí tuệ, phát triển
thể chất, giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, củng cố kiến thức trẻ qua học tập, vui
chơi. Quá trình trẻ tiếp xúc và hoạt động âm nhạc như học hát, nghe hát, vận động
theo nhạc, chơi trị chơi âm nhạc... sẽ hình thành ở trẻ những yếu tố của một nhân
cách phát triển toàn diện, hài hoà, là sự phát triển về thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và
thể lực. Chính vì vậy, việc sử dụng âm nhạc trong giáo dục trẻ mầm non là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Âm nhạc ảnh hưởng đến quá trình hồn thiện cơ thể trẻ. Trước hết, âm nhạc
được coi là phương tiện hữu hiệu để phát triển tai nghe cho trẻ. Tính chất đa dạng
của âm nhạc gợi ra những phản ứng gắn với sự thay đổi nhịp tim mạch, sự trao đổi
máu. Vì vậy, giáo dục âm nhạc đối với trẻ mầm non là vô cùng cần thiết, đòi hỏi
3
người giáo viên phải có trình độ chun mơn, u nghề. Trong quá trình dạy và học,
cần cho trẻ làm quen với tất cả các hoạt động âm nhạc, với các thể loại trong âm
nhạc góp phần giáo dục và định hướng thị hiếu âm nhạc lành mạnh cho trẻ.
Trong chương trình giáo dục mầm non, âm nhạc là một lĩnh vực nghệ thuật hết sức
gần gũi với trẻ, là hoạt động được trẻ yêu thích, là nguồn cảm hứng mạnh mẽ để trẻ
cảm thụ nghệ thuật. Nó là một phương tiện hữu hiệu cho việc tổ chức các hoạt động
giáo dục ở trường. Âm nhạc và vận động sáng tạo khi được giáo viên Mầm non sử
dụng một cách có có mục đích, phù hợp sáng tạo sẽ hỗ trợ trẻ thu nhận kinh nghiệm
tích cực và tạo cảm giác hưng phấn, vui tươi. Ý thức rõ vai trò của việc sử dụng âm
nhạc trong giáo dục trẻ mầm non cho nên hoạt động học có chủ đích "Giáo dục âm
nhạc" đã trở thành một hoạt động không thể thiếu được trong trường lớp Mầm non.
Nhưng đối với đặc điểm của lứa tuổi mẫu giáo, việc sử dụng âm nhạc trong giáo
dục trẻ không chỉ dừng lại ở việc cô dạy trẻ hát và múa đơn giản mà phải tổ chức
hát, múa dưới nhiều hình thức và ln đi cùng với đồ dùng, đồ chơi âm nhạc. Bên
cạnh đó, hoạt động âm nhạc luôn được thực hiện phù hợp với chế độ sinh hoạt cả
ngày ở trường của trẻ có ý nghĩa lớn như: Âm nhạc được tích hợp trong làm quen
văn học, làm quen chữ viết, hoạt động tạo hình, làm quen với tốn, thể dục buổi
sáng...
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trẻ được nghe nhạc cổ điển từ trong bào
thai sẽ kích thích sóng điện não giúp não phát triển tăng trí thơng minh sau này. Và
đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non Âm nhạc là mơn học giúp trẻ phát triển tồn diện
nhất. Và thông qua Âmnhạc trẻ sẽ linh họat, mạnh dạn, thông minh qua việc sáng
tạo các động tác minh họa kết hợp khi hát và rèn luyện cho trẻ, khi vận động theo
nhạc sẽ thúc đấy sự vận động cơ thể, sự nhanh nhẹn khéo léo, bền bỉ và dẻo dai qua
các động tác.
Việc sử dụng âm nhạc là một hoạt động nghệ thuật có tác dụng giáo dục thẩm
mỹ ngồi ra nó cịn giúp trẻ phát triển trí tuệ, trẻ có khả năng trải nghiệm những
cảm xúc trong quá trìnhcảm thụ và thể hiện âm nhạc: Khi nghe nhạc, trẻ cảm nhận
được tính chất, tình cảm của âm nhạc, ảnh hưởng những trạng thái cảm xúc có trong
4
tác phẩm. Đồng thời âm nhạc cũng dẫn dắt trẻ đến với những hiện tượng sống động
của đời sống, giúp trẻ hình thành sự liên tưởng. Nhịp điệu rắn rỏi của bản hành khúc
gợi cho trẻ niềm vui, hào hứng phấn khởi... Bài hát êm dịu đưa trẻ đến tình cảm cảm
nhẹ nhàng.....Ngồi ra âm nhạc cịn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, phát triển tai nghe
và cảm xúc cho trẻ. Việc sử dụng âm nhạc mang tính quyết định trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục mầm non.
Thực trạng việc sử dụng âm nhạc ở trường mầm non còn nhiều hạn chế. Trẻ
mầm non không thể học tập âm nhạc giống như người lớn do sự tập trung chú ý
chưa bền. Sự hình thành ý niệm, biểu tượng ở trẻ cần phải nhắc lại một số lần. Đôi
khi mệnh lệnh, ép buộc, khuôn mẫu của giáo viên không những khơng mang lại
hiệu quả mà cịn khiến trẻ thờ ơ, khơng xúc động hoặc thậm chí dẫn đến chán ghét
âm nhạc….Việc tổ chức hoạt động âm nhạc còn chưa hợp lý như: giáo viên chưa sử
dụng đàn organ, piano…trong hoạt động giáo dục. Khi dạy hát cho trẻ, cô chưa nắm
bắt được quãng giọng của trẻ dẫn đến chất lượng âm thanh không vang sáng và
đẹp.…dẫn đến chất lượng giáo dục âm nhạc chưa cao. Vậy làm thế nào để sử dụng
âm nhạc trong giáo dục tạo được những tác động tích cực, mang lại lợi ích sâu sắc
và lâu dài đối với trẻ.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Thực trạng sử dụng âm nhạc trong giáo
dục cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của việc sử dụng âm nhạc trong giáo
dục mầm non. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm sử dụng tác phẩm âm nhạc
trong giáo dục trẻ, góp phần phát triển tồn diện nhân cách cho trẻmầm non.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu.
3.1.
Khách thể nghiên cứu
Quá trình tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường mầm non.
3.2.
Đối tƣợng nghiên cứu.
Thực trang việc sử dụng âm nhạc trong việc giáo dục trẻ 5- 6 tuổi
5
4. Giả thuyết khoa học
Âm nhạc có vai trị quan trọng trong việc giáo dục, giúp trẻ phát triển toàn diện
về cả 5 mặt: đạo đức, nhận thức, thẩm mĩ, thể chất và lao động. Nếu giáo viên biết
tuyển chọn các tác phẩm phù hợp và tiến hành tổ chức giáo dục hợp lí ….sẽ góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục âm nhạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc sử dụng âm nhạc trong giáo dục trẻ mầm
non.
5.2. Nghiên cứu thực tiễn việc sử dụng âm nhạc trong giáo dục trẻ 5 – 6 tuổi ở
trường mầm non. Từ đó khuyến nghị một số biện pháp sử dụng âm nhạc trong giáo
dục trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc sử dụng âm nhạc trong giáo dục trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm
non Hoa Phượng Đỏ và Trường Mầm non Sen Hồng
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1.
Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết
Tổng hợp, tham khảo, phân tích một số tài liệu, sách báo, giáo trình về việc sử
dụng âm nhạc trong giáo dục mầm non để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đề tài.
