CHƯƠNG II – XU HƯỚNG CỤ THỂ VỚI TỪNG LOẠI HÌNH (tt)
1.
Báo phát thanh
3.1 Phát thanh trong bối cảnh mới
Phát thanh hiện đang được coi là loại hình truyền thơng hiện đại và có
sức ảnh hưởng lớn tới dư luận xã hội, có được một lượng thính giả rộng rãi.
Phát thanh hiện đang cạnh tranh mạnh mẽ cùng các loại hình truyền thơng
khác.
Tuy ra đời muộn hơn so với báo in song phát thanh có những bước
phát triển nhanh chóng đáng kinh ngạc. Từ việc xuất hiện manh mún ban
đầu khi mà Alexandre phát minh ra ăngten vô tuyến điện năm 1895. Trải qua
những bước mày mị, tìm kiếm ứng dụng thì đến năm 1913 phát thanh chính
thức góp mặt trên thế gưói truyền thơng bằng sự kiện là những buổi phát ca
nhạc của đài Lacken (Bỉ).
Sau đó trong chiến tranh thế giới lần thứ I, phát thanh được sử dụng
rộng rãi trong công tác truyền tin.
Rồi một loạt các đài phát thanh ra đời đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ
phát thanh trên toàn thế giới. Cho đến nay thì tất cả các quốc gia trên thế
giới phát thanh đều đã góp mặt.
Ngồi việc sử dụng các cách làm cũ thì phát thanh cịn bắt đầu ứng
dụng các cơng nghệ cao vào trong phát thanh nhằm nâng cao chất lượng
phục vụ công chúng.
Ở các quốc gia phương Tây, phát thanh rất phát triển, với ưu thế là
gọn nhẹ chỉ cần một thiết bị thu tín hiệu nhỏ là cơng chúng có thể theo dõi
các chương trình phát thanh, nên phát thanh đã trở nê quen thuộc trong cuộc
sống bận rộn. Mỗi sáng, trên đường đi làm, ở trong ô tơ khán giả có thể bật
đài để nghe tin tức, tình hình giao thơng… Các đài phát thanh ở phương tây
cũng đang tích cực thay đổi để đáp ứng cơng chúng. Trong xu thế cạnh tranh
giữa các loại hình báo chí với nhau, phát thanh cũng đang phải tìm lối đi cho
mình.
3.2 Xu hướng của phát thanh hiện đại
a. Chuyển đổi sang phát thanh kĩ thuật số
Cũng như truyền hình, phát thanh cũng đang từng bước chuyển đổi
hình thức phát sóng từ dạng Analog sang hình thức kỹ thuật số.
Để phát triển rộng thì khơng thể thiếu yếu tố này, vì một đài phát
thanh mạnh khơng thể có diện phủ sóng hẹp, chất lượng âm thanh kém, sự
chuyển tải thông tin hay bị gián đoạn…
Phát thanh hiện đại sẽ ứng dụng kĩ thuật số vào tất cả các khâu, các
công đoạn; từ việc trang bị các phương tiện tác nghiệp cho phóng viên, đến
việc xử lí, dựng các tác phẩm hồn chỉnh, hay truyền phát sóng…
Khi nguồn thu nhập thơng tin tốt, khả năng xử lí thơng tin, khả năng
truyền dẫn tốt thì chắc chắn sẽ tạo một chương trình phát thanh tốt. Hiện nay
phát thanh kĩ thuật số ra đời đang mở ra cho phát thanh một tương lai mới:
đó là chất lượng âm thanh tốt như CD. Khơng có nhiễu, giao thoa, hay sự
cản trở bởi các yếu tố tự nhiên
Khi được sử dụng một cách đồng bộ sẽ tạo ta chất lượng phát sóng rất
cao với các loại hình khác như PT-TH; PT- Điện Tử.
b. Xây dựng các chương trình phát thanh mở
Mục đích là để thơng tin nhanh, để thính giả có thể tham gia trực tiếp
vào nội dung chương trình, làm tăng tính đời thường của chương trình, tính
gần gũi của phát thanh, làm cho phát thanh giống như người bạn, một diễn
đàn nơi mà mọi người có thể chia sẻ quan niệm, ý kiến. Kinh nghiệm của
các đài phát thanh lớn là khi thực hiện được công việc này thì sẽ tạo ra sức
hút rất lớn với cơng chúng.
Các chương trình mở có một đặc điểm đó là thơng tin ở đó khơng chỉ
do phóng viên cung cấp mà do cả công chúng, những người tham gia vào
chương trình qua trao đổi cung cấp do vậy nguồn tin sẽ đa dạng. Hơn thế
thơng tin ở đây có tính chân thực, khách quan và có khả năng thu hút thính
giả theo dõi nhiều hơn.
Khi có sự góp mặt, đóng góp cơng sức của cơng chúng theo dõi vào
chương trình thì sẽ có nhiều thơng tin mới, thơng tin đắt giá được khai thác,
và hơn thế trách nhiệm về thông tin được chia đều cho cả phóng viên lẫn
người trực tiếp cung cấp.
Khi các chương trình mở được thực hiện địi hỏi phải có một êkíp
thực hiện chun nghiệp, có trình độ, có khả năng ứng biến cao và các
phương tiện, trang thiết bị hiện đại.
c. Thay đổi trong cách thức truyền thơng tin
- Thơng tin nhanh và chính xác
Nhanh chính là lợi thế của phát thanh so với các loại hình báo chí
khác. Nếu như báo in bị hổng thơng tin 24 giờ thì từ số ra ngày hơm trước
tới số ra ngày hôm sau, các sự kiện, sự việc diễn ra trong thời gian giữa 2 số
báo sẽ phải lưu lại cho tới số sau. Truyền hinh thì cần yếu tố cần thiết cho
việc ghi hình, việc truyền dẫn do các công đoạn thực hiện phức tạp hơn, có
nhiếu cơng đoạn xử lý và phụ thuộc vào nhiều yếu tố máy móc mới có thể
đêm thơng tin tới cho cơng chúng được.
Cịn thơng tin trên phát thanh thì có thể chảy liên tục trong suốt
khoảng thời gian phát sóng. Thơng tin của phát thanh được cung cấp liên tục
và có thể đưa ra cho cơng chúng ở mọi lúc, mọi nơi. Từ việc cung cấp cho
công chúng những thông tin ngắn gọn ban đầu (tin) hay đưa ra những lời
bình luận, đánh giá ban đầu. Phát thanh cịn có thể cung cấp thơng tin bên
ngồi thơng qua trật tự tuyến tính về thời gian, theo tiến trình phát triển của
sự kiện, sự việc.
Muốn thơng tin nhanh thì người làm phát thanh phải giỏi về nghiệp vụ
và có hỗ trợ đắc lực của các phương tiện kỹ thuật. Các công đoạn, thao tác
thực hiện phải chuyên nghiệp, nhanh nhẹn, chủ động đối phó và xử lí thơng
tin. Có hỗ trợ đắc lực của các phương tiện kỹ thuật sẽ giúp cho cơng việc của
phóng viên có thể diễn ra nhanh và thuận lợi, tăng tính chuyên nghiệp và
hiệu quả của tác phẩm báo chí trên phát thanh.
