Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thân phận con người trong sáng tác của Franz Kafka

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.16 KB, 9 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 5, pp. 12-20
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00027

THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG SÁNG TÁC CỦA FRANZ KAFKA
Nguyễn Thị Thắng

Khoa Tiểu học – Mầm non, Trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh
Tóm tắt. Sáng tác của Franz Kafka đem đến cho con người cảm nhận về thân phận nhỏ
bé, mong manh của kiếp người. Giá trị con người bị triệt tiêu, sinh mạng người rẻ rúng
hơn loài vật. Bị tước đoạt phương tiện sống, khơng cịn niềm tin vào cuộc đời, con người
thu mình lại trong nỗi cơ đơn bản thể trong không gian và thời gian. Lạc khỏi thế giới, con
người đơn độc tha hương đi tìm tự do, cơng lí nhưng nó mãi ở chân trời xa lắc phía trước
mặt mà con người khơng thể nào đến được đích. Vì thế, khao khát về một thế giới tự do,
hạnh phúc đích thực cho kiếp người hiện đại chưa bao giờ trở thành hiện thực trong thế giới
tinh thần của F. Kafka.
Từ khóa: Thân phận con người, sáng tác của Kafka, cô đơn bản thể.

1.

Mở đầu

Vấn đề thân phận con người trong văn học không phải đến Kafka mới được đề cập [2-4],
nhưng có lẽ chỉ từ Kafka khái niệm thân phận con người trong xã hội hiện đại mới thực sự có sức
ám ảnh sâu sắc [1, 6]. Lịch sử tiến hóa của xã hội lồi người là lịch sử của những nỗ lực không mệt
mỏi đem đến cho con người cuộc sống văn minh, hiện đại hơn. Nhưng Kafka đã chứng minh ngược
lại: khi xã hội càng văn minh, thân phận con người càng trở nên nhỏ bé, rẻ rúng, đáng thương đến
tội nghiệp. Đọc tác phẩm của Kafka, người đọc tìm thấy sự giải thiêng về quan niệm con người, là
lúc con người bắt đầu hồi nghi và nhìn ra bản chất thật về sự tồn tại của mình. Sáng tác của Kafka


sẽ cho chúng ta thấy sự thật ấy, dù ngẫm ra nó thật tang thương.

2.
2.1.

Nội dung nghiên cứu
Thân phận bé nhỏ, mong manh của kiếp người

Chúng ta vẫn lầm tưởng rằng có ranh giới phân chia giá trị giữa con người và loài vật. Con
người phải được đứng ở vị trí cao quý hơn và cai quản mn lồi, đứng trên mn lồi. Trong tác
phẩm của Kafka ranh giới đó khơng tồn tại, khơng có sự cao q dành riêng cho con người, cũng
khơng có sự bẩn thỉu, thấp hèn, ngu độn của riêng lồi vật. Những thuộc tính đó hài hịa trong bản
chất chung của các loài, kể cả loài người. Chẳng phải ngay trong bản thân mỗi con người cũng có
sự hịa trộn giữa phần “con” và phần “người” đó sao? Bởi vậy, sinh mạng của con người trong sự
cảm nhận của F. Kafka cũng chỉ như cái rơm, cọng rác mà thơi. Ta hiểu vì sao nhà văn đem đến
cái kết hài hước, bi đát, cay đắng cho thân phận người nghệ sĩ nhịn đói: lẫn trong đống rơm rác,
Ngày nhận bài: 12/12/2014 Ngày nhận đăng: 20/4/2015
Liên hệ: Nguyễn Thị Thắng, e-mail:

12


Thân phận con người trong sáng tác của Franz Kafka

vùi xuống đất sâu trong sự quên lãng vĩnh viễn của người đời; chiếc cũi sắt được dọn sạch sẽ đón
thân thể cao quý, đầy sức mạnh của một con báo hoang. Còn anh chàng Gregor Samsa trong thân
xác một con cơn trùng, sau khi lìa đời, chỉ bằng một nhát chổi, bà giúp việc dọn sạch dấu vết của
anh khỏi thế giới này cùng với đống rác rưởi trong nhà, đồng thời anh bị quét sạch khỏi kí ức của
những người thân trong gia đình. Rõ ràng thân xác anh bị coi rẻ hơn cả loài vật.
Vậy đâu là giá trị của con người? Có lẽ trong cảm quan của Kafka về tồn tại kiếp người thời

