Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Tiếng Việt 3 - Từ vựng Tiếng Việt ở bậc Tiểu học: Phần 2 - Hoàng Tất Thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 81 trang )

Chương 3:

NGHĨA CỦA TỪ
VÀ HỆ THỐNG Ý NGHĨA CỦA TỪ TIẾNG VIỆT

3.1 NGHĨA CỦA TỪ
3.1.1 “Nghĩa”, “Ý nghĩa” là gì?
Theo cách hiểu thông thường, nghĩa hay ý nghĩa là nội dung mà người tiếp
nhận hiểu được khi tiếp nhận (nghe, nhìn) một hình thức vật chất nào đó. Ví dụ:
vào những lúc chiều tối, ta nhìn thấy ở chân trời phía tây màu vàng rực như
màu mỡ gà (người Việt gọi là ráng mỡ gà) thì ta hiểu được là trời sẽ có gió bão.
Vào những ngày hè khơ hạn, buổi sáng ra đồng ta thấy mặt ruộng đọng lại
những vũng nước, ta hiểu được là đêm qua trời có mưa lớn. Khi nghe tiếng
trống ở trường vang lên vào lúc 7 giờ sáng, ta hiểu đó là giờ học đã bắt đầu.
Khi nghe câu nói:”Kiến bị vào nhà thế này là trời sắp mưa to, lụt lớn”, ta hiểu
được thời tiết sẽ thay đổi “trời sắp mưa to, lụt lớn”,…
Nếu ta tiếp nhận hình thức vật chất là lời nói, ta thường nghe những từ ngữ như
nghĩa là, có nghĩa là, tức là, được hiểu là,…dùng khi giải thích nội dung cho
một dấu hiệu, một sự kiện, một từ ngữ, một câu nói,.. nào đó.
Những nội dung mà người tiếp nhận hiểu được: trời sẽ có gió bão, đêm qua
trời có mưa lớn, giờ học bắt đầu, trời sắp mưa to, lụt lớn,.. được gọi là nghĩa (ý
nghĩa).
Như vậy, “nghĩa” thường được hiểu là những nội dung mà các dấu hiệu hay
tín hiệu vật chất phản ánh.
Theo lí thuyết tín hiệu học thì dấu hiệu khác với tín hiêu. Dấu hiệu (cịn gọi là
tín hiệu tự nhiên) là những dạng vật chất (âm thanh, ánh sáng, màu sắc, chất
liệu,..) tồn tại khách quan trong tự nhiên như trăng quầng, trăng tán, ráng mỡ
gà, măng mọc giữa bụi tre, kiến tha mồi, ong làm tổ trong nhà,…Những dấu
hiệu vật chất kể trên đều có nội dung, tức là có “nghĩa”.
Tín hiệu (cịn gọi là tín hiệu nhân tạo) là những hình thức vật chất do con người
lựa chọn để truyền đạt một nội dung thông tin – một nghĩa - nào đó. Chẳng hạn,


các hình thức vật chất như đèn giao thông ở ngã tư đường phố, hệ thống biển
báo giao thơng đường bộ, tíêng cịi tàu, tiếng chng, tiếng trống trường,… đều
67


là những tín hiệu do con người lựa chọn và sử dụng để truyền đạt một nội dung
thông tin – một nghĩa (ý nghĩa) – nào đó.
Đã là tín hiệu thì bao giờ cũng có hai mặt, đó là sự thống nhất giữa mặt hình
thức vật chất và mặt nội dung thơng tin (nói khái qt hơn là sự thống nhất giữa
cái biểu đạt – CBĐ - và cái được biểu đạt - CĐBĐ).
Ví dụ: Hệ thống tín hiệu đèn giao thơng
Hình thức Cái biểu đạt
Nội dung
Cái được
(nghĩa,ý nghĩa) Biểu đạt

màu xanh
Bạn được đi

màu vàng
màu đỏ
Bạn đi chậm Bạn dừng lại

Đối với tín hiệu ngơn ngữ cũng vậy. Khi ta nghe một câu “Trời nắng như lửa
đốt”, người nghe hiểu thơng tin mà người nói muốn truyền đạt là vào thời điểm
và địa điểm mà người nói và người nghe đang đề cập tới xảy ra tình trạng “trời
nắng dữ dội”. Muốn hiểu được nghĩa của câu này, trước hết, người nghe phải
hiểu nghĩa của các từ trời, nắng, dữ dội, hiểu nghĩa của kết cấu trời nắng như
lửa đốt. Đồng thời, người nghe còn phải biết chinh xác cái thời điểm và địa điểm
xảy ra tình trạng “trời nắng dữ dội”. Ngồi ra, người nghe có thể hiểu thêm được

các thơng điệp hàm ý từ câu nói như khơng nên đi ra ngoài, đợi lúc nào trời bớt
nắng, nên tiến hành lúc trời dịu mát, nên tránh thời điểm nắng to có hại cho sức
khỏe,…
Như vậy, cái biểu đạt là chuỗi âm thanh “Trời nắng như lửa đốt”
Cái được biểu đạt là vào thời điểm và địa điểm mà người nói và
người nghe đang đề cập tới xảy ra tình trạng “trời nắng dữ dội”. khơng nên đi
ra ngồi, đợi lúc nào trời bớt nắng, nên tiến hành lúc trời dịu mát, nên tránh
thời điểm nắng to có hại cho sức khỏe,…
Qua các ví dụ phân tích ở trên cho thấy, nghĩa là phần nội dung phản ánh hiện
thực vào nhận thức thơng qua hình thức biểu thị của một tín hiệu. Nói cách khác,
thơng điệp truyền đi qua một tín hiệu chính là nghĩa. Nghĩa là mặt nội dung, là
cái được biểu đạt của tín hiệu.
68


3.1.2 Nghĩa của từ
Từ trước đến nay, đã có nhiều quan niệm khác nhau về nghĩa của từ. Có quan
niệm cho rằng nghĩa của từ là sự vật, hiện tượng, tính chất,.. mà từ biểu thị. Ví
dụ: nghĩa của từ “con bị” chính là con bị; nghĩa của từ “bầu trời” chính là bầu
trời; nghĩa của từ “yêu thương” là tình cảm yêu thương,..Như vậy quan niệm này
đã đồng nhất nghĩa của từ với chính đối tượng mà từ biểu thị. Quan niệm này sai
lầm ở chỗ là đã đồng nhất giữa một đối tượng thuộc về tinh thần với một đối
tượng vật chất. Vì vậy, có người đã dí dỏm rằng nghĩa của từ có thể bị gãy
xương, cảm cúm,..
Cũng có quan niệm cho rằng nghĩa của từ là khái niệm về đối tựơng mà từ
biểu thị. Quan niệm này đã đồng nhất nghĩa của từ và khái niệm. Tuy cả hai đều
là đối tượng tinh thần nhưng khái niệm là kết quả của nhận thức khoa học (khái
niệm là tổng thể những thuộc tính bản chất bên trong của đối tượng), trong khi
nghĩa của từ là những hiểu biết thơng thường của cộng đồng người nói qua trải
nghiệm thực tiễn. Ví dụ, khái niệm “nước” là “một hợp chất gồm ơxy và hydrơ”,

do các nhà hóa học nghiên cứu, phân tích và thể hiện bằng cơng thức H2O. Trái
lại, nghĩa của từ “nước” mà cộng đồng người Việt hiểu là biểu thị “một loại chất
lỏng, không màu, không mùi, không vị, uống được, cần thiết cho sự sống của
các cơ thể sinh vật”.
Như vậy, nghĩa của từ không phải là đối tượng, cũng không phải là khái niệm,
nhưng lại liên quan đến đối tượng và khái niệm. Nghĩa của mỗi từ được cộng
đồng ngôn ngữ thừa nhận như một quy ước chung về quan hệ giữa vỏ âm thanh
(cái biểu đạt) và nội dung biểu thị (cái được biểu đạt) của từ. Chẳng hạn, trong
thực tế có nhiều cây, loại cây: cam, chanh, chuối, bưởi, lúa, sắn, khoai, lim, sến,
táu, cà phê, cao su,….Vô vàn cái cây ấy được phản ánh vào tư duy, được tư duy
nhận thức rằng, chúng có chung những đặc điểm, thuộc tính: có thân, cành, lá,
rễ; sống nhờ đất, nước, ánh sáng mặt trời,… đó là khái niệm về cây và được
người Việt gọi bằng một tổ hợp âm thanh CÂY. Khi nghe tập hợp âm thanh này,
lập tức trong đầu mỗi người Việt phát sinh ra sự liên tưởng về sự vật “cây” trong
thực tế.
69


