DÂN TỘC H’MÔNG
I. KHÁI QUÁT:
Việt nam là một quốc gia bao gồm nhiều thành phần dân tộc, chung sống
trên cùng một lãnh thổ, có cùng bản sắc văn hóa và có chung vận mệnh
lịch sử.
Qua những thành tựu nghiên cứu mấy chục năm qua, chúng ta biết được
rằng: các thành phần dân tộc trên đất nước ta cùng thuộc chủng mông-gôlô-it phương nam, đã làm nên cuộc cách mạng đá mới trên địa bàn rộng và
vùng trung tâm về sau là cương vực nước văn lang.
Đến thời đại đồng thau hoặc sớm hơn đơi chút do sự chuyển hóa nội tại
cùng với q trình Mơng-gơ-lơ-it hóa tiếp tục đã hình thành loại hình nam
á cổ, là tổ tiên trực tiếp của người việt, người Mường, người H’mông và
một số dân tộc anh em gần gũi.
Trong những thế kỷ tiếp theo, trên lãnh thổ nước ta lại có sự quần cư đông
đúc hơn do nhiều tộc người khác nhập cư đến vào những thời gian khác
nhau, từ những miền đất khác nhau. Trong đó có dân tộc H’mơng. Cũng
như các dân tộc khác người H’mơng có những nét văn hóa riêng và nét
chung hịa mình vào một đất nước có đến 54 dân tộc anh em.
I.1.
Tên gọi:
Người H’Mơng, cịn gọi là người Hmông, người Miêu (ở Trung Quốc),
người Mèo (ở Việt Nam), người Mẹo (ở Lào) là một dân tộc ở châu Á nói
tiếng H'Mơng.
Tên gọi khác là: Mèo Hoa, Mèo Đỏ, Mèo Xanh, Mán Trắng, Ná Mẻo.
I.2.
Ngơn ngữ:
Nhóm H’mơng thuộc ngữ hệ Nam Á, H’mơng-Dao có 3 ngơn ngữ:
Hmơng, Dao, Pà Thẻn.
I.3.
Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc H’mông ở Việt Nam:
Người H’mơng ở Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc chủ yếu từ phương
Bắc. Các tài liệu khoa học, cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng
người Mông là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và
muộn nhất là 100 năm về trước. Theo các nhà dân tộc học Việt Nam thì
phần lớn những người H’mơng ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều di cư trực
tiếp từ Qúy Châu, Quảng Tây và Vân Nam sang. Riêng một số nhóm ở
Thanh Hóa, Nghệ An di cư đến Việt Nam qua Lào. Người H’mông đến
Việt Nam qua những con đường khác nhau và chia thành nhiều đợt, trong
đó có 3 đợt chính:
Đợt 1: khoảng 100 hộ, trong đó có những hộ thuộc họ Lù, họ Giàng đến
khu vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Từ đây họ bắt đầu
tiếp tục di cư vào sâu hơn các tỉnh ở Đông Bắc Việt Nam.
Đợt 2: khoảng trên 100 hộ, trong đó có những hộ thuộc hộ Vàng, họ Lý
cũng vào khu vực Đông Văn. Cịn một nhóm số người ít hơn, thuộc vào họ
Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà ( Lào
Cai). Sau đó khoảng 30 hộ gồm các họ Vừ, Sùng chuyển sang phía Tây
Bắc Việt Nam.
Đợt 3: số người Hmông di cư vào Việt Nam đông nhất, gồm khoảng trên
10 ngàn người. về sau, họ tiếp tục di cư đến các huyện của các tỉnh thuộc
Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam.
Từ đây, hàng năm vẫn có người H’mơng di cư lẻ tẻ sang Việt Nam. Các
con đường di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tuyên
Quang.
I.4.
Dân cư và địa bàn cư trú:
I.1.1 Dân số và địa bàn cư trú:
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’Mơng ở Việt Nam
có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân
tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành
viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc
H’mông thường cư trú ở độ cao từ 800 đến 1500m so với mực nước biển,
gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía bắc trong một địa bàn khá rộng lớn,
dọc theo biên giới Việt-Trung và Việt-Lào, từ Lạng Sơn đến Nghệ An.
Người H’Mông cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (231.464 người,),
Điện Biên (170.648 người), Sơn La (157.253 người), Lào Cai (146.147
người), Lai Châu (83.324 người), Yên Bái (81.921 người), Cao Bằng
(51.373 người), Nghệ An (28.992 người), Đắk Lắk (22.760 người), Đắk
Nông (21.952 người), Bắc Kạn (17.470 người), Tuyên Quang (16.974
người), Thanh Hóa (14.799 người).
I.1.2 Nhóm địa phương ( ngành )
Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, các màu áo người ta
chia dân tộc h mông ra các ngành:
H’mông Đỏ hoặc h mông Đâu (H mông Trắng)
H‘mông Đu (h mông Đen)
H’mông Si (h mông Đỏ)
H’mông Dua (h mông Xanh)
H’mông Lềnh (h mông Hoa)
H’mông Súa (h mông Lai)
Ná Mẻo (h mơng Nước)
II. VĂN HĨA:
II.1.
Nhà ở:
Với mơi trường sống trên các triền núi cao, khí hậu lạnh, khắc nghiệt…thì
ngơi nhà trình tường bằng đất, lợp ngói hay tranh của người HMơng có ưu
điểm mát mẻ về mùa hè, giữ ấm về mùa đông, chống thú dữ…
Nhà người HMông thường thống nhất 3 gian 2 cửa, một cửa chính, một
cửa phụ và phải có hai cửa sổ trở lên. Trong 3 gian nhà chính, gian bên trái
dùng để đặt bếp lò và chỗ ngủ của vợ chồng chủ nhà. Gian bên phải đặt
bếp sưởi và giường khách. Gian giữa rộng hơn để đặt bàn thờ tổ tiên và là
nơi tiếp khách, ăn uống của gia đình. Hai gian trái đặt cối xay ngô, giã
gạo…
Bàn thờ tổ tiên của người HMông rất đơn giản, chỉ là một mảnh ván hoặc 3
ống cắm hương làm bằng tre nứa cắm vào tường.
Trong gia đình người HMơng, phịng ngủ của vợ chồng con cái được bố trí
riêng. Người HMông ngủ bằng phản hoặc giát bằng tre mai đập giập.
Người HMông rất khắt khe, nơi ngủ của con dâu, em dâu thì bố chồng và
anh chồng khơng được vào và ngược lại, con dâu, em dâu không được vào
chỗ ngủ của bố chồng, anh chồng.
Nhà của người HMông bao giờ cũng có sàn gác để cất giữ đồ đạc, lương
thực, thực phẩm. Ngô lúa khi mang từ nương về bao giờ cũng được cât lên
gác. Khói bếp sẽ làm khô và giữ cho không bị sâu mọt. Phong tục người
HMông không cho con gái, đàn bà được ngủ trên gác. Khi đàn ơng trong
nhà đi vắng thì con dâu không được phép lên gác.
Nhà của người HMông không bao giờ làm dính sát vào nhau, cho dù là anh
em ruột thịt. Khi chọn đất làm nhà, người Mông lấy 3 hạt gạo hoặc ngô đặt
xuống khu đất đã chọn rồi đặt bát hoặc chậu gỗ lên trên, sau đó thắp 3 nén
hương khấn thần đất, đốt 3 tờ giấy bản xin thổ công thổ địa cho gia chủ
làm nhà. Sáng hôm sau hoặc sau 3 tháng, chủ nhà quay lại xem số hạt ngô
đặt dưới đất, nếu thấy vẫn cịn ngun thì coi như đất ở nơi đó tốt, làm nhà
được. Nếu những hạt gạo hay ngơ đó đã bị sâu hay kiến ăn thì coi như đất
ở đó dữ, khơng làm nhà được.
Chọn được đất ở, người HMơng tiến hành san nền, kê móng, trình tường
nhà. Cơng việc trình tường được làm khá cơng phu. Trong q trình trình
tường, người lạ khơng được đến, nhất là phụ nữ. Để trình tường người ta
phải làm những chiếc khn gỗ có chiều dài 1,5 mét, rộng 0,45- 0,5 mét.
Khi trình tường người ta đổ đất vào khn gỗ và dùng những chiếc vồ nện
chặt đất. Đất dùng để trình tường được loại bỏ sạch rễ cây, đá to, cỏ rác.
Trình tường xong, cây cột cái thường được đem thẳng từ rừng về, không
được đặt xuống đất mà phải đưa lên nóc ngay. Người HMơng coi hai cây
cột cái là cột chủ đạo trong nhà, thể hiện sự ngay thẳng, cứng cáp, vững
vàng của chủ nhà nên cây cột phải là cây rừng không bị sâu thối cụt ngọn.
Hai cây cột này có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống tâm linh của
người HMông, nhất là trong tang ma. Cây cột cái ở giữa phía bếp lị dùng
để treo trống khi có người chết ( ma tươi); cây cột cái giữa ở phía bếp sưởi
để treo trống khi làm ma khơ. Cây cái nóc gần trời nhất nên là nơi người
trời về nghỉ ngơi, xem xét mọi việc làm trong nhà. Người trời thường
thanh cao nên khi đưa cây địn nóc ở rừng về người ta phải đưa lên nóc
ngay, khơng đựoc đặt xuống đất. Đặc biệt khi vào rừng chặt hạ cây cột cái,
cây địn nóc thường phải chọn ngày tốt hợp với tuổi của của gia chủ. Tìm
được cây gỗ, phải thắp 3 nén hương, tiếp đó cắm 3 tờ giấy bản vào gốc cây
khấn thần rừng, thần cây cho xin cây gỗ về làm nhà. Họ quan niệm rằng
như thế thần cây, thần rừng mới không quở mắng và nhà cửa mới yên vui,
mọi người khoẻ mạnh, ăn nên làm ra.
Cửa chính nhà của ngưịi HMơng cũng phải tìm gỗ tốt để làm, nếu là tre
nứa thì phải là thân trúc hoặc mai già. Cửa bao giờ cũng mở vào trong chứ
khơng mở ra ngồi. Người HMơng khơng sử dụng bản lề, then chốt bằng
sắt mà hoàn toàn bằng gỗ, bởi người HMơng coi cửa mở ra đóng vào là
lịng bụng con người, trong khi đó bản lề sắt thép là những vật cứng được
ví như dao kiếm. Ngồi cửa chính, nhà của người HMơng cịn có cửa phụ,
là lối để đưa đồ dùng cho người chết vào nhà lúc tang ma. Chỉ khi đưa ra
nghĩa địa mới đi qua cửa chính.
Làm nhà được coi là một việc hệ trọng trong đời người HMông, do vậy
ngày về nhà mới là ngày đại sự của gia chủ. Ngày hôm ấy, người ta tổ chức
ăn uống vui vẻ, chúc nhau mọi sự tốt lành.
Cùng với việc làm nhà mới là làm chuồng gia súc. Chuồng gia súc được
làm chếch với cửa chính, tuỳ thuộc vào hướng gió. Để làm chuồng gia súc,
người ta cũng phải xem tuổi gia chủ, tính ngày tháng rồi mới làm. Người
HMơng rất u q gia súc, có khi còn làm chuồng gia súc tốt hơn làm nhà
ở. Khi làm chuồng gia súc người HMông đều thắp hương cúng ma chuồng,
ma trại phù hộ cho gia súc hay ăn chóng lớn, dễ ni.
Nhà người HMơng thường được xếp đá xung quanh làm hàng rào che
chắn. hàng rào đá xếp xung qunah một nhà hoặc 2,3 nhà có quan hệ anh
em nội tộc với nhau, làm thành một khu riêng biệt.Người HMông cũng làm
nhà dựa lưng vào núi, kiêng làm nhà quay lưng ra khe, vực sâu. Bản của
người HMơng có từ vài ba nóc nhà trở lên, có bản chỉ có một dịng họ,
nhưng khơng nhiều, cịn lại đa số là một bản có nhiều dịng họ sống cùng
nhau.
II.2.
Trang phục:
Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải tự dệt, đậm đà tính cách
tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Chỉ với 4 màu
chủ đạo xanh, đỏ, trắng, vàng của chỉ tơ tằm mà họa tiết của trang phục đã
tỏa ra muôn sắc màu, tạo cảm giác trầm ấm. Trang phục của phụ nữ Mơng
có họa tiết hoa văn đẹp từ khăn đội đầu đến xà cạp quấn chân. Phụ nữ
Mơng trắng trang phục có họa tiết tập trung ở cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ
giáo phía trước. Phụ nữ H’Mơng Hoa trang trí họa tiết ở trang phục phong
phú hơn, ở cả khăn đội đầu, cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo, thân váy, xà
cạp… kỹ thuật thêu hoa văn của người H’Mông rất phức tạp và vì thế, nó
thể hiện sự tinh tế của người phụ nữ H’Mông. Cách bố cục và họa tiết trên
trang phục của người Mơng cịn thể hiện sức sống, bản lĩnh của người
Mông trước thiên nhiên…
Trang phục của người Hmông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Hmơng Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực,
thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Hmơng Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp
ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc
cùng tóc giả.
Phụ nữ Hmông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo
xẻ ngực.
Phụ nữ Hmông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Hmơng Xanh đã có chồng cuốn
tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngồi tạo thành
hình như hai cái sừng.
Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu
hình con ốc, hình vng, hình quả trám, hình chữ thập.
Trang phục nam:Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt
lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn
thân. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu
vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những
hình trịn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vịng bạc cổ, có khi khơng
mang.
I.2 Ẩm thực:
Người Mơng thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các
thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngơ đồ) hay cơm, rau xào mỡ và
canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh
bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Người Mông quen uống
rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do
tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút
thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Nếu người miền xi tự hào với món phở, thì người miền núi tự hào vì có
thắng cố. Nói đến thắng cố, ai cũng biết đó là đặc sản của đồng bào dân tộc
Mơng ở miền núi phía Bắc. Nhưng bây giờ, thắng cố đã trở thành món ăn
ngon và quen thuộc của nhiều tộc người vùng cao. Trời càng lạnh, thắng cố
càng ngon, thêm bát rượu ngô ấm nồng với người miền núi thực khơng có
gì sánh bằng.
Nói đến rượu thì khơng thể khơng nhắc tới rượu ngơ Bản Phố, hay cịn gọi
là rượu ngơ Bắc Hà là một thứ rượu ngon đặc sản của người Mông ở Bản
Phố, cao nguyên Bắc Hà, Lào Cai. Cùng với rượu Táo Mèo và rượu San
Lùng, rượu ngô Bản Phố là các danh tửu của Lào Cai. rượu Bản Phố có
màu trong như nước suối, lúc mới uống nghe hương vị thơm nồng, sau đó
là cảm giác êm dịu. Rượu ngô nơi đây say lâu nhưng không làm người ta
ngu muội mà cảm giác vẫn sảng khối. Rượu ngơ Bản Phố nấu từ nước lấy
từ suối Hang Dế. Rượu ngô Bản Phố hương thơm thì nồng nàn, quyến rũ,
uống vào không gắt, không chua. Ngô dùng nấu rượu Bản Phố không phải
trồng ở nương rẫy hoặc thung lũng, mà ở trên núi đá cao heo hút. Loại ngô
này cho bắp chắc, vàng, năng suất không cao, bù lại hạt mềm, bùi và rất
giàu dinh dưỡng. Sau khi thu hoạch, ngô được giữ nguyên bắp, phơi khô
và bảo quản để nấu rượu dần. Bí quyết tạo nên sự khác biệt của rượu ngô
Bản Phố với các loại rượu khác là lên men bằng bột bông của cây "pa"
Người Mông nơi đây cho rằng:" uống rượu Bản Phố vào buổi sáng sẽ có
thêm sức mạnh, tựa như có một vị thần dũng mãnh hỗ trợ làm việc đồng
áng suốt ngày không cảm thấy mệt mỏi. Nếu uống vào buổi tối, cùng với
bằng hữu, rượu như có sợi dây vơ hình ràng buộc tình u thương khăng
khít, trong lịng mọi người trào dâng lời hay, ý đẹp, nói lên được những
điều mới mẻ, ý nghĩa thấm sâu và hào hứng mà những lúc khác khơng có
rượu chưa nói được."
II.3.
Tết của người H"mơng
H"mơng được coi là cộng đồng dân cư có cá tính mãnh liệt và phóng
khống nhất. Họ sống trên các rẻo cao miền núi phía Bắc, đời sống người
H"mơng gắn liền cùng nương ngơ, cây súng kíp...
Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì
người Hmơng đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm
lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của
người Hmông, phù hợp với nông lịch truyền thống. Trong 3 ngày tết, họ
không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân thường thổi khèn gọi bạn,
dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh
làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngồi hai tết chính, tuỳ
từng nơi cịn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm
lịch).
Trong ngày Tết, bên cạnh nghi lễ tín ngưỡng cịn có nhiều trị chơi dân
gian quen thuộc nhưng đầy tính thượng võ như chơi cù, ném pao, bắn nỏ,
đua ngựa, múa khèn, chọi chim họa mi...
Người Mơng khơng đón giao thừa. Đối với họ, tiếng gà gáy đầu tiên của
sáng sớm mùng Một mới là cái mốc đánh dấu một năm mới bắt đầu. Tối
hoặc nửa đêm 30, người ta cúng ma nhà (tổ tiên) bằng một con lợn sống,
một con gà còn sống (và phải là gà trống, mà tốt nhất là gà trống tơ). Sau
đó mới mang lợn và gà ấy đi giết thịt (nhà nào giàu có thì thịt một con lợn
từ 28, 29 để ăn trước). Thịt xong đem cúng một mâm thịt chín, rồi ăn cơm
uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên.
Tuy nhiên, cơm cúng có thể thiếu thịt (đối với những nhà nghèo) nhưng
khơng thể thiếu món bánh dày, chính vì vậy, trong lễ hội thì thi giã bánh
dày bao giờ cũng rất vui và được thi đầu tiên.
Cơm nếp được nấu sẵn và mang đến, sau khi nghe hiệu lệnh, cơm được đổ
ra cối và lập tức được giã nhanh chóng, vì giã lúc nóng thì bánh sẽ dẻo,
cũng như khi giã giò phải giã thật nhanh tay khi thịt vừa pha xong cịn
nóng. Mỗi đội được giã trong vịng 50 phút, thành phẩm là 5 chiếc bánh
đường kính 20cm, bánh phải trắng, dẻo, và kéo dài 30 cm không bị đứt.
Cộng với điểm thời gian và trình bày sẽ quyết định đội thắng cuộc. Trong
khi đàn ơng giã bánh, thì phụ nữ chuẩn bị lá, và bóp vụn lịng đỏ trứng gà
để trộn vào bột trước khi nặn thành bánh. Bánh đã giã xong, chắc chỉ trong
vòng 10 phút, 4 chiếc với đường kính 20cm được đặt trên lá chuối, một
chiếc được đặt trên đĩa để ban giám khảo chấm.
II.4.
Tục lệ cưới hỏi:
Người H'mơng có rất nhiều phong tục, tập qn đẹp, có chiều sâu vǎn hố.
Trong đó, đặc sắc nhất có lẽ là những tục lệ về cưới xin. Những tục lệ như
"bắt vợ", "ǎn hỏi" và "buộc chỉ cổ tay cô dâu" là di sản lớn về tinh thần do
cha ông ta từ xa xưa truyền lại. Người H'mông đã mang nó đi qua hàng
trǎm cánh rừng du canh du cư ngày xưa đến những bản làng trù phú định
canh định cư ngày nay.
Bao giờ cũng vậy, Xuân về, Tết đến cũng là dịp để thanh niên nam nữ
H’Mông có cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu nhau, đó có thể là các phiên chợ cuối
năm, hội hè trong những ngày Tết hay đơn giản chỉ là những buổi đi lấy
củi, địu nước chuẩn bị cho một năm mới... Khi đôi trai gái đã ưng ý và thề
nguyền đi đến hơn nhân thì họ sẽ về thưa chuyện với bố mẹ và dịng họ.
Nếu mọi chuyện sn sẻ thì nhà trai sẽ mời ông mối sang đánh tiếng dạm
hỏi, rồi tiến tới lễ ăn hỏi (hẹn cưới) và cuối cùng là lễ cưới (đón dâu). Đám
cưới của người H’Mơng thường được tổ chức linh đình vào ngày lành
tháng tốt, thường là vào mùa Xn.
Thế nhưng khơng phải câu chuyện tình u nào cũng có một cái kết có hậu
mà khơng phải trải qua sóng gió. Trong thực tế có rất nhiều đôi trai gái yêu
nhau tha thiết nhưng lại không được một hoặc cả hai bên cha mẹ đồng ý.
Khi cha mẹ đã không đồng ý mà đôi trái gái tự tìm đến sống với nhau thì
khơng những bị coi là bất hiếu mà cuộc hơn nhân đó cịn khơng được cộng
đồng chấp nhận. Thế nên tục “kéo vợ” có thể được coi là một giải pháp khá
hiệu quả cho những đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại gặp phải trở
ngại từ phía gia đình. Khi đó, đơi trái gái sẽ bàn cách tiến tới hôn nhân
bằng tục “kéo dâu” bằng cách nhờ cậy những ông chú, bà thím, bà cơ, ơng
cậu, anh em, bạn bè... làm nội ứng, thống nhất kế hoạch “kéo dâu”, hợp lý
hoá cuộc hơn nhân.
Mọi chuyện được tính tốn trong bí mật, gia đình nhà gái khơng hề hay
biết, cơ gái vẫn ngày ngày đi nương, lấy củi, địu nước như thường. Rồi
một ngày như đã hẹn... chàng trai xuất hiện. Hai người đang tâm sự thì bạn
bè của chàng trai xuất hiện và giúp chàng trai kéo cơ gái về nhà mình. Cô
gái dù biết trước mọi chuyện vẫn cảm thấy bất ngờ, kêu tống lên. Khơng
những thế cơ gái phải giả vờ kêu cứu, khóc lóc để mọi người nhà mình biết
đến cứu. Người ta cho rằng người con gái bị kéo về làm vợ mà khơng khóc
lóc, kêu la thì đó là đồ con gái rẻ rúng và hư hỏng, bị gia đình và làng xóm
coi khinh. Khi người nhà gái mang gậy gộc đến cứu cơ gái thì các bạn của
chàng trai sẽ xơng ra đỡ địn để chàng trai mang cơ gái về nhà. Sau khi gia
đình chàng trai mang gà ra làm lễ quét phép, cô gái mới được đưa vào nhà.
Người H’Mông quan niệm, con gái đã bị người ta dùng gà trống làm lễ
nhập nhà rồi thì có bỏ về bố mẹ đẻ cũng khơng thể chấp nhận được vì cơ ta
đã trở thành người của nhà khác, khi chết cũng là ma nhà khác rồi. Chính
vì vậy, khi biết con gái mình đã bị người ta kéo về làm vợ thì dù có khơng
đồng ý, có ấm ức thì đa phần nhà gái cũng đành đồng ý.
Tục “kéo vợ” cịn có thể diễn ra bởi nhiều lý do như: người con trai thích
người con gái nhưng người con gái lại từ chối; gia đình người con trai
dùng quyền thế “cướp vợ” cho con trai... nhưng những trường hợp này chỉ
xảy ra trước kia, dưới thời xã hội phong kiến. Còn ngày nay, cũng như
nhiều dân tộc khác, người H’Mông luôn trọng chế độ hôn nhân một vợ,
một chồng và quan niệm cái đẹp lứa đôi là khỏe mạnh, đạo đức và chăm
chỉ. Hôn nhân là kết quả của tình yêu tự nguyện, các cuộc “kéo vợ” giờ
đây chỉ là sự khẳng định cho tình yêu mãnh liệt, khát vọng về một gia đình
hạnh phúc của trai gái người H’Mơng mà thơi. Chính vì vậy, hiểu tục “kéo
vợ” của người H’Mông như ngày này chúng ta vẫn hiểu, là khi người con
trai thích một người con gái, liền rủ bạn bè bắt cóc người đó về làm vợ là
rất sai lầm, nghiêng về khía cạnh bạo lực mà khơng thấy hết được tính
nhân văn sâu sắc trong đó. Chính vì vậy, có thể nói, người H’Mơng có rất
nhiều tục lệ với những ràng buộc khắt khe song bên trong đó đều chứa
đựng các yếu tố nhân văn rất tình người, được xử lý linh hoạt trên cơ sở
đồn kết thương u. Đó chính là nhân lõi để giữ gìn sự gắn bó của cộng
đồng và bảo lưu các giá trị văn hóa độc đáo của người H’Mông.
II.5.
Tục đổi tên mới:
Cũng như các dân tộc khác, người Mông đến tuổi trưởng thành được cha
mẹ làm lễ đặt tên mới và công nhận là người trưởng thành, từ đó mới được
lấy vợ và sinh con đẻ cái.
Người Mơng chọn ngọn núi mà người Mơng cho nó là cao nhất để tiến
hành cho các buổi lễ mang tính tâm linh, , đứng trên đỉnh ngọn núi người
ta có thể phóng tầm mắt nhìn ra cả xã, những bản khác có nằm trên núi cao
hơn khi đến đó vẫn phải leo ngược dốc mới lên được đến đỉnh. Trên ngọn
núi có một phiến đá to, người Mơng coi nó như cha, mẹ ni của mình.
Nơi đây thường diễn ra lễ cầu cho những người tình dun lận đận, số
phận khơng gặp nhiều may mắn và cầu cho cuộc sống được sn sẻ, nhất
là đặt tên mới cho con cái mình phải được đến đó để nhận cha mẹ ni
mong khi trưởng thành người con sẽ thành đạt trong cuộc sống, xua đi ma
tà để con người được khỏe mạnh không bị bệnh tật đeo đuổi.
Lễ thay tên mới ( Chus khuas) thường được chọn làm vào buổi sáng những
ngày cuối tháng 11, 12 dương lịch, khi mặt trời đã nhô lên khỏi ngọn núi.
Người Mông đến trước phiến đá linh thiêng, lễ vật gồm có:
- Một con gà trống tơ.
- 3 chén rượu
- 3 chén nước
- 6 nén hương
- 3 tờ giấy (Giấy bản người dân tự làm, được cắt thành tiền).
- Gạo, muối
- Sợi lanh ( Sợi lanh để se buộc vào cổ )
Tất cả được mang đến tận chân phiến đá mới được chế biến.
Ông mo cắt tiết cho tiết gà và dùng nó quết vào hịn đá, quết vào tờ giấy
tiền và hòa vào rượu. Khi chuẩn bị song đồ lễ vật. Ông mo cúng cha mẹ và
người được đặt tên phải đứng hai bên để khấn. “ Con là…… được cha mẹ
sinh ra và nuôi cho khôn lớn, giờ đây đã đến tuổi trưởng thành. Hôm nay
đến đây xin được đặt tên mới, con có cơm có rượu thịt mới cha nuôi nhận,
chứng giám cho con hôm nay được đặt tên mới, mong cha nuôi xua đuổi tà
ma, xua đuổi những điều không may mắn để cuộc sống sau này con được
bình n hịa thuận, làm ăn phát đạt… ”
Tiếp theo ông mo cùng với chàng trai mỗi người một đầu cùng se sợi lanh
cho xoắn vào nhau cho thật chắc để buộc vào cổ chàng trai làm bùa hộ
mệnh, phần thừa còn lại được cắt ra và dấu vào trong khe đá(Gửi cha nuôi
chứng kiến và giữ hộ). Đây là bằng chứng nó chứng tỏ người thanh niên
kia đã được làm lễ đổi tên mới tại đây. Chàng trai mổ gà nấu cơm và cúng
“ Trước khi giao cho bố ni con gà cịn sống, giờ đã được con nấu chín
mời bố uống rượu, ăn đầu gà chân gà, cổ cánh và ăn cơm chứng giám cho
lòng thành của con…”
Kết thúc phần lễ, tất cả dọn cơm ăn ngay cạnh phiến đá ( Tục ăn với cha
nuôi bữa cơm đầu tiên) bữa cơm của người trưởng thành, từ nay đã thành
người lớn…
Cái tết đầu tiên của người trưởng thành kể từ khi được đổi tên mới, chàng
trai phải đi lễ tết cha nuôi ( Congv tsa ) Lễ vật lần này gồm:
- Hương: 12 nén
- Giấy 4 tờ ( Cắt thành tiền)
- Một con lợn nhỏ
- Gạo, muối
Buổi lễ tết được diễn ra ngay ngày đầu năm mới. Mọi người mổ lợn cúng
chúc tết cha nuôi với và cảm ơn cha nuôi, cầu cho cuộc sống tâm linh của
chàng trai và gia đình mạnh khỏe…
Từ khi được mang tên mới chàng trai phải hai lần về chúc tết và cảm ơn
cha ni, thì mới hết nghĩa vụ của một người trưởng thành. Từ đó trở đi
mọi người trưởng thành sẽ được bình an trong cuộc sống. Cha ni sẽ xua
đuổi tà ma, xua đuổi những điều không may mắn để cuộc sống sau này con
được cuộc sống tươi đẹp hạnh phúc.
Đây là một nghi lễ quan trọng mà ở đây nó khơng thể thiếu trong đời sống
tâm linh của mỗi người Mông
III.KINH TẾ:
Khác với dân tộc Thái làm nông nghiệp là chính nương rẫy chỉ là phụ và
bổ sung. Cịn người Hmơng sống chủ yếu bằng cách du canh, đốt nương
làm rẫy, trồng ngơ, lúa. Cây lương thực chính là ngơ và lúa nương. Người
Hmơng có truyền thống trồng xen canh cùng với cây trồng chính như: các
cây ý dĩ, khoai, rau, lạc vừng, đậu… ở một và nơi cịn có ruộng bậc thang.
Chiếc cày của người Hmơng rất nổi tiếng về độ bền và tính hiệu quả.
Ngồi ra cịn trơng cây lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu, thuốc
phiện, cây ăn quả: táo, lê, đào, mận.
Họ phát triển các nghề thủ công như đan nát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ
gỗ nhất là đồ đựng, làm giấy, bản đồ, trang sức bằng bạc phục vụ những
nhu cầu thị yếu của con người.
Người Hmông chăn ni gia súc như: ngựa, trâu, dê, chó,lợn. gà…