hiện đại thì giá trị của anh nằm ở giá trị lợi ích mà anh đem lại cho người khác. Khi sự tồn tại của
anh vơ ích đối với việc kiếm cơm, khơng thể làm ra “đồng tiền bát gạo” cho người khác thì anh
chỉ là rác rưởi bẩn thỉu cần được quét dọn sạch sẽ. Hài hước và bi đát thay cái chết của “người cưỡi
xô” trong truyện ngắn cùng tên của Kafka ngẫm ra lại do chính anh ta mang lại cho mình: “một
xẻng than xấu nhất mà bà có. Dĩ nhiên tôi sẽ trả bà tiền của cả xô đầy, nhưng không phải ngay bây
giờ, không phải ngay bây giờ” (Người cưỡi xô) [6;796]. Cụm từ “không phải ngay bây giờ” ấy đã
giết chết anh ta. Anh khơng có tiền ngay bây giờ ư? Thế thì anh chẳng có giá trị gì hết và anh phải
vĩnh viễn biến mất. Trong xã hội hiện đại, khi con người ta không muốn 1 + 1 = 2 nữa thì sự thành
thật của người cưỡi xô đôi khi lại là bi kịch trong cuộc sống.
Khi khơng cịn ranh giới giữa người và vật nên con người trong tác phẩm của Kafka bị đối
xử như con vật, thậm chí cịn khơng bằng lồi vật. Chàng nghệ sĩ nhịn đói, Gregor Samsa, người
cưỡi xơ. . . đều là nạn nhân của căn bệnh thờ ơ, vô cảm đó của người đời. Căn bệnh ấy là sản phẩm
của xã hội hiện đại khi con người chỉ chăm chăm vào kiếm tìm và hưởng thụ của cải vật chất; khi
đồng tiền, lợi lộc và danh vọng có thể làm mờ mắt, xóa sổ lương tâm con người. Kafka đã báo
trước kỉ nguyên của căn bệnh vô cảm và ngày nay nó đã trở thành một “căn bệnh truyền nhiễm”
khó chữa khi xã hội càng hiện đại, đời sống vật chất ngày càng được nâng cao.
Không dừng lại ở đó, căn bệnh này cịn sản sinh ra những con bệnh biến thái, những kẻ phi
nhân tính biến con người thành vật thí nghiệm, như những con chuột bạch, phục vụ cho những ý
tưởng tra tấn điên cuồng, rồ dại, khát máu của bọn cai trị. Cảnh tra tấn dã man, đầy màu sắc Trung
cổ trong Trại lao cải là minh chứng rõ nét nhất cho điều này. Những kẻ cai trị man rợ lấy việc hành
hình con người làm niềm hoan hỉ, “hân hoan đón chào cơng lí đang được thực hiện” một cách vô
nhân, bẩn thỉu.
Chúng tôi nhận thấy trong quan niệm về tồn tại kiếp người của F. Kafka có mang dấu ấn
văn hóa Carnaval của văn hóa dân gian phương Tây. Tuy nhiên, bản chất của nó dường như hồn
tồn khác. Khái niệm Carnaval là tên gọi chung chỉ các hình thức và nghi thức lễ hội có yếu tố giả
trang vui nhộn, phát triển mạnh ở phương Tây thời kì Phục hưng. Mục đích của lễ hội Carnaval là
đem đến sự đổi thay, giúp con người thoát khỏi mọi quy định, ràng buộc thường ngày, mang lại
tiếng cười sảng khoái của một cuộc sống tự do, giải phóng hồn tồn về tinh thần. Vận dụng những
yếu tố của văn hóa Carnaval vào tác phẩm của mình, Kafka nhấn mạnh tính một chiều của sự thay
đổi. Nếu trong lễ hội văn hóa Carnaval ln ln song hành hai yếu tố: “tấn phong – hạ bệ” thì con

người trong tác phẩm của Kafka chỉ có “hạ bệ” hoặc “tấn phong” để “hạ bệ” con người tới mức
thấp nhất, gần như triệt tiêu giá trị con người trong sự tồn tại của nhân vật. Chẳng hạn ở Josephine,
nữ ca sĩ hay Dân chuột khi xếp đặt chi tiết thành các đối cực: phi thường > < tầm thường, lí tưởng
> < phi lí tưởng, cao cả > < thấp hèn, nghệ thuật > < phi nghệ thuật. . . Kafka đã khiến cho nhân
vật giống như người anh hùng vừa được “tấn phong” bỗng chốc bị “hạ bệ” một cách đau đớn và
chua chát. Câu chuyện mang tính chất Carnaval này đem đến triết lí thâm thúy mà bi đát vô cùng
về cuộc đời và con người: cuộc đời này giống như một trò chơi, là một sân khấu mà mỗi người
phải sắm một vai; kẻ sắm vai anh hùng ln cho mình là vĩ đại, chỉ có người ngồi cuộc mới thấy
hết tính khơi hài, kệch cỡm của vai diễn. Bi đát thay khi tiếng hát của nàng ca sĩ chuột tưởng rằng
13


Nguyễn Thị Thắng

là “một sứ điệp”, là tiếng hiệu triệu của dân tộc, cuối cùng cũng chỉ là tiếng chút chít thảm hại của
lồi chuột ln chui rúc trong xó tối, bị chơn vùi trong qn lãng. Chẳng lẽ đó là kết cục tồi tệ nhất
của kiếp người?
Đặt lời kể chuyện, lời báo cáo đường hồng bình thản vào miệng một con khỉ, Báo cáo gửi
viện Hàn lâm của Kafka là tiếng cười đầy mỉa mai, chua chát, giễu nhại con người: “một con tinh
tinh nhỏ và Achilles vĩ đại là như nhau”, “chúng tôi thường nhổ vào mặt nhau; chỉ khác là tơi liếm
sạch mặt sau đó cịn họ thì khơng”, “bản chất khỉ của tơi rời khỏi tơi, từ đầu đến gót chân rồi thốt
ra, do vậy chính người thầy đầu tiên của tôi hầu như biến thành khỉ theo cách đó”. . . [1; 312]. Con
khỉ càng tiến hóa thành người hồn hảo bao nhiêu thì ngược lại bản chất của con người càng bị
lột trần ra thô bỉ, xấu xa, đáng cười bấy nhiêu. Thực ra, con người cũng chẳng có gì tốt đẹp cả, nó
cũng chỉ là một thứ người – ngợm với một lô một lốc những thói hư tật xấu: bẩn thỉu, tục tĩu, bất
lịch sự, lừa lọc, giả dối. . . và nhất là lối sống bầy đàn, một lối sống chỉ hợp với lồi khỉ hơn là với
con người. Hóa ra những việc con người thường làm như hút tẩu, uống rượu, làm tình. . . những
phát minh xưa nay được coi là tiến bộ của lồi người chỉ là “trị khỉ” không hơn trong mắt một con
khỉ sau khi đã học cách tiến hóa thành người. Bởi “cuộc sống của quý ngài như những con khỉ,
thưa quý ngài”. Hóa ra việc tiến hóa thành người lại là một thất bại thảm hại nhất của con người