Nghĩa của từ phải được hiểu là nội dung biểu thị sự vật, hiện tượng trong thực
tế khách quan bằng một tổ hợp âm thanh của từ. Nói cách khác, nghĩa của từ là
mối quan hệ giữa từ với sự vật hay khái niệm, biểu tượng trong thực tế khách
quan.
Vì vậy, nghĩa của từ không phải là một thực thể đơn nhất mà là là một phức
thể, gồm nhiều thành phần bên trong tạo thành một cấu trúc nghĩa. Mỗi từ vừa
mang ý nghĩa khái quát của cả một lớp từ, vừa mang nghĩa riêng của từ đó mà
các từ khác khơng có. Trong từng hồn cảnh cụ thể, nghĩa của từ lại được bộc lộ
một cách cụ thể. Ví dụ: từ cắt có nghĩa chỉ hoạt động làm rời vật bằng dụng cụ
sắc (cùng nghĩa với chặt, bổ, cưa, đục, xẻo,..), dụng cụ để cắt là dao hoặc kéo,
đối tượng cắt là các vật mềm, mỏng như thịt, cá, rau, vải,…Nếu sử dụng theo
quan hệ chuyển nghĩa thì cắt (quan hệ), cắt (thi đua),.. lại mang nghĩa khác.

3.1.3 Các thành phần nghĩa của từ
Như đã nói, nghĩa của từ không phải là đối tượng, cũng không phải là khái
niệm, nhưng lại liên quan trực tiếp đến đối tượng và khái niệm. Để nhận thức
đầy đủ các thành phần trong cấu trúc nghĩa của từ, người ta thường dựa vào cấu
trúc tam giác nghĩa sau đây:
Từ ngữ âm

Đối tượng
(cái biểu vật)

Khái niệm
(cái biểu niệm)

Các thành phần nghĩa của từ được nhận thức từ mối quan hệ giữa các yếu tố
trong cấu trúc tam giác nghĩa nói trên. Theo đó, nghĩa của từ bao gồm các thành
phần nghĩa sau đây:
a) Nghĩa biểu vật: là thành phần nghĩa hình thành từ mối quan hệ giữa từ ngữ
âm với đối tượng (cái biểu vật).
70


b) Nghĩa biểu niệm: là thành phân nghĩa hình thành từ mối quan hệ giữa từ
ngữ âm với khái niệm (cái biểu niệm).
c) Nghĩa biểu thái: là thành phần nghĩa hình thành từ mối quan hệ giữa từ ngữ
âm với người sử dụng.
d) Nghĩa ngữ pháp: là thành phần nghĩa hình thành từ mối quan hệ giữa từ này
với các từ khác trong cấu trúc.
e) Nghĩa liên tưởng: là thành phần nghĩa hình thành từ mối quan hệ giữa từ với
ngữ cảnh mà nó tồn tại.
3.1.3.1 Nghĩa biểu vật. Đó là mối quan hệ của từ ngữ âm với đối tượng mà từ

biểu thị.
Đối tượng mà từ biểu thị không phải chỉ là các sự vật, hiện tượng mà còn là
hành động, q trình, tính chất,…Ví dụ: từ đi là từ biểu thị hoạt động dời chỗ
của các đối tượng trong hiện thực như người, động vật; với tốc độ nhanh, chậm;
với cách thức, phương tiện khác nhau như bằng chân, tập tễnh, bằng xe đạp, ôtô,
máy bay,... Khái quát chung cho tất cả các tính chất, đặc điểm của hoạt động nói
trên được gọi bằng từ đi với nghĩa “chỉ hoạt động di chuyển dời chỗ của người
hoặc động vật”. Đó là nghĩa biểu vật của từ đi. Nghĩa biểu vật của từ nhà là hình
ảnh khái quát chung về sự vật có mái, tường, cửa ra vào,…dù đó là nhà tranh,
nhà xây, nhà lá, nhà lầu, nhà kho hay nhà ở,… Hay nghĩa biểu vật của các từ
trong trẻo, trong trắng, trong suốt,.. là “tinh khiết, không gợn đục, khơng pha
tạp”…
Có thể hiểu nghĩa biểu vật là phần nghĩa gợi ra cái hình ảnh khái quát về đối
tượng mà từ biểu thị. Hiện thực tồn tại trong thực tế khách quan rất đa dạng và
phong phú, mang tính cụ thể, riêng lẻ nhưng nghĩa biểu vật của từ lại mang tính
khái quát. Đối tượng mà từ biểu thị có thể gồm các đối tượng ngồi ngơn ngữ
lẫn các đối tượng thuộc ngôn ngữ. Các đối tượng thực tế ngồi ngơn ngữ có thể
gồm cả các sự vật khác nhau, những thuộc tính, hành động, phẩm chất, quan hệ
vốn có đối với các sự vật ấy lẫn những đối tượng hoang đường không tồn tại
trong thực tế như ma, quỷ, thần, thánh,…Các đối tượng thuộc ngôn ngữ gồm
những hiện tượng được biểu thị bằng các thuật ngữ ngôn ngữ học như cụm từ,
71


hình vị, âm vị, âm tố,… và những thơng báo về các quan hệ trong hệ thống ngôn
ngữ được biểu thị bằng các hư từ như liên từ, giới từ, đại từ,…
3.1.3.2 Nghĩa biểu niệm. Đó là mối quan hệ giữa từ ngữ âm với khái niệm về
đối tượng mà từ biểu thị.
a) Đối tượng trong hiện thực phản ánh vào tư duy con người hình thành các
khái niệm. Các thuộc tính nội hàm của khái niệm được ngơn ngữ hóa thành

nghĩa biểu niệm của từ. Nói cách khác, nghĩa biểu niệm là nghĩa được xác định
từ mối quan hệ giữa từ với sự phản ánh, sự nhận thức của tư duy về những đặc
điểm, thuộc tính, tính chất,.. của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Sự vật “nhà” có các thuộc tính “tường, mái, nền, cửa, để che mưa nắng”
tạo nên nghĩa biểu niệm của từ nhà; hoạt động “ăn” có các thuộc tính “hoạt động
đưa thức ăn vào ni sống cơ thể người, động vật” tạo nên nghĩa biểu niệm của
từ ăn; trạng thái “chín” của trái cây có thuộc tính “trạng thái của quả ở vào giai
đoạn phát triển đầy đủ nhất; thường có màu đỏ hoặc vàng; có hương vị thơm”
tạo thành nghĩa biểu niệm của từ chín.
Mỗi khái niệm có thể ứng với nhiều đối tượng cụ thể khác nhau, tức là nó có
quan hệ với cả một lớp hạng đối tượng trong thực tế. Chẳng hạn khái niệm
“bàn” có quan hệ với tất cả các loại bàn khác nhau trong thực tế: bàn sắt, bàn
nhựa, bàn gỗ, bàn trịn, bàn vng, bàn ba chân, bàn bốn chân,…Ngược lại,
mỗi đối tượng duy nhất có thể thuộc vào những khái niệm khác nhau. Chẳng
hạn, cùng một đối tượng là “bàn gỗ” nhưng có khi thuộc về bàn học (bàn để
ngồi học), có khi thuộc về bàn văn phịng (bàn làm việc tại văn phịng), lại có
khi thuộc về bàn ăn,…
Nếu so sánh giữa nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm ta có thể thấy nghĩa biểu
vật là sự ngơn ngữ hóa sự vật ngồi đời trong khi nghĩa biểu niệm là sự ngơn
ngữ hóa khái niệm về sự vật. Như vậy cũng có thể nói nghĩa biểu niệm của một
từ còn do quan hệ giữa các nghĩa biểu niệm trong từ vựng của một ngôn ngữ tạo
nên.
Khác với nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm vừa là những hiểu biết về nghĩa biểu
vật, vừa do quan hệ giữa các nghĩa biểu niệm trong từ vựng của một ngôn ngữ
72


tạo nên, do đó nghĩa biểu niệm là một cấu trúc phức tạp, gồm các nghĩa vị và
nghĩa tố (nét nghĩa) bên trong.
b) Cấu trúc nghĩa biểu niệm.

