Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Ngôn ngữ báo chí dưới góc nhìn của nhà biên tập - Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.12 KB, 13 trang )

NGƠN NGỮ BÁO CHÍ DƯỚI GĨC NHÌN CỦA
NGƯỜI BIÊN TẬP
(Phần 1)
Ngơn ngữ của các tác phẩm báo chí phải mang được ý nghĩa của chúng
tới cho công chúng vô cùng đa dạng. Ranh giới của công chúng này trải dài
từ cái mà người ta gọi là sự biết chữ sơ đẳng cho đến việc thơng thạo hồn
tồn và có nhận thức tiếng mẹ đẻ với tất cả các sắc thái của nó. Nhiệm vụ
của người biên tập là phải làm cho ý nghĩa của các bài viết trở nên dễ hiểu
trên tất cả các cấp độ đó. Nếu chỉ có sự chính xác về sự kiện khơng thơi thì
hãy cịn chưa đủ, cần phải có thêm cả phong cách trình bày rõ ràng, mạch
lạc. Và về phương diện này thì cấu trúc khơng chỉ của cả bài viết, mà cịn
của từng câu, rồi việc lựa chọn đúng từ là hết sức quan trọng.
Vậy biên tập viên phải hiểu thấu đáo các chi tiết tỉ mỉ về ngữ pháp, cú
pháp và phong cách để trong trường hợp cần thiết có thể cải thiện ngôn ngữ
văn bản của tác giả. Anh ta phải có khả năng trong lúc vội vã vẫn tìm ra và
sửa chữa được tất cả các câu, từ kém chất lượng. Nếu xuất hiện những nghi
ngờ nào đó về chính tả, anh ta có thể dùng từ điển chính tả để tra cứu.
Nhưng lại chẳng có sự chỉ dẫn nào nhằm giúp người ta định hướng được
trong ý nghĩa của bài viết. Vấn đề không chỉ ở chỗ là ý nghĩa đó phải dễ hiểu
đối với chính người biên tập, về mặt này, trước hết chúng ta cần nói tới độc
giả là người thường được trang bị kém cỏi hơn nhiều.
1. Tác giả muốn nói gì ?
Liệu tác giả có trình bày được những điều mình muốn nói một cách
rành mạch, rõ ràng? Hầu như lần này cũng vậy, mỗi khi biên tập viên nhận
được một tài liệu mới là câu hỏi đó lại xuất hiện trước anh ta. Rồi một lần


khác, sau khi kết thúc sự làm quen đầu tiên với bài viết, anh ta nghĩ ngợi: có
vẻ như tất cả đều ổn, nhưng có một cái gì đó cịn gây nghi hoặc.
Người biên tập, nhất là người mới vào nghề, hiếm khi là chuyên gia
về đề tài của tất cả mọi tài liệu mà anh ta phải xử lý. Vì vậy, trong trường


hợp nghi ngờ, anh ta khơng phải lúc nào cũng có thể khẳng định một cách
chắc chắn là tác giả đã nhầm lẫn hay sai sót ở đâu và như thế nào. Thế
nhưng, kể cả nếu tác giả là người khá thơng thạo mọi thứ, một thống nghi
ngờ thường vẫn cứ là dấu hiệu rằng " ở đây có một cái gì đó khơng ổn ".
Cịn nếu chính người biên tập lại khơng suy xét nổi là có chuyện gì thì các
độc giả đã phải đặt ra đủ thứ câu hỏi từ lâu.
Trong thực tế, chẳng cần phải là chuyên gia về một vấn đề nào cũng có
thể nhận thấy được tác giả đã trình bày nó có đạt hay khơng. Chẳng hạn như
người biên tập có thể tìm thấy những mâu thuân giữa các phần của nó, sự
hơn trội của những chỗ nói chung chung đối với những sự việc cụ thể, sự
thiếu rành mạch về diễn đạt hay thậm chí chỉ đơn giản là sự nhầm lẫn về từ
ngữ. Đây đã đủ là những dấu hiệu đáng lo ngại và anh ta cần phải bàn luận
cùng tác giả về tất cả những chỗ đáng ngờ.
Cuộc nói chuyện có khả năng hơn cả sẽ dẫn đến kết cục là bài viết được
trả lại cho tác giả để anh ta hồn tất nó. Chính người biên tập cần phải tránh
việc sửa chữa những chỗ còn nghi ngờ. Chỉ trong trường hợp tuyệt đối tin
tưởng vào sự đúng đắn của mình và có chỗ dựa là những nguồn đáng tin
cậy, anh ta mới có quyền cho phép mình đưa vào văn bản những thay đổi
nào đó. Nhưng ngay cả trong trường hợp này cũng phải báo cho tác giả biết
về những sửa đổi, bổ sung.
Đó là những nguyên tắc vỡ lòng mà trong các cuốn sách giáo khoa về
báo chí ở dạng này hay dạng khác người ta vẫn giới thiệu cho các biên tập
viên mới vào nghề. Nhưng những lời giới thiệu chỉ có giá trị nếu các tác giả