hay sao? Kafka đã tạo ra sức công phá mãnh liệt của một giọng điệu mỉa mai, giễu cợt vào bản
chất người thời hiện đại. Khi “tơi chỉ vừa báo cáo xong” thì cũng là lúc bức biếm họa về bản chất
con người được trải ra, cịn sự mênh mơng vơ tận của nó đến thế nào tùy thuộc vào sự cảm nhận
của độc giả.
Mất giá người, thân phận con người trong tác phẩm Kafka càng trở nên nhỏ bé, tội nghiệp,
khơng cịn chỗ bấu víu vào cuộc đời khi nó bị tước đoạt phương tiện sống (cả phương tiện vật chất
lẫn tinh thần – niềm tin vào con người và thế giới). Sống trong cuộc đời, bản thân mỗi chúng ta
không thể tồn tại chỉ bằng những điều kiện vật chất hay chỉ có thế giới tinh thần. Cuộc sống của
con người là sự hài hịa của hai yếu tố đó tùy thuộc vào điều kiện cũng như nhu cầu hưởng thụ
khác nhau ở mỗi người. Trong thực tế, ở vào tình huống liên quan đến sự sống cịn nào đó, có thể
có lúc chúng ta khơng có đủ điều kiện vật chất nhưng nếu được sự trợ giúp của bạn bè, tình thân,
gia đình, hay sự đùm bọc từ những tấm lịng trong xã hội, chúng ta vẫn sẽ tìm được con đường
sống. Đó là con đường sống của lịng nhân ái, tình yêu thương, sự chở che, đùm bọc của con người
dành cho con người trong lúc hoạn nạn. Tuy nhiên trong thế giới của Kafka, con người khơng thể
tìm được “diễm phúc” ấy. Vì đó là thế giới mà những điều kiện vật chất là thước đo giá trị tinh
thần. Nếu anh khơng có tiền thì bạn bè, tình thân, lịng nhân ái hay thậm chí chỉ là sự thương hại
thơi, tất cả chỉ là con số không. Rơi vào bi kịch đó, anh tìm đâu ra đường sống?
Nhân vật của Kafka vì thế bị tước đoạt mọi phương tiện duy trì sự sống: vật chất và tinh
thần. “Người cưỡi xơ” hết nhẵn than trong lị giữa mùa đơng lạnh giá. Nhưng anh khơng có tiền
nên bà bán than “khơng nghe”, “khơng thấy” gì hết, dù anh đứng ngay trước mặt và đang gào rát
cổ họng cầu xin chỉ “một xẻng than xấu nhất” thôi. Gregor Samsa cũng vậy, khi không thể đi làm
ni sống gia đình, trở thành một con vật kinh tởm, anh lập tức nhận sự ghẻ lạnh và nhanh chóng
bị qt khỏi thế giới của chính những người thân yêu nhất.
Ở một phương diện nào đó, con người trong tác phẩm Kafka có khi có phương tiện, có nghề
nghiệp nhưng khơng được sử dụng hoặc khơng thể sử dụng đúng mục đích: bà vợ bán than mắt
tinh, tai thính, thì khơng nhìn thấy gì, khơng nghe thấy gì; người đạc điền bị vứt vào thế giới khơng
cần đến đo đạc; ca sĩ Josephine hiến thân cho nghệ thuật trong một dân tộc khơng biết gì về nghệ
thuật, cũng khơng cần đến nghệ thuật; nghệ sĩ nhịn đói nỗ lực nhịn ăn trong khi mọi người khơng
cịn quan tâm gì đến anh nữa, họ chỉ náo nức với những con thú hoang lồng lộn trong cũi sắt. . .
14



Thân phận con người trong sáng tác của Franz Kafka

Con người đã bị vơ dụng hóa. Mục đích của điều này là để bài trừ anh ra khỏi xã hội. Vì con người
chỉ có thể sống khi thấy mình tồn tại có ý nghĩa trong cuộc đời. Khi trở nên vơ dụng nó cũng khơng
khác lồi vật, nên nó cũng không thể được sống cho ra con người.
Sự dối lừa của con người dành cho con người đã là không thể chịu đựng nổi, vậy mà nhân
vật trong tác phẩm Kafka còn phải chống đỡ với những thế lực siêu hình, khiến cho họ khi rơi vào
tận cùng nỗi tuyệt vọng vẫn không khỏi băn khoăn về sự lầm đường lạc lối giống như trị đùa của
số mệnh. Ơng thầy thuốc nông thôn nhận được tiếng chuông trong đêm, ông cần đến nhà bệnh
nhân chữa bệnh ngay nhưng ngựa của ông đã chết, hai con “ngựa ma” xuất hiện trong chuồng lợn
cùng gã mã phu. Chúng đưa ông tới nhà bệnh nhân chỉ trong chớp mắt để rồi lại kéo lê thân già
của ông trong bão tuyết trên con đường trở về mà khơng bao giờ có thể về tới nhà. Câu chuyện này
đã chỉ ra cơ chế tước đoạt sự sống con người trong tác phẩm Kafka chính là bản chất giả tạo, lọc
lừa đểu giả của xã hội phi nhân: nó cướp đi phương tiện duy trì sự sống hàng ngày của con người,
đồng thời trao cho anh một phương tiện giả dối, nham hiểm để anh tự dẫn mình tới chỗ chết nhanh
chóng hơn. Vì thế, sứ giả mang thơng điệp của Hồng thượng “là một gã khỏe mạnh, không biết
mệt mỏi” cũng không thể nào vượt qua được con đường nối tiếp những hậu cung, cầu thang, sân
nhỏ, nhiều sân nhỏ hơn. . . Gã bị nhấn chìm ở đó, chỉ mình gã ở nơi ngập ngụa những cặn bã của
lồi người, ơm nỗi cơ đơn đi trọn kiếp người

2.2.

Nỗi cô đơn bản thể của con người

Đọc các tác phẩm của Franz Kafka, chúng tôi cảm nhận được nỗi cô đơn, sự tuyệt vọng
của một con người của dân tộc Do Thái. Dường như nhà văn mang vào trong tác phẩm của mình
niềm tin giống như sự đinh ninh của một người Do Thái: họ tin rằng khơng hề có Chúa cứu thế,
Jesus khơng phải Chúa cứu thế, Chúa cứu thế chỉ có trong tưởng tượng và chưa bao giờ xuất hiện.