Các yếu tố tạo nên cấu trúc nghĩa biểu niệm là nghĩa vị và nét nghĩa (nghĩa tố).
* Nghĩa vị là thành tố nghĩa gọi tên cho một đối tượng hoặc một tập hợp đối
tượng. Mỗi từ có thể được dùng để gọi tên cho một hoặc nhiều sự vật, hiện
tượng hoặc trạng thái, tính chất,…khác nhau. Do đó, mỗi từ có thể có một hoặc
nhiều nghĩa vị.
Ví dụ: - Từ bắt nạt có nghĩa “cậy thế, cậy quyền dọa dẫm để làm cho phải sợ”,
có một nghĩa vị.
- Từ khóm có nghĩa “chỉ tập hợp gồm một ít cây cối hay một ít vật đứng
chụm vào nhau”, có một nghĩa vị.
- Từ nóng có các nghĩa: 1. Có nhiệt độ cao hơn so với nhiệt độ cơ thể
người, hoặc cao hơn mức được coi là trung bình (canh nóng, trời nóng). 2. Dễ
nổi cơn tức giận, khó kìm giữ được những phản ứng thiếu suy nghĩ do q tức
giận (nóng tính, nóng mặt). 3. Có sự mong muốn thơi thúc cao độ về điều gi
(nóng lịng). 4. Vay mượn gấp và chỉ tạm trong thời gian ngắn (vay nóng). 5.
Màu thiên về vàng, đỏ gợi cảm giác nóng bức (gam màu nóng). Từ nóng có 5
nghĩa vị.
- Từ mũi có các nghĩa: 1. Bộ phận nhô lên ở giữa mặt người và động vật
có xương sống, là cơ quan dùng để thở, để ngửi (cái mũi, lỗ mũi). 2. Chất nhầy
tiết ra ở mũi (nước mũi, mũi dãi, xì mũi). 3. Bộ phân có đầu nhọn nhơ ra phía
trước của một số vật (mũi tên, mũi thuyền, mũi kéo). 4. Mỏm đất nhô ra biển
(Đất mũi, mũi Cà Mau). 5. Bộ phận lực lượng có nhiệm vụ tất cơng theo một
hướng nhất định (mũi tấn cơng). Từ mũi có 5 nghĩa vị.
Những từ chỉ có một nghĩa vị gọi là từ đơn nghĩa. Những từ có nhiều nghĩa vị
gọi là từ đa nghĩa.
* Nét nghĩa (nghĩa tố) là những thành tố nghĩa trong một nghĩa vị. Một nghĩa
vị có thể bao gồm một hoặc nhiều nét nghĩa. Chẳng hạn, nghĩa vị (1) của từ mũi
có hai nét nghĩa: 1. Bộ phận nhơ lên ở giữa mặt người và động vật có xương
sống. 2. Là cơ quan dùng để thở, để ngửi.
73



* Như đã nói, nghĩa biểu niệm là một cấu trúc do các nét nghĩa, tức là các yếu
tố ngữ nghĩa nhỏ nhất hợp thành. Các nét nghĩa này một phần phản ánh các
thuộc tính của sự vật ngồi ngơn ngữ, một phần được hình thành từ cấu trúc
ngơn ngữ. Chẳng hạn, từ thóc có các nét nghĩa:
- sự vật vật chất
- dạng hạt
- của cây lúa
- còn nguyên vỏ trấu, chưa bị xay giả
- được gặt về, tách khỏi bơng lúa
- làm ngun liệu để chế biến lương thực
Đó là cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ thóc. Trong đó các nét nghĩa:
- cịn ngun vỏ trấu, chưa bị xay giả
- được gặt về, tách khỏi bông lúa
- làm nguyên liệu để chế biến lương thực
là những nét nghĩa bị quy định bởi các từ lúa, gạo, cơm, nghĩa là được hình
thành từ trong cấu trúc của ngơn ngữ.
Từ cánh có các nét nghĩa: - Bộ phận để bay của chim, cơn trùng
- Có hình tấm mỏng, trọng lượng nhẹ
- Kết cấu đối xứng qua trục thân
- Khi bay tạo ra gió
Đó là cấu trúc nghĩa của từ cánh.
Mỗi nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của một từ nào đó có thể có mặt
trong nghĩa biểu niệm của nhiều từ khác nhau. Chẳng hạn, nét nghĩa “di chuyển,
dời chỗ của người, động vật” trong từ đi còn gặp trong nghĩa biểu niệm của các
từ bơi, bò, lăn. Nét nghĩa “để che mưa, che nắng” của từ nhà cịn gặp trong
nghĩa biểu niệm của các từ nón, dù, ô. Nét nghĩa “làm sạch bằng nước” của từ
rửa cũng có mặt trong nghĩa biểu niệm của các từ vo, giặt, gội, tắm.
3.1.3.3 Nghĩa biểu thái (nghĩa ngữ dụng) là thành phần nghĩa hình thành từ
mối quan hệ giữa từ ngữ âm với người sử dụng. Nói cách khác, đó là thành phần

nghĩa phản ánh thái độ, tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá của người nói, người viết
đối với đối tượng được nói đến. Chúng ta biết rằng ngơn ngữ là tài sản chung
74


của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Nó luôn luôn vô can với tất cả mọi
người, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, địa vị xã hội. Nhưng người sử dụng
ngôn ngữ lại không bao giờ tỏ ra vơ can đối với nó. Nghĩa biểu thái là thành
phần nghĩa hình thành trên cơ sở đối lập giữa các từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc
cơ sở chuyển nghĩa ở trong từng văn cảnh cụ thể.
Chẳng hạn, cũng nét nghĩa “ sự vật do con người chế tạo, bằng nguyên liệu
đặc biệt, có động cơ, bay được trên khơng, tốc độ rất nhanh,..” nhưng khi nói
đến các sự vật ấy của kẻ thù, trong văn chương thường dùng các từ quạ sắt, quạ
đen, diều hâu,…Khi miêu tả sự vật ấy trong các buổi, diễu hành, duyệt binh của
ta, người ta lại dùng các từ bồ câu trắng, chim hịa bình, én bạc,…Việc sử dụng
các từ ngữ ấy rõ ràng đã bộc lộ thái độ, cách nhìn chủ quan của người nói.
Hai từ ngoan cố và ngoan cường đều có nét nghĩa “không khuất phục đối
phương, dù đối phương dùng đủ mọi cách để tra khảo, khai thác” nhưng từ
ngoan cố mang nét nghĩa xấu, còn từ ngoan cường lại mang nét nghĩa tốt. Cùng
nét nghĩa biểu niệm “chuyển quyền sở hữu của mình cho một người khác đối
với tiền, vàng hoặc vật quý, hiếm,…” nhưng các từ cho, biếu, tặng, hối lộ,
cúng,..mang những nét nghĩa biểu thái khác nhau.
Cũng là từ mò nhưng khi sử dụng trong văn cảnh mò con cá trong chậu thì
mang nghĩa biểu thái bình thường (trung hòa về sắc thái), nhưng khi sử dụng
trong văn cảnh khuya rồi còn mò đi đâu?lại mang sắc thái nghĩa xấu “ người nói
tỏ thái độ khơng hài lịng”. Trong một đoạn văn miêu tả cảnh mùa xuân đến, nhà
văn Nguyễn Kiên đã sử dụng các từ thím, chú, anh, bác để gọi các lồi chim
mng với thái độ trìu mến, gần gũi, thân thương “Những thím chích chịe
nhanh nhảu, những chú khướu lắm điều, những anh chào mào đỏm dáng, những
bác cu gáy trầm ngâm”.