Cách cung cấp thông tin nhanh nhất là phát thẳng tức là thơng tin
được truyền tới thính giả đồng thời cùng lúc với sự kiện đang diễn ra…
Phương thức phát thanh trực tiếp hiện nay đang ngày càng phổ biến hơn
trong phát thanh hiện đại.
Để chuyển từ phương thức sản xuất thông thường, truyền thống sang
phát thanh trực tiếp thì cần có sự hỗ trợ đắc lực của cơng nghệ, phương tiện
kỹ thuật. Do đó cần được đầu tư đồng bộ, có một êkíp làm việc ăn ý, chun
nghiệp.
Khi sản xuất chương trình mà phải in ra băng từ thì việc thực hiện một
chương trình phát thanh trực tiếp sẽ khó thực hiện do muốn lấy được một
đầu băng đúng chỗ phải quay đi quay lại nhiều lần.
Phát thanh hiện đại ngày nay đã khắc phục nhược điểm đó bằng cách
sử dụng vi tính. Thiết bị số cho phép tính thời gian chính xác đến từng %
giây.
Thơng tin nhanh nhưng cần phải chính xác bởi đó là yếu tố làm nên
hình ảnh đẹp cho phát thanh, tạo nên niềm tin cho cơng chúng vào phát
thanh. Thơng tin chính xác chính là đáp ứng u cầu thơng tin sự thật của
cơng chúng, là sự tơn trọng của phóng viên đối với cơng chúng của mình.
- Viết ngắn, nói ngắn, nói rõ
Thông tin trên phát thanh là thông tin chỉ trôi qua một lần, không thể
đọc lại như trên báo in. Cộng với việc theo dõi bằng thính giác có giới hạn
về số lượng, tốc độ âm thanh. Do vậy một người làm phát thanh chuyên
nghiệp phải nắm rõ được đặc điểm này để có thể tạo ra một chương trình
phát thanh hấp dẫn. Khi nói trên phát thanh cần coi đó như là một cuộc trị
chuyện, là một cuộc trị chuyện với bạn tri kỉ.
Ngôn ngữ chuẩn cho phát thanh là ngơn ngữ có sự kết hợp giữa ngơn
ngữ nói và ngơn ngữ viết. Nếu như trên báo in thì công chúng đọc bằng mắt,
và văn bản được soạn thảo để nói cho nhiều người nghe. Cịn phát thanh là
viết cho tai nghe, viết để nói chứ khơng để đọc.
Văn bản viết cho phát thanh là văn bản viết dành riêng cho phát thanh
chứ không thể sao chép hay copy từ báo in sang. Văn bản phát thanh cần rõ
ràng, tránh lối nói vịng vèo, quanh co.
Khi trình bày văn bản cho phát thanh cần tuân theo quy tắc chung
như: không in lên 2 mặt, phải đánh dấu các ý quan trọng, căn lề, làm tròn
số…
Các tin phát thanh hiện đại thường chỉ dài 1 phút: Phóng sự thu thanh
thì từ 5 – 6 phút; phỏng vấn từ 3-4 phút; bình luận từ 2-3 phút là hợp lí…
Khi đã viết ngắn rồi thì nên nói ngắn tức là lời dẫn cần hợp lí, vừa đủ
Khi nói cần rõ ràng bởi giọng đọc là phương tiện chính để truyền tải
nội dung của tác phẩm phát thanh tới thính giả, do đó góp phần tạo nên sự
hấp dẫn cho tác phẩm đó.
Các phần mục, đoạn trong tác phẩm phát thanh không được phân cách
bằng cách ngắt hơi, dừng hơi của người đọc. Do vậy để đảm bảo tính chính
xác của thơng tin nên đọc rõ.
- Khai thác, sử dụng triệt để đặc điểm của phát thanh
Việc khai thác để các yếu tố bổ trợ trong phát thanh giúp cho phát
thanh tránh tình trạng đài là nơi đọc báo cho cơng chúng nghe. Phải biến
chương trình phát thanh thành một chương trình sinh động, hấp dẫn chứ
không phải là đọc dịch từ báo in mà ra.
Các yếu tố bổ trợ đắc lực cho lời phát thanh là:
Tiếng động hiện trường:
Tiếng động hiện trường có hai dạng cơ bản: Tiếng động thực của hiện
trường và tiếng động được lưu giữ trong các băng dữ liệu.
Để có thể có được chất lượng âm thanh tốt thì phải ln có kho dự trữ
âm thanh
Phát thanh sử dụng tiếng động hiện trường nhằm tạo sự hấp dẫn cho
nội dung, tính chân thực, thuyết phục cho thơng tin của mình, Khi tiếng
động hiện trường được sử dụng tốt sẽ tạo ra giao diện lớn đối với thính giả,
tạo sự sinh động cho tác phẩm. Nó giúp truyền tải ý đồ của tác giả và khả
năng liên tưởng của độc giả được nâng cao hơn. Do khơng được phụ trợ bởi
hình ảnh nên có thể tạo ra khả năng hình dung, tưởng tượng cho thính giả
được coi là một thành cơng.
Âm nhạc:
Âm nhạc được sử dụng trong phát thanh nhằm tạo tính linh hoạt mềm
mại cho thông tin và giúp thông tin đến với công chúng dễ dàng hơn. Theo
nhà nghiên cứu của Úc thì trong một chương trình phát thanh thì âm nhạc
chiếm tới 35 – 45% là phù hợp nhất.
Âm nhạc có thể làm thành một chương trình riêng hoặc làm nền cho
các chương trình khác. Nhặc cắt, nhạc hiệu, nhạc nền… giúp cho các
chương trình thêm đa dạng, làm nên cái riêng, cái đặc trưng, là yếu tố hỗ trợ
tạo khả năng thu hút cao hơn cho các chương trình.
Trong chương trình phát thanh hiện đại do có các phương tiện kỹ
thuật số do đó âm nhạc được xử lí và cắt, ghép một cách trơn tru quá, đang
làm giảm dần đi tính hấp dẫn của những âm thanh mộc mạc.
- Kết hợp giữa thông tin đời thường, thông tin giải trí và thơng tin
chiến đấu
Tức là cần chú trọng tới nội dung của chương trình. Đây là yếu tố
quan trọng hàng đầu quyết định tới việc thành bại của chương trình phát
thanh.
Khi xây dựng kịch bản cho chương trình phát thanh thì nên chú ý kết
hợp các yếu tố sao cho thật phù hợp
Để phản ánh đa dạng cuộc sống, đáp ứng được yêu cầu thông tin của
công chúng thì phát thanh phải lựa chọn thơng tin để phản ánh sao cho thật
hiệu quả. Thông tin ấy không chỉ thiên về một lĩnh vực mà phải phản ánh đa
diện về cuộc sống, đáp ứng nhu cầu thông tin. Do đó việc kết hợp các yếu tố
trên là vơ cùng quan trọng.