Lịch sử đau thương mà người dân Do Thái phải hứng chịu đã chứng minh điều đó. Theo Charlie
Nguyễn thì tiên tri Isaiah của người Do Thái (thế kỉ VIII TCN) đã nói: “Đấng Messiah (Chúa cứu
thế) sẽ gom góp tồn dân Do Thái trở về đất Israel”. Thế nhưng “lịch sử Do Thái đã chứng minh
ngược lại: Jesus chết khoảng năm 30. Đến năm 70 thì Israel bị quân La Mã đánh chiếm và tiêu
diệt người Do Thái vô số kể. Đến nỗi người Do Thái sợ bị diệt chủng nên đã bỏ xứ lánh nạn khắp
nơi trên thế giới. Gần 19 thế kỉ sau (1949) thì Liên Hiệp Quốc (khơng phải Jesus) đã gom dân Do
Thái về Israel” [2;2]. Điều này không chỉ xảy ra trước Kafka mà cả sau khi ông qua đời, người dân
Do Thái vẫn luôn hãi hùng trước nỗi lo sợ bị diệt chủng. Chẳng hạn sự kiện tháng 03 năm 1939,
Đức quốc xã tiếp quản toàn bộ Czech & Slovakia. Họ căm thù người Czech, người Slavs cũng như
dân Do Thái. Do vậy chúng đuổi tất cả những người Do Thái ra khỏi Prague. Ước tính trong vịng
sáu năm, số lượng dân Do Thái giảm sút một cách đáng kể, từ 100,000 người xuống còn chưa đầy
10,000 người cịn sống ở đó cho đến nay. Hitler đã lên kế hoạch biến khu nhà ổ chuột của dân Do
Thái thành một tượng đài không lưu lại dấu vết văn hóa nào về một trong những nền văn hóa đã
thực sự bị phá hủy. Ba người chị em gái của Kafka cũng bị chết dần trong nỗi sợ hãi không tên của
sự hủy diệt hàng loạt. Liệu có khi nào sống trong sợ hãi như thế, những người dân vô tội này đã
từng thốt lên: Chúa cứu thế, Người ở đâu?..
Kafka đã khơng chỉ cảm nhận mà cịn tiên cảm nỗi đau đớn dai dẳng của con người khi thấy
mình là một sinh vật bị bỏ rơi dưới gầm trời này, giống như Chúa trời đã bỏ rơi người Do Thái.
Cho nên số kiếp, thân phận của họ trở nên nhỏ nhoi, mong manh và mang trong mình một nỗi cơ
đơn bản thể. Mỗi con người tự thấy mình lạc lồi, bơ vơ, cơ lẻ giữa đồng loại như được sinh ra từ
một thế giới khác không phải thế giới của con người. Từ Gregor Samsa, Josef K., K., nghệ sĩ nhịn
đói, ca sĩ Josephine, ơng thầy thuốc nơng thơn hay cả con vật trong Hang ổ cũng thấy mình cô
15


Nguyễn Thị Thắng

đơn như thế. Không ai biết, không ai thấu hiểu, ngay cả chính bản thân con người nhiều khi cũng
khơng thể hiểu nổi mình.
Khi khơng được thấu hiểu, giữa con người với con người mãi mãi chỉ là “hai vũ trụ chứa

đầy bí mật” (Xuân Diệu). Sự ghẻ lạnh của gia đình đã khiến tâm hồn nhạy cảm với trách nhiệm,
tình thương của Gregor Samsa bị chấn thương, vết thương lịng rỉ máu khơng thể cứu vãn, anh đi
dần tới cái chết. Cũng bởi không được thấu hiểu cho nên hành động quên mình vì nghệ thuật của
nữ ca sĩ dân tộc chuột, Josephine, trở thành kệch cỡm, đáng cười. Thế giới này hồn tồn khơng
cịn mối giao hòa, trước mặt, sau lưng, trên trời, dưới đất chỉ một khơng khí lạnh lẽo, vơ tình. Đó
là bản chất của xã hội hậu công nghiệp. Con người phải chạy đua với thời gian, công việc, tiền tài,
danh vọng; lao vào tìm kiếm và hưởng thụ cuộc sống vật chất mà quên mất rằng cội nguồn giá trị
hạnh phúc chính là sự ấm áp của tinh thần. Căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện đại càng khiến nỗi
cô đơn của con người được nhân lên.
Mang trong mình dịng máu Do Thái, sinh ra tại Prague, thủ đô Tiệp Khắc, dưới sự thống
trị của Đế chế Áo – Hung, lại được tiếp thu nền văn hóa và sự giáo dục của người Đức, con người
Kafka có sự hịa trộn phong phú các nền văn hóa ấy. Đây cũng là nguyên ủy sâu xa của mặc cảm
thiếu quê hương, cảm giác cô độc, tha hương trong tâm hồn Kafka. Trong thế giới nội tâm nhạy
cảm và dễ tổn thương ấy, Kafka ln có cảm giác về một sự tồn tại lơ lửng, chênh chao, vô định.
Đây cũng là cảm giác thường trực trong tâm hồn nhân vật của Kafka: “Tôi sẽ ở lại đây lâu, vậy mà
bây giờ đã cảm thấy mình bị bỏ rơi, tơi khơng thuộc về những người nông dân, cũng không thuộc
về Lâu đài” (Lâu đài) [6;312]. Câu nói này của K. với người thầy giáo bộc lộ một nỗi buồn mênh
mang, thấm thía của một con người ngay từ đầu đã lạc khỏi thế giới loài người, đứng trước hiện tại
trơ trọi, bơ vơ còn tương lai phía trước mặt thì đầy bất trắc. . .
Khi nghiên cứu thế giới nghệ thuật của Franz Kafka, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung
khẳng định: “Franz Kafka là nhà văn đã cảm nhận một cách sâu sắc nhất nỗi cơ đơn trong thời gian
của người hiện đại. Đó là nỗi cô đơn khi con người (buộc phải) từ giã quá khứ, đứng giữa hiện tại,
đối diện với tương lai bấp bênh đầy bí ẩn” [6;941]. Theo chúng tơi điều này hồn tồn đúng nhưng
chưa đủ. Nỗi cơ đơn của con người trong tác phẩm Kafka không chỉ là nỗi cơ đơn trong thời gian
mà cịn là nỗi cơ đơn trong không gian. Nỗi cô đơn ấy hiện hữu không chỉ trong thời gian thực mà
cả thời gian tâm lí; khơng chỉ trong khơng gian địa lí mà cịn cả trong không gian tinh thần. Hơn
thế, nỗi cô đơn trong không gian tinh thần mới là sự đau khổ tuyệt vọng đầy ám ảnh. Đó là lúc
sự cơ đơn đã lên đến tột cùng, cũng là lúc con người tự đối diện với chính mình, nhìn nhận bản
thân mình. Trong Vụ án, sự cô đơn đến tận cùng trong tinh thần của Josef K. cịn ở chỗ: anh khơng
có người nào khác làm nhân chứng ngồi chính anh. Đây là nấc thang cuối cùng dồn anh vào con

