Quách Tấn, Quách Giao
Nhà Tây Sơn
CHIÊU THỐNG RƯỚC TÀU
VỀ ÐÁNH TÂY SƠN
Quân Nguyễn Hữu Chỉnh bị quân Tây Sơn đánh thua. Vua Chiêu Thống
hoảng hốt sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tơn thất đem Hồng Thái Hậu và
Hồng Hậu chạy sang Kinh Bắc, cịn mình thì bỏ Thăng Long chạy theo
Nguyễn Hữu Chỉnh đến đóng ở Mục Sơn thuộc Yên Thế, Nguyễn Hữu
Chỉnh bị bắt, nhà vua chạy đến Chí Linh định nhờ Trần Quang Châu và Lê
Ban dấy binh lấy Hải Dương làm cơ sở, nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đánh,
nhà vua chạy vào Sơn Nam, định nhờ tỳ tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh là
Nguyễn Việt Tuyển, nhưng Tuyển đã bị quân Tây Sơn đánh bại ở Hoàng
Giang, nên nhà vua cùng Lê Ban chạy vào Thanh hóa. Sau nghe lời Lê Duy
Ðoan trở về Kinh Bắc cho người qua cầu viện Thanh triều.
Về Kinh Bắc, Chiêu Thống sai hai người bề tôi tin cẩn là Tham tri Chánh sự
Lê Duy Ðán và Phó Ðơ Ngự Sử Trần Danh Án sang Trung Hoa.
Duy Ðán và Danh Án theo đường núi trốn qua biên thùy, đến ra mắt tri phủ
Thái Bình. Tri phủ Thái Bình làm tờ đạt lời cầu viện lên Tuần phủ Tôn Vĩnh
Thanh và Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị.
Trong khi chờ đợi kết quả, Trần Danh Án có thơ cảm hồi:
Giá cơ tại Giang Nam
Ðỗ quyên tại Kinh Bắc
Giá cô minh gia gia
Ðỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cơ thần đối thử tình vơ cực.
Nghĩa là:
Giang Nam thì chim đa
Kinh Bắc thì chim quốc
Chim đa kêu gia gia
Chim cuốc kêu quốc quốc
Nghe chim kêu tiếng quốc gia
Lịng cơ thần những xót xa trăm chiều.
Trong lúc đó, Lê Quýnh, Nguyễn Huy Túc đã đưa Thái Hậu qua Tàu, nhờ
viên Ðô Ty Long Bằng Trần Hồng Thuận trình Quảng Tây Giang tả Dương
Hùng Nghiệp bẩm lên Tôn Sĩ Nghị.
Nhận được hai lời thỉnh cầu cùng lúc. Nghị bèn làm sớ dâng về triều.
Vua Càn Long chuẩn y lời Tôn Sĩ Nghị và sai Nghị cầm 20 vạn binh sang
Việt Nam, mượn cớ giúp Vua Lê đánh Tây Sơn để đặt nền đô hộ lên đất
Việt.
Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm ba đạo: Một đạo do Tổng binh tỉnh Vân Nam
và Quý Châu kéo sang mạn Tuyên Quang.
Một đạo do Sầm Nghi Ðống kéo sang mạn Cao Bằng.
Một đạo do Nghị cùng Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh kéo sang mạn Lạng Sơn.
Khí thế rất mạnh.
Ba đạo quân Thanh tiến vào nước ta vào khoảng giữa tháng 10 năm Mậu
Thân (1788). Sĩ Nghị truyền hịch kể tội nhà Tây Sơn và kêu gọi thần dân
nhà Lê ra hợp tác.
Viên trấn thủ Lạng Sơn Phạm Khải Ðức khiếp sợ, kéo cờ hàng. Phó tướng
Nguyễn Văn Diễm chạy về Kinh Bắc cùng Nguyễn Văn Hòa cố thủ, rồi sai
người về Thăng Long cáo cấp.
Ðược tin, Ngơ Văn Sở dùng kế hỗn binh, khiến Nguyễn Quý Nha và Trần
Bá Lãm mang ba tờ bẩm văn ký tên Sùng Nhượng công và bá quan văn võ,
đến qn thự Tơn Sĩ Nghị cầu hịa. Sĩ Nghị bác khước Ngơ Văn Sở bèn
nhóm văn võ lại thương nghị. Nguyễn Văn Dụng đề nghị dùng phục binh
đánh địch. Ngô Thời Nhậm nói:
- Qn địch mới tới, sức cịn mạnh khí đương hăng, lại khoa trương thanh
thế làm kinh động nhân dân. Nếu ta đem quân ra khỏi thành sẽ bị chúng sát
hại. Cựu binh sĩ của Bắc Hà nhuệ khí vốn đã nhụt, thừa cơ trốn hết. Chừng
ấy ta muốn đánh thì khơng hơn, mà muốn giữ cũng khơng đặng. Chẳng phải
là thiện sách. Chi bằng rút hết quân thủy bộ vào đóng giữ từ Tam Ðiệp ra
đến biển, để bảo toàn lực lượng rồi cho cáo cấp về Phú Xn. Lúc đó ta sẽ
quyết chiến cũng khơng muộn.
Ngơ Văn Sở nói:
- Giặc đến chưa đánh đã chạy, tơi e đắc tội với Bắc Bình Vương.
Ngơ Thời Nhậm đáp:
- Lương tướng thời xưa, lường sức giặc trước rồi mới định việc cơng hay
thủ. Nay ta đem tồn qn lui về, chẳng qua là cho chúng ngủ nhờ một đêm,
sáng ngày đuổi đi, có gì quan trọng. Nếu Bắc Bình Vương hỏi tội tơi sẽ bẩm
biện. Ơng cứ n tâm.
