Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tiểu luận triết học về nho gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.2 KB, 17 trang )

Tiểu luận môn Triết Học

LỜI MỞ ĐẦU


N

ho giáo là một trong những tư tưởng triết học Trung Hoa có ảnh
hưởng sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội Việt Nam và đã từng là quốc giáo trong cả một chặng
đường dài của lịch sử Việt Nam. Tuy có nhiều nhược điểm và thiếu
sót, nhưng nó đã đóng một vai trị tích cực trong việc xây dựng một nền văn
hiến rực rỡ ở nước ta, góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh,
tạo nên sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm bảo vệ đôc lập chủ quyền dân
tộc và góp phần tạo nên các giá rị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với việc xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Do đó, những tư tưởng,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà trong đó có những tư tưởng của Nho giáo
cần được trân trọng, kế thừa và phát huy.
Với đề tài "Triết học Nho giáo nguyên thủy – kế thừa và phát huy những
tư tưởng Nho giáo trong phát triển kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay", tiểu
luận nêu tóm tắt những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối
với xã hội Việt Nam, từ đó vận dụng phát huy những tư tưởng đó vào công
cuộc phát triển đất nước trong thời đại hiện đại.
Nội dung tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1 : Những tư tưởng cơ bản của nho giáo nguyên thủy
Chương 2: Nho giáo ở Việt Nam - kế thừa và phát huy những tư tưởng Nho
giáo trong phát triển kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay.
Do kiến thức, trình độ cịn hạn chế, cũng như sự hạn hẹp về thông tin nên
tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót, Kính mong nhận


được sự góp ý của Thầy và những người quan tâm.
Xin chân thành cám ơn Thầy.


Tiểu luận môn Triết Học

CHƯƠNG 1:

NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA
NHO GIÁO NGUYÊN THỦY
1.1 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
Trung Hoa cổ đại thời kỳ từ thế kỷ VII trước CN đến thế kỷ thứ III trước CN
(được gọi là thời Xuân thu- Chiến quốc) có nhiều biến động về chính trị, tình
hình xã hội hết sức rối ren, các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Đặc
điểm kinh tế lớn nhất có liên quan đến q trình biến động đó là sự hình thành
nhanh chóng và phổ biến của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, làm nảy sinh
một loạt những thế lực chính trị mới. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế
lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc
liệt “huynh đệ tương tàn”, “nồi da nấu thịt”… Tình hình xã hội như vậy đã làm
xuất hiện hàng loạt những hệ thống triết học khác nhau, có xu hướng giải quyết
những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức của xã hội. Trong đó có những học
thuyết ảnh hưởng cho tới sau này và lan rộng sang nhiều quốc gia, dân tộc.
Nho giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước Công nguyên dưới thời Xuân
thu. Những cơ sở của nó được hình thành từ đời Tây Chu, đặc biệt là với sự
đóng góp của Chu Cơng Đán. Đến lượt mình Khổng tử phát triển tư tưởng Chu
Cơng, hệ thống hóa lại và tích cực truyền bá, vì vậy Ơng được xem là người
sáng lập Nho giáo.
Khổng tử (551-479TCN), là con một gia đình q tộc nước Lỗ. Khổng tử muốn
đem tài sức của mình ra giúp vua, chủ trương lập lại trật tự, lễ nghĩa nhà Chu
nhưng không được vua nước Lỗ trọng dụng. Ông đi đến các nước chư hầu khác

mong được mang lý tưởng cải tạo xã hội ra giúp nước trị dân, cứu đời, nhưng
đến đâu cũng không thành công. Cuối đời, nhận thấy thực sự bất lực trong cơng
việc chính trị, Khổng tử về nước mở trường dạy học và viết sách. Ơng hệ thống
hóa những tri thức, tư tưởng đời trước và quan điểm của ơng thành học thuyết
đạo đức chính trị nổi tiếng, gọi là Nho Giáo.
Sau khi Khổng tử chết, nho gia chia làm tám phái nhưng quan trọng nhất là hai
phái : Mạnh tử (327-289TCN) và Tuân tử (313-238TCN).
Tuân tử phát triển mặt duy vật của Khổng tư, tư trưởng triết học mang đặc sắc
chủ nghĩa duy vật thô sơ, không có luận cứ khoa học nên khơng đứng vững
được.
Mạnh tử, là người học trò bảo vệ xuất sắc nhất tư tưởng của Khổng tử. Ông đã
khai thác, phát triển quan điểm duy tâm của Khổng tử và có những cống hiến
riêng của mình. Tư tưởng Khổng Mạnh là cốt lõi của tư tưởng Nho gia. Mạnh
tử đã khép lại một gia đoạn quan trọng – giai đoạn hình thành Nho giáo, Đó là
Nho giáo ngun thủy hay cịn gọi là tư tưởng Khổng - Mạnh.