đường bị tận diệt. Có lẽ vì vậy mà kết cục bi thảm nhất của sự cô đơn là cái chết của con người
trong cô đơn, không được thấu hiểu?
Bản thân Kafka, trong cuộc sống riêng tư của mình cũng mang trong lịng nỗi cô đơn tột
cùng ấy. Trong bức thư viết cho bố của Felice, nói về chuyện hơn nhân của Kafka và Felice, mà
Kafka đã chú thích “ngày mai tơi sẽ gửi nếu có đủ can đảm”, nhà văn tâm sự: “chủ yếu tính cách
của cháu là người cơ độc, ít nói, khơng chan hịa, (. . . ), cháu sống trong gia đình mình giữa những
người thân yêu và tử tế nhất mà còn xa lạ hơn cả người xa lạ” (Nhật kí, ngày 21 tháng 08 năm
1913) [6;836]. Từ trong sâu thẳm tư tưởng của mình, Kafka ln cảm nhận bi kịch của con người
xa lạ với đồng loại. Nỗi đau lớn đối với Kafka là ở chỗ sống trong gia đình, bên cạnh những người
thân yêu nhất “mà còn xa lạ hơn cả những người xa lạ”. Còn có nỗi cơ đơn nào lớn hơn sự cơ đọc
ngay giữa tình thân? Sự cơ đơn tuyệt vọng vì khơng có người chia sẻ, khơng ai thấu hiểu là cảm
giác thường thấy trong thế giới tinh thần nhân vật của Kafka. Vì thế, cảm giác xa lạ, chủ đề xa lạ
16


Thân phận con người trong sáng tác của Franz Kafka

giữa con người với con người không chỉ ám ảnh trong các tác phẩm của Kafka mà sau này nó đã
trở thành vấn đề xuyên suốt những tác phẩm văn học Hiện sinh chủ nghĩa, hay của những nhà viết
Kịch phi lí. . .
Nỗi cơ đơn bản thể của nhà văn đã được Kafka tái hiện thành nỗi cô đơn dai dẳng trong tinh
thần nhân vật của ông. Ngay cả lúc làm tình với Frieda, nhân vật K. vẫn ln thấy mình đang tìm
kiếm một điều gì đó khơng có thực và lạc vào vùng đất hoàn toàn xa lạ mà dường như anh chưa
hề đặt chân tới (Lâu đài). Lẽ ra đây là lúc hai tâm hồn thực sự hòa quyện, đồng điệu trong hạnh
phúc thì đó lại là thời gian để mỗi người bơi trong suy tư, trăn trở của riêng mình. Họ xa lạ ngay
trong lúc gần gũi nhất. Rõ ràng cảnh “đồng sàng dị mộng” không phải bi kịch của riêng ai! Thực
ra đây cũng là vấn đề đáng báo động đối với cuộc sống con người thời hiện đại khi có quá nhiều
điều buộc họ phải lo lắng, toan tính, gánh vác qua cuộc mưu sinh. Nhà văn đã vẽ ra nhưng ngõ
hẻm không cùng của nỗi bất an, sự cô độc, không được thấu hiểu trong tâm tư nhân vật. Ở đó con
người dần dần ngộ ra mình cũng chỉ là một người thừa trong xã hội, khơng q hương, khơng gia