viết " theo luật ", tức là họ đã được làm quen với các yêu cầu của " sáu câu
hỏi và hình tháp quay ngược " và các bài " vỡ lịng " khác trong việc phát
tin. Song cũng khơng phải là do tình cờ mà người ta nói " phi ngoại lệ bất
thành qui tắc ". Và với ý nghĩa như vậy thì hầu như trong bất cứ một tài liệu
nào cũng có những ngoại lệ của mình. Vẫn những " bài học vỡ lịng " đó

nói rằng, sự tuân thủ các qui tắc một cách mù quáng có thể dẫn đến sự hạn
chế hay triệt tiêu tính chất muôn màu muôn vẻ trong việc đăng tải tin, bài
của các tác giả khác nhau. Việc biên tập như vậy sẽ bóp chết những nét nổi
bật nhất trong phong cách cá nhân của mỗi tác giả ( nếu như chúng có ) và
dễ làm cho các trang báo thật đơn điệu buồn tẻ.
Như thế có nghĩa là sự phục tùng các qui tắc một cách thiếu cân nhắc,
dẫu cho các qui tắc đó có hợp lý nhất đi chăng nữa, khơng được phép trở
thành mục đích cuối cùng của cơng việc biên tập. Nhiệm vụ của người biên
tập là giúp tác giả đưa bài viết của mình đến một trạng thái " cần thiết ",
nếu như nó có " một cái gì đó chưa ổn ". Trong đa số các trường hợp, để
làm điều này cần phải hết sức chú ý tới các sự kiện trong tác phẩm: lôgic
của việc chuyển tiếp là phải phát triển làm sao để cho độc giả khơng có
những câu hỏi thắc mắc, để trong q trình đọc, anh ta khơng phải gặp hàng
đống những cách nói phức tạp hay những từ ngữ khó hiểu, mà chỉ thấy một
con đường thông suốt dẫn đến việc cảm thụ được ý nghĩa của cái mà tác giả
muốn nói.
Một bài viết rõ ràng về ý nghĩa và được viết đúng văn phạm là rất dễ đọc,
nếu trong một câu, chẳng hạn như là thời động từ bị viết sai, mà sau khi
người biên tập chữa nó đã trở nên đúng về mặt ngữ pháp, nhưng đồng thời
cũng thành khó hiểu hơn, thì rõ ràng là chưa được. Anh ta phải tìm ra cách
nào đó để câu ấy vừa thể hiện đúng ý tác giả, vừa đúng ngữ pháp, vừa dễ
đọc. Có nghĩa là người biên tập phải bảo đảm làm sao để cả ý nghĩa chung


của tài liệu, cả các chi tiết của nó, được trình bày một cách rõ ràng và được
độc giả hiểu đúng.
Để cho việc diễn đạt trở nên rõ ràng hơn, và có ý nghĩa là để cho độc giả
thuận lợi hơn khi đọc, người ta hay dùng phụ đề. Chúng tựa như những cái
mốc mà dựa vào đó, người ta có thể đọc các văn bản dài dễ dàng hơn. Ở
trong những cái mốc này, người ta thường đánh dấu những phương hướng