Tiểu luận môn Triết Học
Sang thời trung đại, nho giáo được hoàn thiện và bổ sung theo hai hướng:
Một là: Vào thời kỳ nhà Hán (140-87TCN), nhà nho Đổng Trọng Thư đã nhìn
thấy khả năng to lớn của Nho giáo trong việc bảo vệ lợi ích của giai cấp phong
kiến thống trị nên đã tìm cách tơ vẽ cho nho giáo theo chiều hướng có lợi cho
giai cấp này. Từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và công cụ
tinh thần bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa suốt 2000 năm lịch sử. Tuy
nhiên, trong hệ tư tưởng chính thống này, Nho giáo chỉ là hình thức bề ngồi,
cịn nội dung bên trong của nó, giai cấp phong kiến vẫn cai trị theo đường lối
Pháp trị (Ngoại nho, nội pháp). Do vậy mà nho giáo thời kỳ này đã loại trừ
những những giá trị nhân bản và biện chứng của nho gia nguyên thủy KhổngMạnh. Chẳng hạn trong quan hệ hai chiều bình đẳng trong tam cương (Vua tôi,
Cha- Con, Chồng-vợ) được thay bằng quan hệ một chiều duy nhất (Trung-Hiếu
– Tiết – Nghĩa), chỉ đòi hỏi trách nhiệm của kẻ dưới đối với người trên. Vì vậy,

Tam cương trở thành những cơng thức hết sức phi nhân bản “quân xử thần tử,
thần bất tử bất trung”; “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” “phu xướng phụ
tùy” và mở rộng trách nhiệm của phụ nữ đối với đàn ơng nói chung qua cơng
thức Tam Tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, Như vậy,
với Hán nho, Khổng tử đã được tái sinh lần thứ nhất; nhưng Khổng tử đời này
khơng cịn là Khổng tử đời Xn thu nữa.
Hai là vào thời Tống (960-1279), xuất hiện những nhà nho lỗi lạc như Chu Đơn
Di (1017-1073), Trình Di (1023-1085), Trình Hạo, Chu Hy. Học thuyết của
Khổng tử đã được hồi sức bởi sự bổ sung những quan niệm triết học của thuyết
Am Dương Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của đạo gia, tư tưởng về
pháp trị của Pháp gia, triết lý nhân sinh của Phật giáo.
KINH SÁCH CỦA NHO GIA gồm có 2 bộ Ngũ kinh và Tứ thư
Ngũ kinh bao gồm 5 quyển kinh
Kinh thi: Sưu tập thơ ca dân gian, trong đó chủ đề chủ yếu là tình u nam nữ.
Khổng tử muốn dùng nó để giáo dục tình cảm lành mạnh cho con người. Hình
thức diễn đạt tư tưởng khúc chiết, rõ ràng.
Kinh thư: Ghi lại những truyền thuyết, biến cố về các vua đời trước như vua
Nghiêu, Thuấn, Kiệt, Trụ.. nhằm làm gương cho các đời sau. Đặc biệt, sách ghi
lại cách tổ chức hành chính nhà nước.
Kinh Lễ: Ghi chép về lễ nghi đời trước mong dùng làm phương tiện duy trì và
ổn định trật tự xã hội.
Kinh Dịch: Ghi chép, giải thích về những biến đổi của trời đất, con người và
xã hội.
Kinh Xuân thu: giảng giải về chính trị và lịch sử để giáo dục các vua chúa.
Đúng ra bộ sách còn một cuốn thứ sáu là Kinh nhạc, nhưng về sau bị thất lạc,
chỉ cịn lại một ít làm thành một thiên ghép chung và Kinh Lễ gọi là Nhạc kí.
Vì vậy, Lục kinh thành ra chỉ còn “Ngũ kinh”.
Tứ thư gồm có bốn quyển sách:



Tiểu luận môn Triết Học
Luận ngữ: Sách ghi lại các bài giảng, các lời luận bàn của Khổng tử. Sau khi
ơng mất, các học trị đã tập hợp những lời dạy của Khổng tử lại và chép thành
sách.
Đại học: dạy cách làm qn tử
Trung Dung: cách sống dung hồ khơng thiên lệch
Mạnh tử: do Mạnh tử viết, bổ sung các quan niệm về nhân lễ, làm rõ bản chất
của con người.
1.2 QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO NGUYÊN THỦY
1.2.1 Quan điểm về thế giới:
Trong quan điểm của Nho gia về thế giới nó đã dao động giữa duy vật và duy
tâm, giữa vô thần và hữu thần ở chỗ Khổng tử cho rằng vạn vật trong vũ trụ
luôn luôn sinh thành và biến hóa khơng ngừng, sự vận động biến hóa ấy của vũ
trụ lại bắt nguồn từ sự liên hệ tương tác giữa hai lực âm dương, thế nhưng trong
chững mực khác, Khổng tử lại tin cho thiên mệnh: trời có ý chí chi phối vận
mệnh của xã hội và số phận của mỗi con người, không chỉ tin ở mệnh trời mà
còn tin ở quỹ thần. Nguyên nhân là do đứng trước xu thế phát triển của lịch sử
và xã hội đã giúp Khổng tử có quan niệm tiến bộ nhưng do hiện trạng của xã
hội và hạn chế của giai cấp, Khổng tử đã hoang mang quay lại với chủ nghĩa
duy tâm, tuyên truyền cho sức mạnh của trời, thần thánh hóa quyền lực cầm
quyền trên mặt đất nhằm duy trì trật tự xã hội.
1.2.2 Quan điểm về chính trị đạo đức xã hội
Phương pháp luận để giải thích và giải quyết các vấn đề xã hội, Nho giáo có xu
hướng coi các quan hệ chính trị- đạo đức là những quan hệ nền tảng của một xã
hội. Trong đó, quan trọng nhất là quan hệ vua trị, cha con, chồng vợ (gọi chung
là tam cương). Điều này đã phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ
quyền của Nho gia.
Với cách giải thích trên đây tức là coi các quan hệ chính trị đạo đức là nền tảng
của quan hệ xã hội nó đã bộc lộ quan điểm duy tâm của Nho gia ở chỗ đã
không thấy cơ sở kinh tế của xã hội.