Ngơ Văn Sở liền cho gọi binh các trấn Kinh Bắc, Thái Nguyên, Hải Dương,
Sơn Tây đến tập hợp tại Bắc Thành trấn Sơn Nam, rồi đồng tiến vào Tam
Ðiệp.
Chợt có tin quân Thanh đã qua khỏi ải Nam Quan, Phan Văn Lân nổi nóng:
- Nước khơng cần phải lớn, binh khơng cần phải nhiều, hễ quyết chiến thì
thắng. Nay làm tướng nắm binh quyền ở cõi ngoài mà giặc đến không đánh
thì làm tướng để làm gì ?
Rồi thừa đêm tối đem qn ra đi. Ðến bờ phía nam sơng Nguyệt Ðức thì
nghe quân Thanh đã tới núi Tam Tằng, Lân đốc binh sĩ liều lạnh lội càn qua
sông. Quân chết đuối quá nửa. Còn một nửa vừa đến bờ bên kia thì quân
địch đánh giết hết. Lân một người một ngựa sống sót chạy trở về. Ngơ Văn
Sở cả kinh, giấu kín việc Lân, khiến chư tướng chỉnh tế đội ngũ, trực tiến
đến Tam Ðiệp.
Ðến Tam Ðiệp vào ngày 20 tháng 11 năm Mậu Thân (17-12-1788). Một mặt
chia đồn cố thủ, một mặt cho Nguyễn Văn Tuyết về cáo cấp Phú Xuân.
Không gặp sức cản trở đáng kể, Tôn Sĩ Nghị tiến quân dễ dàng. Ðến Kinh
Bắc được Vua Chiêu Thống đón tiếp trọng thể. Nghị cùng nhà vua trực chỉ
đến Thăng Long cho đại quân hạ trại ở Yên Phụ cịn tướng doanh thì đặt tại
Tây Long Cung. Ðể tiện việc qua lại, một dãy cầu phao bắc ngang qua sông
Nhị. Ngày hôm sau (21 tháng 11 năm Mậu Thân), Nghị phong Vua Chiêu
Thống làm An Nam Quốc Vương tại điện Kính Thiên và quyết định sau tết
Nguyên Ðán mới xuất quân đánh Nguyễn Huệ.
Vào thành Thăng Long như vào chỗ không người, Nghị nghĩ rằng đánh dẹp
Tây Sơn sẽ dễ dàng như lấy đồ trong túi, nên lơ đãng việc binh, ngày ngày lo
hưởng lạc thú.
Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng phải theo niên hiệu Càn Long, và
việc gì cũng phải bẩm lên Tơn Sĩ Nghị. Mỗi ngày sau buổi chầu, Chiêu
Thống phải đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật. Nhiều khi Nghị
không cho vào, chỉ sai một người ra bảo: Khơng có việc gì quan trọng, Vua
hãy về cung nghĩ. Thế mà không biết nhục, ngày ngày chỉ lo việc báo ân báo
oán giết hại những người đã theo Tây Sơn. Một người tôn nữ kết duyên cùng
một tướng Tây Sơn, đã có mang. Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy thai nhi giết
chết! Ba người hoàng phái hàng vai chú nhà vua, bị chặt chân quăng ra giữa
chợ. Việc chém giết vì tư thù khơng ngày nào khơng có. Lương dân khủng
khiếp!
Một số nhân sĩ, trước hành vi tàn bạo của Chiêu Thống vẫn ôm mối cô trung
như Bùi Huy Bích, Phạm Quý Thích, Phạm Ðan Phụng... Có người nói
Trung là trung với nhà Lê chớ đâu phải trung với Vua Chiêu Thống. Lại có
người nói Quân bất kính thần bất khả bất trung[61].
Những quan lại cũ đã bỏ trốn trong lúc Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết, nghe tin
Vua Chiêu Thống trở về, lục tục kéo nhau tới thành đô bái yết và đến xin
Tôn Sĩ Nghị ra quân đánh Tây Sơn. Nghị đáp:
Năm đã gần hết. Ði đâu mà vội vàng? Giặc cịn gầy, mình dung túng cho nó
ít lâu là ni cho nó béo, để rồi nó đem thịt đến nạp cho mình xơi, chẳng hay
lắm sao?
Rồi truyền ba quân đóng trại nghỉ ngơi để ra giêng chiến đấu.
Quân lính của Sĩ Nghị thấy chủ tướng tham tàn dâm dật, tướng lệnh lại
không nghiêm minh, nên tha hồ ngang dọc. Những vụ cướp bóc, hãm hiếp,
tàn sát... xảy ra hàng ngày. Nhân dân không mấy lúc được ăn ngon, ngủ yên.
Nơi nơi đồ thán!
Cảnh nước loạn dân khổ đến thế là cùng cực.
Người người đều trông mong cuộc đời đổi thay.
----------------[61] Người xưa dạy: Phụ từ tử hiếu, quân kính thần trung nghĩa là cha có
hiền lành con mới có hiếu Vua có kính vì tơi mới trung tức là người trên có
lo trịn bổn phận mình thì mới có quyền buộc kẻ dưới lo trịn bổn phận.
Nhưng người sau lại nói: Phụ bất từ, tử bất khả bất hiếu, quân bất kính, thần
bất khả bất trung. Nghĩa là Cha không lành, con không thể khơng hiếu. Vua
khơng kính, tơi khơng thể khơng trung. Tức là buộc kẻ dưới phải giữ hết
phận mình đối với người trên, dù người trên khơng giữ trịn bổn phận. Phần
đông các nhà Nho theo lời sau.