chính về ý nghĩa hay đề tài trong nội dung thông tin.
Trong nhiều chỗ khác nhau của cuốn sách này, chúng tơi đã nói rằng tính
chất rõ ràng của việc trình bày phụ thuộc khá nhiều vào sự phân đoạn văn
bản. Cái này quan trọng hơn đối với tất cả các loại bài, nhưng đặc biệt lá
đối với thơng báo tin tức, vì ở đó các đoạn văn dài rất bị kiêng kị. Các đoạn
văn dài sẽ là hợp lý nếu nằm trong các cuốn sách hay là tạp chí, là những
thứ thường được người ta đọc trong hồn cảnh điềm tĩnh hơn. Nhưng ở trên
trang báo, trơng chúng thật cồng kềnh, độc giả có thể bị nhầm lẫn trong một
dãy câu dày đặc và thậm chí bị lạc mất cái chỗ là nơi anh ta dừng lại và bị
xao nhãng bởi một điều gì dó.
Ở đây chúng ta có thể đưa ra sự so sánh với dịng điện: cường độ dòng
điện tỷ lệ thuận với hiệu điện thế và tỷ lệ nghịch với điện trở mà nó gặp trên
đường. Trong bất kỳ tài liệu nào mà nhà báo chuẩn bị cho đăng, cần phải
dọn sạch mọi thứ “ điện trở “ gây khó khăn cho việc đọc. Một trong những
điện trở như vậy chính là những đoạn văn q dài.
Người biên tập gặp khơng ít vấn đề cả với những thuật ngữ chuyên ngành
- chúng cũng có thể trở thành “ điện trở “. Nếu tác giả là người viết cho các
báo đại chúng thì anh ta phải hết sức thận trọng đối với chúng -phải nghĩ
xem là một độc giả “ tầm tầm bậc trung “ có thể hiểu nổi chúng hay khơng.
Nếu như tác giả đã bỏ qua khía cạnh này thì người biên tập cần phải lo để
tìm ra những từ phù hợp mà có thể thay thế cho thuật ngữ này hay thuật ngữ


khác. Nếu việc thay thế khơng thể làm nổi thì nhất thiết phải đưa ra lời giải
thích ngắn gọn, dễ hiểu về ý nghĩa của nó.
Các quan niệm của con người về sự " hư ảo " trong thế giới xung quanh
họ phụ thuộc không chỉ vào các dịnh hướng về cuộc sống, mà cịn vào
thơng tin thực tế mà họ nhận được. Mà thơng tin đó đơi lúc lại hết sức mâu
thuẫn vì nó đến từ các nguồn khác nhau.
Chính vì vậy mà vai trị của những khả năng bao qt tồn diện là rất lớn

- thơng tin như được " trải ra trên mặt bằng ", các sự việc cụ thể được tổng
hợp lại thành các khái niệm trừu tượng. Khơng có những sự khái qt như
thế, con người đơn giản là không thể nhận được bức tranh đầy đủ về cuộc
sống của thế giới xung quanh. Nhiệm vụ của người biên tập ở chỗ là làm
sao để bảo đảm cho các bài báo có sự cân bằng khả quan nhất giữa cái cụ
thể và cái trừu tượng.
Néu tác giả khơng có khái niệm rõ ràng về cái mà anh ta muốn nói với
độc giả, anh ta thường cố nguỵ trang cho sự thiếu rõ ràng đó bằng một loạt
những suy luận chung chung theo khn mẫu có sẵn. Nhưng ngay cả trong
trường hợp mà tác giả hiểu thấu đáo cái anh ta định viết thì các ý tưởng của
anh ta vẫn cứ được diễn đạt dưới hình thức trừu tượng và bị phức tạp hoá
tới mức độc giả không thể nào chuyển được ý nghĩa của chúng vào phạm vi
kinh nghiệm sống của chính bản thân mình.
Việc xác định ý nghĩa của sự trừu tượng trong diễn đạt thông tin với
những nội dung đa dạng nhất đã được khơng ít các cơng trình nghiên cứu về
lý thuyết và ứng dụng đề cập tới. Nếu áp dụng vào báo chí, các kết quả của
những cơng trình đó có thể được trình bày một cách tóm tắt như sau:
Bất cứ một ý tưởng nào, không phụ thuộc vào việc chúng đơn giản hay
phức tạp, cũng sẽ được độc giả hiểu dễ dàng hơn nhiều nếu nó được đưa ra
khơng phải là qua các suy luận chung chung trừu tượng, mà là được chuyển