Lý tưởng xã hội của Nho gia
Nho gia chủ trương xây dựng xã hội đại đồng, đó là một xã hội có trật tự tơn ti
trên dưới, có vua sáng- tơi hiền, cha từ – con hiếu thảo, trong ấm – ngồi êm,
một xã hội khơng cần có nền kinh tế phát triển mà chỉ cần công bằng xã hội
trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ
dân. Có thể thấy lý tưởng trên đây của Nho gia là lý tưởng của tầng lớp trên
(giai cấp thống trị) và lý tưởng ấy mang tính duy tâm, ảo tưởng vì nó khơng đề
cập đến cơ sở kinh tế của đời sống xã hội.


Tiểu luận môn Triết Học
Phương thức thực hiện lý tưởng xã hội
Nho gia chủ trương lấy giáo dục làm cứu cánh để đạt tới một xã hội lý tưởng
đại đồng, nhưng nền giáo dục của Nho giáo chỉ tập trung vào việc rèn luyện
đạo đức cho con người, song những chuẩn mực đạo đức lại được đề cao đến
mức đạo thần thánh hóa.
1.2.3 Quan điểm về con người:
Là trọng tâm của triết học nho giáo, cùng các quan điểm về chính trị và đạo
đức do u cầu giải quyết tình hình chính trị xã hội lúc bấy giờ. Đề cập đến con
người: số phận và tính người
Số phận: số phận con người do mệnh trời qui định (giầu sang do phận, sống
chết do số)
Tính người: Theo Khổng tử và Mạnh tử (trong Luận Ngữ và Trung Dung) thì
con người lúc sanh ra tính nết đều giống nhau ở tính thiện có sẵn do trời phú
(quan điểm duy tâm). Sự phú tính ấy về cơ bản là đồng đều, tuy nhiên do hồn
cảnh và mơi trường khác nhau nên tính nết người này khác người kia. "Tính là
gần nhau, tập là xa nhau". Chính vì vậy mà nhiều người đã khơng giữ được tính
người mà trời đã phú cho, do đó Nho Gia đã nêu lên sự cần thiết phải lập đạo
làm người
Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là đào tạo cho được những người cai trị kiểu

mẫu-người quân tử (quân là cai trị, quân tử là người cai trị). Để trở thành người
quân tử, trước hết cần phải tu thân.

Có 3 bước tu thân:
Bước 1 : Đạt đạo
Đạo là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải biết cách ứng xử
trong cuộc sống. Có 5 đạo : Vua- tôi, Cha- con, Chồng – vợ, Anh- Em, Bạn bè.
(Quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). Năm đạo đó cịn gọi là ngũ
ln (ln là cư xử, thứ bậc)
Nguyên tắc xử lý 5 mối quan hệ này là nguyên tắc “trung dung” tức là dung
hòa giữa các bên.
Bước 2: Đạt đức
Theo Khổng tử, người qn tử phải có 3 đức: nhân, trí, dũng. Sau này Mạnh tử
bỏ dũng và thêm 2 đức tính là Lễ Nghĩa gọi là tứ đức. Sau này Hán nho thêm
tín vào để trở thành “ngũ thường”
Nhân: được đề cập với một ý nghĩa sâu rộng nhất, nó được coi là nguyên lý
đạo đức cơ bản qui định bản tính của con người và những quan hệ giữa người
với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Nhân là đức tính hồn thiện, là gốc
đức của con người, nên “nhân” chính là đạo làm người.


Tiểu luận môn Triết Học
Trong cuộc sống nhân được chia thành 2 phần ngun tắc:
 Cái gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người khác
 Mình muốn lập thân thì mình cũng giúp người khác lập thân, mình muốn
thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt”
Trí: Theo Khổng tử người muốn đạt được nhân thì phải có “trí”, nhờ có trí con
người mới sáng suốt, minh mẫn, hiểu được đạo lý, xét được sự vật hiện tượng,
phân biệt được phải trái, thiện ác, và hành động phù hợp với thiên lý (phù hợp
với quan điểm của pháp gia)

“Người không học chẳng những không giúp được người khác mà cịn hại đến
mình”
Dũng: muốn đạt được nhân chỉ có trí thì chưa đủ mà phải có dũng khí nữa. “Kẻ
nhân tất hữu dũng nhưng người dũng chưa chắc có nhân”
Người có dũng khơng phải là người ỷ vào sức mạnh vì lợi mà bất chấp đạo lý
mà người có dũng là người tỏ rõ ý kiến của mình một cách cao minh, có thể
hành động một cách thanh tao khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp hoạn
nạn.
Người nhân có dũng mới tự chủ được mình, mới quả cảm xã thân vì nghĩa lớn.
Người có nhân, trí, dũng thì giàu sang không quyến rũ, nghèo không nao núng,
uy quyền không làm họ sợ sệt.
Lễ: qui phạm chuẩn mực trong xã hội, là biểu hiện bên ngồi của nhân.
Nghĩa: nói đến những hành động cao cả.
Bước 3: Học thi- thư- lễ- nhạc
Ngoài các tiêu chuẩn về đạo và đức, người quân tử còn phải biết thi- thư- lễnhạc. Khổng tử nói rằng con người “hưng khởi trong lịng là nhờ học Thi, lập
nhân được là nhờ biết Lễ, thành công được là nhờ có Nhạc (Luận ngữ). Nói
cách khác, ơng địi hỏi người qn tử khơng phải là võ biền mà phải có một
vốn văn hóa tồn diện: thi – thư- lễ- nhạc
Hành động: Tu thân rồi, bổn phận người quân tử là phải hành động, phải tề gia
trị quốc, bình thiên hạ. Kim chỉ nam cho mọi hành động trong công việc cai trị
là hành động theo hai nguyên tắc: nhân trị và chính danh
 Nhân trị: nhân là tình người; nhân trị là cai trị bằng tình người, coi người
như bản thân mình. Sách luật ngữ kể rằng khi học trò hỏi về Nhân, Khổng
tử đáp: “Yêu người”; cịn khi hỏi thế nào là “Nhân”, ơng trả lời: ‘Điều gì
mình khơng muốn thì đừng làm cho người khác”, “Mình muốn lập thân thì
phải giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người
khác thành đạt”.
 Chính danh: Chính danh tức là sự vật phải ứng với tên gọi, mỗi người phải
làm đúng với chức phận của mình. Chính danh trong cai trị là phải làm sao
để “Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. “Nếu danh khơng chính