Nếu thông tin đời thường cung cấp cho cơng chúng thơng tin về cuộc
sống xung quanh thì thơng tin giải trí đáp ứng nhu cầu tinh thần và thông tin
chiến đấu sẽ định hướng cho dư luận về những vấn đề có tầm quan trọng…
Khi khai thác đầy đủ thơng tin trên thì phát thanh đã làm được nhiệm
vụ là trở thành một người tri kỉ, một người dẫn đường, phù hợp với nhiều
đối tượng thính giả, thuộc mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp…
Việc dung hồ tính thời sự và giải trí sẽ giúp cho người nghe dễ tiếp
thu và không chịu áp lực khi theo dõi thông tin. Chỉ có xây dựng một kịch
bản hay thì mới thu hút được thính giả.
Trên đây là các xu hướng phát triển của báo Phát thanh hiện đại
Tuy nhiên đây chỉ là những xu hướng phát triển chung mà thôi, cịn
trong tuỳ từng trường hợp, hồn cảnh, điều kiện cụ thể sẽ xuất hiện các xu
hướng khác nhau. Để phát thanh phát triển thì khơng nên áp dụng một cách
khô cứng khuôn mẫu mà phải biết chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
2.
Báo truyền hình
Truyền hình là một thể loại sử dụng hình ảnh và âm thanh để tạo nên
thông tin cung cấp cho khán giả. Từ khi ra đời và phát triển đến nay, truyền
hình vẫn ln tận dụng được những lợi thế của mình để cung cấp hình ảnh
của thế giới cho cơng chúng. Các đài truyền hình trên thế giới vẫn đang nỗ
lực để cải tiến chương trình của mình để cạnh tranh với các loại hình truyền
thơng khác đồng thời cung cấp cho cơng chúng những tin tức tốt nhất, nóng
nhất của thế giới xung quanh.
Truyền hình khác với các loại hình khác ở chỗ nó địi hỏi phải có hình
ảnh và âm thanh kết hợp, điều đó dẫn tới cơng nghệ đi theo nó cũng phải cao
hơn, đầu tư tốn kém hơn. Để thực hiện một tin tức truyền hình thì ít nhất
cũng phải có 2 người cùng hợp tác: một phóng viên và một quay phim.
Trong xu thế cạnh tranh ngày nay, khán giả đã chán ngán những tin
tức khô khan, chậm chạp… do đó nhiều đài truyền hình ở Mỹ đã phát triển
rất nhiều chương trình truyền hình trực tiếp, những chương trình tin nóng
phát trực tiếp từ hiện trường. Rất thường gặp những chương trình đang phát
dở thì bị cắt ngang bởi những “tin nóng”… tại hiện trường một sự việc nào
đó, ta sẽ thấy một phóng viên đang dẫn hiện trường tường thuật trực tiếp
những gì đang diễn ra xung quanh họ… khán giả trước màn hình tivi sẽ cảm
thấy tò mò và chăm chú theo dõi. Đó là một bước đi mới để chinh phục khán
giả.
4.1 Thách thức và giải pháp cho truyền hình
a. Thách thức của truyền hình ngày nay
Sự ra đời của internet kéo theo những biến đổi to lớn của lĩnh vực
truyền thông đại chúng. Rất nhiều dự đốn về tương lai của ngành truyền
thơng sẽ thuộc về loại hình này, với ưu thế vượt trội của nó là đa phương
tiện và tính tương tác. Theo khảo sát của hãng nghiên cứu thông tin Nielsen
(Mỹ) cho thấy: việc sử dụng internet và các dịch vụ trên mạng trong các gia
đình đã chen vào thời gian xem truyền hình của họ. Các gia đình nối mạng
internet trung bình giảm 13% thời gian theo dõi truyền hình khoảng 1 tiếng
mỗi ngày so với các gia đình khác. Đây là kết quả khảo sát 5000 gia đình ở
Mỹ trong năm 2000. Nhiều con số thống kê khác cho thấy: khán giả thường
xuyên của màn ảnh nhỏ cũng bắt đầu giảm dần, kể từ khi họ bị lơi cuốn bởi
máy tính và internet, đặc biệt là lớp trẻ. Ông Marshal Cohen, chun gia
thẩm định thơng tin của hãng truyền hình AOL – Turner nhận định rằng:
“Con người đang thay đổi, thoát khỏi sự quyến rũ của các chương trình
truyền hình. Họ thích tự nghiên cứu và tiếp cận với thơng tin hơn là bị chi
phối bởi thông tin”.
Mặc dù mới chỉ là những nhận định như trên và tính dự đốn cịn ở
phía trước, cũng như sự thay đổi chưa mang tính bước ngoặt nhưng người ta
cũng bắt đầu lo ngại trước sức mạnh của internet. Chính vì vậy, tương tự
như lịch sử của việc kết hợp nhiều loại hình báo chí trong vịng kiểm sốt
của một ơng chủ hay một tập đồn tư bản trước đây, thì nay, các hãng truyền
hình lớn cũng muốn xích lại gần các cơng ty dịch vụ internet bằng hàng loạt
những hợp đồng chuyển sở hữu hay sáp nhập. Mục tiêu nhằm “lập chiến
lược đúp để vươn tới khách hàng, cung cấp cả truyền hình và sản phẩm
tương tác (tức các dịch vụ internet) cho mọi đối tượng tiêu dùng, từ trẻ em
đến người lớn, mọi tầng lớp khán giả truyền hình” – theo như lời của Ringo
Chan – giám đốc chi nhánh của Turner Internationl tại Hồng Kông (Công ty
mẹ của CNN) khẳng định.
Mạng lưới truyền hình của Mỹ cũng đã tung ra địn phản cơng phù
đầu chống lại các đối thủ đe dọa của mình. Qua một loạt giao dịch mua bán
nhanh chóng, các hãng truyền hình nước này đã thơn tính nhiều cơng ty
internet nhằm tạo dựng một vị trí tốt trong bối cảnh truyền thông mới, các
website trên mạng. Những vụ mua bán này đều phản ánh mong muốn kéo lại
khán giả đang trôi về môi trường tương tác, đa màu sắc trên web. Mặc dầu
vậy, tất cả mới dừng lại ở mục đích tranh giành thị phần, khán giả và quảng
cáo.
Trên thực tế, hiện nay và tương lai, internet khó có thể gây nguy hại
cho đời sống báo chí nói chung và truyền hình nói riêng. Trong vịng 10 năm
qua, kể từ khi bùng nổ internet, số lượng phát hành, lợi nhuận từ quảng cáo
trên báo in vẫn không ngừng tăng lên, kể cả ở những nước có điều kiện phát
triển internet như Mỹ, Châu Âu. Với truyền hình, nhìn bề ngồi có vẻ bị suy
yếu vì lượng khán giả ngày một giảm, nhưng trên thực tế, các tập đồn
truyền hình lớn vẫn rất sung sức. Truyền hình vẫn là phương tiện truyền
thông phổ cập nhất, đặt dưới sự kiểm soát của các tư bản kếch xù và lâu đời,
trong khi nhiều cơng ty internet cịn q non trẻ và kinh doanh vẫn thua lỗ.