vào bề mặt của các kiến thức thực tế được đơng đảo người biết hay các tình
huống cụ thể của cuộc sống: từ câu chuyện về những bận rộn hàng ngày của
các thị trấn và những người dân ở đó cho đến việc giải thích các sự kiện và
vấn đề của đời sống quốc tế.
Ngôn ngữ trong tờ báo, nhất là trong thông báo tin tức, về mặt phong
cách, rõ ràng là phải gần với ngôn ngữ đàm thoại hơn là với ngơn ngữ viết.
Nó có thể so sánh với một cuộc đàm thoại thú vị của một người kể chuyện
tài ba. Một nhà báo có kinh nghiệm có thể kể về những sự việc phức tạp

nhất bằng ngôn ngữ rất giản đơn.
Dưới đây là một ví dụ về thơng tin đề cập tới các vấn đề kinh tế của Ấn
Độ ở một thời khơng xa lắm, được trình bày khá thành cơng. Bài viết về đề
tài này, phóng viên của báo " New York Time " thường trú tại New Delhi
bắt đầu như sau:
" Trên bàn làm việc của Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ có một chiếc cặp
giấy mỏng màu vàng. Đó là bản báo cáo đã được chuẩn bị kỹ càng mà như
ơng nói trong cuộc đàm thoại với chúng tơi, Chính phủ khơng muốn sử
dụng, nhưng vẫn lo ngại là rồi sẽ phải làm điều đó. Ông T. T.
Krisnamakhari, nhà hoạt động chính trị và nhà doanh nghiệp nổi danh
trong giới thương gia của đất nước, khi ngồi trước chiếc bàn làm việc ấy,
đã cầm chiếc cặp giấy lên tay như áng thử mức nặng nhẹ của nó.
" Tơi đã chuẩn bị bản báo cáo đó suốt 3 tháng, ơng nói tiếp. Đây là lần
cuối tơi nói với các đồng nghiệp của mình về những cái mà đất nước chúng
tơi có thể làm được cũng như khơng thể làm được, nếu như sắp tới nó
khơng nhận được viện trợ nước ngoài ".
Sau cái Lead này, cả bài báo được đưa ra cũng hết sức sống động, mặc dù
nếu rơi vào tay tác giả khác nó rất có thể đã trở thành một văn bản tẻ nhạt.
Khi nhà báo tìm thấy nhưng chi tiết nổi bật nhất của cái đang xảy ra, anh ta


sẽ giúp cho độc giả có được cảm giác là mình đang ở chỗ diễn ra sự kiện và
hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Nói cách khác, trong thơng báo tin tức luôn cần
ưu cái cụ thể hơn là cái trừu tượng.
1. Hãy chú ý tới từng từ một
Nhà văn Mark Twain có lần nhận xét: " Sự khác nhau giữa một từ chính
xác và một từ gần chính xác cũng giống như là sự khác nhau giữa tia chớp
và con đom đóm ". Thế nhưng vấn đề khơng chỉ ở trong tính chất biểu cảm
của từ ngữ, mà cịn ở chỗ là nó khó hoặc dễ hiểu đến đâu, tức là đa số độc
giả có thể đánh giá cái tính chất biểu cảm đó đến mức nào. Có nghĩa là việc