7.2.
Phƣơng pháp thực hành
7.2.1.
Phƣơng pháp quan sát sƣ phạm
Dự giờ quan sát quá trình tổ chức hoạt động âm nhạc trong việc giáo dục trẻ 5 –
6 tuổi ử trường mầm non.
7.2.2.
Phƣơng pháp đàm thoại
Trao đổi với giáo viên tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn việc sử dụng âm
nhạc trong giáo dục trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
7.2.3.
Phƣơng pháp điều tra bằng Anket
Sử dụng phiếu thăm dò, điều tra ý kiến của các giáo viên ở các Trường Mầm
non trong Thành phố Đà Nẵng về việc xây dựng hệ thống bài tập đo về việc sử dụng
âm nhạc trong giáo dục trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
6
7.2.4.
Phƣơng pháp thống kê tốn học
Sử dụng các cơng thức thống kê toán học để xử lý số liệu đã thu thập được
trong thực tế khi tiến hành nghiên cứu
7
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.
Trên thế giới
Những thí nghiệm sớm nhất về tác động của âm nhạc lên não người được tiến
hành từ năm 1988, khi nhà sinh học thần kinh Gordon Shaw cùng học trị thử mơ
hình hóa hoạt động của não trên máy tính tại Đại học California ở Irvine. Dưới dạng
mô phỏng, họ thấy rằng các tế bào não được kết nối với nhau thiên về những nhóm
có những kiểu lóe sáng và nhịp điệu đặc thù nhất định.
Shaw phỏng đốn rằng những kiểu lóe sáng này là sự trao đổi cơ bản của hoạt
động não. Do tò mò, họ quyết định biến đổi những tín hiệu đầu ra trong thí nghiệm
mơ phỏng thành âm thanh thay vì in ra như thường lệ. Thật ngạc nhiên, những kiểu
nhịp điệu như vậy nghe khá giống âm nhạc thời đại mới, hay nhạc phương Đông,
với một chút sắc thái baroque.
Nghiên cứu các tác dụng của âm nhạc đối với học hành có những bước tiến
trong hàng thập kỷ qua. Khi nghiên cứu về nhạc Mozart trong giáo dục, người ta đã
thấy rằng việc nghe nhạc Mozart có thể tạm thời nâng cao hiệu quả làm việc và cả
IQ.Sau một cuộc kiểm tra IQ được tiến hành tại Mỹ, các nhà khoa học nước này đã
cho biết: nhóm học sinh được thư giãn bằng bản sonata K488 của Mozart có kết quả
trắc nghiệm IQ trung bình cao hơn nhóm khác từ 9 đến 10 điểm. Tốc độ hoạt động
não và nhiều hoạt động khác của trẻ được nghe nhạc Mozart trở nên nhanh nhạy
hơn, năng động hơn bình thường.
Hay như kết quả một cuộc thử nghiệm mới của các nhà khoa học về tác động
của bản sonata K448 đối với 60 bệnh nhân tại Trường đại học Y dược Sao Paolo đã
hé mở những khả năng về việc vùng não kiểm soát chức năng thị giác của con
người được tăng cường tốc độ phân tích, và xử lý hình ảnh với độ chính xác cao.
Những người tham gia cuộc thử nghiệm đã được “thưởng thức” những bản sonata
soạn cho 2 piano của Mozart tại một phịng kín trong 10 phút. Sau đó, họ bắt đầu
8
các cuộc kiểm tra sự phối hợp chức năng của thị lực và não bộ. Q trình xử lý
thơng tin diễn ra rất nhanh và chính xác ở vùng não chức năng.
Và khơng thể phủ nhận được một điều, đó là khi các bài học âm nhạc được
giảng dạy một cách đều đặn sẽ giúp trẻ vượt qua được hầu hết các tiêu chí kiểm tra
– bao gồm cả kết quả học vấn nói chung. Một nhóm nghiên cứu Canada từ trường
Đại học McMaster đã so sánh 2 nhóm bao gồm 6 trẻ từ độ tuổi 4 đến 6 tuổi; một
nhóm học các lớp học âm nhạc và nhóm cịn lại không được học. Kết quả đã được
xuất bản trên tạp chí Khối óc (Brain) vào ngày 20 tháng 9 năm 2006, đó là trẻ được
học nhạc vượt trội hơn so với trẻ đồng lứa trong khả năng ghi nhớ cũng như các khả
năng không liên quan đến âm nhạc như văn học, toán học và cả IQ.
Nghiên cứu do Bộ Giáo Dục Mỹ thực hiện trong 10 năm, với khoảng 25.000 trẻ
em. Cuộc nghiên cứu cho thấy các môn nghệ thuật, nhất là âm nhạc, đã giúp các em
có những tiến bộ rõ rệt trong các mơn tốn, lịch sử, địa lý… Nghiên cứu mới nhất
của Anne Blood và các đồng nghiệp ở Viện thần kinh trường Đại học Mc Gill
(Montréal – Canada) khám phá ra rằng, những vùng trong não chịu sự tác động của
âm nhạc rất khác so với quá trình cảm xúc và nhận thức đã biết. Họ xác nhận sở
thích âm nhạc cũng có chỗ đứng trong não, bằng kỹ thuật chụp ảnh, người ta ghi
nhận những vùng chịu sự tác động của âm nhạc nằm phần lớn ở bán cầu não phải,
phần giầu cảm xúc nhất và chiếm một vị trí riêng biệt trong vùng dành cho sự thể
hiện các cảm xúc.
1.1.2.
Ở trong nƣớc
Tuy việc tiếp xúc với âm nhạc có chậm hơn so với các nước phát triển ở
phương Tây, nhưng Việt Nam vẫn không ngừng nghiên cứu để ứng dụng những
thành tựu khoa học của các nhà nghiên cứu vềâm nhạc trên thế giới trong lĩnh vực
giáo dục nói chung và giáo dục trẻ mầm non nói riêng. Và âm nhạc đã trở thành một
môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ mầm non đến Trung học Cơ
sở nhằm sử dụng âm nhạc như một phương tiện hữu hiệu trong hình thành và phát
triển nhân cách tồn diện cho học sinh. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục
nghiên cứu để xây dựng chương trình âm nhạc cho bậc Trung học Phổ thông nhằm
9
hình thành một hệ thống trong giáo dục nghệ thuật.Như vậy có thể thấy rằng, âm
nhạc có một vai trị nhất định trong giáo dục.
Đối với giáo dục mầm non,âm nhạc là một trong những hoạt động được trẻ yêu
thích. Nó là nguồn cảm hứng mạnh mẽ để trẻ thỏa mãn nhu cầu xúc cảm nghệ thuật.
Do đó, âm nhạc được sử dụng thường xuyên cùng với các hoạt động khác ở trường
mầm non như hoạt động học tập, hoạt động vui chơi hay trong sinh hoạt... Vì vậy,
các tài liệu và giáo trình của các tác giả như Phạm Thị Hịa, Ngơ Thị Nam, Trần
Minh Trí, Trần Ngun Hồn đã đề cập đến vấn đề giáo dục âm nhạc một cách khái
quát.