Mặt khác, theo tài liệu phân tích của tổ chức phát thanh – truyền hình
châu Á – Thái Bình Dương (ABU) thì chất lượng audio, video qua internet
hiện nay vẫn còn là vấn đề cần xem xét. Âm thanh trên internet mới chỉ
dừng ở mức độ “nghe được”, cịn xa mới có thể đạt chất lượng cao. Hình
ảnh qua internet thường có khn hình bằng 1/16 toàn bộ màn ảnh, chất
lượng kém và chỉ truyền được 6 hình/giây. Nếu so sánh với internet thì
truyền hình chỉ thua kém ở mặt tương tác. Tuy nhiên trong tương lai, khi
truyền hình tương tác (interactive television) hồn thiện hệ thống và phổ cập
thì gần như ranh giới giữa truyền hình và internet sẽ rất mờ nhạt, khi mà
chúng trộn lẫn vào nhau. Những tham vọng và toan tính kể trên của các hãng
truyền hình lớn nhằm thâu tóm các cơng ty internet cũng chính là để chuẩn
bị cho tương lai đó.
b. Giải pháp cho truyền hình
Trước mắt, người ta tạm bằng lịng với những website trực tuyến mà
tất cả các hãng truyền hình được phát sóng và những thơng tin bổ sung được
truyền tải trên mạng theo một cách thức khác, đã khiến cho truyền hình ngày
càng phát huy sức mạnh của nó. Người ta tìm đọc những thơng tin về một sự
kiện nào đó được đưa trên mạng và nảy sinh nhu cầu xem hình ảnh về sự
kiện đó trên truyền hình. Ngược lại khi xem truyền hình, khán giả bị lơi
cuốn và thơi thúc tìm hiểu về tin tức đó kĩ hơn bằng cách truy cập vào
internet. Và thật khéo là, không chỉ bổ sung cho nhau về mặt thông tin, cách
thức tiếp cận thơng tin mà hai loại hình này luôn biết cách quảng cáo cho
nhau theo nghĩa đen của từ này, vì xét cho cùng, chúng đều thuộc về một
hãng mà thơi. Có thể kể tên hàng loạt các website của các hãng lớn như là
CNN.com, BBC.com, ABCnews.com, NBCi.com...
Danh mục các chương trình truyền hình ln được chuyển tải trên
mạng, thể hiện đầy đủ trên thanh công cụ của các trang web. Khi truy cập
vào đây người đọc sẽ tiếp cận sâu hơn những vấn đề đã hoặc sẽ phát sóng.
Phát huy ưu thế tương tác của mạng trực tuyến, các website này ln có diễn
đàn để người truy cập tham gia bàn luận sâu hơn về các sự kiện. Ví dụ như
trong thời điểm xảy ra sự kiện 11/9/2001 tại Mỹ, trang web ABC.news.com
đã xây dựng hẳn một diễn đàn trao đổi ý kiến trực tiếp với tên gọi: “Cầu
Chúa phù hộ nước Mỹ, Tại sao? Tại sao?”. Chỉ sau 3 ngày, số lượng thông
tin trao đổi đã lên quá con số 3 triệu.
Tuy nhiên xu hướng hợp tác, hợp nhất giữa truyền hình và internet
khơng dừng lại ở đó, cũng khơng chỉ khởi nguồn theo ý đồ của các tập đồn
truyền hình lớn. Đó cịn là tham vọng của các công ty tin học khổng lồ mà
tiêu biểu nhất là Microsoft. Bill Gates, chủ nhân của tập đoàn này nhân thấy
rằng: trong tương lai, nếu muốn giữ sự phát triển thần kỳ của Microsoft thì
nhất thiết phải nắm giữ lấy thị trường mà các nhà sáng chế của ơng gọi là
khơng gian truyền hình (television space). Vấn đề là ở chỗ, trong thị trường
đó, ơng sẽ chiếm một vị trí lớn đến mức nào.
Báo chí phương Tây ví sự hợp tác, hợp nhất giữa truyền hình và
internet là một cuộc hôn phối giữa hàng loạt các tập đồn truyền thơng –
truyền hình nắm trong tay quyền lực thông tin và các công ty tin học với ưu
thế to lớn về công nghệ. Trong cuộc cạnh tranh nhằm thâu tóm tương lai của
ngành truyền thơng, phần thắng có thể thuộc về ơng Bill Gates hay ơng Ted
Turner, đồng nghĩa với việc truyền hình lợi dụng Internet để phát triển hoặc
ngược lại. Song đây là xu hướng có tính tất yếu, nếu xét trên phương diện
khoa học cơng nghệ thuần túy. Bởi đó là sự kết hợp của một loại hình truyền
thơng tương tác với một phương tiện báo chí nghe nghìn để thực sự trở
thành truyền thơng đa phương tiện.
Người ta đã nhìn thấy: trong tương lai gần, chiếc máy thu hình thơng
thường hiện nay sẽ trở thành lạc hậu, thay vào đó là các thiết bị đa phương
tiện – multimedia, tiện lợi và đa dụng hơn nhiều. Đó là một máy tính đa
chức năng: tính tốn, soạn thảo văn bản, tra cứu thông tin, đánh cờ, chơi
điện tử, viết và nhận email và xem hàng trăm kênh truyền hình. Khi xem
truyền hình nhiều kênh, khán giả chẳng cần bấm nút chuyển kênh liên hồi vì
bên tay phải của màn hình sẽ có hàng loạt màn hình mini, hiển thị cho bạn
biết kênh nào hiện đang chiếu gì, và lúc đó bạn sẽ dễ dàng lựa chọn. Ví dụ
như khi bạn đang xem bóng đã, bạn chỉ cần bám điều khiển từ xa để hiển thị
một khuôn hình nhỏ, giống như trên internet nằm hai bên lề màn hình,
khơng chiếm diện tích lớn và vẫn đủ để bạn theo dõi bóng đá. Tuy đồng thời
làm các việc như trên, người ta vẫn thao tác nhiều việc khác: khai thác thông
tin về một cầu thủ nào đó từ trang web hay xem lại một vài pha gay kết hay
kết quả các trận đấu khác, trao đổi cùng bạn bè hay xem một bản bình luận
mới cập nhật.