biết cách lựa chọn những từ, tập hợp từ rồi kiểu nói thành cơng hơn cả để
diễn tả các ý tưởng của mình một cách chính xác và rõ ràng, cũng như để có
một phong cách trình bày rành mạch và dễ hiểu, đối với nhà báo có ý nghĩa
quan trọng chẳng kém gì đối với nhà văn. Có bao nhiêu từ cả thảy trong
ngơn ngữ văn học? Trong cuốn từ điển chuẩn hiện đại của tiếng Nga và
tiếng Anh có chừg 50 - 60 nghìn từ. Đại văn hào Shakespeare trong tất cả
các tác phẩm của mình đã sử dụng hơn 10 nghìn từ. Lượng từ dự trữ của
một người có trình độ học vấn khá cao ít hơn nhiều. Bên cạnh đó, theo sự
tính tốn của các chuyên gia, người ta chỉ sử dụng tích cực những từ mà họ
biết và hiểu, và những từ này chỉ chiếm khoảng 20% toàn bộ lượng từ dự
trữ. Trong cuộc sống hàng ngày, rất nhiều người, theo sự tính tốn trên, chỉ
dùng hết khoảng 2 nghìn từ.
Một từ càng gần với hiện thực quen thuộc của cuộc sống về mặt ý nghĩa,
nó càng dễ hiểu hơn và và được sử dụng nhiều hơn. đây chính là cơ sở chủ
yếu để " báo chí cho nhân dân " định hướng, còn trong các ấn phẩm cao cấp
dành cho các tầng lớp dân chúng có học vấn cao thì từ vựng, cả về mặt
dung lượng, cả về mặt đa dạng phong phú, lớn hơn nhiều. Như thế là đối


với các loại độc giả khác nhau đều cần có phong cách diễn đạt phù hợp với
trình dộ của họ.
Trong một cuốn giáo trình thực hành về báo chí có nói rằng, người ta đã
nhiều lần thử soạn ra một lượng từ tối thiểu mà mà tất cả nhưng người đã
tốt nghiệp phổ thông đều biết. Chẳng hạn như ở đó có một từ rất ngắn là "
ơm ". Thế nhung liệu tất cả mọi người lớn mà tự cho mình là được học hành
đến nơi đến chốn, giáo trình bình luận, có đều nhớ rằng đó là đơn vị đo điện
trở mà dòng điện gặp phải trên đường đi của mình? Mỗi từ ít quen thuộc
như vậy hay nói chung là khó hiểu trong văn bản, có thể trở thành một loại
" chướng ngại " gây khó khăn cho việc đọc và hiểu.
Hãy thường xuyên xem từ điển, nhất là các cuốn từ điển về các từ đồng

nghĩa, giáo trình khuyên nhủ. Hãy để chúng trên bàn làm việc của mình và
hãy sử dụng chúng mỗi khi viết hay biên tập một cái gì đó. Chúng làm tăng
khả năng sử dụng từ của bạn tới hai, ba lần, và như vậy, bạn có thể chọn
đúng được những từ mà về mặt ý nghiã, chúng thể hiện các khía cạnh của
các ý tưởng của bạn một cách chính xác hơn cả. Trong mỗi câu, tất cả các
từ phải tương xứng với nhau, và nhờ đó, tạo ra nhịp điệu được phối hợp một
cách hài hoà, làm cho văn bản dễ đọc và dễ hiểu hơn.
Tấn nhiên, giáo trình tổng kết, tất cả những điều trên không phải lúc nào
cũng làm được dễ dàng - thậm chí đối với cả những nhà văn giàu kinh
nghiệm. Nhưng đó lại chính là cái mà độc giả có quyền chờ đợi ở bạn trong
một bài phóng sự đơn giản cũng như trong một bài báo nghiêm túc.
Tính hiệu quả của tác phẩm báo chí phụ thuộc nhiều vào sự giản đơn
trong việc trình bày thơng tin. Vì vậy mà nguyện vọng của biên tập viên "
tiết kiệm " không chỉ về phương diện câu mà cả về phương diện từ, là điều
hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng văn bản cũng không được phép bị dồn nén quá
mức khiến cho trọng tải về ý nghĩa của nó bị thuyên giảm hay là các phẩm