Tiểu luận môn Triết Học
thì lời nói khơng thuận. Lời nói khơng thuận tất việc chẳng thành”. Do danh
thực rối loạn và đạo lý bị thay đổi vì vậy cần phải giáo dục đạo đức và thực
hiện chủ nghĩa chính danh định phận.
Vua phải thực hiện chính sách “thượng hiền” để chọn người tài giỏi giúp nước,
giúp vua.
Vua phải tự mình làm điều thiện, làm gương cho dân, phải chịu khó, lo việc
giúp dân, nghĩ việc cho dân làm.
Vua phải thực hiện được 3 điều:
Bảo đảm lương thực cho dân ấm no (túc thực)
Xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh để bảo vệ đất nước (túc binh)
Tạo ra được lịng tin của nhân dân (Thành tín)
Những nội dung trên đã được những người sáng lập tóm gọn trong 9 chứ tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và 9 chữ ấy cũng chỉ nằm trong 2 chữ cai
trị mà thôi.
1.2.4 Quan điểm về giáo dục
Khổng tử là nhà giáo dục vĩ đại, tư tưởng giáo dục của ông khơng những đã có
những tác dụng to lớn đối với lịch sử mà cho đến ngày nay vẫn còn tỏa sáng.
Ơng quan niệm giáo dục khơng chỉ có tính chất mở mang tri thức, giải thích vũ
trụ mà giáo dục mở mang cả trí, tình và ý hay trí, nhân, dũng để người ta đạt tới
con người đạo lý. Giáo dục có 3 mục đích:
 Học để ứng dụng, giúp ích hoặc đời, cho xã hội chứ không phải học để

làm quan sai bổng lộc.
 Học để có nhân cách, học để cho mình chứ khơng cho ai.
 Học để tìm tịi đạo lý.

Khổng tử có phương pháp giáo dục hết sức đúng đắn mà người đời sau vẫn

thực hiện một cách phổ biến. Ông coi trọng giáo dục theo lịch trình, đúng điều
kiện tâm sinh lý, ni cho tình cảm nảy nở rồi đưa vào khn phép, rồi điều
hịa các mâu thuẫn đột ở tâm. Bởi vậy Khổng tử cho rằng: " khởi hứng bằng
kinh thi, uốn nắn bằng kỹ thuật phép tắc và hoàn thành ở nhân".
Sách Luận ngữ ghi lại các lời dạy của ông cho thấy ơng khuyến khích theo sở
trường, phê bình tùy sở đoản của từng người, học thì phải ơn tập "ơn cũ mà biết
mới"
Ơng cũng đặc biệt chú ý gợi mở trí phán đốn độc lập của học trị, khơng nhồi
nhét áp đặt. Ơng nói: "Như vật có bốn góc, chỉ cho một góc mà khơng tìm được
ba góc kia thì ta khơng dạy nữa".
Ơng nói với học trị là tự ơng tuyệt đối khơng có 4 điều (Tứ vơ)
 Vơ ý: là khơng có ý riêng, tức là khơng đốn mị theo chủ quan.
 Vô tất: là không khẳng định quá đáng.


Tiểu luận môn Triết Học
 Vơ cố: là khơng cố chấp, câu nệ.
 Vơ ngã: là khơng tự cho mình là chân lý.

Tứ vô thể hiện thái độ khách quan trong học tập.
Tóm lại, tư tưởng giáo dục của nho giáo khá hoàn thiện, cho đến thời đại ngày
nay vẫn cịn nhiều giá trị có thể kế thừa và phát huy.