Tuy nhiên sự hội nhập giữa truyền hình và internet khơng có nghĩa
biến truyền hình thành một thứ hình ảnh động được chuyển tải trên mạng và
hịa tan và đó. Về bản chất, mặc dù cả hai loại hình dều mang tính báo chí và
giải trí. Song chiếc máy vi tính là phương tiện để làm việc, trong khi máy
thu hình cịn là một sản phẩm văn hóa của gia đình. Máy thu hình sẽ được
nối mạng internet nhưng sẽ không làm nhiệm vụ giống máy tính, việc sử
dụng sẽ dễ dàng hơn và dịch vụ của nó đơn giản hơn. Như vậy trong gia
đình vẫn sẽ có cả hai loại máy kỹ thuật tương đối giống nhau. Khi đó, máy
thu truyền hình sẽ đảm bảo việc quản lý hàng trăm kênh truyền hình, những
dịch vụ như: mua hàng qua truyền hình, các trị chơi truyền hình, kiểm tra tài
khoản ngân hàng… Cịn máy tính sẽ đảm nhiệm các chức năng phức tạp hơn
như xử lý, quản lý thu nhập gia đình, xử lý văn bản, hội thảo, hội nghị qua
mạng, xử lý hình ảnh…
Cũng như tốc độ phát triển của internet, người ta dự đốn rằng chỉ
trong vịng một thập kỷ tới, một thế hệ truyền hình thơng minh sẽ quen
thuộc với nhiều gia đình. Với cơng nghệ sản xuất các màn hình cực mỏng,
bạn có thể treo trên tường mỗi phịng một máy thu hình như một bức tranh
treo tường. Bạn chỉ cần ngồi trên ghế, nói lên bạn muốn gì, tồn bộ hệ thống
này sẽ thực hiện ý muốn của bạn: tìm chương trình bạn thích xem, ghi lại
các chương trình chưa kịp xem, xem tin tức mới cập nhật…
4.2 Xu hướng phát triển của truyền hình
Với sự cạnh tranh khốc liệt từ các loại hình báo chí khác, đặc biệt là từ
internet, truyền hình cần phải tự thay đổi bản thân mình để đáp ứng được
u cầu của cơng chúng hiện đại cũng như tự cứu sống bản thân mình. Bên
cạnh việc nâng cao chất lượng tin bài, chất lượng phát sóng… thì một u
cầu đặt ra cho truyền hình là phải tạo ra được những chương trình mới hấp
dẫn khán giả. Ta có thể thấy một vài thay đổi của truyền hình trong tương
lai:
• Truyền hình kỹ thuật số: Giữa năm 2008 và 2012, truyền hình cơng
nghệ tương tự (analogue TV) sẽ chấm dứt tại Anh để hoàn toàn
chuyển sang dịch vụ truyền hình kĩ thuật số với chất lượng tốt
hơn. TV kĩ thuật số có thể thu sóng từ dây anten, vệ tinh, cáp hoặc
các đường dây điện thoại. Để chuyển sang truyền hình cơng nghệ số,
u cầu phải có bộ chuyển đổi để xem truyền hình kĩ thuật số trên
TV thông thường (set-top box) hoặc bộ giải mã cho TV.
• TV độ nét cao: TV với độ nét cao hay HDTV (High-definition
television) là định dạng mới cho phép người xem có được những
hình ảnh sắc nét, rõ ràng, màu sắc trung thực, độ tương phản cao và
chất lượng âm thanh cũng tốt hơn nhiều nhờ có thêm nhiều điểm ảnh
hơn trên từng cm. Những chiếc TV được coi là HDTV nếu màn hình
có đủ điểm ảnh (pixel) để thể hiện được những hình ảnh sắc nét với
độ phân giải 720p (1280x720 pixel) hoặc 1080i (1920x1080 pixel).
Bạn cần phải có một chiếc HDTV và bộ chuyển đổi HD hoặc bộ giải
mã để xem được truyền hình kĩ thuật số.
• Máy ghi hình cá nhân PVR: Với PVR (Personal video recorder),
người xem có thể ghi lại nội dung truyền hình trực tiếp vào PC để
xem lại sau đó. Trong q trình ghi lại các chương trình, chúng ta
cũng có thể tạm dừng (pause), xem lại (replay), tua hình (fast
forward)… Hầu hết PVR đều được kết hợp với các dịch vụ TV kĩ
thuật số như: Sky, Freeview
• Xem video theo yêu cầu (on demand): “On demand” có nghĩa là
người xem có thể xem danh sách các chương trình để lựa chọn
chương trình muốn xem và khơng bị bó buộc về thời gian xem. Với
dịch vụ theo yêu cầu, đài truyền hình sẽ gửi tới khách hàng những
show diễn hay những bộ phim được u thích thơng qua việc kết nối
băng thông rộng nhờ bộ chuyển đổi cho TV.
• Sự kết hợp giữa TV và máy tính: Gìờ đây, việc kết nối TV với máy
tính (PC) hay một thiết bị có thể đảm nhận cả 2 chức năng này
khơng cịn là điều khó tưởng tượng. Nó sẽ mở ra một thư viện khổng
lồ các đoạn video từ mạng internet và có thể xem trực tiếp chúng
trên TV. Điều này cũng gần giống như việc sử dụng bộ nhớ PC như
một chiếc PVR. Người tiên phong trong lĩnh vực này là Microsoft
với Media Centre. Bên cạnh đó, chiếc iTV của Apple cũng mang
đến những tiện nghi tương tự. Còn phải kể tới Xbox 360 cho phép
tải các show để xem trực tiếp trên TV.
• Truyền hình di động: Hiện nay xem TV trên màn hình di động là
điều khá phổ biến. Nhờ kết nối mạng tốc độ cao 3G, việc tải về các
gói dịch vụ để xem trực tiếp trên di động đơn giản hơn bao giờ hết.
Các công nghệ cạnh tranh như: DAB-IP và DVB-H đang được các
nhà sản xuất điện thoại đưa vào để thu hút nhiều hơn nữa khách
hàng. Cũng như điện thoại, việc xem show trên iPod và máy nghe
nhạc MP3 ngày càng phổ biến hơn.
(Hiện nay ở Việt Nam khái niệm truyền hình theo yêu cầu, truyền hình
thực tế và truyền hình tương tác vẫn cịn có sự lẫn lộn với nhau, thực
tế đó là 3 hình thức hồn tồn khác nhau.)
a. Truyền hình theo yêu cầu (on-demand)
Truyền hình theo yêu cầu là dịch vụ mà khán giả có thể tự mình lựa
chọn chương trình u thích để xem mà không phải phụ thuộc vào giờ phát
của đài truyền hình.
Từ năm 1991, Microsoft đã muốn đưa máy điện toán vượt xa các loại
máy PC thường và hướng đặc biệt về truyền hình tương tác mà họ rất thích
khả năng thực hiện việc xem video theo yêu cầu (video on demand). Hậu
quả tức thì của việc này là làm cho các cửa hàng thuê băng đĩa bị lỗi thời
phải đóng cửa.
Microsoft tự nhận cho mình sứ mạng phải phát minh lại truyền hình,
theo đó, họ phải chuyển đổi một phương tiện báo chí mang tính giải trí, giáo
dục chuyển tạo ra một sự thụ động, uể oải, đờ đẫn ở người xem thành một
phương tiện có khả năng kích thích cac phản ứng của đơng đảo khán giả.