đình, khơng một tình yêu đích thực. . .
Khám phá, tiếp cận con người từ phương diện đời sống tinh thần, F. Kafka đã bày tỏ sự
đồng cảm chân thành của một trái tim nhiều thương tổn đối với những khổ đau của kiếp người.
Tuy nhiên, cũng giống như chính nhà văn, nhân vật trong tác phẩm Kafka dù luôn cảm thấy xa lạ
với đồng loại, bị gạt ra khỏi cả tình thân, gia đình và xã hội, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn họ là
khát vọng mãnh liệt được bám rễ vào cuộc đời, được hòa hợp với con người trong cuộc sống yên
bình, hạnh phúc. Điều này đã đem đến giá trị nhân văn sâu sắc cho những tác phẩm của Kafka.
Bị đày ải trong nỗi cô đơn như là định mệnh, con người trong tác phẩm Kafka trở nên không
đủ tự tin mở lòng với thế giới, dù khao khát ấy vẫn khơng ngi dày vị tâm hồn họ. Cho nên, con
người nhỏ bé, cô đơn trong thế giới của Kafka đồng thời là con người khép mình, với khát vọng
tha thiết, mãnh liệt muốn được thu mình vào ốc đảo bình n của riêng mình. Nhưng liệu rằng họ
có thể tìm thấy sự bình n đích thực?
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận rõ một thực tế rằng cách hành xử này của nhân vật Kafka
vừa mang tính chủ động lại vừa bị động. Chủ động vì bản thân con người có khát vọng khép mình
vào thế giới riêng của mình để giữ khư khư những gì mình có, vì không muốn chia sẻ với đồng
loại bởi lối sống vô nhân vơ tình. Xét từ khía cạnh nào đó, những nhân vật như: Hồng thượng
trong Thơng điệp của Hồng đế, mụ vợ bán than trong Người cưỡi xô, người cha trong Hóa thân
và Lời tuyên án, luật sư Huld, họa sĩ Titoreli trong Vụ án. . . đều thuộc kiểu con người này. Vì bo
bo muốn giữ cho mình được hưởng trọn những lạc thú trên đời nên Hoàng thượng đã xây nên ốc
đảo của riêng mình: Hồng cung với bao căn phòng, hậu cung, cầu thang, sân nhỏ khác nhau. Và
cho đến khi sắp trút hơi thở cuối cùng, Hồng thượng mới cần đến sứ giả mang thơng điệp ra thế
giới bên ngồi cho ai đó. Cách truyền thơng điệp cho sứ giả cũng đầy bí mật: “Ngài bắt sứ giả quỳ
xuống bên giường để thì thầm vào tai gã; cảm thấy nó khá quan trọng nên ngài bắt gã nhắc lại vào
tai ngài” [6;797]. Nhưng Hoàng thượng đã lầm, ngài không biết rằng cả đời ngài giữ những thú vui
xa hoa hưởng lạc cho riêng mình để đến khi nhắm mắt xuôi tay, ngài đã đánh mất một thứ quan
trọng nhất trong đời sống của con người: mối giao hòa với thế giới con người. Bởi ngài đâu ngờ
rằng Hồng cung – thế giới riêng của ngài hóa ra lại là nơi đầy nham hiểm và cám dỗ. Cho nên gã
sứ giả đã khơng thể vượt qua lịng ham muốn rất con người của mình, gã bị nhấn chìm giữa Hồng
cung, nơi ngập ngụa những cặn bã của lồi người và thơng điệp đã khơng được truyền đi.
Rõ ràng cách sống này của con người khôn chỉ ảnh hưởng tới người khác mà cịn báo hại

chính bản thân họ. Họ tưởng rằng bằng cách sống “mũ ni che tai” họ sẽ không phải va vấp với
cuộc đời, nhưng họ khơng biết rằng mầm độc nằm trong chính lối sống ấy. Mầm độc ấy không chỉ
17


Nguyễn Thị Thắng

gieo rắc cái ác ra xung quanh mà cịn gặm nhấm nhân cách của chính họ. Vì vậy khi khép kín vào
thế giới riêng của mình, cũng là lúc con người đối diện với sự tha hóa. Nhân cách họ dần bị bào
mòn bởi sự tham lam, đố kị, thói tự tư tự lợi, sự tham quyền cố vị. . . Vì lợi ích của bản thân, con
người không chỉ sẵn sàng chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm, nhân tính mà cịn sẵn sàng bỏ qua cả
tình cảm ruột thịt; làm cho cuộc sống của những người xung quanh khốn khổ tội nghiệp, thậm chí
phải đón nhận cái chết.
Sự ám ảnh của lối sống, của kiểu người bạc nhược này, thực ra khơng phải đến Kafka mới
nhìn thấy. Trước Kafka, A. Chekhov (1860 – 1904), nhà viết truyện ngắn kiệt xuất của đất nước
Nga và thế giới đã thể hiện và diễn tả nó thật tài tình qua hình tượng “người trong bao” Belikov
trong truyện ngắn cùng tên của ông. Một kẻ nhu nhược, yếu hèn, sợ sệt, ln thu mình “trong bao”,
khơng sức sống, khơng giao tiếp với bên ngoài đến nỗi khi hắn chết đi rồi mà khơng khí u ám của
lối sống mà hắn mang lại vẫn bao phủ mãi lên cuộc đời của những người đang sống. Tuy nhiên,
nếu “người trong bao” của Chekhov muốn nói đến một con người cụ thể, một câu chuyện cụ thể,
một sản phẩm kì quái của chế đọ Nga hoàng tăm tối cuối thế kỉ thứ XIX, mặc dù ý nghĩa của câu
chuyện không chỉ tác động đến một con người cụ thể. Còn những nhân vật của Kafka, dù có tên
hay khơng có tên, nhưng nó đã bị xóa mờ tính cụ thể về dân tộc, thời đại. Đó là biểu hiện, là cách
sống tiêu cực của con người nói chung, đặc biệt nó ngày càng phổ biến ở thời hiện đại, ở con người
trong xã hội hiện đại. Căn bệnh vô cảm của con người trong xã hội hiện đại, mà chúng tơi đã nói
ở trên, cũng chính là một biểu hiện của lối sống này.
Xét cho cùng, hiện tượng này có nguyên nhân xã hội của nó. Vì bị đặt vào hồn cảnh thù
địch với con người nên họ buộc phải thu mình lại để chống đỡ tạm thời với hoàn cảnh. Thực tế, đây
cũng là cách ứng xử bị động của con người trước cuộc sống. Điều này khiến cho con người vừa
thỏa mãn cuộc sống trong khơng gian hẹp của mình lại vừa cảm thấy bức bối, mất tự do và không