Tiểu luận môn Triết Học

CHƯƠNG 2:

NHO GIÁO Ở VIỆT NAM – KẾ THỪA VÀ
PHÁT HUY NHỮNG TƯ TƯỞNG CỦA NHO

GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO Ở
VIỆT NAM
Xét về ngọn nguồn, có thể thấy Nho giáo chính là sự tổng hợp của hai truyền
thống – văn hóa du mục phương bắc và văn hóa nơng nghiệp phương Nam.
Văn hóa du mục phương Bắc có đặc điểm:
Tham vọng bình thiên hạ, coi nhẹ Quốc gia, truyền thống trọng sức mạnh, thể
hiện trong chữ “Dũng”.
Quan niệm về một xã hội trật tự, ngăn nắp, trên dưới rõ ràng thể hiện qua
thuyết “chính danh”
Chất nơng nghiệp phương Nam được nho gia nguyên thủy tiếp thu:
Đề cao chữ nhân và nguyên lý nhân trị có nguồn gốc từ lối sống trọng tình của
người phương nam.
Việt Nam có truyền thống lâu đời của văn hóa phương Nam cho nên khi tiếp
nhận Nho Giáo đã tiếp nhận chất nông nghiệp phương Nam của Nho gia
nguyên thủy.
Hán nho đã được các quan lại Trung hoa ra sức truyền bá vào Việt Nam những
năm đầu công nguyên nhưng không được dân tộc Việt Nam đón nhận, vì đây là
văn hóa của kẻ xâm lược áp đặt.
Đến 1070 Lý Thái Tổ cho lập văn miếu thờ Chu Công và Khổng tử, việc này
đã xác nhận Nho giáo chính thức xâm nhập vào Việt Nam (Tống nho).
Đời nhà Trần có Chu Văn An đào tạo được khá đơng các học trị và đề cao Nho
giáo, bài xích Phật giáo. Tuy nhiên đến cuối đời nhà Trần Nho giáo vẫn không
được chấp nhận rộng rãi.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh có sự đóng góp to lớn của các nhà
Nho cùng với nhu cầu cải cách quản lý đất nước, Triều Lê đã đưa Nho giáo
thành quốc giáo, sự phát triển của Nho giáo chuyển sang giai đoạn độc tôn.
Từ nhà Lê trở đi, Nho giáo thịnh suy theo các triều đại, đến đời nhà Nguyễn,
địa vị của Nho giáo một lần nữa đã được khẳng định để rồi phải mất hẳn đi khi

phải đối mặt với sự tấn cơng của văn hóa phương Tây.


Tiểu luận môn Triết Học
Như vậy, nét độc đáo của văn hóa Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai nó tiếp
thu từng yếu tố riêng lẻ và cấu tạo lại theo cách của mình. Nho Giáo vào Việt
Nam được cải biến cho phù hợp với hoàn cảnh và truyền thống của mình.
2.2 ĐẶC ĐIỂM CỦA NHO GIÁO VIỆT NAM
Thứ nhất, Nho giáo muốn tạo nên một xã hội ổn định. đối với nền văn hóa
nơng nghiệp Việt Nam, ước mong về một cuộc sống ổn định, không xáo trộn là
một truyền thống lâu đời, không chỉ là nhu cầu của người dân mà còn là nhu
cầu của giới cầm quyền, khơng chỉ trong đối nội mà cịn trong đối ngoại.
Để duy trì sự ổn định, làng xã Việt Nam đã tạo nên sự lệ thuộc của cá nhân vào
gia đình, vào tập thể cộng đồng. Nho giáo nhắm đến một xã hội có tơn ti trật tự
được xây dựng từ dưới lên trên, kẻ dưới phải kính trọng và phục tùng người
trên. Gia đình theo ý thức hệ gia trưởng, quan niệm cha ra cha, con ra com, anh
ra anh, em ra em, vợ chồng ra vợ chồng.. gia đình phải hịa thuận, kính trên
nhường dưới, giữ gìn danh dự và phát huy truyền thống gia đình, dịng họ…
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội Việt Nam, như tư tưởng trọng nam
khinh nữ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Tiêu chuẩn đạo đức đối với người
phụ nữ Nho gia cũng ảnh hưởng đến giá trị đạo đức của người phụ nữ Việt
Nam, đó là "Tam tịng, Tứ đức".
Để duy trì sự ổn định Quốc Gia, nhà nước Nho giáo tạo ra sự phụ thuộc vào
nhà cầm quyền bằng biện pháp kinh tế: nhẹ lượng, nặng bổng lộc; và biện pháp
tinh thần: trọng đức, khinh tài.
Thứ hai là trọng tình người, người Việt Nam rất tâm đắc chữ “nhân” của Nho
gia. Tuy nhiên, chữ “nhân” trở thành nghĩa thương người và đồng nghĩa với
“nghĩa”, đối với giới bình dân “nghĩa” có ý nghĩa là “tình”. Trong Nho Giáo
Việt Nam, việc trọng tình được bổ sung thêm bằng truyền thống dân chủ của
văn hóa nơng nghiệp (vốn có trong Nho giáo nguyên thủy nhưng đến Hán Nho

thì đã bị loại trừ. Nhờ truyền thống dân chủ ấy mà Nho Giáo Việt Nam, dù có
giữ vị trí độc tôn cũng không loại trừ Phật giáo và hủy bỏ cái gốc của Việt Nam
là đạo Mẫu. Tiếp thu chữ hiếu của Nho giáo, người Việt Nam đặt nó trong quan
hệ bình đẳng với cả cha lẫn mẹ.
Thứ ba là xu hướng trọng văn. Ở Trung Quốc trọng văn ngang với võ. Ở Việt
Nam yếu tố văn được coi trọng hơn cả và coi trọng văn hơn võ. Tuy ln phải
đối phó với chiến tranh, nhưng người Việt Nam ít quan tâm đến các kì thi võ
mà chỉ ham học chữ, thi văn: "Một kho vàng không bằng một nang chữ".
Người Việt Nam nhìn thấy ở Nho giáo một cơng cụ văn hóa, một con đường
làm nên nghiệp lớn.
Thứ tư là tư tưởng “Trung quân”. Nho giáo Trung quốc rất coi trọng tư tưởng
trung quân, tư tưởng yêu nước dường như không đề cập tới. Đối với người
Việt, tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc lại được đề cao. Chính vì vậy việc
đón nhận tư tưởng trung qn được biến đổi và gắn liền với “ái quốc”, ái quốc"
được đặt trên tư tưởng trung quân.