Để thực hiện mục đích đó, Microsoft lao vào nghiên cứu truyền hình
tương tác nhưng khơng thành cơng. Trong khi đó, năm 1995, tập đồn Time
Warner của ơng Ted Turner đã đưa ra biểu diễn một mơ hình thí nghiệm
truyền hình tương tác có thể vừa thu được các chương trình truyền hình, vừa
có thể u cầu chiếu những bộ phim khá giả u thích, vừa có thể đặt mua
vé máy bay, đặt phòng khách sạn… Những việc này thực hiện được nhờ có
bộ phận thiết bị server (cho phép truy cập dữ liệu trực tiếp) và nhờ hộp setto
đặt trên máy thu hình. Trở ngại chính của nó cịn q cồng kềnh và giá quá
cao: 8000$ cho chiếc hộp setto. Bill Gates đã nhanh nhạy nhận ra rằng: chỉ
có mạng internet mới là chìa khóa giúp Microsoft bước vào lĩnh vực kinh
doanh truyền hình một cách vững chắc. Với 425 triệu USD, Bill Gates mua
ngay công ty điện tử WebTV Sun chuyên sản xuất các thiết bị điện tử hệ
thống, biến nó thành một phịng thí nghiệm tốt nhất của truyền hình tương
tác. Mục tiêu của Microsoft là thiết kế chiếc hộp webtv, cho phép truy cập
các website từ máy thu hình bình thường với giá chỉ khoảng 199 USD.
Nếu Microsoft thành công trong việc sản xuất loại máy thu hình kèm
theo một số thiết bị cho phép vừa xem được các chương trình truyền hình
thơng thường, vừa sử dụng được như máy điện toán, vừa là máy truyền hình
tương tác thì có nghĩa là cơng ty này sẽ chiếm được vị trí mạnh trong lĩnh
vực truyền hình, ảnh hưởng và lợi nhuận sẽ tăng rất nhanh đồng thời thế lực
của Bill Gates sẽ được nâng cao.
Nếu như không lâu trước đây, truyền thông đại chúng (mass media) là
sự thống trị của một tam đầu chế bao gồm Báo in, Truyền hình và Phát thanh
thì hơm nay, với sự ra đời và tương hỗ của Internet, đường truyền băng
thông rộng và công nghệ không dây, thế giới đang chứng kiến sự sốn ngơi
của một tam đầu chế mới trong truyền thơng, đó là Truyền hình, Internet và
Mobile.
May mắn thay, với những đặc thù về việc truyền hình ảnh và khả năng
thích ứng cao cho tương tác. “Đế chế” truyền hình vẫn và sẽ ln là một
kênh thơng tin quan trọng bậc nhất trong bộ ba này. Hơn thế nữa, khác với
giai đoạn phân mảnh trước đây với báo in, với phát thanh, truyền hình ngày
nay hồn tồn có thể kết nối, dùng chung tập khán giả và phân chia quyền
lợi với hai hình thức nghe nhìn mới này, từ đó tạo ra vơ số giá trị gia tăng
trên cả ba mơ hình. Xu hướng và hiện trạng của thế giới, đó là việc ba hình
thức nghe nhìn thế hệ mới này đang kết nối để tụ về một điểm chung. Vậy
trong bối cảnh của Việt Nam, chúng ta đang có những gì trong tay?
Mobile
Truyền hình
Hình thức sử dụng SMS để tác động lên chương trình truyền hình
trong thời gian gần đây đang như nấm sau mưa với hàng loạt các công ty
khai thác các dịch vụ giá trị gia tăng trên các thiết bị di động. Có thể nói đây
là hình thức phổ biến và hiệu quả nhất trong việc khai thác truyền hình
tương tác ở Việt Nam. Tuy nhiên, với cách thức khai thác ồ ạt và na ná
giống nhau dàn trải trên mọi chương trình truyền hình, sự nhàm chán và thờ
ơ của khán giả đối với loại hình dịch vụ này đã manh nha xuất hiện.
Truyền hình
Mobile
Với việc cơng nghệ WiMax sẽ triển khai sớm ở Việt Nam, cho phép
các thiết bị khơng dây có thể truy cập đường truyền tốc độ cao, việc xem
những chương trình truyền hình trực tiếp trên Mobile đang dần trở nên tực tế
Internet
Truyền hình
Máy tính PC với khả năng tương tác trực tiếp lên Internet cung cấp
những công cụ mới cho việc tương tác truyền hình một khi Internet và
truyền hình đã kết nối. Thay cho các hình thức tương tác cổ điển như thư
phản hồi hay điện thoại cố định, chúng ta hãy nghĩ đến tất những gì chúng ta
tương tác được với Internet cũng sẽ chính là những gì chúng ta tương tác
được với truyền hình. Đó là khả năng phản hồi thơng điệp trực tiếp, trực
tuyến, đó là khả năng gửi âm thanh và thậm chí cả hình ảnh trực tiếp lên
truyền hình.
Truyền hình
Internet.
IPTV cũng như Internet Television đã rậm rịch xuất hiện ở Việt Nam
cùng với các giao thức truyền video trực tiếp (streaming), các giao thức phân
phối ngang hàng (P2P sharing) đang hoàn thiện mở ra những hình thức mới
trong việc xem truyền hình. Khán giả đã có thể xem trực tiếp chương trình
của VTV, VTC… được ngay trực tiếp trên trang chủ cũng như download
những chương trình truyền hình số thơng qua những mạng ngang hàng mà
VNN-TV là một trong những ví dụ đầu tiên của những nhà cung cấp dịch vụ
Video theo yêu cầu (VOD - Video On Demand), hình thức xem TV rất phổ
biến tại Bắc Mỹ.
Ba hình thức truyền thơng thế hệ mới đang kết nối để hội tụ, tạo ra
nhiều dịch vụ giá trị gia tăng cho khán giả nhưng cũng tạo ra khơng ít thách
thức cho người làm truyền hình. Rõ ràng 3 hình thức truyền thông thế hệ
mới đang kết nối để hội tụ, tạo ra vô vàn dịch vụ giá trị gia tăng trên bản
thân mỗi loại hình,
Truyền hình theo yêu cầu iTV
IPTV (Internet Protocol Television) là dịch vụ truyền tải hình ảnh kỹ
thuật số tới người sử dụng qua giao thức Internet với kết nối băng thơng
rộng - ADSL. Nó thường được cung cấp kết hợp với VoIP và truyền dữ liệu
nên cịn được gọi là cơng nghệ tam giác (dữ liệu, âm thanh và hình ảnh).
Tính tương tác cao
Bên cạnh các kênh truyền hình như các loại truyền hình analog và
truyền hình cáp khác, IPTV cho phép cung cấp các dịch vụ kèm theo như
Video theo yêu cầu (VoD - Video on demand), Truyền hình theo yêu cầu
(TVoD), Đọc báo trên TV (iNews), Âm nhạc theo yêu cầu (iMusic), Phát
thanh trực tuyến (iRadio), Lưu trữ trực tuyến (iStorage), Gửi tin nhắn qua
TV (iMessenger), Chia sẻ Video (Clip4U) và bầu chọn (Voting)... mà các
dạng truyền hình từ trước đến nay bao gồm analog, cáp hay truyền hình kỹ
thuật số khơng có được.
Truyền hình: Dễ dàng theo dõi lịch phát sóng
Từ cơng nghệ tương tác EPG của IPTV, người dùng có thể xem lịch
phát ngày hơm đó cũng như những ngày tiếp theo trên TV, đồng thời có thể
dễ dàng xem hiển thị tên chương trình đang phát cũng như ngày giờ bắt đầu
của chương trình kế tiếp. Chức năng đặt giờ cho phép đặt sẵn chương trình
muốn xem và đến đúng giờ đó, TV sẽ tự động chuyển sang kênh đã chọn.