chất về văn học của nó, nếu như có, bị ảnh hưởng. Nhiệm vụ của người
biên tập là giải thoát văn bản khỏi sự dài dòng khiến cho người ta thêm khó
hiểu cốt lõi của vấn đề, dù đó là trong chính trị tầm cỡ hay trong đời
thường.
Dưới đây là một tình huống khá điển hình, khi tác giả có " nhược điểm "
là thích quan trọng hố mọi thơng tin, kể cả những thông tin đơn giản nhất:
" Trường học Sheman đang có sự bức thiết về việc được sửa chữa ở quy
mô lớn. Trường học Flower - ngôi trường nằm ở phía bắc thành phố, có
đầy đủ khả nămg để tăng thêm số lượng học viên, mà như chúng tôi thấy,
không kéo theo sự cần thiết phải tăng thêm đội ngũ giáo viên, dù chỉ một
người ".
Người biên tập dễ dàng lược bỏ khỏi cái đống những kiểu nói quan liêu

naỳ những từ ngữ khơng cần thiết, và kết quả là văn bản trở thành đơn giản
và rõ ràng:
" Trường Sheman cần được tu sửa đáng kể. Trường Flower, nằm ở phía
bắc thành phố, có khả năng nhận thêm học sinh mà không cần phải tăng
thêm giáo viên ".
Rất nhiều khi, người biên tập phải chạm trán với sự thiên vị thái quá của
tác giả đối với việc sử dụng các cụm từ " quan trọng " khác nhau, nhằm "
làm đẹp " cho phong cách. Có thể là những cụm từ đó thích hợp với một bài
bình luận chính trị, nhưng chắc gì chúng đã thích hợp với những bản tin về
thể thao, chẳng hạn như là " cuộc gặp gỡ của các đội bóng ở cấp thượng
đỉnh ", kể cả nếu cụm từ " ở cấp thượng đỉnh " bạn có để trong ngoặc kép.
Nhiều sai sót về phong cách xuất hiện là do sử dụng từ không đúng,
chẳng hạn như là đưa những sự so sánh không phù hợp với ý nghĩa của từ.
Sẽ là hợp lý nếu nói về tiền cá cược trong câu sau: " Đảng Dân chủ trong
cuộc đấu tranh nhằm giành chính quyền trong cuộc bầu cử sắp tới đã một


lần nữa tăng tiền đặt cược sau khi đưa vào chương trình của mình những
hứa hẹn mới ". Cuộc chạy đua trước bầu cử thực tế là có thể so sánh với
cuộc đua ngựa, là nơi người ta hay đặt cược cho những người được sùng ái.
Những vẫn chính từ đó lại trở thành bất hợp lý trong tình huống thế này: "
Ấn độ đang tăng tiền đặt cược cho cuộc chinh phục đỉnh Everest ". Ở đây,
Ấn độ chẳng có đặt cá cược gì sất, mà chỉ đơn giản là đưa ra những nỗ lực
mới nhằm chinh phục đỉnh núi cao nhất trên Trái đất này.
Những trường hợp sử dụng khơng đúng các từ mà có tính chất " hoàn
toàn " hay là ý nghĩa " tuyệt đối " kiểu như các từ " vâng " hoặc " không
"cũng gây cho người biên tập khơng ít phiền phức. Bởi vì khơng thể nào nói
đựoc là " hơi có thai " chẳng hạn. Những từ như thế khơng có các cấp so
sánh tương đối cũng như tuyệt đối. Ví dụ như từ " Optimalnyi " trong bản
dịch từ tiếng Latinh có nghĩa là " tốt nhất " tức là thuận lợi nhất hay phù