3.1.3.4 Nghĩa ngữ pháp (nghĩa kết cấu) là thành phần nghĩa hình thành từ mối
quan hệ giữa các từ trong cấu trúc. Chúng ta đã biết rằng mỗi từ luôn luôn nằm
trong một hệ thống từ vựng, có quan hệ phức tạp và đa dạng với các từ khác.
Nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm của từ trong các ngơn ngữ đều có quan hệ với
việc nhận thức hiện thực khách quan, nhưng nghĩa ngữ pháp lại thể hiện mối
quan hệ giữa các kết quả nhận thức hiện thực đã được ngôn ngữ phạm trù hóa.
75


Thêm nữa, các từ trong một ngôn ngữ được phân chia thành các từ loại. Mỗi từ
loại lớn lại được phân chia thành các tiểu loại. Đồng thời, chúng ta cũng đã nhận
thức được rằng nghĩa biểu niệm của từ là một cấu trúc trong đó bao gồm nhiều
nét nghĩa. Cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ như một cái khuôn chung biểu thị
nghĩa từ loại, tức là ý nghĩa ngữ pháp của từ đó.
Chẳng hạn, khi so sánh các nhóm từ:
a) Các từ ra, vào, lên, xuống,..có khn chung: hoạt động/ vận động dời
chỗ/khơng có cách thức/ theo hướng…so với điểm xuất phát hay điểm tới.
b) Các từ bò, lăn, trườn, chạy, bay, đi,… có khn chung: hoạt động/ vận động
dời chỗ/ theo những cách thức nhất định/ không có hướng.
Khn chung của hai nhóm từ này là: hoạt động/ vận động dời chỗ. Đó chính
là ý nghĩa ngữ pháp của các từ trong hai nhóm trên.
Nếu so sánh hai nhóm trên với nhóm thứ ba:
c) Các từ đẩy, xơ, ném, kéo, phóng, bắn,… có khn chung: hoạt động/ làm
cho vật khác dời chỗ/ theo những cách thức nhất định/ theo những hướng nhất
định so với vật tạo ra lực.
thì khn chung của cả ba nhóm từ là: hoạt động, ý nghĩa từ loại chung nhất
của từ loại động từ.
Như vậy, ý nghĩa ngữ pháp có thể bao gồm một hoặc một tập hợp các nét
nghĩa trong nghĩa biểu niệm của từ.
Ý nghĩa ngữ pháp của từ còn thể hiện ở mối quan hệ kết hợp của từ đó với các

từ khác. Trong tiếng Việt, hai từ anh trai và chị gái thường được dùng để nói
đến anh ruột, chị ruột. Thoạt nghe ta cứ nghĩ nói như vậy là thừa vì từ anh có
nghĩa giới tính là “trai”, từ chị có nghĩa giới tính là “gái” rồi. Nhưng khi đặt các
từ anh trai, chị gái trong hệ thống loạt từ anh họ, anh cả, anh rể, anh nuôi,..; chị
dâu, chị ni, chị cả, chị họ,…thì ta sẽ thấy:
- Yếu tố anh có các nét nghĩa: một người đàn ơng/ đẻ ra trước mình
- Yếu tố chị có các nét nghĩa: một người đàn bà/ đẻ ra trước mình
Như vậy hai yếu tố trai và gái cùng chỉ một ý “cùng bố mẹ đẻ với mình”. Rõ
ràng, trai và gái vốn là hai yếu tố trái nghĩa, mang nét nghĩa đối lập về giới,
nhưng lại đặt trong mối quan hệ kết hợp với hai yếu tố trái nghĩa khác (anh và
76


chị, cũng có nét nghĩa đối lập về giới), thì trai và gái lại trở thành các yếu tố
đồng nghĩa.
Cũng cần lưu ý rằng, từ tiếng Việt có đặc điểm là khơng có các dấu hiệu từ loại
trong bản thân từ nên hiện tượng chuyển từ loại khá phổ biến. Chuyển từ loại có
nghĩa là ý nghĩa ngữ pháp đã thay đổi. Chuyển từ loại có nghĩa là nghĩa biểu
niệm của từ đi từ khuôn chung này (ý nghĩa từ loại này) sang khuôn chung khác
(ý nghĩa từ loại khác hay ý nghĩa tiểu loại khác).
Ví dụ: - từ điện có khn từ loại: sự vật/ vật lí/ dạng năng lượng
Và từ điện đã chuyển sang khuôn từ loại: hoạt động/ vật lí/ chuyển đi
một thơng điệp.
Như vậy, ý nghĩa ngữ pháp của từ điện đã thay đổi.
3.1.3.5 Nghĩa liên tưởng (nghĩa liên hội, nghĩa văn cảnh)
Nghĩa liên tưởng là thành phần nghĩa hình thành từ mối quan hệ giữa từ với
văn cảnh mà nó tồn tại. Mỗi từ do được sử dụng trong những văn cảnh cụ thể,
do kinh nghiệm của từng người khi tiếp xúc với sự vật được nó gọi tên cho nên
nó có thể gợi ra những liên tưởng cho cả một lớp người hay từng cá nhân.
Ví dụ: Cũng là cụm từ cánh đồng quê nhưng khi ta nghe câu: Ôi! Những cánh

đồng quê ngập nước thì cánh đồng quê gợi cho ta hình dung về “một vùng đất
thường dùng để trồng lúa, hoa màu, cây lương thực đã bị ngập lụt do thiên tai”.
Nhưng trong câu: Ơi! Những cách đồng q chảy máu thì cánh đồng quê
(Nguyễn Đình Thi) lại gợi cho ta hình dung về “hình ảnh của cuộc sống bình
yên đã bị bom đạn chiến tranh tàn phá, cày xới tan nát”. Cũng là từ mặt trời, khi
nghe câu: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng (Viễn Phương) thì mặt trời được
hiểu “là một hành tinh trong thái dương hệ cách trái đất nhiều triệu năm ánh
sáng, hàng ngày xuất hiện ở hướng Đông và biến mất ở hướng Tây; ánh sáng
của nó giúp con người nhìn rõ mọi vật, duy trì sự sống trên trái đất”. Nhưng
trong câu: Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ (Viễn Phương) thì từ mặt trời lại
không mang nghĩa trên mà biểu thị “Chủ tịch Hồ Chí Minh – người mang lại sự
sống, niềm hạnh phúc cho toàn dân tộc, được tỏa sáng bao la”.
Tương tự, khi dùng từ chuột để nói về con người, người ta thường liên tưởng
đến nghĩa “đục khoét, tham nhũng, bịn rút của dân”; khi nói chậm như sên,
77


người ta liên tưởng đến nghĩa “sự chậm chạp”; khi nhắc đến vận đỏ, vận đen,
người ta liên tưởng đến “sự may, rủi”,…
3.2 HỆ THỐNG Ý NGHĨA CỦA TỪ
3.2.1 Hiện tượng biến đổi nghĩa của từ
3.2.1.1 Biến đổi nghĩa của từ là gì?
Biến đổi nghĩa của từ là sự chuyển đổi từ việc biểu thị đối tượng này sang biểu
thị đối tượng khác trong cùng một hình thức âm thanh (từ ngữ âm).
Ví dụ: từ cây được dùng để chỉ “lồi thực vật có thân, lá, rễ, sống nhờ đất,
nước và ánh sáng mặt trời” (cây tre, cây bưởi,..). nhưng âm thanh cây ấy lại có
thể dùng biểu thị cho “sự vật được chôn, dựng thẳng đứng tại một chỗ cố định
để treo mắc” (cây cột điện); “vật để thắp sáng, hình trụ, làm bằng sáp mỡ, ở giữa
có sợi bấc” cũng được gọi là cây (cây nến); “sự vật dài thẳng, có mũi nhọn, có
lõi bên trong bằng chì, mực, dùng để viết lên giấy, vải”,..cũng được gọi là cây

(cây bút),…
Từ ăn có nghĩa “đưa thức ăn vào miệng, nhai, nuốt, nuôi sống cơ thể” (ăn cơm,
ăn rau), lại cũng có nghĩa “phải nhận lấy cái khơng hay” (ăn địn), và cịn có
nghĩa biểu thị “sự gắn kết chặt vào nhau” (phanh ăn), hay chỉ “sự tiêu tốn” (xe
ăn xăng),…
Từ tổ chức có nghĩa chỉ “hoạt động sắp xép, bố trí thành các bộ phận để cùng
thực hiện một nhiệm vụ, hoặc một chức năng chung” (tổ chức đội ngũ cán bộ),
lại cũng có nghĩa “sắp xếp, bố trí để làm cho có trật tự, có nền nếp” (tổ chức nền
nếp sinh hoạt), và cũng có nghĩa chỉ “người làm công tác tổ chức cán bộ” (tổ
chức sẽ giải quyết),...
Trong nội bộ của các từ cây, ăn, tổ chức đã có sự biến đổi nghĩa.
3.2.1.2 Nguyên nhân biến đổi nghĩa của từ
Có hai nguyên nhân biến đổi nghĩa của từ: nguyên nhân nội tại và nguyên
nhân ngoại tại (hay cịn gọi là ngun nhân thuộc về cấu trúc ngơn ngữ và
nguyên nhân xã hội).
Nguyên nhân nội tại bắt nguồn từ đặc tính tiết kiệm của ngơn ngữ khơng cho
phép số lượng từ vựng tăng mãi lên được. Nếu mỗi lần nảy sinh nhu cầu biểu đạt
78