VoD và TVoD – Phim và truyền hình theo yêu cầu
Đây là dịch vụ xem phim theo yêu cầu, với kho phim ảnh chương
trình các loại được lưu trữ trên máy chủ của nhà cung cấp. So với các bộ
phim được phát sóng trên truyền hình analog, truyền hình cáp hay truyền
hình kỹ thuật số, dịch vụ này có những ưu điểm vượt trội như khả năng cung
cấp lượng phim ảnh không hạn chế, chọn lựa phim muốn xem và tua tới, tua
lui, dừng hình như khi xem DVD.
iMusic – Nghe nhạc theo yêu cầu: đáp ứng nhu cầu về Nghe – Nhìn,
dịch vụ này cho phép lưu các album âm nhạc trên máy chủ để người dùng tự
do lựa chọn, tìm kiếm và lên danh sách các bài hát riêng cho mình. Số lượng
bài hát lưu trữ là khơng hạn chế.
iNews – Đọc báo trên TV: Hữu ích và đơn giản khi kết hợp TV với
báo điện tử. Đây là một dịch vụ liên thông với báo điện tử và người dùng sẽ
đọc báo trên TV tùy thích mà khơng cần phải sử dụng máy vi tính rồi truy
cập web báo điện tử để xem.
Sự vượt trội về công nghệ tương tác thế hệ mới này còn ở khả năng
giao tiếp giữa những người sử dụng hệ thống với nhau qua các dịch vụ
iMessenger và Voting: gửi và nhận tin nhắn, cùng tham gia các chương trình
bình chọn qua TV bằng cách bấm trực tiếp trên điều khiển từ xa.
iKaraoke, dịch vụ Karaoke gia đình tích hợp vào bộ giải mã cũng sẽ
được phát triển rộng rãi nhằm thỏa mãn thị hiếu của những khách hàng yêu
ca hát trong tương lai gần.
Với các tính năng nổi trội, trên thế giới IPTV đang chiếm thị phần
ngày càng lớn, nhất là ở các nước có hạ tầng ADSL phát triển. Theo các
chuyên gia, trong 5 năm tới IPTV sẽ đẩy lùi các loại dịch vụ truyền hình
truyền thống, truyền hình cáp và dẫn đầu trong lĩnh vực truyền thơng truyền
hình.
Ở Việt Nam, các ngả đường giữa 3 hình thức này cũng đã thơng xe,
như vậy bài tốn đặt ra cho người làm truyền hình chỉ cịn là sử dụng loại xe
gì, đi như thế nào để khai thác tối đa hạ tầng mà thơi. Câu trả lời có lẽ nằm ở
khả năng tương tác trong nội dung. (Chongchongtv.com)
b. Truyền hình tương tác (Interactive Television – ITV)
Truyền hình tương tác là khả năng cung cấp
các chương trình có thể tác động trực tiếp đến
khán giả. Tức là người xem có thể can thiệp vào
nội dung của chương trình truyền hình.
Từ ngữ “truyền hình tương tác”, về thực
chất, được dùng để nói về thể loại “đàm luận
chuyên đề” (talk show). Trong đó những người
tham gia có thể là các vị khách mời hoặc là đơn
thuần chỉ là những khán giả bình thường của
truyền hình.
Tất các các đài truyền hình ngày nay đều có tối thiểu vài ba chương
trình tương tác khác nhau, đó có thể là một chương trình bình luận về một sự
kiện thời sự, một gameshow trong đó có người chơi là khán giả… Ý kiến
của khán giả sẽ đóng góp vào thành cơng của chương trình. Điều đó là cần
thiết đề tạo ra một xu hướng báo chí khách quan.
Tại Việt Nam, nội dung các chương trình truyền hình như Khởi
nghiệp, Làm giàu khơng khó, Sức sống mới (VTV), Nói và làm, Chào buổi
sáng, Tơi và chúng ta (HTV), Talk 9 (VTC1), Talk Vietnam (VTV4)... gần
đây khơng cịn nằm trong phạm vi “đóng” của một kịch bản khô cứng dựng
sẵn mà đã “mở” ra cho khán giả cùng tham gia chia sẻ, đóng góp ý kiến,
thậm chí đưa ra những câu hỏi, vướng mắc mà người xem bất bình, khơng
đồng ý.
Ở chương trình bình luận thể thao trên VTV3, những tin nhắn góp ý,
bình luận nội dung các MC đang nói hay dự đốn của khán giả được hiển thị
phía dưới màn hình tivi ngay khi chương trình đang phát sóng trực tiếp.
Chương trình Nói và làm hằng tháng trên Đài Truyền hình TP.HCM thu hút
nhiều người xem bởi chương trình này như một phiên chất vấn thu nhỏ của
đại biểu HĐND TP với lãnh đạo các quan chức, ban ngành về các chuyện
vừa sát với đời sống, vừa mang tính thời sự như đất đai, giáo dục, nhà ở...
Giám đốc Đài Truyền hình TP.HCM Huỳnh Văn Nam cho rằng giờ
đây việc khán giả xem đài thụ động tiếp nhận một chiều khơng cịn hợp thời.
Người xem truyền hình ngày càng đơng, số lượng kênh truyền hình ngày
càng nhiều thì xu hướng “mở” - có tương tác, có giao lưu giữa chương trình
với khán giả - là điều tất yếu. “Như HTV4, kênh khoa giáo của chúng tơi
khoảng vài tháng nữa thơi sẽ khơng cịn cách dạy một chiều như hiện nay,
mà người xem có thể ngồi ở nhà gọi điện thoại đặt câu hỏi, giao lưu với thầy
giáo trực tiếp qua màn ảnh hoặc qua email” - ơng Nam nói.
Cơng nghệ Truyền hình tương tác bằng tin nhắn khơng cịn là điều
mới mẻ ở VN nhưng có thể nói đây là chiêu hút khán giả nhất của các kênh
truyền hình. Ngay khi chương trình đang phát sóng hay khi vừa kết thúc sẽ
có vài câu hỏi đặt ra như bạn thích ca khúc nào nhất, ca sĩ nào trình bày ấn
tượng... Hãy gửi tin nhắn đến số... Nếu là tương tác trực tiếp, vài mươi giây
sau tin và số điện thoại của bạn hiện trên màn hình vơ tuyến.
Ở Úc, một bộ phim truyền hình phát sóng kèm theo lời kêu gọi khán
giả nhắn tin bình phẩm, thêm thắt chi tiết nhân vật, muốn tập sau nhân vật
đó như thế nào... Cách này phim truyền hình Hàn Quốc cũng áp dụng để
thăm dị khán giả. Các nhà đài được lợi ba bên: vừa tìm hiểu phản ứng khán
giả, vừa tăng lượng công chúng, vừa có nguồn thu phí từ lượng tin gửi về.