hợp nhất. Thế nhưng trong các bài viết, thậm chí cả bài của tác giả có trình
độ, người ta vẫn gặp những cụm từ kiểu " Samyi optimalnyi " ( dịch nguyên
bản là" tốt nhất nhất " ) hay ngược lại " Niedostatochno optimalyi " ( dịch
nguyên bản là " chưa đủ tốt nhất " ).
Thuộc về phạm trù này cịn có cấu trúc kiểu " Polnyi anshlag ". Mỗi tác
giả, nếu như anh ta không lười biếng trong việc xem từ điển, sẽ phải đọc
thấy rằng từ " anshlag " trong tiếng Đức có nghĩa là bản thơng báo được
treo ở chỗ dễ nhìn và thường là ở quầy bán vé của nhà hát, với nội dung nói
về việc tồn bộ số vé đã bán hết. Vậy nên bổ sung thêm từ " polnyi " ( có
nghĩa là " hồn tồn " chẳng để làm gì ).
Thêm một ví dụ nữa là từ gốc Latinh " Unique " - có nghĩa là có một
khơng hai, duy nhất, không lặp lại. Ấy thế mà hầu như ngày nào chúng ta
cũng đọc hoặc nghe thấy những cụm từ kiểu " pachti unicalnyi " ( dịch
nguyên bản: gần như có một khơng hai ) hay " naibơlee unicalnyi " ( dịch


ngun bản: có một khơng hai nhất ). Mà thường thì trong những trường
hợp như thế người ta nói khơng phải về những hiện tượng có một khơng hai
một cách đích thực, mà chỉ dơn giản là về những cái gì đó đáng lưu ý.
Cụm từ " Vì kế hoạch cịn chưa đuợc hồn thành đủ mức, chúng tơi chưa
nhận được tiền đủ mức " nghe cũngchẳng kém phần lạ tai. Kết quả cuối
cùng đã được thể hiện rõ mà chẳng cần cái " đủ mức " mờ mịt đó. Rồi cả ví
dụ sau đây đọc cũng thấy khá mù mờ:
Do một cơn lũ lớn, toà nhà đã bị dịch chuyển ra khỏi vị trí của mình và
nằm gần như ngang bằng với mặt đất. Người ta lo ngại là nó sẽ bị phá huỷ
hồn tồn.
" Ngang bằng với mặt đất " diễn đạt tính triệt để của q trình này. Theo
thơng báo trên thì tồ nhà " hầu như " đã bị tàn phá, song chưa phải là tất cả
đã bị hư hoại. Theo chúng tơi, thay vì " ngang bằng với mặt đất " nên viết
là " bị hư hại nghiêm trọng " - là câu thể hiện cái đã xảy ra chính xác hơn.

Cần chú ý đặc biệt tới những câu, từ sáo rỗng rập theo những cái khn
có sẵn. Nhiều cái trong chúng vẫn cịn rất giàu sức sống và bám rễ vào
trong ngôn ngữ báo chí chắc tới mức một số tác giả hình như không viết nổi
nếu thiếu chúng: " Quan điểm của chúng tôi về vấn đề này là rõ ràng và
mọi người đều biết " - và tiếp đó là sự trình bày cụ thể cái quan điểm đó.
Hoặc là " nguyên nhân từ chối hiển nhiên tới mức chẳng cần có thêm bất cứ
một lời bình luận nào " - ấy thế mà ngay sau đó tác giả bắt đầu bình luận
hết ngun nhân này đến ngun nhân khác.
Hồn tồn có thể là cả về cái quan điểm mọi người đều biết và cả về các
nguyên nhân từ chối người ta đã thơng báo nhiều lần trong báo chí, và bây
giờ bỗng lại có nhu cầu kể lại về những điều đó. Nếu vậy thì văn bản có thể
bắt đầu như thế này chẳng hạn: " Sẽ là đúng chỗ nếu nhắc lại hay đáng lưu
ý là... ". đây cũng chính là những khuôn mẫu hay được áp dụng, thế nhưng