Cụ thể, giáo trình “Giáo dục âm nhạc tập 2” (Phương pháp giáo dục âm nhạc
trong trường Mầm non) do tác giả Phạm Thị Hòa biên soạn nhằm đáp ứng nhu cầu
giảng dạy và học tập của môn học, trang bị cho giáo viên mầm non có kiến thức, cơ
sở lí luận và phương pháp giáo dục âm nhạc. Nội dung chủ yếu đề cập đến phương
pháp dạy các hoạt động ca hát, vận động theo nhạc, nghe hát, trị chơi âm nhạc ở
trường Mầm non. Ngồi việc nghiên cứu cơ sở lí luận của phương pháp giáo dục
âm nhạc, giáo trình cịn đề cập đến những đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi Mầm non
liên quan đến hoạt động âm nhạc, các hình thức tổ chức giáo dục âm nhạc trong
trường Mầm non, những vấn đề đổi mới hiện nay trong giáo dục âm nhạc.
Giáo trình “Âm nhạc và phương pháp giáo dục âm nhạc”(tập 2) do PTS.
Ngơ Thị Nam - Trần Minh Trí - Trần Ngun Hoàn biên soạn (Bộ GD- ĐT, Trung
tâm nghiên cứu giáo viên) cũng chỉ đề cập đến một số nội dung như: Phương pháp
và kĩ thuật ca hát; Múa cơ bản; Phương pháp giáo dục âm nhạc ở nhà trẻ và mẫu
giáo.
- Hay trong cuốn “Bồi dưỡng âm nhạc cho giáo viên Mầm non”(NXB Giáo
dục) của tác giả Hoàng Văn Yến cũng bàn đến một số vấn đề như: Vị trí của ca hát
trong chương trình giáo dục âm nhạc, phương pháp dạy trẻ ca hát…
Các sách chăm sóc- giáo dục trẻ mầm non như“Tổ chức hoạt động âm nhạc cho
trẻ mầm non theo hướng tích hợp chủ đề” do Viện chiến lược và chương trình giáo
10
dục- Trung tâm nghiên cứu chiến lược và phát triển chương trình giáo dục mầm non
đã nói đến phương pháp hướng dẫn trẻ hát ở các giai đoạn lứa tuổi....
Nhìn chung các giáo trình và tài liệu trên chỉ mới đề cập đến phương pháp cũng
như các vấn đề liên quan đến giáo dục âm nhạc ở những khía cạnh khác nhau, mang
tính chất khái quát. Song đi vào nghiên cứu sử dụng âm nhạc cho trẻ mẫu giáo nói
chung và trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng cịn khá ít các cơng trình. Và đây là hướng
mới để chúng tơi đi sâu nghiên cứu. Hy vọng nó thực sự sẽ là một viên gạch quý
góp phần vào việc cụ thể hóa mục tiêu của giáo dục âm nhạc ở bậc học mầm non
hiện nay.
1.2.
Khái quát về âm nhạc trong giáo dục mầm non
1.2.1.
Khái niệm về âm nhạc
Âm nhạc là bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh (chất giọng) để diễn đạt. Các yếu
tố chính của nó là cao độ (điều chỉnh giai điệu), điệu, âm điệu và những phẩm chất
âm thanh của âm sắc và kết cấu bản nhạc.
Âm nhạc nảy sinh trong quá trình lao động, những chứng cớ và những di tích
của nhà khảo cổ cho thấy âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật vốn xuất hiện từ rất lâu
đời. Âm nhạc phản ánh mọi hoạt động của con người từ khi chào đời cho tới khi
vĩnh biệt cuộc sống. Âm nhạc còn hỗ trợ trở lại để con người sản xuất và sáng tạo.
Do vậy âm nhạc tồn tại trong mọi thời đại và ở mọi dân tộc khác nhau trên trái đất.
Âm nhạc là một trong những hình thái của ý thức xã hội, phụ thuộc vào quy luật
chung của tự nhiên. Âm nhạc có ngơn ngữ riêng mà đặc trưng của ngơn ngữ ấy dựa
trên hai yếu tố cơ bản là giai điệu và tiết tấu.
1.2.2.
Vai trò của âm nhạc trong giáo dục mầm non
Đối với trẻ thơ, âm nhạc là nguồn sữa ni dưỡng thế giới tinh thần và có vai
trị quan trọng trong giai đoạn phát triển ở trường MN.
Nhiều công trình nghiên cứu khoa học về con người đã khẳng định rằng: Từ
thời kì sơ sinh đến mười tuổi là thời gian tốt nhất cho sự phát triển năng khiếu.
Những ấn tượng đẹp đẽ theo trẻ trong suốt cuộc đời mà âm nhạc là một nghệ thuật
có sức lơi cuốn mạnh mẽ nhất. Nhà sư phạm Xu –khôm –lin-xki đã tổng kết: “Tuổi
11
thơ âú không thể thiếu âm nhạc cũng như không thể thiếu trị chơi và truyện cổ tích,
thiếu những cái đó, trẻ em chỉ cịn là những bơng hoa khơ héo…âm nhạc dẫn dắt
trẻ đi vào thế giới của điều thiện, tạo ra được sự đồng cảm và là một phương tiện
bồi dưỡng năng lực sáng tạo của trí tuệ mà không một phương tiện nào sánh
được”.
a. Âm nhạc là phƣơng tiện giáo dục thẩm mĩ
Nhà sư phạm đồng thời là nhà lí luận mĩ học âm nhạc Nga-Xơkhor đã nói đến
quan niệm của Sêkhơp-nhà văn Nga vĩ đại về thẩm mĩ của âm nhạc: “Âm nhạc, nhờ
sự thi vị có thể với một sức mạnh đặc biệt làm cho con người hăng hái lên, đồng
thời cũng nhấn mạnh tình trạng thiếu thốn một cái đẹp thực sự trong cuộc đời của
người ấy”.
Âm nhạc là một trong các bộ môn nghệ thuật giáo dục cái đẹp cho trẻ. Lời ca,
giai điệu của bài hát, bản nhạc giúp trẻ tưởng tượng, học nói lên cảm xúc của mình,
trẻ thấy được mình có thể diễn tả được những ý nghĩ, những mơ ước, những cảm
xúc mạnh mẽ. Điều quan trọng của giáo dục âm nhạc không phải là dạy trẻ hát
chuẩn xác mà trẻ phải được tham gia vào các hoạt động âm nhạc như: nghe hát, vận
động theo nhạc…Nếu được tiếp xúc với âm nhạc ở một chừng mực nào đó trẻ sẽ
nhận xét, trao đổi sự cảm nhận của ý nghĩa lời ca, âm điệu, tiết tấu…Đó chính là ý
nghĩa của giáo dục thẩm mĩ. Bài hát là phương tiện để giáo dục trẻ nhiều mặt. Do
đó các bài hát giản dị, có tính nghệ thuật, phù hợp với lứa tuổi sẽ hình thành ở trẻ
thị hiếu âm nhạc trong sáng lành mạnh, là cơ sở của tình cảm thẩm mĩ, đạo đức tốt
đẹp.
Những hình ảnh mang biểu trưng về cái đẹp được thể hiện rõ trong các bài: Con
chim non, Cá vàng bơi, Con gà trống, Cháu yêu bà….Những hình ảnh này đã ni
dưỡng cho tâm hồn trẻ những nhận thức về cái đẹp. Từ nhận thức cái đẹp một cách
khách quan đi vào chiều thế giới chủ quan của trẻ.