Tiểu luận môn Triết Học
Thứ năm là thái độ đối với nghề bn. Nho giáo Trung Hoa khuyến khích làm
giàu nếu khơng trái với “lễ”. Trong khi đó ở Việt Nam do đặc điểm văn hóa
nơng nghiệp, tính tự trị trọng cộng đồng lại coi rẻ nghiệp bn bán. Nó bám rễ
vào suy nghĩ và tình cảm mỗi người khiến cho nghề buôn trong lịch sử Việt
Nam không thể phát triển được, nó cịn được khái qt hóa thành quan niệm
mang tính chất chính thống và trở thành đường lối trọng nơng, ức thương.
2.3 VAI TRỊ CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI XÃ HỘI VIỆT NAM
Trên cơ sở độc lập tự cường dân tộc, người Việt đã tiếp thu có chọn lọc, cải
biến các tư tưởng Nho giáo cho phù hợp với hồn cảnh và truyền thống của
mình xây dựng nên nền nho giáo Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc. Nho
giáo được Việt Nam hóa có ảnh hưởng sâu rộng chi phối tồn bộ đời sống kinh
tế chính trị văn hóa xã hội Việt Nam và có những đóng góp lớn trong vie củng

cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành tư tưởng ổn định,
thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên sức mạnh to lớn để suốt một ngàn
năm giữ vững độc lập dân tộc và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực Nho giáo cũng chứa đựng nhiều yếu
tố tiêu cực, lạc hậu kìm hãm sự phát triển nhu tư tưởng gia trưởng, trọng nam
khinh nữ, sự phụ thuộc vào giá trị tập thể bóp nghẹt đi tính sáng tạo cá nhân, tư
tưởng trọng nông ức thương, lối học hành trọng về thi cử đỗ đạt tạo nên tư
tưởng hư danh, tâm lý coi thường các hoạt động khác có ích cho xã hội….
Đến triều Nguyễn thì tư tưởng Nho giáo dần trở nên tiêu cực và lỗi thời, khơng
cịn đáp ứng được đòi hỏi lịch sử của xã hội lúc bấy giờ, người Việt Nam cần
một học thuyết tư tưởng khác cao hơn, khoa học hơn nho giáo.
Xã hội Việt Nam ngày nay được xây dựng nên sau Cách Mạng Tháng 8 năm
1945 đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, sau hàng loạt cuộc cải tạo xã hội
và đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. xã hội ta đã xác định lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động. Thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay đang hướng về các học
thuyết tiến bộ và khoa học, ra sức trau dồi các học thuyết đó, mong hội nhập
với thế giới hiện đại.
Tuy nhiên, một số yếu tố truyền thống dân tộc, những tư tưởng, thói quen, tập
tục, lễ nghi mang sắc thái Nho giáo vẫn còn hàng ngày hàng giờ ảnh hưởng tác
động đến con người hiện đại. Anh hưởng đó có phạm vi rộng khắp, từ cá nhân
cho đến gia đình và xã hội, từ sinh hoạt cho đến học tập, công tác. ảnh hưởng
đó với cá nhân là trong nếp nghĩ, tình cảm trong tác phong và phong cách sống;
với gia đình là trong gia phong, gia kỷ, gia pháp; với xã hội là trong tinh thần
và thái độ của con người trước nhiệm vụ và việc làm.
Tóm lại, có thể nói xã hội Việt Nam ngày nay còn chịu ảnh hưởng của Nho
giáo cả ở những mặt tích cực và tiêu cực, một số tư tưởng Nho giáo vẫn cịn có
giá trị thời đại cần được trân trọng kế thừa và nâng cao. Vấn đề đặt ra là phại



Tiểu luận môn Triết Học
nhận thức, lựa chọn kế thừa và cải tạo những tư tưởng đó như thế nào để phục
vụ tốt cho quá trình phát triển kinh tế xã hội Việt nam hiện nay.
2.4 KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NHỮNG TƯ TƯỞNG CỦA NHO GIÁO
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.4.1 Mối quan hệ giữa cá nhân- gia đình-xã hội
Con người sống dựa vào cộng đồng, vào xã hội của mình. Tình cảm cộng đồng,
xã hội là tình cảm tốt đẹp nhất của con người nhưng không thể chỉ nghĩ tới
cộng đồng mà không nghĩ tới cá nhân. Không thể đặt Tam Cương và Ngũ ln
như những xiềng xích trói buộc và đè nặng con người như trong xã hội phong
kiến Phương Đông. Nhưng ngược lại khơng thể chỉ biết có cá nhân mà bất chấp
lợi ích của cơng đồng như trong chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa ích kỷ trong xã
hội tư bản. Con người là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động xã hội, của
mọi tập thể cũng như mỗi cá nhân. Vấn đề của chúng ta là phải nhận thức mối
quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội "Một người lo cho tất cả, tất cả lo
cho một người" Đó là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội và của mọi xã
hội phát triển tiến bộ.
Nho giáo đặt gia đình ở một vị trí quan trọng, chú trọng xây dựng những quan
hệ tình cảm thích ứng với xã hội phong kiến và xã hội có áp bức giai cấp. Xã
hội ta cũng đặt gia đình vào một vị trí quan trọng đối với việc xây dựng xã hội
mới và con người mới. Chúng ta khai thác vai trị của gia đình trong sự nghiệp
phát triển của đất nước và cũng có những quan điểm của chúng ta về di sản
Nho giáo trong gia đình Việt Nam. Chúng ta thừa nhận gia đình có nhiệm vụ
giáo dục những phẩm chất đạo đức đầu tiên cho con người để người con tốt
trong gia đình được chuẩn bị để trở thành người dân tốt trong xã hội. Chúng ta
khơng ngừng củng cố những tình cảm tốt đẹp và sâu sắc giữa cha mẹvà con cái,
giữa vợ và chồng, giữa anh chị em với nhau. Tuy nhiên, chúng ta khơng thể
chấp nhận chủ nghĩa gia đình, đặt lợi ích của gia đình, dịng họ lên trên lợi ích
của tổ quốc của nhân dân. Cần ngăn chặn tư tưởng gia đình chủ nghĩa, thái độ
họ hàng bao che cho nhau, tạo nên tính chất bè phái giữa các dịng họ, giữa lợi