Truyền hình tương tác tại VN chỉ mới xuất hiện đúng nghĩa ở một vài
chương trình như game show Vui cùng Hugo, Stinky và Stomper, Nhật ký
Vàng Anh, chương trình thể thao truyền hình trực tiếp Cuồng nhiệt với thể
thao. Ngồi ra, tương tác gián tiếp như V-Clip 45, Bài hát Việt, Ngôi sao
THTH...
c. Truyền hình thực tế (reality show)
Truyền hình thực tế (reality show) là những show truyền hình mà
người tham gia là những người không chuyên,được quay cảnh đời sống thật
và trong một mức độ nào đó khơng có bàn tay của đạo diễn can thiệp.
Đây là loại hình rất phổ biến ở các quốc gia phát triển, đặc biệt là ở
Mỹ. Để tạo ra cảm xúc thật và mới lạ cho cơng chúng, các đài truyền hình
tiến hành xây dựng các chương trình trong đó người tham gia sẽ được thể
hiện cảm xúc thật, hành động thật như trong đời thường mà khơng chịu sự
chi phối của đạo diễn. Có thể hiểu là người tham gia sẽ quên đi sự hiện diện
của máy quay và sống như cuộc sống thường ngày.
Những hình ảnh đó sẽ được máy ghi lại và truyền
tới cho cơng chúng.
Một ví dụ điển hình của chương trình truyền
hình thực tế đó là American Idol của FOX. Ra đời
ngày 11/6/2002 và từ đó đến nay nó trở thành một
show ăn khách nhất trên truyền hình.
Nguyên tắc của chương trình này đó là người chơi sẽ tham gia thi hát
và trước đó chưa từng tham gia cuộc thi nào. Phải là công dân Mỹ hoặc
người làm việc tại Mỹ ít nhất 3 mùa. Độ tuổi từ 16 – 24 và có thể nâng lên
thành 28 khi bước vào mùa thứ 4.
Truyền hình thực tế vẫn cịn khá mới mẻ tại Việt Nam. Đầu năm
2005, VTV3 xuất hiện Khởi nghiệp và ngay lập tức thu hút người xem mỗi
tuần. Đây có thể được coi là show truyền hình thực tế tiên phong tại Việt
Nam. Cũng trong năm này, Vượt lên chính mình, Ngơi nhà mơ ước (HTV
thực hiện) - một dạng truyền hình thực tế khác - ra mắt.
Đến năm 2006, Phụ nữ thế kỷ 21 mới thật sự là chương trình truyền
hình thực tế đúng nghĩa đầu tiên tại VN. Ngay khi ra mắt bạn xem đài,
chương trình đã tạo được sự chú ý bởi tính tươi mới, chân thật và thẳng thắn.
Tuy là một cuộc thi truyền hình nhưng các thí sinh (TS) được thoải mái bộc
lộ quan điểm và cá tính, những điểm mạnh và cả điểm yếu của mình để từ đó
phác họa nên những nét độc đáo của phụ nữ thế kỷ ngày nay.
Sau Phụ nữ thế kỷ 21 có thể kể đến Ước mơ của tơi, Vui là chính,
Thần tượng âm nhạc - Vietnam Idol. Và tháng mười tới, HTV cũng sẽ phát
sóng "Funny video home" (bản quyền của Mỹ) với những tình huống hài xảy
ra trong gia đình do khán giả tự quay và gửi đến. Đây sẽ là chương trình
"mồi" để các khán giả VN gửi những video clip tương tự về gia đình mình
cho đài biên tập và phát sóng.
Dẫu biết truyền hình thực tế từng tạo được nhiều thiện cảm và thành
cơng ngồi mong đợi ở nước ngồi, nhưng khi chọn một chương trình làm
vừa lịng người Việt thật khơng dễ. Như Vui là chính khi mới vào VN cũng
bị phản đối kịch liệt vì một số chương trình khơng phù hợp với thuần phong
mỹ tục. Phụ nữ thế kỷ 21 năm ngoái bị chê là cứng nhắc trong việc biến các
TS thành những "nữ cường nhân" bất đắc dĩ.
Người Việt nhìn chung hiền hịa, chân tình nhưng không phải ai cũng
đủ cởi mở và tự tin để tham gia các show truyền hình thực tế. Các TS và cả
khán giả VN phần lớn vẫn chưa dạn ống kính, khơng quen bày tỏ bản thân,
quan điểm trước bàn dân thiên hạ.
Nhưng ngay cả khi những người trong cuộc dám thẳng thắn nói lên
chính kiến của mình thì công chúng cũng chưa hẳn đã chấp nhận. Dư luận
rất hay khen - chê vu vơ nhưng lại thờ ơ, ngần ngại trong việc tham gia
"cuộc chơi" (nhắn tin bình chọn, gửi ý kiến góp ý, tham gia diễn đàn trên
trang web của chương trình… ) cũng chính là rào cản cho việc phát triển
truyền hình thực tế tại VN.
MC - cầu nối khơng thể thiếu của chương trình, đặc biệt là những
chương trình mới toanh, với khán giả - cũng là vấn đề gây đau đầu cho các
nhà sản xuất. Hầu hết những show THTT thành công ở nước ngoài đều
mang đậm dấu ấn của MC.
Tại VN, thật khơng dễ để tìm kiếm ra một MC năng động, thơng
minh, dí dỏm, nhạy cảm, giỏi ứng biến... (tiêu chuẩn để dẫn một show
truyền hình thực tế). Vì vậy hiện tại vẫn chưa có MC nào của các show
THTT tại VN chiếm được nhiều cảm tình của bạn xem đài, giúp người xem
tiếp cận với thể loại mới mẻ này một cách "ngọt ngào" nhất.
Sau vài chương trình đã ra mắt có thế thấy truyền hình thực tế khơng
phải là "món" dễ xơi đối với các nhà sản xuất hay cơng ty quảng cáo. Như
Vui là chính, sau khi tiếp thu ý kiến của khán giả, chương trình được biên
tập cẩn thận hơn. Tháng chín này, Vui là chính sẽ khơng cịn là truyền hình
thực tế nữa mà được dàn dựng với phần biểu diễn của các nghệ sĩ. Còn
những chương trình khác, kể cả mua bản quyền từ một chương trình ăn
khách nhất thế giới, dẫu được sự ủng hộ của người xem vẫn chưa thể là "con
gà đẻ trứng vàng".
Các nhà sản xuất chương trình "than" làm truyền hình thực tế tốn kém
và vất vả gấp 5 - 6 lần những show giải trí khác. Như show Phụ nữ thế kỷ 21
năm ngoái tiêu tốn trên 500.000 USD (tiền bản quyền, thực hiện, quảng bá,
giải thưởng...) nhưng không thành công lắm về mặt thương mại: rating
(lượng người xem) chưa cao như mong đợi và số spot quảng cáo trong
chương trình cùng lượt người nhắn tin bình chọn chỉ đạt mức vừa phải.
Nhà tổ chức cho biết họ mất khoảng nửa năm để chuẩn bị và thực hiện
chương trình. Riêng phần dựng, hậu kỳ đã tốn đến hai tháng. Chương trình
được quay tại nhiều thành phố khác nhau như Quảng Ninh, Nha Trang,