Bên cạnh đó âm nhạc cịn giáo dục tình cảm thẩm mĩ cho trẻ như: cái đẹp về
cách ứng xử, giao tiếp với ông bà, cha mẹ, cô giáo, bạn bè và mọi người xung
12
quanh. Âm nhạc dẫn dắt trẻ đến với những hiện tượng sống động của đời sống, giúp
trẻ hình thành sự liên tưởng.
Ví dụ: Qua bài hát “Lá xanh” của Thái Cơ. Trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của cây
cối, thiên nhiên nơi đó có những chú ong, bướm nơ đùa với lá cây. Gió xào xạc làm
rung những cành lá như vẫy gọi các em nhanh chân đến trường Mầm non.
Chính vì thế, giáo dục tình cảm thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động âm nhạc
trong trường MN sẽ làm phong phú thêm đời sống tinh thần của trẻ, giúp trẻ cảm
thụ cái đẹp đồng thời tạo niềm tin tưởng trong các cháu.
b. Âm nhạc là phƣơng tiện giáo dục đạo đức
Âm nhạc có vai trị quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Đại văn hào
M.Go-rơ-ki từng nhận xét: “Âm nhạc tác động một cách kì diệu đến tận đáy lịng.
Nó khám phá ra cái phẩm chất cao quí nhất ở con người”.
Lời ca của âm nhạc giàu tính biểu hiện và chất trữ tình. Nội dung lời ca phong
phú trong bài hát giúp trẻ phát hiện vẻ đẹp trong thiên nhiên, sự ngộ nghĩnh đáng
yêu của các con vật quen thuộc….từ đó gợi mở cho trẻ về cách ứng xử trong cuộc
sống.
Ngoài ra những bài dân ca, đồng dao khác nhau của các dân tộc Việt Nam sẽ
cho trẻ hiểu biết về bản sắc dân tộc, cho trẻ cảm xúc trữ tình, lịng tự hào dân tộc.
Các tác phẩm âm nhạc ca ngợi thiên nhiên, đất nước, con người…gợi ở trẻ tình
u thủ đơ, u Tổ quốc, lòng biết ơn đối với những người cống hiến cho đất nước,
cho nhân dân.
Bên cạnh đó việc cho trẻ làm quen với những giai diệu, tiết tấu của các tác
phẩm âm nhạc nước ngồi khơng chỉ giúp trẻ mở mang sự hiểu biết về các dân tộc
khác mà cịn nhen nhóm trong lịng trẻ thơ tình hữu nghị quốc tế.
Đa số các hoạt động âm nhạc ở trường MN đều được tổ chức với từng nhóm trẻ
theo độ tuổi, trong khi cùng hát cùng múa, cùng chơi trò chơi âm nhạc giữa trẻ cũng
xuất hiện sự cảm thông, quan tâm hơn đến nhau đồng thời hoạt động âm nhạc cịn
ảnh hưởng đến văn hố chung hành vi của trẻ. Sự thay đổi, luân phiên các dạng hoạt
13
động âm nhạc đòi hỏi ở trẻ sự chú ý, độ nhanh nhạy, tính tổ chức, giáo dục ở trẻ sự
kiềm chế, điều khiển vận động cho phù hợp với âm nhạc, giáo dục ý chí…
Chính vì thế, A.Xơkhor đã từng viết “Để sử dụng âm nhạc như một phương
tiện giáo dục đạo đức: khi tác động đến con người, nó thức tỉnh một cách đặc biệt
mạnh mẽ trong người ấy tất cả những gì là tốt đẹp, tìm được sự hưởng ứng trong
những khía cạnh ưu tú nhất của tâm hồn người ấy. Chính khả năng ấy của âm nhạc
làm cho tính tình dịu hơn và tốt hơn, làm cho con người cao đẹp hơn, trong sạch
hơn và nhân hâụ hơn”.
Từ những vấn đề nêu trên cho chúng ta thấy hoạt động âm nhạc tạo ra những
điều kiện cần thiết đối với sự hình thành những phẩm chất đạo đức của nhân cách
trẻ, đặt những cơ sở ban đầu cho văn hố chung của người cơng dân tương lai.
c. Âm nhạc là phƣơng tiện thúc đẩy sự phát triển trí tuệ
Tiến sĩ Hovard Gardner, giáo sư trường Đại học Harvard nghiên cứu lí thuyết
về các trí thơng minh đa diện cho rằng, thông minh âm nhạc là một trong rất nhiều
trí thơng minh ban đầu của con người.
Bên cạnh đó, theo các nghiên cứu về thần kinh học cho thấy rằng sự tiếp xúc
với âm nhạc có thể thiết lập được phản xạ có điều kiện trên nửa phải của đại não,
đồng thời thúc đẩy trí lực của bán cầu trái phát triển khả năng nhận thức và các kĩ
năng lập luận phức tạp.
Ở trẻ mẫu giáo, các hình thức tư duy trực quan hành động, tư duy hình tượng và
tư duy trừu tượng được biểu hiện trong bất kì hoạt động nào, trong đó có âm nhạc.
Tiếp xúc với âm nhạc, đứa trẻ dần dần có khả năng tổng hợp cùng với tư duy logic.
Trước hết, âm nhạc giúp trẻ phát triển trí nhớ. Như chúng ta đã biết đặc điểm
của trẻ là ghi nhớ âm nhạc bằng tai nghe dựa vào nhạc cảm. Trong quá trình hoạt
động học tập, trí nhớ khơng có khả năng nhắc lại tồn bộ ngay mà phải qua q
trình rèn luyện dần. Chính vì vậy, khi tập hát, giáo viên nên gợi mở, giúp trẻ nhận
thức và trên cơ sở ấy trí nhớ ngày càng phát triển. Tính tích cực và sự tập trung chú
ý trong giờ học hát giữ vai trò quan trọng trong việc cũng cố và phát triển trí nhớ
cho trẻ.
14
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, âm nhạc có ý nghĩa nhận thức. Nhiều
hiện tượng của đời sống được phản ánh trong tác phẩm âm nhạc, làm phong phú
thêm vốn hiểu biết của trẻ bằng những khái niệm về xã hội, về thiên nhiên, về
truyền thống. Trong khi tập hát, trẻ không chỉ tiếp thu đường nét giai điệu, tiết tấu
âm nhạc, lời ca giản dị, dễ hiểu mà cịn giúp trẻ phát triển ngơn ngữ. Các dạng hoạt
động âm nhạc ở nhà trẻ và mẫu giáo, tùy theo đặc điểm lứa tuổi, thông qua các bài
tập ngày một khó dần, phức tạp hơn…địi hỏi trẻ phải tích cực tư duy, sáng tạo,
tưởng tượng. Như vậy, giáo dục âm nhạc thực hiện nhiều nhiệm vụ thúc đẩy hoạt
động trí tuệ.
d. Âm nhạc là phƣơng tiện góp phần phát triển thể chất cho trẻ
Âm nhạc có ảnh hưởng đến q trình hồn thiện cơ thể trẻ. Trước hết, nó được
coi là khả năng tốt nhất để phát triển tai nghe. Tính chất đa dạng của âm nhạc gợi ra
những phản ứng gắn với sự thay đổi nhịp tim, mạch, sự trao đổi máu, hô hấp, giản
nở cơ…
Vận động theo nhạc giúp trẻ tập phối hợp các động tác đi, chạy, nhảy chính
xác, tác phong nhanh nhẹn. Vận động tồn thân khi có nhạc kèm theo tạo cho trẻ sự
mềm dẻo nhịp nhàng, có ảnh hưởng tốt đến tim mạch và sự phát triển cơ. Nếu nghe
nhạc đúng mức và phù hợp sẽ làm thư giãn thần kinh, kích thích óc sáng tạo.