ích gia đình và lợi ích xã hội.
Cần khơi phục và đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng "gia đình văn
hóa" với nội dung mới. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề gia
đình hơm nay vừa đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước vừa khai thác những
truyền thống tốt đẹp của gia đình cũ, trong đó có những nhân tố tích cực của
Nho giáo.
2.4.2 Tư tưởng giáo dục con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã
hội
Nghị quyết hội nghị lần thứ hai ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã
chỉ rõ: “Thực sự coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu
sắc giáo dục-đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục – đào tạo là đầu tư


Tiểu luận môn Triết Học
cho phát triển”… “ Ra sức phấn đấu xây dựng một nền giáo dục tiên tiến có
quy mơ, trình độ và cơ cấu ngành nghề hợp lý. Đó là nền giáo dục thấm nhuần
sâu sắc tính nhân dân, tính dân tộc và tính hiện đại”
Những quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo hành động trên đây khơng chỉ cần
được thấm nhuần trong q trình phát triển giáo dục và khoa học cơng nghệ mà
cịn phải được quán triệt cả trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới. Khơng
phải ngẫu nhiên, sau khi cùng một lúc cho ra đời hai nghị quyết về giáo dụcđào tạo và khoa học – công nghệ, Đảng Việt Nam lại ban hành Nghị quyết về
“Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”. Có thể nói, những nghị quyết quan trọng nêu trên đặt nền móng vững
chắc cho chiến lược con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt Nam hiện nay.
Trong văn kiện đại hội Đảng IV, tư tương giáo dục, và yếu tố con người
“Nhân- Trí – Dũng – Lễ – Nghĩa” được thể hiện rõ trong chiến lược phát triển
kinh tế năm 2001-2010 như sau:
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự

phát triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển
biến cơ bản toàn diện về giáo dục và đào tạo
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, u q hương, gia đình và tự tơn dân
tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tơn trọng pháp luật, tinh
thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp
người có kiến thức cơ bản, làm chủ kỷ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả
thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ.
Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà
văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài
phải tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của tập thể và cá nhân
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.4.3 Mối quan hệ giữa Nho giáo và kinh tế
Nho giáo đề cao nông nghiệp đi đôi với việc hạ thấp cơng nghiệp, thương
nghiệp đã có tác dụng tiêu cực khơng nhỏ và sự kéo dài tình trạng trì trệ về
kinh tế ở Việt Nam. Do vậy, trong quá trình khai thác Nho giáo phải xóa bỏ sự
ràng buộc của những tư tưởng coi thường lợi ích vật chất, khinh rẻ kỹ thuật và
mạt sát cơng, thương nghiệp như nói ở trên, cần dựa vào những quan điểm hợp
ly trong Nho giáo để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, vừa khuyến khích vật
chất, vừa cổ vũ tinh thần, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, kết hợp sự tu
dưỡng đạo đức với việc tính tốn làm giàu. Chúng ta khai thác Nho giáo ở mặt
nó khuyến khích làm giàu chính đáng như câu nói của Khổng tử "Nước vơ đạo
mà anh trở nên giàu có là một điều đáng xấu hổ, nhưng nước có đạo mà anh lại
không làm giàu được cũng là một điều đáng xấu hổ" thành quan điểm "Dân
giàu, nước mạnh" Chúng ta cổ vũ mọi người làm giàu cho mình và cho đất
nước, không được làm giàu một cách phi pháp và bất nghĩa và cũng không đem
những khẩu hiệu đạo đức suông để cản trở việc làm giàu.


