Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 69 trang )
ng. Gắn liền với các thiết chế tín ng ưỡng này là
những di sản văn hố phi vật thể vơ cùng phong phú của những thế hệ tiền nhân thuở đầu
khai phá vẫn còn được bảo lưu cho đến ngày nay.
-----------------------------------
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
BUỔI ĐẦU TRÊN VÙNG ĐẤT ĐỒNG NAI
1. Nếp sống vật chất
a. Tổ chức làng xã
Làng xã ở Đồng Nai ban đầu đ ược thành lập tự phát theo chủ kiến của ng ười khẩn
hoang về sau dần tuân theo quy chế của nhà Nguyễn; làng nhỏ (tiểu thôn) gọi là: làng, ấp,
trang, trại, hoặc phố ph ường (nếu là đơ thị); làng trung bình gọi là thôn; làng lớn (đại
thôn) gọi là xã.
Tên làng, xã, thôn, thường dùng những mỹ từ bắt đầu bằng những chữ: An, Bình,
Long, Phước, Tân, ... thể hiện ước muốn hưng thịnh phát đạt. Tuy nhiên, các tên làng xưa
vẫn gọi nôm na theo đặc điểm của từng vùng như: Giồng Dài, Bến Cộ, Bàu Cá, Gò Me,
Gò Chùa, cù lao Rùa. Mỗi thôn làng ở Đồng Nai th ường có nhà võ - đình - miếu - chùa chợ, ... là nơi sinh hoạt chung, thường đặt ở xã, chỗ cao ráo khu trung tâm, tiện đi lại, có
cổ thụ che bóng tạo cảnh quan thanh tịnh.
67
Thuở s ơ khai, để khuyến khích việc khẩn hoang, lập ấp, làng, chúa Nguyễn để cho
các làng mới có quyền tự trị, tự quản. Đến năm 1852, vua Tự Đức ban hành “Minh điền
hương ước” sắp xếp lại bộ máy hành chính ở nơng thơn, gắn sinh hoạt hành chính với
sinh hoạt đình miếu. Mỗi xã có từ m ười hai đến hai, ba mươi hương chức, chia làm hai
nhóm: Một nhóm lo việc hành chính, quản trị; một nhóm lo việc lễ hội, đình đám.
b. Ăn, mặc, ở
- Ăn: Do thời khí của hai mùa mưa nắng, sản vật biển, rừng, sông nước, vườn
ruộng phong phú; cách ăn uống của ng ười Việt ở Đồng Nai vừa thể hiện nét chung của
văn hóa Việt Nam, vừa có sắc thái mang dấu ấn của Nam bộ. Thức chính của bữa ăn