Hoạt động ca hát cũng gắn với sự phát triển sinh lí trẻ, đẩy mạnh chức năng
hoạt động các cơ quan phát thanh, hô hấp, làm cho giọng trẻ tốt lên, tạo điều kiện
rèn luyện sự phối hợp giữa nghe và hát. Hát còn ảnh hưởng đến tư thế của trẻ: khi
học hát, trẻ luôn được nhắc nhở phải ngồi thẳng, đứng thẳng, khơng gù, đó là điều
quan trọng để tạo tư thế đúng, tạo điều kiện điều hịa hoạt động hơ hấp, thở sâu hơn,
tạo cho trẻ có dáng dấp uyển chuyển, phong thái đẹp.
Như vậy, phản ứng cơ thể đối với âm nhạc chịu sự chi phối của tác động cảm
xúc tâm lí của âm nhạc ở mức cao hơn nhiều so với tác động sinh lí trực tiếp
Từ những vai trị trên, cho chúng ta thấy rằng: giáo dục âm nhạc là một trong
những con đường hồn thiện đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể chất. Mối liên hệ giữa
tất cả các mặt của giáo dục, thể hiện trong các dạng và các hình thức phong phú của
15
hoạt động âm nhạc. Sự nhạy cảm và tai nghe âm nhạc phát triển trong những mức
độ phù hợp sẽ giúp trẻ hưởng ứng với những tình cảm và hành vi tốt đẹp, đẩy mạnh
hoạt động trí tuệ, thường xuyên hồn thiện mọi vận động, thể chất cho trẻ. Vì vậy,
việc nhận thức đúng đắn và sâu sắc tác dụng giáo dục toàn diện của âm nhạc đối với
trẻ của những người làm công tác giáo dục là rất cần thiết. Vì như nhà sư phạm
V.Xu-Khơm-lin-xki đã từng đánh giá rất cao hiệu quả giáo dục toàn diện của âm
nhạc:
“Chất lượng công việc giáo dục trong một nhà trường được xác định phần lớn
bởi mức độ hoạt động âm nhạc trong hoạt động của nhà trường đó”.
Thơng qua những vai trò của việc sử dụng âm nhạc trong giáo dục toàn diện
nhân cách cho trẻ, nhà trường và giáo viên mầm non bước đầu nên cho các cháu
làm quen, tiếp xúc với âm nhạc để các cháu bộc lộ rõ năng khiếu âm nhạc.
1.2.3.
Thể loại âm nhạc trong giáo dục mầm non
Âm nhạc là bộ môn nghệ thuật sử dụng âm thanh làm phương tiện biểu hiện để
khắc họa cuộc sống và thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người. Âm nhạc bao
gồm hai thể loại, thanh nhạc và khí nhạc.
a. Thanh nhạc: Là những bản nhạc có lời do giọng hát biểu diễn.
Trong âm nhạc, thanh nhạc được chia thành các loại khác nhau. Các bài hát dân
ca cũng như các ca khúc sáng tác được chia thành nhiều loại. Cách phân chia có thể
dựa vào nội dung, tính chất thể hiện của phương tiện biểu hiện âm nhạc như giai
điệu, tiết tấu, nhịp điệu…hoặc có khi căn cứ vào lời và cả cấu trúc của tác phẩm.
Chính vì như vậy nên sẽ có nhiều thể loại bài hát khác nhau như: hành khúc, chính
ca, trường ca, liên khúc…. [34, tr142]. Tuy nhiên những bài hát trong giáo dục mầm
non gồm bốn thể loại. [17].
Bài hát hành khúc: Là những bài ở nhịp độ vừa phải, phù hợp với bước đi.
Âm điệu thường xuất hiện nhiều quãng 4, quãng 5, kèm theo trường độ của các âm
thể hiện những nốt có chấm dơi để thể hiện tính chất khoẻ khoắn hoặc mang tính
hiệu triệu, kêu gọi.
16
Ví dụ: Đội kèn tí hon - Phan Huỳnh Điểu; Làm chú bộ đội - Hoàng Long; Đi
một hai - Đoàn Phi;Chú bộ đội - Hoàng Hà…
Bài hát trữ tình: Là những bài hát mang tính chất mềm mại, uyển chuyển
trong giai điệu. Nội dung trong tác phẩm có thể là ca ngợi thiên nhiên, làng quê, vẻ
đẹp trong lao động, ca ngợi tình u nói chung. Ở những bài hát này lối tiến hành
giai điệu ít những quãng nhảy xa, thường đi liền bậc hoặc lượn sóng, nhiều nốt
luyến láy khiến giai điệu mềm mại, du dương. Cách tiến hành tiết tấu thường là dàn
trải, tự do để cùng với giai điệu tơ đượm thêm tính chất nhẹ nhàng của nó.
Con cị cánh trắng- Xn Giao;Cị lả - Dân ca đồng bằng Bắc Bộ; Lượn tròn
lượn khéo - Văn Chung; Em đi trong tươi xanh - Vũ Thanh….
Bài hát ru: Là những bài có nhịp độ chậm, vừa phảỉ. Giai điệu được tiến
hành liền bậc, không dùng những quãng nhảy liên tục, những nốt biến âm đột ngột;
tiết tấu nhịp nhàng, uyển chuyển có tính chu kì hoặc tự do.
Ví dụ: Ru em - Hồng Kim Định; Khúc hát ru của người mẹ trẻ - Phạm Tuyên;
Mẹ yêu con - Nguyễn Văn Tý; Lời ru trên nương - Trần Hoàn; Ru con - Dân ca
Nam Bộ; Hát ru - Dân ca đồng bằng Bắc Bộ; Ru em - Dân ca Xê Đăng…
Bài hát vui nhộn: Ở thể loại này, bản thân phần lời đã thể hiện được nội
dung, bên cạnh đó giai điệu có những quãng nhảy bất ngờ, hoặc tiết tấu dùng những
phách đảo gây sự "hẫng" đột ngột trong chu kì bình thường của nhịp điệu.
Những bài hát vui nhộn trong giáo dục mầm non phải kể tới các bài: Vườn
trường mùa thu - Cao Minh Khanh; Đu quay - Mộng Lân; Em đi chơi thuyền - Trần
Kiết Tường; Đường và chân - Hoàng Long; Em u cây xanh - Hồng Văn Yến; Hị
ba lí - Dân ca Quảng Nam; Trống cơm - Dân ca Quan họ Bắc Ninh…
b. Khí nhạc: Là những tác phẩm âm nhạc không lời, do các nhạc cụ diễn tấu.
Khí nhạc cũng gồm nhiều thể loại phong phú, đó là:
Symphony (nhạc giao hưởng): Là thể loại nhạc viết cho "đại dàn nhạc" (vài
chục đến vài trăm người), nhằm khai thác sự phong phú về âm sắc và cường độ âm
thanh của dàn nhạc cổ điển, thường dài khoảng 20 - 45 phút và có 4 chương.