trong hồn cảnh đó chúng cịn chứa đựng một chút lơ gic nào đó. Tất nhiên
là đối với các tài liệu như vậy cịn có thể có những kiểu " đột nhập " khác
nữa nhằm thu hút sự chú ý của độc giả.
Một lần tờ " New York Time " đã đưa ra một bài viết của Ban biên tập
với nhan đề " Được nhiều người biết ra sao ? " mà trong đó họ chế nhạo
những người thường bắt đầu các bài viết của mình bằng những kiểu nói thơ
sơ như: Trong thực tế, nói chung là viết làm gì về cái mà người ta đã biết
rộng rãi? Sự hứng thú của độc giả với thông tin sẽ bị thun giảm hay hồn
tồn mất đi chính vì cái kiểu " đột nhập " như vậy.
Từ " rập khuôn " trong thời đại xếp chữ cho báo bằng tay được dùng để
gọi các cụm từ hay các kiểu nói mà hay gặp tới mức người ta phải chuẩn bị
sẵn chúng để tiết kiệm thời gian. Chúng được đúc vào kim loại theo từng
dòng riêng biệt và lúc cần thiết chỉ việc đưa vào bản sắp chữ. Người ta nói
rằng cái được rập khn đầu tiên là dịng chữ " một phụ nữ khả kính ". Từ
bấy trở đi " những sự chuẩn bị sẵn " kiểu như vậy bắt đầu có ý nghĩa là

ngơn từ khn sáo, và nếu trước đây chúng được sử dụng thường xuyên, thì
bây giờ sự quan tâm người ta dành cho chúng " phai nhạt " tới mức sự có
mặt của chúng trong bài viết gây cho độc giả cảm giác bực bội và mỉa mai
nhiều hơn là thu hút được họ bằng một ý nghĩa thực nào đó.
Thế nhưng hầu như trong mỗi tờ báo vẫn cịn các tác giả, mà nếu nói
bằng chính ngôn từ khuôn sáo của họ, với sự " bền bỉ đáng noi theo " đang
nhìn vào các từ rập khuôn bị phai nhạt bằng những " cặp mắt rộng mở " vì
họ có "may mắn là khơng được biết ", rằng cái lao động vinh quang đến
vậy lại hoàn tồn khơng được " cánh đồng báo chí " cần đến, mà điều này,
" trước hết " , sẽ làm tổn hại đến uy tín của chính các nhà báo. Vẫn nói bằng
những ngơn từ khn sáo của họ thì " phải nhấn mạnh một cách cương
quyết ", rằng " những hành động rõ ràng không chê vào đâu được " của


người biên tập phải " chặn đứng một cách không thương tiếc " bất cứ một
biểu hiện nào của sự xâm phạm " không thể tha thứ như thế " tới danh dự
của một tờ báo mà biết giữ gìn, như " tất cả mọi người đều biết rõ ", sự tơn
trọng của độc giả.
Hồn tồn có thể là có những cái nào đấy trong số các câu chữ rập khn
được liệt kê trên đây có giá trị nhất định trong một hồn cảnh nào đó.
Nhưng nếu chỉ một từ rập khn mà được sử dụng trong nhiều hồn cảnh
khác nhau thì cái giá trị đó khơng tránh khỏi bị hạ thấp. " Sự trớ trêu số
phận " của nhiều phát kiến khá thành cơng của nhà báo chính ở chỗ, là sau
khi đã trở thành " tài sản chung ", chúng dần biến thành những từ rập khuôn
bị quên lãng. Chúng " làm việc " một thời gian nào đó, nhưng từ chỗ được
sử dụng thường xuyên nhanh chóng bị già cỗi và chết hẳn đối với độc giả.
Tất cả tai hoạ ở chỗ là các tác giả lười biếng hay bất tài lại vẫn tiếp tục sử
dụng những khuôn sáo như vậy để che đậy sự nghèo nàn về tư duy của
mình và lợi dụng các ý tưởng, khả năng quan sát cũng như sự uyên bác của
người khác. Một tác giả đã giận dữ thật sự khi người biên tập thường xuyên

gạt bỏ trong bài viết của anh ta những lối so sánh kiểu " như ánh nắng trong
gọt sương ". Lần nào vị tác giả đó cũng nóng nảy chứng minh rằng câu văn
trên là " phát kiến " của riêng anh ta, vì nó khác với câu đuợc thien hạ dùng
quá nhiều là " như ánh nắng trong giọt nước ".



×