Tiểu luận môn Triết Học
1.4.4 Văn hóa cơng ty ảnh hưởng từ triết học Nho giáo

Tôn ti trật tự:
Trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang hình thành các tổ chức có tơn
ti trật tự thứ bậc rõ ràng, xếp ra xếp, nhân viên ra nhân viên. Người lãnh đạo
công ty cung cần phải phải thông sáng, phải bồi dưỡng kiến thức “thi – thư – lễ
– nhạc” để có đủ khả năng lãnh đạo cơng ty, đối xử cấp dưới hợp tình hợp lý.
Ngược lại, cấp dưới phải tôn trọng những ý kiến của cấp trên, mối quan hệ này
là mối quan hệ hai chiều như tư tưởng Nho giáo nguyên thuỷ.
Nhờ có những tư tưởng này, trong mỗi công ty luôn luôn tạo được môi trường
gần gũi, thân mật giữa các thành viên nhưng trong một trật tự kỷ cương. Tư
tưởng Nho giáo về tồn ti trật tự đặc biệt được ảnh hưởng rất sâu sắc trong các
công ty Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt nam cần phải học tập và
phát huy thế mạnh nhưng cần phải chú trọng đến cá nhân của mỗi thành viên,
khai thác được tính sáng tạo, tránh bị thụ động do trật tự kỷ cương.
Do lối sống cộng đồng mà người Việt Nam cịn bản tính ỷ lại vào tập thể, ít
phát huy sáng tạo, chúng ta phải có biện pháp khắc phục điểm yếu này.
Về con người
Trong quan điểm quản trị doanh nghiệp hiện nay, con người luôn là yếu tố
trung tâm của sự tồn tại và phát triển công ty, các công ty Việt Nam hiện nay
đã nhận thực được điều này và có đầu tư đúng mực vào con người. Đào tạo cả
kiến thức và văn hóa. Hướng dẫn nhân viên về “Nhân –lễ – nghĩa- trí – tín”,
hiện nay tất cả các cơng ty đều rất đề cao chữ “tín”, tín nhờ vào chất lượng sản
phẩm, tín thể hiện qua hoạt động tài chính, tín là một cách ứng xử đối với
khách hàng. Các doanh nghiệp lấy chữ tín để tồn tại và phát triển lâu dài.


Tiểu luận môn Triết Học

KẾT LUẬN
®°


N

ho giáo là học thuyết của thời đại phong kiến Phương
Đông, phục vụ cho xã hội phong kiến và giai cấp
phong kiến. Nho giáo đã từng đóng vai trị to lớn trong
lịch sử Việt Nam, có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng tình
cảm và sinh hoạt của người Việt Nam. Xã hội Việt Nam hiện nay lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động, tư tưởng Nho giáo khơng cịn
hợp thời, khơng cịn là nền tảng tư tưởng của xã hội Việt Nam nữa.
Tuy nhiên, một số yếu tố nào đó của Nho giáo vẫn cịn tồn tại, trở
thành truyền thống, thói quen, tập quán, vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến
đời sống xã hội Việt Nam.Bản thân học thuyết này cũng chứa đựng
những yếu tố có giá trị thời đại, cịn có thể phát huy tác dụng trong
xã hội ngày nay. Chính vì vậy, ta cần phải tiếp tục nghiên cứu đánh
giá đúng đắn những tư tưởng Nho giáo.Trên cơ sở căn cứ vào tình
hình thực tiễn của đất nước, xuất phát từ lợi ích của giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
với tinh thần chủ động sáng tạo chúng ta loại trừ những mặt tiêu
cực, kế thừa và phát huy yếu tố tích cực của Nho giáo nhằm mục tiêu
đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế cùng với phát triển về mọi mặt của
đất nước, đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.


Tiểu luận môn Triết Học

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Bộ mơn triết học ĐHKT-TPHCM- Đại cương lịch sử triết học- Lưu
hành nội bộ- 2001- trang 30-35

2- Lương Duy Thứ (chủ biên) - Đại cương văn hóa Phương Đơng – NXB
Giáo dục-1996- trang 26-36
3- Nguyễn Đăng Duy – Văn hóa tâm linh – NXB Hà nội – 1996 – Trang
11-53, 246-259
4- Phạm Xuân Nam – Triết lý phát triển ở Việt Nam – NXB Khoa học xã
hội – 2002 – Trang 281-337
5- Trần Ngọc Thêm – Cơ sở văn hóa Việt Nam – NXB Giáo dục – 1999 –
Trang 20, 254-268
6- Tài liệu học tại lớp.
7- Văn kiện đại hội Đảng VIII, IX – www.org.vn


Tiểu luận môn Triết Học

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO NGUYÊN THỦY ......... 2-8
1.1 Sự hình thành và phát triển của Nho giáo .................................................... 2-4
1.2 Quan điểm triết học của Nho giáo nguyên thủy............................................ 4-8
1.2.1 Quan điểm về thế giới ..................................................................... 4
1.2.2 Quan điểm về chính trị đạo đức xã hội ............................................ 4-5
1.2.3 Quan điểm về con người ................................................................. 5-7
1.2.4 Quan điểm về giáo dục.................................................................... 8
Chương 2
NHO GIÁO Ở VIỆT NAM - KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NHỮNG TƯ
TƯỞNG NHO GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT
NAM HIỆN NAY.............................................................................................. 9-15
2.1 Quá trình thâm nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam........................ 9-10
2.2 Đặc điểm của Nho giáo Việt Nam................................................................ 10-11

2.3 Vai trò của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam ............................................. 11-12
2.4 Kế thừa và phát huy những tư tưởng của Nho giáo trong phát triển kinh tế
xã hội Việt Nam hiện nay .................................................................................. 12-15
2.4.1 Mối quan hệ giữa cá nhân-gia đình-xã hội...................................... 12-23
2.4.2 Tư tưởng giáo dục con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã
hội................................................................................................. 13-14
2.4.3 Mối quan hệ giữa Nho giáo và kinh tế ............................................ 14
2.4.4 Văn hóa cơng ty ảnh hưởng từ triết học Nho giáo........................... 14-15
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 16



×