17
Concerto: Là tác phẩm viết cho một hay một nhóm nhạc cụ diễn tấu với dàn
nhạc, kết hợp nghệ thuật biểu cảm và trình độ kỹ thuật điêu luyện của nghệ sĩ solo
với sự phong phú về âm sắc và cường độ âm thanh của dàn nhạc. Giống như
symphony, bản concerto dài khoảng 20 – 45 phút, có từ 1-5 chương nhưng phổ biến
nhất là có 3 chương: chương đầu thường là dài nhất và kịch tính nhất, chương giữa
chậm nhất và tình cảm nhất, chương cuối ngắn nhất và vui tươi nhất.
Sonata: Là các tác phẩm khí nhạc có thể có một hoặc nhiều chương, viết cho
1 hay 2, hoặc đơi khi là 3 nhạc khí thể hiện.
Serenade: Là một tác phẩm viết cho hòa tấu khí nhạc quy mơ lớn ở nhiều
chương. Hịa tấu điển hình nhất cho một serenade là một hịa tấu nhạc cụ hơi cùng
với bass và viola. Những serenade thường bắt đầu và kết thúc bằng những chương
nhạc mang tính chất hành khúc
Nocturne: Là để chỉ tác phẩm âm nhạc có 1 chương duy nhất, chủ yếu dành
cho đàn piano độc tấu
1.2.4.
Nội dung, chủ đề các tác phẩm âm nhạc trong giáo dục mầm non
Âm nhạc trong chương trình giáo dục mầm non có nội dung phản ánh 9 hoặc 10
chủ đề. Đó là các chủ đề: Trường mầm non; Bản thân; Gia đình; Nghề nghiệp; Thế
giới động vật; Thế giới thực vật; Giao thông; Nước và các hiện tượng tự nhiên; Quê
hương - Thủ đô– Bác Hồ và Trường tiểu học (dành cho trẻ 5-6 tuổi).Chủ đề, nội
dung của các tác phẩm thể hiện tình yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên cỏ
cây, yêu những người thân trong gia đình, q trọng và biết ơn những người có
cơng với đất nước...., và thơng qua đó để hồn thiện nhân cách trẻ.
1.3.
Sử dụng âm nhạc trong giáo dục trẻ 5-6 tuổi ở trƣờng mầm non
1.3.1.
Khái niệm
a. Sử dụng: Là cách dùng một đối tượng vào trong một hoàn cảnh cụ thể, rõ
ràng nhằm làm phương tiện để phục vụ nhu cầu, mục đích nào đó.
b. Giáo dục
Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây là một từ
gốc Latin đượcghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”. Có nghĩa là dẫn
18
(“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để vươn tới những gì hồn
thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn.
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày “Giáo dục
là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài người”. Định nghĩa này nhấn mạnh về sự
truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, nhưng khơng
đề cập đến mục đích sâu xa hơn, mục đích cuối cùng của việc đó.
Theo ơng John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và nhà cải
cách giáo dục người Mỹ, ông cho rằng cá nhân con người không bao giờ vượt qua
được quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến thức, kinh nghiệm mà
cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại đòi hỏi phải
những kiến thức, kinh nghiệm của con người phải vượt qua được sự khống chế của
sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài
người để đảm bảo tồn tại xã hội. Ngồi ra, ơng John Dewey cũng cho rằng, xã hội
không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, nhưng cịn tồn tại chính trong q trình truyền dạy
ấy. Như vậy, theo quan điểm của ông John Dewey, ông cũng đề cập đến việc truyền
đạt, nhưng ông nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục, là dạy dỗ.
Như vậy, có thể kết luận rằng, “giáo dục” là sự hoàn thiện của mỗi cá nhân, đây
cũng là mục tiêu sâu xa của giáo dục; người giáo dục, hay có thể gọi là thế hệ trước,
có nghĩa vụ phải dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho thế hệ sau tất cả những
gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hồn thiện hơn.Với ý nghĩa
đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội lồi người mới hình thành, do nhu cầu của xã
hội và trở thành một yếu tố cơ bản để làm phát triển loài người, phát triển xã hội.
Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào mục đích phát triển
con người và phát triển xã hội.
Giáo dục ban đầu được thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp ngay trong lao
động và trong cuộc sống, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng phát triển lên,
kinh nghiệm xã hội được đúc kết nhiều hơn, yêu cầu của xã hội đối với con người
ngày càng cao hơn, các loại hình hoạt động xã hội ngày càng mở rộng hơn thì giáo
19
dục theo phương hướng trực tiếp khơng cịn phù hợp mà địi hỏi phải có một
phương thức giáo dục khác có hiệu quả hơn. Giáo dục gián tiếp theo phương thức
nhà trường, được thực hiện một cách chuyên biệt ra đời và ngày càng phát triển đáp
ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội. Do đó, xã hội ngày càng phát triển, giáo dục
ngày càng trở nên phức tạp hơn và mang tính chuyên biệt hơn. Sự phát triển đó là
do yêu cầu tất yếu của xã hội và do những sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự
phát triển của xã hội. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển về mọi mặt của xã
hội thì khơng ai có thể phủ nhận về nó.
Từ khi ra đời, giáo dục đã trở thành một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển
thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nó. Đó chính là những tác động
tích cực của giáo dục đến các mặt hay các quá trình xã hội và tạo ra sự phát triển
cho xã hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “giáo dục”:
– Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách dưới ảnh
hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngồi, được thực hiện một cách có ý thức của
con người trong nhà trường, gia đình và ngồi xã hội. Ví dụ: Ảnh hưởng của các
hoạt động đa dạng nội khóa, ngoại khóa của nhà trường; ảnh hưởng của lối dạy bảo,
nếp sống trong gia đình; ảnh hưởng của sách vở, tạp chí; ảnh hưởng của những tấm
lịng nhân từ của người khác;…
– Giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác định
được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ thống) của
các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm phát triển toàn diện nhân cách.
Qua những môn học trên trường, lớp cũng như qua những hoạt động như báo cáo
thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, thăm quan,… được tổ chức ngoài giờ lên lớp,
sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của
người được giáo dục, dưới tác động của giáo viên, của nhà giáo dục.
– Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách người giáo
dục dưới quan hệ của những tác động sư phạm của nhà trường, chỉ liên quan đến
các mặt giáo dục như: trí học, đức học, mĩ dục, thể dục, giáo dục lao động.
20
– Ngồi ra, giáo dục cịn được hiểu là q trình hình thành và phát triển nhân
cách người được giáo dục chỉ liên quan đến giáo dục đạo đức. Sự ra đời và phát
triển của giáo dục gắn liền với cự ra đời và phát triển của xã hội. Một mặt, giáo dục
phục vụ cho sự phát triển xã hội, bởi lẽ, xã hội sẽ không phát triển thêm một bước
nào nếu như khơng có những điều kiện cần thiết cho giáo dục tạo ra. Mặt khác, sự
phát triển của giáo dục luôn chịu sự quy định của xã hội thông qua những yêu cầu
ngày càng cao và những điều kiện ngày càng thuận lợi do sự phát triển xã hội mang
lại. Chính vì vậy, trình độ phát triển của giáo dục phản ánh những đặc điểm phát
triển của xã hội.
Như vậy, khái niệm giáo dục rất phức tạp, do đó đi tìm định nghĩa rõ ràng về
khái niệm của từ này quả thật không đơn giản.
Trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: “Giáo dục là toàn thể những
cố gắng có ý thức để giúp tạo hố trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh
thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã
hội của con người.” . [19]
Trần Văn Quế trong một tác phẩm tựa đề Sư Phạm Lý Thuyết, 1968, định nghĩa
về phép giáo dục: “Phép giáo dục là toàn thể những động tác, những ảnh hưởng đã
được sử dụng theo ý muốn của một người đối với một người, hay nói đúng hơn, của
một người cao niên với một người thiếu niên và được hướng theo mục đích đào tạo
ở người thiếu niên những tính chất đủ các loại mà một khi trở nên trưởng thành
người ấy cần phải đạt được”.
Trong từ điển tiếng Việt của viện ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học, Nxb
Giáo dục, 1994, trang 379 có ghi: “Giáo dục”
1. (Động từ). Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển
tinh thần, thể chất của đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
2. (Danh từ). Hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy giáo dục của một nước.
Các định nghĩa trên, về quan điểm chung đều cùng có một ý nghĩa.
Tóm lại, chúng ta có thể định nghĩa giáo dục như sau:
21
Giáo dục là q trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi và
biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người dạy và người học theo
hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện nhân cách cả thầy và trị bằng những
tác động có ý thức từ bên ngồi, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã
hội loài người đương đại.
c. Sử dụng âm nhạc trong giáo dục
Đó là việc dùng các tác phẩm âm nhạc một cách có ý thức, hướng tới mục đích
khơi gợi và biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người dạy và
người học theo hướng tích cực, góp phần hồn thiện nhân cách cả thầy và trị bằng
những tác động có ý thức từ bên ngồi, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển
trong xã hội lồi người đương đại.
1.3.2.
Vai trị của việc sử dụng âm nhạc trong giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là một
bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người
mới xã hội chủ nghĩa. Trong các môn học ở bậc học này, đặc biệt là mơn âm nhạc
có vai trị rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển đức, trí, thể, mỹ cho trẻ.
Âm nhạc vừa là nội dung, vừa là phương tiện góp phần khơng nhỏ trong việc định
hướng - phát triển thẩm mỹ và tình cảm cho trẻ. Mục đích của giáo dục âm nhạc ở
trường mầm non là đưa âm nhạc đến với đời sống trẻ thơ, đặt cơ sở ban đầu cho
việc giáo dục văn hố âm nhạc, góp phần giáo dục thẩm mỹ, đạo đức, đẩy mạnh sự
phát triển trí tuệ thể chất cho trẻ. Đây là lứa tuổi mà khả năng tri giác đang phát
triển. Vì vậy, sự tác động của âm nhạc là phương tiện hữu hiệu biến một bài học
khô khan, khó tiếp thu thành những bài giảng hay và có ý nghĩa hơn. Các bài hát có
ca từ đơn giản, tiết tấu rõ ràng, giai điệu dễ nhớ, dễ tưởng tượng đã góp phần khơng
nhỏ trong việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách trẻ.
Như chúng ta đã biết, trẻ ở độ tuổi này có thể phân biệt được sự cao thấp của âm
thanh, giai điệu đi lên hoặc đi xuống; cường độ to nhỏ và cả sự thay đổi về sắc thái,
nhịp độ nhanh - chậm của bài hát; cảm giác tai nghe và kinh nghiệm nghe nhạc của
trẻ được tích lũy nhiều hơn. Khơng chỉ vậy, trẻ còn hiểu được yêu cầu thể hiện bài
22
hát hoặc biết kết hợp các động tác với bài hát cho sinh động. Nhìn chung, độ tuổi
này giọng trẻ có độ vang, âm sắc giọng ổn định, tầm cữ giọng mở rộng; sự phối hợp
giữa nghe và hát hoặc hát và vận động tốt hơn so với các nhóm trẻ khác. Trẻ 5 - 6
tuổi có thể hát được quãng 7, quãng 8, có khả năng ghi nhớ sự liên tục của các động
tác với âm nhạc. Trong vận động, trẻ thể hiện được sự mềm dẻo, nhanh nhẹn; biết di
chuyển đội hình và định hướng trong khơng gian; biết phối hợp vận động với tính
chất âm nhạc và biết thể hiện diễn cảm bài hát; nắm được các động tác cơ bản như
đi, chạy, nhảy và có khả năng vận dụng các động tác riêng lẻ vào trong các điệu
múa, trò chơi âm nhạc với những yếu tố sáng tạo nhất định. Ngồi ra,trẻ cịn biết
phối hợp động tác với bạn hoặc động tác giữ thăng bằng một chân; xoay xung quanh
bạn và quanh mình, tập các động tác vận động và múa phong phú hơn như động tác
nhảy chân sáo, đá lăng chân, chạy hất gót…
Xuất phát từ thực tế trên, năm 2007, nhạc sĩ Hoàng Văn Yến biên soạn và xuất
bản tập “Trẻ mầm non ca hát” với 218 bài hát, trong đó có 130 bài dạy trẻ hát và 88
bài cô hát cho trẻ nghe. Trong 130 bài dạy trẻ hát có một số bài chưa phù hợp với
nội dung giáo dục âm nhạc của trẻ; một số bài giai điệu khó, bài được viết ở giọng
do tác giả để kết lời 1 ở bậc VI (kết về âm La) trẻ khó hát như bài “Chào ngày
mới”… có bài âm vực rộng, tác giả để nhảy quãng 8 sau đó về quãng 3 nên trẻ khó
hát như bài “Em vẽ”; có bài thì cả giai điệu và tiết tấu đều khó với trẻ như bài “Tôm
cá cua thi tài”… Trong 88 bài hát cho trẻ nghe có một số bài quá khó so với khả
năng âm nhạc của đa số các giáo viên mầm non. Việc sưu tầm bài hát trên mạng hay
các phương tiện thơng tin khác là một việc làm tương đối khó với đa số các giáo
viên mầm non vì khả năng âm nhạc của họ hạn chế, khi sao chép bài trên mạng đa
số là bài hát có phần lời khơng có phần nhạc. Như vậy, giáo viên chỉ được nghe hát
truyền khẩu từ ca sĩ chứ khơng có phần nhạc của bài hát đó để kiểm chứng. Có
những bài khi vận dụng vào dạy trẻ cần cả nhạc và lời để trẻ hoạt động nhưng do
không thu được phần nhạc mà chỉ có phần lời dẫn đến hiệu quả giờ học chưa
cao. Chính vì vậy việc sử dụng âm nhạc sao cho phù hợp với khả năng của trẻ, phù hợp
23
với từng mục đích của hoạt động giáo dục là vơ cùng quan trong trọng giáo dục mầm
non nói chung và giáo dục trẻ 5-6 tuổi nói riêng.
1.3.3.
Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5 – 6 tuổi liên quan đến giáo dục âm
nhạc
a. Đặc điểm sinh lý
Khả năng tai nghe của trẻ hồn thiện. Trẻ có khả năng phân biệt chính xác các
thuộc tính của âm thanh như độ cao- thấp, độ to nhỏ- mạnh nhẹ, dộ dài- ngắn...