ngừng sợ hãi. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện về con vật trong Hang ổ của Kafka để cảm nhận
rõ hơn điều này. Một con vật để trốn tránh khỏi nanh vuốt của kẻ thù, nó đã đào cho mình một cái
hang, một cơng trình kiến trúc tuyệt hảo mà nó nghĩ rằng sẽ tránh xa được mọi kẻ thù hung bạo
nhất. Nhưng ngay khi đang thỏa mãn với “hang ổ” mà nó tạo ra, nó vẫn ln ln lo sợ một kẻ thù
tiềm tàng nào đó đánh hơi được nơi ẩn nấp của nó. Vì vậy, dù đã ẩn sâu dưới lịng đât, trốn tránh
khỏi ánh mặt trời, nó vẫn ln “vã mồ hơi”, thậm chí đập đầu chảy máu vì những cơn mơ về một
kẻ thù sẽ đến. Rồi nó tiếp tục đào rồi lại phá, xây dựng rồi lại đạp bỏ vì vẫn khơng thể hồn tồn
an tâm đối với chỗ trú ẩn của cuộc đời mình. Tâm lí bao trùm lên nó là một nỗi bất an thường trực.
Bất an do lo sợ, hoảng hốt bởi sự thống trị của tinh thần lên con người, bởi đời sống thực tại mà
con người đang trải qua có q nhiều cạm bẫy. Cho nên nó “khép mình lại trong “cái mình có”,
cho dù “cái mình có” đó chỉ là hồn tồn về mặt tinh thần, tư duy khơng mấy chắc chắn này là một
cách chống đỡ tạm thời trước cuộc sống” [4;313]. Tại sao vây? Bởi vì nó đã mất hẳn lịng tin vào
thế giới bên ngồi. Vì mất lịng tin vào thế giới bên ngồi nên nó thu mình vào cơ độc với riêng
mình nhưng vẫn ln hồi nghi và sợ hãi trước cuộc đời. Vì vậy, kiểu con người sợ hãi, kiểu con
người hoài nghi cũng là kiểu con người đặc trưng trong tác phẩm Kafka. Nó đem đến cảm quan
vừa bi đát vừa hài hước cho cuộc sống.
Khi viết những điều này chúng tôi lại nghĩ đến Kafka. Cuộc đời Kafka cũng là cuộc sống
của một con người cô độc như thế. Trước khi qua đời, Kafka đã dặn bạn mình là Max Brod hãy đốt
hết các bản thảo tác phẩm của ông. Phải chăng bản thân Kafka cũng khơng tin thế giới bên ngồi
có người hiểu mình, hiểu tác phẩm của mình? Có lẽ đó cũng là biểu hiện của việc nhà văn đã mất
lòng tin vào cuộc sống và con người.

18


Thân phận con người trong sáng tác của Franz Kafka

2.3.

Con người cơ đơn đi tìm tự do


Con người trong tác phẩm Kafka không chỉ là những kiếp người bé nhỏ, cơ độc, vơ phương
cứu chữa mà cịn là những con người hoàn toàn mất tự do dưới sự thống trị của quyền lực siêu
hình, pháp luật suy đồi. Bằng sự thống trị đó, chúng đã biến những con người bình thường trở nên
nhỏ bé, quỵ lụy, sợ sệt, thu mình một cách bạc nhược, yếu hèn. Như vậy, con người mất tự do vừa
là nguyên nhân, vừa là hệ quả của kiểu người khép kín, mà nguyên nhân trực tiếp của nó chính là
xã hội. Xã hội đồi bại mà quyền năng siêu hình trao tay vào những hình thức thống trị quan liêu,
công thức, làm thui chột sự phát triển của cá nhân. Đó là sự ám ảnh của thế giới công sở trong tác
phẩm Kafka – thế giới của sự phục tùng. Ở đó chỉ có các điều lệ, quy tắc, thơng tư, chỉ thị, chỉ có
mệnh lệnh và thực hiện mệnh lệnh. Vì vậy, khơng thể có tự do phát triển trong thế giới đó, khơng
có sáng tạo, khơng có chỗ cho khả năng phát triển con người. Con người trong thế giới ấy sẽ buộc
phải “xu thời nịnh thế” để có chỗ đứng trong xã hội. Nếu không mãi mãi anh chỉ là kẻ vô danh tiểu
tơt, đến kiếm miếng ăn cịn khó, nói chi đến việc được sống sao cho ra một con người. Và hệ quả
tất yếu của điều này chính là sự tha hóa. Đáng buồn thay quyền năng cơng sở chính là thứ quyền
lực đang ngự trị trong thế giới hiện đại và hậu hiện đại của chúng ta ngày nay.
Khi phản ánh những vấn đề này trong tác phẩm của mình, có lẽ Kafka đã thấm nhuần tư
tưởng nhà nước pháp quyền (thuận theo tự nhiên) của Lão Tử, nhà triết học cách chúng ta hơn
2000 năm về trước. Trong Đạo đức kinh, Lão Tử đưa ra quan niệm: con người do Đạo sinh ra và
vận hành theo Đạo, theo quy luật tự nhiên, có nghĩa là “con người sinh ra được tự do. Tự do chính
là luật tự nhiên của xã hội loài người”. Với những quan niệm bênh vực cho tự do và sự phát triển
của cá nhân con người thuận theo tự nhiên, “triết học pháp quyền của Lão Tử đã vạch một biên
thùy giữa công quyền và người dân. Theo đó, tự do của con người chính là một biên thùy và công
quyền không thể bước qua” [5;77,114]. Và thực tế lịch sử loài người đã chứng minh rằng: quá trình
đấu tranh của các dân tộc, các tộc người trên thế giới thực chất chính là quá trình tranh đấu bền
bỉ và khơng mệt mỏi cho tự do và sự phát triển toàn diện của con người. Thế nhưng, càng ao ước
một xã hội thuận theo tự nhiên dành cho con người như Lão Tử đã quan niệm, Kafka càng đau
đớn nhận ra rằng xã hội ấy hình như khơng dành cho con người thời hiện đại. Con người trong tác
phẩm Kafka khơng bao giờ có được thứ “luật tự nhiên”, càng không bao giờ được đứng trước biên
thùy của vương quốc cá nhân mà “công quyền khơng thể bước qua” đó. Bởi cơng quyền trong tác
phẩm Kafka có một thứ quyền năng siêu phàm. Nó khơng chỉ chế ngự đời sống xã hội mà còn tước

đoạt cả tự do cá nhân, chà đạp lên đời sống tinh thần của con người. Nó xâm nhập vào đời sống
riêng tư một cách thơ bỉ và trắng trợn. Nó khơng chỉ thể hiện quyền năng một cách vơ hình mà cịn
hiện hình bằng các cơ quan, các tổ chức xã hội như tịa án, lâu đài, cơng sở, các văn phịng hành
chính. . . Khơng những thế, nó cịn đối mặt với con người bằng những tên tay sai hèn hạ, kì quái.
Vì thế, bất chợt một sáng anh thức dậy bởi mấy gã áo đen đến gõ cửa và nói rằng anh bị bắt
và có tội (dù chúng khơng biết anh đã phạm tội gì), anh lập tức khơng cịn tự do nữa. Cuộc sống
của anh bị buộc vào với tịa án, luật pháp – thế giới cơng quyền cho đến chết (Vụ án). Bi đát và hài
hước hơn thế, nhân vật K. trong Lâu đài ngay cả lúc làm tình với Frieda cũng có bốn con mắt coi
chứng của hai kẻ phụ tá, thực chất chính là những tên mật thám trơ tráo, từ đó chẳng bao giờ chịu
rời khỏi giường ngủ của hai người nữa.
Khi phân tích cảnh này, nhà nghiên cứu Milan Kundera đã gọi bi kịch của K. là “sự cô đơn
bị cưỡng hiếp, đấy là ám ảnh của Kafka” [3;114]. Theo chúng tôi thì điều này phải gọi một cách
chính xác là “sự tự do bị cưỡng bức”. Đó mới thực sự là ám ảnh của Kafka. Bởi nỗi cô đơn của
con người trong tác phẩm của Kafka, như chúng tôi đã phân tích ở trên, là nỗi cơ đơn bản thể, là
định mệnh lưu đày con người trong cuộc sống hiện đại. Và dù bị lưu đày trong cô đơn, dù tự khép
19


Nguyễn Thị Thắng

mình vào cuộc sống cơ độc, con người vẫn cần được tự do, kể cả tự do trong sự cô đơn. Nhưng
ngay cả điều này, nhân vật của Kafka cũng bị tước đoạt mất. Đó là nỗi khốn cùng của kiếp người.
Con người trong tác phẩm Kafka vì thế là con người cơ độc hành hương đi tìm tự do. Nhưng tự do
giống như chân trời xa lắc phía trước mặt mà khơng thể có đích đến. Nên con người mãi mãi khơng
thể tìm được ý nghĩa của cuộc sống đích thực. Hiện thực đớn đau vẫn là duy chỉ có con người đơn
độc trên con đường kiếm tìm hạnh phúc và ý nghĩa sự sống của mình. Thượng đế chẳng bao giờ
xuất hiện nên bất hạnh vẫn cịn đó, sự phi lí, vơ nghĩa lí trong cuộc đời vẫn còn đây.

3.


Kết luận

Khám phá văn chương Kafka, chúng tôi đọc được trong những tác phẩm của ông mong mỏi
tha thiết của nhà văn về một thế giới vì con người, vì tự do và cá tính sáng tạo của cá nhân con
người. Nhưng khao khát ấy có lẽ chưa bao giờ thành hiện thực trong cảm nhận và những tìm tịi
của Kafka về lẽ sống con người. Mặc dù quan niệm về tồn tại kiếp người của Kafka có phần bi
quan nhưng khơng vì thế nó làm giảm ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm của
ông. Bởi càng thấu hiểu cuộc sống, càng phiêu du trong cuộc đời, càng trải nghiệm sự đổi thay
của thế giới, chúng ta càng thấm thía và chua chát nhận ra: cuộc sống con người còn quá nhiều nỗi
khốn cùng, nhưng không phải ai cũng dám thú nhận sự thật cay đắng ấy. Phải chăng sự vĩ đại của
nhà văn cịn ở chỗ dám nói và đã nói lên được những điều thuộc hiện thực phổ biến trong cuộc
sống cũng như của tâm tư con người, mà ai cũng cảm nhận được nhưng lại khơng thể hoặc khơng
dám nói ra?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Huy Bắc, 2006. Nghệ thuật Franz Kafka. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[2] Charlie Nguyễn, 2010. Jesus dưới cái nhìn của Do Thái giáo và Hồi giáo. .
[3] Milan Kundera, 2001. Tiểu luận: Nghệ thuật tiểu thuyết và Những di chúc bị phản bội. Nguyên
Ngọc dịch, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội.
[4] Roger Garaudy, 1963. Về một chủ nghĩa hiện thực không bờ bến, in trong Lí luận – phê bình
văn học thế kỉ XX (tập 1), Lộc Phương Thủy chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
[5] Bùi Ngọc Sơn, 2007. Triết học pháp quyền của Lão Tử. Nxb Tư pháp, Hà Nội.
[6] Nhiều tác giả, 2003. Franz Kafka tuyển tập tác phẩm. Nxb Hội nhà văn, Trung tâm văn hóa
và ngơn ngữ Đơng Tây, Hà Nội.
ABSTRACT
The human condition in the creation of Franz Kafka
Composed by Franz Kafka gives people a sense of destiny tiny, fragile human condition.
Human values eliminated, human life than animal cheap. Being deprived of the boat means life,
no faith in life, people crouched in lonely self in space and time. Communication from the world,
lonely man in exile seeking freedom and justice, but it always shakes in the distant horizon in front
of which man can not reach the destination. Thus, the desire for a world of freedom, true happiness

for the modern life has never become a reality in the spiritual world of F. Kafka.
Keywords: Works of Kafka, fragile human, lonely self.

20



×