một nghĩa mới (do sự vật, hiện tượng, khái niệm mới xuất hiện) lại phải có một
hình thức âm thanh hồn tồn mới khơng trùng lặp với bất kì một hình thức âm
thanh nào đã được dùng để gọi tên trước đó thì số lượng từ sẽ tăng lên khơng kể
xiết, bộ máy ngôn ngữ sẽ hết sức cồng kềnh. Việc nhận thức, ghi nhớ các từ để
sử dụng sẽ rất khó khăn.
Nguyên nhân ngoại tại thể hiện ở hai khía cạnh: thứ nhất, thế giới hiện thực
khách quan ln luôn vận động, biến đổi, và phát triển không ngừng như nhà
triết học cổ đại Hêraclít đã dùng hình ảnh “con người khơng bao giờ tắm hai lần
trên một dịng sơng”. Có nhiều sự vật, hiện tượng mất đi, lại có nhiều sự vật hiện
tượng mới nảy sinh. Chẳng hạn, cũng là sự vật có chức năng tạo gió, làm mát

khí hậu xung quanh mình,…nhưng cái quạt tạo gió bằng lực của tay (quạt tre,
quạt nan, quạt giấy, quạt mo,…) chắc chắn phải xuất hiện trước loại quạt tạo gió
bằng mơ tơ điện năng (quạt điện, máy điều hịa nhiệt độ,…). Thứ hai, quá trình
nhận thức của con người như những nấc thang, càng ngày càng nhận thức sâu
sắc và đầy đủ hơn về bản chất của các đối tượng trong thế giới hiện thực. Chẳng
hạn, từ xa xưa, để tạo ra luồng gió làm mát cơ thể, con người đã biết sử dụng các
vật liệu như mo cau, tre, giấy,.. để tạo ra những sự vật như quạt tre, quạt nan,
quạt giấy, quạt mo,…Về sau, khi khoa học kĩ thuật phát triển, con người đã biết
sử dụng các loại vật liệu như nhựa tổng hợp, kim loại,.. để chế tạo ra các thiết bị
máy móc tạo gió bằng nguồn điện năng như quạt điện, máy điều hòa nhệt độ,..
3.2.1.3 Quy luật biến đổi nghĩa của từ
Như đã nói, nguyên nhân biến đổi nghĩa của từ vừa có nguyên nhân nội tại (từ
nội bộ bản thân hệ thống - cấu trúc ngơn ngữ), vừa có ngun nhân ngoại tại (từ
thế giới hiện thực khách quan và quá trình nhận thức của con người). Theo đó,
quy luật biến đổi nghĩa của từ cũng đi theo hai hướng trái ngược nhau: mở rộng
nghĩa và thu hẹp nghĩa.
a) Mở rộng nghĩa là quy luật biến đổi nghĩa từ cái riêng đến cái chung, từ cái
cụ thể xác định đến cái khái quát, trừu tượng. Chẳng hạn, từ chua vốn có nghĩa
chỉ tính chất của trái cây (chanh chua thì khế cũng chua – Ca dao), sau còn được
dùng để chỉ cả đất trồng có chứa nhiều phèn (đất chua), chỉ các sự vật đã lên
men (cải chua), chỉ người khó lay chuyển (ơng ấy chua lắm), chỉ người lắm lời
79


(chua ngoa),…Từ đỏ có nghĩa chỉ màu sắc của sự vật (cờ đỏ, áo đỏ), sau còn
được dùng để chỉ sự may mắn (số đỏ, đen bạc đỏ tình), dùng để chỉ việc nấu ăn
(ngày ba lần đỏ lửa), chỉ người tuyệt đối trung thành với đảng cộng sản (cậu ấy
đỏ từ đầu đến chân),…
Như vậy, các từ chua, đỏ đã có sự chuyển nghĩa trong nội bộ từ theo hướng mở
rộng nghĩa.

b) Thu hẹp nghĩa là quy luật biến đổi nghĩa từ cái chung đến cái riêng, từ cái
khái quát, trừu tượng đến cái cụ thể xác định. Chẳng hạn, từ khốn nạn trước đây
có nghĩa chỉ tất cả những ai gặp phải hồn cảnh hoạn nạn, khốn khó (khốn nạn
thân tôi, nhà bác ấy khốn nạn thật), nay nghĩa bị thu hẹp để biểu thị người có
suy nghĩ và hành động không tốt, xấu xa,..(đồ khốn nạn). Từ thành tích lúc đầu
có nghĩa chỉ những kết quả đã đạt được, nhưng hiện nay nghĩa bị thu hẹp để chỉ
kết quả cao nhất.
3.2.1.4 Biến đổi nghĩa của từ - cơ sở hình thành ẩn dụ và hốn dụ
a) Ẩn dụ là cách biến đổi nghĩa từ dựa vào những thuộc tính tương đồng giữa
các đối tượng. Nói cách khác, ẩn dụ là cách lấy tên gọi của đối tượng này (A) để
gọi tên đối tượng kia (B) dựa trên cơ sở thuộc tính giống nhau giữa hai đối
tượng (A và B).
Ví dụ: từ mũi có nghĩa chỉ “bộ phận nhơ cao phía trước ở mặt người và động
vật, cơ quan để thở và ngửi” (mũi thẳng, mũi tẹt). Dựa vào thuộc tính “nhơ ra
phía trước” của đối tượng ấy, người Việt dùng từ mũi để gọi tên các đối tượng
khác như mũi giày, mũi thuyền, mũi Cà Mau, mũi tiến cơng,…
Như vậy, từ mũi đã có sự biến đổi nghĩa, sự biến đổi này gọi là ẩn dụ.
Sự tương đồng giữa các đối tượng trong thực tế khách quan là vô cùng phong
phú và đa dạng. tùy thuộc vào tính chất của những mối tương đồng giữa các đối
tượng mà ẩn dụ được chia thành các loại khác nhau. Sau đây là một số kiểu loại
ẩn dụ thường gặp.
- Ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về màu sắc giữa các đối tượng:
Ví dụ: + nõn chuối: chỉ lá chuối non còn cuộn trong thân cây
+ màu nõn chuối: chỉ màu sắc của những sự vật có màu xanh pha vàng
nhạt giống màu của nõn chuối.
80


Những ẩn dụ như xanh da trời, màu cỏ úa, đen mực, tím Huế,…đều là những
ẩn dụ như vậy.

- Ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các đối tượng:
Ví dụ: + Cánh chim: chỉ bộ phận hai bên thân chim, hình mỏng, để bay
+ Cánh buồm: chỉ vật có hình tấm mỏng, rộng bản giống như cánh
chim, cánh bướm,..
Những ẩn dụ như chân bàn, mũi thuyền, cánh quạt, hoa đèn, chiếu hoa, mắt
bão,…đều là những ẩn dụ như vậy.
- Ẩn dụ dựa vào chức năng giống nhau giữa các đối tượng:
Ví dụ: + Bến xe, bến tàu: chỉ khuôn viên đất dùng để ôtô, tàu hỏa đón, trả hành
khách đi bằng đường bộ, đường sắt.
+ Bến sơng, bến đị: chỉ vị trí ven sơng dùng để tàu, thuyền đón trả hành
khách, hàng hóa được vận chuyển bằng đường thủy.
Những ẩn dụ như chốt cửa, giữ chốt, cửa sông, cửa rừng, cửa mở,..đều thuộc
về loại ẩn dụ như vậy.
- Ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó giữa các đối
tượng:
Ví dụ: + Mật ngọt, đường ngọt: chỉ tính chất của mật, đường
+ Nói ngọt, dỗ ngọt: chỉ giọng nói, lời nói nhẹ nhàng, dễ nghe, dễ tiếp
nhận.
+ Cây khơ, lá khơ: chỉ tính chất của cây, lá ở trạng thái khơng cịn chứa
nước.
+ Tính tình khơ: chỉ biểu hiện khơng có tình cảm, khó gần
- Ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về một đặc điểm. một vẻ bề ngoài nào đó.
Ví dụ: Người đàn ơng nào đẹp được gọi là Phan An hay Tống Ngọc, người đàn
bà nào đẹp được gọi là Tây Thi (những người đẹp trong lịch sử Trung Quốc).
Ngược lại, ai xấu xí thì bị gọi là Chí Phèo hay Thị Nở (nhân vật trong truyện
ngắn Chí Phèo của Nam Cao). Kẻ hay ghen tng thì gọi là Hoạn Thư, kẻ lưu
manh thì gọi là Sở Khanh, người anh hùng trượng nghĩa thì được gọi là Từ Hải
(các nhân vật trong truyện Kiều của Nguyễn Du).
81



- Ẩn dụ dựa vào chuyển nghĩa từ cụ thể đến trừu tượng.
Ví dụ: Hạt nhân là tên gọi của một sự vật cụ thể, chỉ phần bên trong của quả.
Hạt nhân chỉ phần trung tâm, quan trọng nhất của một vấn đề…
Nắm biểu thị động tác cụ thể của bàn tay
Nắm biểu thị sự nhận thức đầy đủ, sâu sắc một vấn đề náo đó…
Tất nhiên sự phân chia các kiểu loại ẩn dụ như trên cũng chỉ là tương đối bởi
vì, cùng một ẩn dụ, nếu xem xét ở gốc độ này thì giống nhau về hình thức, nếu
xem xét ở gốc độ kia lại giống nhau về chức năng. Chẳng hạn, các ẩn dụ như lá
chuối, lá phổi, chân người, chân bàn, đau đầu, đầu gà, đầu súng, đầu tàu,…
Ở đây cũng cần thiết phải có sự phân biệt giữa ẩn dụ từ vựng và ẩn dụ tu từ:
- Ẩn dụ từ vựng là những ẩn dụ thuộc phạm vi ngơn ngữ. Nó có tính ổn định,
bền vững, được xã hội thừa nhận và cùng sử dụng, được ghi trong từ điển. Ẩn
dụ từ vựng còn gọi là ẩn dụ cố định. Ẩn dụ từ vựng luôn luôn tạo nên những
nghĩa mới cho từ. Nghĩa của các từ cánh chim, cánh buồm, cánh diều, cánh cửa,
cánh quạt, cánh đồng, cánh gà (hội trường), cánh cung,…được hình thành theo
cách ẩn dụ và là ẩn dụ từ vựng.
- Ẩn dụ tu từ là những ẩn dụ thuộc phạm vi lời nói. Trong những văn cảnh cụ
thể, người nói lâm thời lấy tên gọi của đối tượng này để biểu thị đối tượng kia
trên cơ sở giữa hai đối tượng có một thuộc tính chung nào đó giống nhau. Ẩn dụ
tu từ ln ln gắn với văn cảnh, vì vậy ẩn dụ tu từ còn gọi là ẩn dụ lâm thời.
Nghĩa của ẩn dụ tu từ là nghĩa văn cảnh, nghĩa liên tưởng. Ẩn dụ tu từ không tạo
ra các nghĩa mới cho từ mà chỉ là những trường hợp sử dụng có hình ảnh giúp
cho tác giả diễn đạt chính xác các sắc thái khác nhau của từ tưởng và tình cảm
trong một văn cảnh cụ thể nào đó.
Trong ca dao, các hình ảnh gió, trăng như:
Gió đưa trăng và trăng đưa gió
Trăng lặn rồi gió biết đưa ai
là những ẩn dụ tu từ để biểu thị hai đối tượng chàng trai (gió), cơ gái (trăng) và
mối quan hệ tình cảm yêu đương giữa họ. Nghĩa của các từ gió, trăng trong văn

cảnh trên khơng được miêu tả trong từ điển.
82


Trong thơ ca hiện đại, các hình ảnh thuyền, biển, trời, đất sông và sao trong
các văn cảnh sau đều thuộc ẩn dụ tu từ:
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mong nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu
(Thuyền và biển – Xuân Quỳnh)

Chả có thế biển già đi vì bao điều trăn trở
Dành cho đất những làn êm sống vỗ
Lọc tình yêu từ vị muối đậm dà
(Biển – Nguyễn Thị Hồng Ngát)
Biển trời soi mắt nhau
Cho sao về với sóng
Biển có trời thêm rộng
Trời xanh cho biển xanh
(Biển – Xuân Quỳnh)
Trong các văn cảnh trên, nghĩa của các từ thuyền, biển, đất, trời, sao, sóng
được xác định là chỉ mối quan hệ giữa người con trai và người con gái trong tình
u đơi lứa. Sở dĩ người nói lâm thời lấy các cặp đối tượng thuyền – biển, đất –
biển, trời - biển, sao – sóng để biểu thị mối quan hệ giữa cặp đối tượng chàng
trai – cơ gái là vì người nói đã liên tưởng đến một nét tương đồng giữa hai cặp
đối tượng, đó là mối quan hệ gắn bó, khăng khít, khơng thể tách rời nhau.
Những nghĩa này không được ghi trong các từ điển.
b) Hoán dụ là cách biến đổi nghĩa của từ dựa vào mối quan hệ lơ gích, khách
quan giữa hai đối tượng. Nói cách khác, hốn dụ là hiện tượng chuyển tên gọi từ

sự vật hoặc hiện tượng này sang sự vật hoặc hiện tượng khác dựa trên một mối
quan hệ lơ gích giữa các sự vật hặc hiện tượng ấy.
83


Chẳng hạn, khi nói nhà có năm miệng ăn, tay ấy làm ăn giỏi lắm, người
Việt nào cũng hiểu không phải chỉ cái miệng (bộ phận trên mặt người dùng để
ăn, nói, khóc cười,…), chỉ cái tay (bộ phận cơ thể người, có chức năng sử dụng
cơng cụ lao động) mà là để chỉ các thành viên trong một gia đình (năm thành
viên), chỉ một con người cụ thể. Nghĩa của miệng, tay trong trường hợp này
được hình thành từ mối quan hệ lơ gích, khách quan giữa cái bộ phận (cái
miệng, cái tay) với cái toàn thể (con người). Đó chính là những hốn dụ.
Mối quan hệ lơ gích, khách quan giữa các đối tượng rất đa dạng, phong phú.
Có thể kể ra một số kiểu hốn dụ phổ biến trong hệ thống từ vựng tiếng Việt
như:
- Hoán dụ dựa trên mối quan hệ lơ gích giữa bộ phận và tồn thể.
Ví dụ: Các từ chân tay, mặt, miệng là tên gọi các bộ phận của cơ thể, nhưng
trong các kết hợp có chân trong đội bóng đá, một tay cở xuất sắc, đủ mặt anh
tài, gia đình những tám miệng ăn thì các từ ấy lại chỉ cả người, cả cơ thể trọn
vẹn. Loại hoán dụ này lấy cái bộ phận để chỉ cái toàn thể.
Những trường hợp như gốc trong trước sân trồng mấy gốc cau, ngọn trong
ngồi vườn có mấy ngọn mía, nóc trong làng nhỏ chỉ độ vài nóc,…đều thuộc về
loại hốn dụ như vậy.
Các từ ngày, đêm, tháng,..là những từ chỉ cả một đơn vị thời gian lớn. Nhưng
trong các kết hợp một ngày cơng, một đêm văn nghệ, tháng liên hoan thì các từ
nói trên lại chỉ một khoảng thời gian ngắn. Loại hốn dụ này lấy cái tồn thể để
chỉ cái bộ phận.
- Hốn dụ dựa vào mối quan hệ lơ gích giữa vật chứa đựng và vật được chứa
đựng.
Ví dụ: Các từ chai, chậu, bát, nhà, làng, thành phố,…chỉ những vật chứa đựng.

Nhưng ở trong các kết hợp bán cho một chai nước mắm, dùng hết một chậu, bát
cơm chan nước mắt, một nhà sum họp, cả làng thức dậy, thành phố nhộn nhịp,..
thì các từ chai, chậu, bát, nhà, làng, thành phố,…lại chỉ cái được chứa đựng
bên trong.
- Hoán dụ dựa vào mối quan hệ giữa nguyên liệu và sản phẩm được tạo ra từ
nguyên liệu ấy.
84


Ví dụ: các từ như thau (hợp kim giữa đồng và thiếc), mì (một loại cây lương
thực), đồng , bạc (loại tiền tệ),…chỉ loại nguyên liệu, nhưng trong các kết hợp
một thau nước, mua hai cân mì, giá năm đồng,…thì các từ thau, mì, đồng,
bạc,..lại biểu thị các loại sản phẩm.
- Hoán dụ dựa vào mối quan hệ giữa hoạt động và cơng cụ.
Ví dụ: các từ chỉ hoạt động như cuốc, cày, đục, giũa,…và các từ chỉ dụng cụ
như cái cuốc, cái cày, cái đục, cái giũa,…
- Hoán dụ dựa vào mối quan hệ giữa quần áo, trang phục và người mặc quần
áo, sử dụng đồ trang phục ấy.
Ví dụ: Chiếc ơ đen lẳng lặng tiến ra cầu
Tìm đến chiếc san màu bay trước gió
(Đồn Văn Cừ)
- Hốn dụ dựa vào mối quan hệ giữa địa điểm, nơi sản xuất và sản phẩm được
sản xuất ở nơi đó.
Ví dụ: Kẹo chú Xìn Châu sao sánh được
Bánh bà Hạnh Tụ cũng thua xa
(Tú Xương)
- Hoán dụ dựa vào mối quan hệ giữa địa điểm và sự kiện xảy ra ở địa điểm đó.
Ví dụ: trận Điện Biên Phủ, hội nghị Pa – ri, trận Điện Biên Phủ trên không,…
Cũng như quy luật chuyển nghĩa ẩn dụ, cần phân biệt hoán dụ từ vựng và hoán
dụ tu từ.

- Hoán dụ từ vựng là những hốn dụ thuộc phạm vi ngơn ngữ. Hốn dụ từ
vựng cịn gọi là hốn dụ cố định. Hốn dụ từ vựng ln ln tạo nên những
nghĩa mới cho từ. Nghĩa của các từ chai, chậu, bát, nhà, làng, thành phố trong
các kết hợp bán cho một chai nước mắm, dùng hết một chậu, bát cơm chan nước
mắt, một nhà sum họp, cả làng thức dậy, thành phố nhộn nhịp,.. là nghĩa hoán
dụ từ vựng.
- Hoán dụ tu từ là những hốn dụ thuộc phạm vi lời nói. Trong những văn cảnh
cụ thể, người nói lâm thời lấy tên gọi của đối tượng này để biểu thị đối tượng kia
trên cơ sở mối quan hệ lơ gích giữa hai đối tượng. Hốn dụ tu từ ln ln gắn
với văn cảnh, vì vậy hốn dụ tu từ cịn gọi là hoán dụ lâm thời. Nghĩa của hoán
85


dụ tu từ là nghĩa văn cảnh, nghĩa liên tưởng. Hốn dụ tu từ khơng tạo ra các
nghĩa mới cho từ mà chỉ là những trường hợp sử dụng hình ảnh lâm thời giúp
cho tác giả diễn đạt chính xác những đặc điểm, thuộc tính, tính chất của đối
tượng miêu tả trong một văn cảnh cụ thể nào đó. Ý nghĩa của các hình ảnh ơ
đen, san màu trong câu thơ:
Chiếc ơ đen lẳng lặng tiến ra cầu
Tìm đến chiếc san màu bay trước gió
(Đồn Văn Cừ)
là ý nghĩa hốn dụ tu từ.
3.2.2 Các lớp từ xét về mối quan hệ ngữ nghĩa
3.2.2.1 Từ đa nghĩa
Ngơn ngữ có quy luật tiết kiệm vơ cùng kì diệu: dùng cái hữu hạn để biểu hiện
cái vô hạn. Quy luật này thể hiện ở tất cả các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
Về mặt từ vựng, quy luật tiết kiệm của ngơn ngữ thể hiện ở chỗ: cùng một hình
thức ngữ âm có thể diễn đạt nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy, hiện tượng đa
nghĩa nói chung, từ đa nghĩa nói riêng chính là minh chứng sinh động cho quy
luật phổ qt của ngơn ngữ nói trên.

* Theo quan niệm phổ biến, từ đa nghĩa là từ có nhiều nghĩa (biểu thị các sự
vật, hiện tượng, hành động, trạng thái, tính chất,…), giữa các nghĩa tồn tại mối
liên hệ lơ gích (mối liên hệ về nghĩa biểu vật).
Từ đa nghĩa hình thành là kết quả của quá trình phát triển nghĩa của từ theo quy
luật mở rộng nghĩa.
Ví dụ: từ sống có nhiều nghĩa:
(1) Chỉ sự tồn tại ở hình thái trao đổi chất với mơi trường ngồi, có sinh đẻ,
lớn lên và chết (cá đang sống, cây này vẫn sống, ơng ấy cịn sống).
(2) Ở thường xun tại nơi nào đó, trong mơi trường nào đó, trải qua ở đó cả
cuộc đời hoặc một phần cuộc đời của mình (ngoại tơi sống ở miền q).
(3) Duy trì sự sống của mình bằng những phương tiện vật chất nào đó (họ
sống bằng nghề chài lưới).
(4) Sống kiểu nào đó hoặc trong hồn cảnh tình trạng nào đó (anh ta sống rất
chật vật).
86


(5) Cư xử ăn ở với đời (sống có tình nghĩa).
Tất cả các nghĩa trên đều biểu thị hành động sống và đều có mối liên hệ lơ gích
với nghĩa (1).
Từ chân có nhiều nghĩa:
(1) Bộ phận dưới cùng của người hay vật, dùng để đi lại (đau chân. chân
bước).
(2) Chân con người, biểu trưng cho cương vị, tư thế trog tập thể, tổ chức (có
chân trong ban quản trị).
(3) Một phần tư con vật bốn chân khi làm thịt chia ra (chia cho mỗi nhà một
chân).
(4) Phần dưới cùng của một số vật, dùng để đỡ hoặc bám chắc trên mặt nền (
chân bàn, chân kiềng, chân núi).
Tất cả các nghĩa trên đều biểu thị sự vật và đều có mối liên hệ lơ gích với

nghĩa (1).
Các nghĩa của từ đa nghĩa có thể được phân loại theo các cơ sở như sau:
- Căn cứ vào sự hình thành và phát triển của các nghĩa, có thể phân nghĩa
của từ thành hai loại: nghĩa gốc và nghĩa phái sinh.
+ Nghĩa gốc (nghĩa cơ bản) là nghĩa đầu tiên của từ được hình thành khơng
xuất phát từ bất kí một nghĩa nào khác.
Ví dụ: Nghĩa gốc của từ sống là chỉ sự tồn tại ở hình thái trao đổi chất với mơi
trường ngồi, có sinh đẻ, lớn lên và chết (cá đang sống, cây này vẫn sống, ơng
ấy cịn sống). Nghĩa gốc của từ chân là chỉ bộ phận dưới cùng của người hay
vật, dùng để đi lại (đau chân. chân bước). Nghĩa gốc của từ rửa là chỉ hoạt động
làm sạch bằng nước hay chất lỏng (rửa mặt, rửa vết thương).
Nghĩa gốc là nghĩa khơng thể giải thích được, do đó, tên gọi trong trường hợp
này mang tính võ đốn (khơng có lí do, khơng thể giải thích được).
+ Nghĩa phái sinh (nghĩa nhánh, nghĩa chuyển) là nghĩa bắt nguồn từ nghĩa
gốc, được sinh ra từ nghĩa gốc.
Ví dụ: Nghĩa chỉ “ở thường xuyên tại nơi nào đó, trong mơi trường nào đó, trải
qua ở đó cả cuộc đời hoặc một phần cuộc đời của mình” (ngoại tơi sống ở miền
quê) là nghĩa phái sinh của từ sống.
87


Nghĩa chỉ “chân con người, biểu trưng cho cương vị, tư thế trong tập thể, tổ
chức” (có chân trong ban quản trị) là nghĩa phái sinh của từ chân.
- Căn cứ vào sự khác nhau về tần số sử dụng và mối quan hệ đối với các từ
khác, có thể phân chia các nghĩa của từ thành nghĩa chính và nghĩa phụ.
+ Nghĩa chính là nghĩa thường được dùng của từ ở trong mọi phong cách ngơn
ngữ, nó ít lệ thuộc vào ngữ cảnh và văn cảnh.
Ví dụ: Nghĩa chính của từ chân là “bộ phận dưới cùng của người hay vật, dùng
để đi lại” (đau chân. chân bước); nghĩa chính của từ nhà là “cơng trình kiến trúc
có tường, mái, cửa…để ở hoặc làm việc trong đó”; nghĩa chính của từ chạy là

“dời chỗ bằng chân với tốc độ cao”…
Nghĩa chính của từ thường trùng với nghĩa từ nguyên hoặc nghĩa gốc của từ.
+ Nghĩa phụ (nghĩa văn cảnh) của từ là nghĩa chỉ dùng trong một số ngữ cảnh,
thường bị lệ thuộc vào những từ đứng trước hoặc sau nó. Ví dụ, nghĩa của từ cây
trong các kết hợp cây bút, cây cầu, cây cột điện,…là nghĩa phụ của từ cây; nghĩa
của từ ăn trong các kết hợp ăn nằm, ăn ở, ăn lương,..là nghĩa phụ của từ ăn.
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa các nghĩa của từ đối với nhận thức, nghĩa
của từ còn được phân chia thành nghĩa đen và nghĩa bóng.
+ Nghĩa đen là nghĩa vốn có của từ, là nghĩa của từ trong hệ thống từ vựng,
không lệ thuộc vào tư duy liên tưởng.
Ví dụ: nghĩa đen của từ ngơi sao là chỉ “những thiên thể lấp lánh trên bầu trời
trong đêm tối”; nghĩa đen của từ cây là chỉ “các đối tượng cụ thể có đặc điểm lá,
thân, rễ, sống nhờ đất, nước,…”; nghĩa đen của cụm từ cánh đồng quê là chỉ
“vùng đất thường dùng để trồng lúa, hoa màu, cây lương thực,..”.
+ Nghĩa bóng là nghĩa hình tượng, được hình thành do tư duy liên tưởng trong
từng văn cảnh cụ thể.
Ví dụ: Nghĩa bóng của từ ngơi sao trong câu “Ngơi sao ấy lặn hóa bình minh”
(Tố Hữu) là chỉ “Bác Hố - Người như vì sao sáng soi đường chỉ lối, dẫn dắt dân
tộc thoát khỏi những đêm dài nơ lệ”; nghĩa bóng của từ cây trong văn cảnh “cây
đời mãi mãi xanh tươi” (Xuân Diệu) chỉ “cuộc sống, thực tiễn bao giờ cũng
phong phú, sinh động, luôn ln biến đổi và phát triển”; nghĩa bóng của cụm từ
88


cánh đồng quê trong văn cảnh “Ôi ! những cánh đồng quê chảy máu” (Nguyễn
Đình Thi) chỉ “cuộc sống thanh bình của nhân dân ta”.
- Căn cứ vào mối quan hệ lơ gích giữa các nghĩa, có thể phân chia các nghĩa
của từ thành nghĩa trực tiếp và nghĩa gián tiếp
+ Nghĩa trực tiếp là nghĩa gốc, nghĩa vốn có của từ, biểu thị những đặc điểm
lơ gích khách quan của đối tượng cụ thể, vật chất.

Ví dụ: từ ánh sáng có nghĩa trực tiếp chỉ “bức xạ quang học có khả năng gây ra
cảm giác sáng một cách trực tiếp lên mắt người”, ánh sáng ngọn đèn, ánh sáng
ban ngày.
+ Nghĩa gián tiếp là nghĩa phái sinh, được suy ra từ nghĩa trực tiếp, thường
biểu thị những đặc điểm, tính chất của các đối tượng trừu tượng, khái quát.
Ví dụ: từ ánh sáng có nghĩa gian tiếp chỉ “sự soi sáng, sự hướng dẫn, hoặc sự
rõ ràng, sự thật”, ánh sáng của khoa học soi rọi, vụ bê bối được đưa ra ánh
sáng.
Đặc điểm cơ bản của từ đa nghĩa là dù nghĩa có phát triển nhiều đến đâu
chăng nữa thì sự phát triển nghĩa này cũng chỉ xảy ra trong nội bộ của một từ.
Đó là các nghĩa khác nhau của một từ.
Ví dụ: nghĩa của từ cổ (1) “bộ phận nối đầu với thân của người hay động vật”
(2) “phần thon nhỏ lại so với phần khác của sự vật như
cái chai, cái chày” (3) “bộ phận của cái áo”
………………………
Giữa các nghĩa này có mối liên hệ bắt nguồn từ nhau. Nghĩa (2) được hình
thành từ nghĩa (1) dựa vào sự liên tưởng giống nhau giữa các sự vật (cái cổ và
cổ chai, cổ chày). Nghĩa (3) được hình thành từ nghĩa (1) dựa vào sự liên tưởng
về mối quan hệ tiếp cận (cái cổ và cổ áo).
* Cũng cần phân biệt hiện tượng đa nghĩa ngôn ngữ và đa nghĩa lời nói.
Đa nghĩa ngơn ngữ cịn được gọi là đa nghĩa cố định, thuộc hệ thống ngôn
ngữ. Đa nghĩa ngôn ngữ thể hiện ở các từ đa nghĩa.
Ví dụ: các nghĩa của từ ánh sáng:
(1) bức xạ quang học có khả năng gây ra cảm giác sáng một cách trực
tiếp lên mắt người, ánh sáng ngọn đèn, ánh sáng ban ngày.
89


(2) sự soi sáng, sự hướng dẫn, hoặc sự rõ ràng, sự thật, ánh sáng của
khoa học soi rọi, vụ bê bối được đưa ra ánh sáng.

là đa nghĩa ngôn ngữ.
Đa nghĩa lời nói là hiện tượng đa nghĩa lâm thời, tồn tại trong một văn cảnh cụ
thể, gắn liền với thái độ, cách nhìn, cảm xúc chủ quan của người nói. Trong một
văn cảnh cụ thể, từ ngữ có thể đồng thời biểu thị nhiều đối tượng khác nhau.
Ví dụ: Trong bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương:
Thân em vừa trắng lại vừa trịn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Các từ ngữ thân em, trắng, trịn, bảy nổi ba chìm, nước non, rắn nát, giữ tấm
lòng son, đều được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa miêu tả sự vật và nghĩa miêu tả
con người. Vì vậy, nội dung của bài thơ vừa miêu tả cái bánh trôi nước, lại vừa
miêu tả thân phận của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
3.2.2.2 Từ đồng âm
* Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh nhưng có nghĩa hồn tồn
khác nhau. Giữa các ý nghĩa của các từ đồng âm khơng có mối quan hệ lơ gích
nào.
Ví dụ: từ can (1) có nghĩa “chỉ đồ dùng thường làm bằng nhựa, sắt, thiếc, dùng
đựng nước hoặc các chất lỏng” như một can xăng, can nước mắm, can rượu,..
can (2) có nghĩa “chỉ hoạt động ngăn chặn, khun ngăn khơng nên
làm điều gì đó” như can hai đứa trẻ đang cãi nhau,…
Hai từ can vừa nêu trên biểu thị hai nghĩa khác biệt hoàn toàn, giữa hai nghĩa
này không tồn tại một sợi dây liên hệ nào.
Đồng âm là một hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ như trong từng ngôn
ngữ cụ thể, hiện tượng đồng âm có những đặc điểm riêng. Hiện tượng đồng âm
thường xảy ra đối với những từ ngắn, có cấu trúc đơn giản. vì từ càng ngắn, cấu
trúc càng đơn giản thì tính võ đốn càng cao và do đó nó dễ dàng chứa đựng
những khái niệm khác nhau. Trong tiếng Việt, mỗi âm tiết thường là một từ nên
hiện tượng đồng âm khá phổ biến.
90



Từ đồng âm trong tiếng Việt rất phong phú và đa dạng về số lượng và kiểu
loại. Trong một loạt đồng âm, chủ yếu là đồng âm giữa hai âm tiết hoặc hai từ.
Ví dụ: yếu (điểm yếu): kém về mặt nào đó
yếu (yếu điểm): điểm quan trọng
thơ (thơ ca): thể văn có vần, có nhịp
thơ (lơ thơ): yếu tố láy, cấu tạo từ
lạc (hoan lạc): vui mừng
lạc (loạn lạc): li tán, khơng gặp nhau
Có những loạt đồng âm đến bốn từ.
Ví dụ: ba: cha, bố
ba: số từ giữa 2 và 4
ba: sóng nhỏ (ba đào, phong ba)
ba: chỉ có nghĩa kết cấu (ba hoa, ba láp, ba vạ,…)
Cũng có loạt đồng âm có thể có trên dưới mười từ.
Ví dụ: bác: anh chị của bố hay của mẹ mình
bác: đại từ chỉ người
bác: trứng
bác: bố (bác mẹ)
bác: không chấp nhận (bác bỏ, bài bác)
bác: rộng (bác ái, bác học,…)
bác: súng lớn (đại bác)
bác: cấu tạo từ (bơi bác)
Có thể thấy tồn tại các dạng đồng âm như sau:
- Đồng âm giữa thuần Việt với thuần Việt
Ví dụ: lao: trong lao đao
lao: trong lớn lao
- Đồng âm giữa thuần Việt với Hán Việt
Ví dụ: yếu (điểm yếu): kém về mặt nào đó

yếu (yếu điểm): điểm quan trọng
- Đồng âm giữa Hán Việt với Hán Việt
Ví dụ: cơ: đói (cơ hàn)
91


×