Tầm cữ giọng của trẻ mở rộng, trẻ có thể hát được quãng 7, hoặc quãng 8 (ĐồĐố). Mặt khác, ở giai đoạn này, trẻ có khả năng tri giác tồn vẹn hình tượng âm
nhạc cùng với những kinh nghiệm được tích lũy từ trước như nghe hát cùng đàn
đệm, xem động tác, điệu bộ. Trẻ có thể chuyển đổi điệu bộ theo âm điệu, biết kết
hợp khăng khít giữa thời gian với âm nhạc, vận động phối hợp toàn thân với một
trình tự tương đối phức tạp trong các điệu mứa hay tái hiện một số tiết tấu khó. Trẻ
có thể sử dụng bàn phím ở mức độ đơn giản, có nhu cầu hoạt động âm nhạc, biết thể
hiện nhạc cảm khi hát múa. Tuy nhiên, ở độ tuổi này sự nhạy cảm về âm nhạc bắt
đầu giảm dần. Trẻ có ấn tượng sâu sắc khi nghe nhạc qua đài, xem băng đĩa…biết
so sánh một vài thể loại âm nhạc về âm thanh, tính chất, lời ca.
Lịch sử cho thấy ở lứa tuổi này, những năng khiếu âm nhạc đặc biệt xuất hiện
nhiều hơn ở bất cứ lĩnh vực nào khác. Nhiều cơng trình nghiên cứu sự phát triển của
trẻ đã xác định rằng, tiến hành việc giáo dục âm nhạc ở tuổi mẫu giáo sẽ thu được
kết quả tốt. Bỏ qua giai đoạn này là một thiệt thòi lớn cho các cháu trong các lứa
tuổi sau. Đặc điểm lứa tuổi về sự phát triển âm nhạc của các cháu giúp cho các nhà
sư phạm soạn bài tập, nội dung phù hợp.
b.
Đặc điểm tâm lý
V. I. Lênin đã chỉ ra rằng: Lịch sử phát triển trí tuệ của trẻ em là một trong
những lĩnh vực tri thức, từ đó hình thành nên lí luận chung về nhận thức và phép
biện chứng. Qua sự phát triển của trẻ em, có thể rút ra quy luật phát triển nói chung
và đồng thời người ta nhận thấy đây là giai đoạn phát cảm của trẻ.
24
Ở tuổi mẫu giáo, xúc cảm thẩm mĩ của trẻ phát triển khá nhanh, tâm hồn trẻ
nhạy cảm, dễ xúc cảm với những cảnh vật xung quanh, đặc biệt là giai đoạn 5 – 6
tuổi. Vì vậy trẻ dễ nhận ra những vẻ đẹp và biết cảm thụ cái đẹp, thích học múa hát
và học rất nhanh bằng cách bắt chước. Đối với trẻ 5 – 6 tuổi, sự hiểu biết và vốn
kinh nghiệm của trẻ tăng nhanh, sự tập trung chú ý của trẻ kéo dài hơn vì vậy trẻ
đến với nghệ thuật một cách tự nhiên và tác động của nghệ thuật đối với tuổi thơ rất
mạnh mẽ. Nhiều cơng trình khoa học đã khẳng định năng khiếu âm nhạc được nảy
sinh từ tuổi ấu thơ. Hai nhà tâm lí học Đức là V. Hec-cơ và I. Xle-hen đã nghiên
cứu 411 nhạc sĩ và thấy rằng có 401 người(chiếm 90%)bộc lộ năng khiếu trước 10
tuổi.
Một trong những đặc điểm của các cơ quan chức năng của não ở trẻ em là hệ
thần kinh cịn mềm dẻo, do đó khả năng bù trừ rất cao. Ví dụ: người kém thị giác
thường phát triển chức năng thính giác và xúc giác…. Dựa vào đặc điểm này, người
ta có thể phục hồi chức năng cho những trẻ bị khiếm hoặc khuyết một chức năng
nào đó, mặt khác khai thác và phát triển chức năng không bị khiếm khuyết một cách
dễ dàng, thuận lợi hơn. Ví dụ: dạy nhạc cho những trẻ em bị mù thì trẻ tiếp thu khá
thuận lợi.
Tính hình tượng ở trẻ mẫu giáo, đặc biệt là giai đoạn 5-6 tuổi phát triển mạnh
gần như chi phối mọi hoạt động tâm lí làm cho các em dễ gần gũi với nghệ thuật.
Hoạt động vui chơi của trẻ em gần gũi với hoạt động sáng tạo sự vật trong tính tồn
vẹn của nó chứ khơng tách rời ra từng mảng, từng bộ phận. Những thuộc tính cụ
thể, cảm tính sinh động của âm thanh có tác động mạnh mẽ lên các giác quan và ghi
dấu ấn đậm trong tâm trí trẻ.
Tính chất ước lệ tượng trung trong cách nhìn nhận của trẻ giai đoạn này rất gần
gũi với các loại hình nghệ thuật cổ truyền như chèo, tuồng… nhờ tưởng tượng. Ở
đây, óc tưởng tượng là một trong những thành phần cơ bản trong hoạt động vui chơi
của trẻ và tưởng tượng là điều không thể thiếu đối với người nghệ sĩ. Do quan niệm
của trẻ đối với thế giới xung quanh khơng bị gị bó nên khi có chiếc gậy trong tay,
25
trẻ thường tưởng tượng thành ngựa để phi, lúc khác thì coi là cây đàn để chơi… Vì
vậy ca cảnh là thể loại phù hợp với trẻ giai đoạn này.
Sự ra đời của chức năng kí hiệu tượng trưng chứng tỏ trẻ đã bước sang một loại
hình mới của việc nhận thức hiện thực: đó là nhận thức thơng qua một hệ thống kí
hiệu trong đó có kí hiệu âm nhạc. Âm nhạc được dùng làm phương tiện giao tiếp
giữa người với người, chủ yếu là thể hiện tình cảm, tái tạo những mặt khác nhau của
hiện thực.
Sự phát triển mạnh những xúc cảm thẩm mĩ kết hợp với những trí nhớ máy móc
vốn có của trẻ khiến cho lứa tuổi này rất nhạy cảm với văn học nghệ thuật. Những
nét tâm lí đặc trưng trẻ giai đoạn 5 – 6 tuổi là tiền đề cho việc tiếp thu, giáo dục âm
nhạc. Âm nhạc đã đem lại cho trẻ một thế giới âm thanh nhiều màu sắc, gợi cho trẻ
sự thú vị, hấp dẫn và sự hài hòa tinh tế, tạo điều kiện cho trẻ thể hiện chính bản thân
mình.
1.3.4.
Ngun tắc sử dụng âm nhạc trong giáo dục cho trẻ 5 – 6 tuổi ở
trƣờng mầm non
Sử dụng tác phẩm âm nhạc trong chương trình giáo dục mầm non cần tuân theo
các nguyên tắc sau:
+ Bài hát phải đảm bảo được yêu cầu về giáo dục
+ Phải phù hợp với sở thích và khả năng hát của trẻ.
+ Âm vực phù hợp với tầm cử giọng trẻ.
+ Có thể dạy cho trẻ mẫu giáo lớn hát các bài hát nước ngồi nhưng với tỉ lệ
hạn chế. Vì đối với trẻ mẫu giáo âm điệu xa lạ làm rối loạn sự hình thành âm hưởng
dân tộc.
Muốn cho trẻ nghe nhạc có hiệu quả cần:
+ Đảm bảo tính nghệ thuật của tác phẩm.
+ Đảm bảo tính vừa sức và những cảm thụ âm nhạc của từng trẻ.
+ Đảm bảo tính giáo dục đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ.