Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Yếu tố rừng trong văn hóa Raglai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.85 KB, 7 trang )

YẾU TỐ RỪNG TRONG VĂN HĨA RAGLAI
Trần Kiêm Hồng
Trong tác phẩm Triết học nghệ thuật xuất bản năm 1880, H.TAINE1 cho rằng:“Sau khi đã xác
định cấu trúc tinh thần của một chủng tộc, cần phải nghiên cứu môi trường mà chủng tộc đó sống, bởi
con người khơng cơ độc trong thế giới. Bao quanh con người là thiên nhiên và những người khác...”, vì
vậy, nghiên cứu văn hố của người Raglai không thể bỏ qua môi trường tự nhiên mà họ đang sống:
Núi - Rừng.
Núi rừng của người Raglai sinh sống hàng trăm năm nay chỉ ở độ cao trên dưới 500mét so
với mặt biển. Tất cả mọi hoạt động sống của họ ln gắn bó với núi rừng. Núi rừng tồn tại trong khơng
gian và là tự nhiên có trước. Khi người Raglai đến cư trú trên địa bàn tự nhiên này, cùng với quá
trình tồn tại và phát triển trong không gian núi rừng họ đã sáng tạo ra các giá trị văn hố liên quan đến
mơi trường tự nhiên này. Giá trị của núi rừng trong văn hóa là sản phẩm trực tiếp của người Raglai,
nói cách khác, núi rừng gián tiếp sáng tạo ra các giá trị văn hóa của người Raglai. Do đó, nghiên cứu
văn hóa núi rừng trong văn hố của người Raglai chính là đi tìm những giá trị của núi rừng được biểu
hiện như thế nào trong các thành tố chứa nó.
Núi rừng được người Raglai tận dụng hầu hết trong mọi hoạt động sống của họ. Bước ra khỏi
nhà là họ đã ra đến rừng, thậm chí nhà cũng được cất ngay dưới những tán cây rừng. Ngay từ sáng
sớm, mở mắt ra người Raglai đã thấy sừng sững trước mặt là núi và những cánh rừng ngút ngàn.
Tiếng rừng thở cùng với họ từ trên sàn nhà, theo bước chân lên nương, nghỉ ngơi dưới tán rừng và
đêm về lại nghe tiếng suối, tiếng gió của thổi mn ngàn lá rừng như ru họ từ những câu hát kể sử
thi, theo họ vào giấc ngủ để sáng sơm mai lại ra gặp lại rừng núi.
Rừng có hàng trăm loại gỗ quý để làm nhà ở, nhà kho và phục vụ cho lễ nghi tín ngưỡng khi
làm nhà mồ. Tri thức bản địa của người Raglai truyền lại cho con cháu nhận biết được các loại gỗ
dầu, lim, gõ, sến, táu, hương… loại nào có thể dùng làm cột chơn xuống đất khơng mối mọt, khơng
mục ruỗng vì ẩm; loại cây nào có thể “dầm sương dãi nắng” để làm các trụ cọc cho các cây tiêu, cho
mướp bầu bí leo giàn từ năm này sang năm khác không hỏng; phân biệt được loại cây nào làm nhà
nhưng ở phần trên cao (rui, mè, đòn tay, kèo) vừa nhẹ vừa bền chắc. Rừng cho họ hàng trăm loại dây
khác nhau để cột, chắp, nối bền chắc… Nếu hỏi bất kỳ một người Raglai nào về cơng dụng của cây
song mây, có lẽ chúng ta đều được trả lời giống nhau. Đó cũng chính là sự tiếp nhận tri thức của lớp
cha ông để lại và là sự trải nghiệm của họ trong hiện tại đối với rừng -núi.
Mỗi palơi Raglai cổ chỉ trên dưới 20 hộ gia đình và cũng khơng bao giờ chọn những thung


lũng để cư trú. Theo quan niệm của họ, thung lũng là lối đi của ma quỉ. Người ta cũng không cư trú
trên sống lưng của quả đồi vì đấy là đường đi của các thần. Giữa hai khe núi hẹp cũng không phải là
không gian của con người. Vì vậy, người Raglai chỉ ngủ ở lưng chừng núi. Đó là khơng gian họ được
quyền sở hữu mà không xâm hại đến thế giới khác rất cần đến sự tôn trọng. Để cúng núi rừng hàng
năm, người Raglai thường mở đầu đầu bài khấn của mình bằng những lời:
“Trai pu!
Chưq dlai mũ Cơi Masrĩh Mỏq Vila chupaq luơi,
Pachũc palơi mucơi lagar tanãh riya ia djuh.
Chưq dai jơc yàc chưq chuah tanãh lagar pu vhum vhòq choq akiaq yàc hulơu luai yàc tacai
ia cat jua haravalơu vurùq catuaiq ahũc danan vinủq riya cha-na cha-uơr…”
Tạm dịch:
“Cầu bái chúa thần!
Núi rừng là do trời đất ông bà tổ xưa để lại,
Giữ cho vững chắc làng xóm, cho trường tồn xứ sở đất đai, sơng suối nước củi.
Núi rừng có nhang cây, con sơng dịng suối có nhang sơng nhang suối, ao hồ mương
máng…”

1

Hippolyte Taine (1828-1893) là nhà triết học, sử học và phê bình văn học Pháp có ảnh hưởng lớn trong tư tưởng học thuật thế giới.


Bên cạnh nhang núi (yàc chưq), nhang rừng (yàc dlai), nhang nước (yàc ia)… ban cho con
người của cải trong rừng, cấp nguồn nước để ăn uống và chăm sóc cây trồng, rừng cịn có nhang
độc, nhang xấu, ó malai hại người (yàc lageh jhàq vhòq salac camalai majin).
Người Raglai vẫn yên tâm sống ở núi rừng hàng ngàn đời nay vì họ vẫn tin tưởng rằng rừng
khơng có ma thú dữ. Cọp báo ăn thịt người là chúng đã phạm vào điều ác, phản lại chúa nhang rừng
sẽ bị trừng trị những con vật hung ác đó nếu chúng xâm hại đến người.
Sông suối, núi rừng là của nhang, của trời, của chúa thần, vì vậy người Raglai chỉ biết tơn
trọng và gìn giữ bằng cách làm nhà ở xa dịng sơng lớn, xa đất đai bằng phẳng, xa hồ ao, xa đỉnh núi

cao và cấm kị không mang những đồ vật được xem là ô uế đối với núi rừng như soong nồi, đá táo, cối
giả, sàng sãy, nong nia. Nếu vi phạm nhang sẽ phạt vạ. Cây to tuyệt đối không được chặt, không làm
sứt mẻ; không được làm rẫy nương ở núi cao. Đất bằng là ruộng đất của nhang, cây to là nơi các vị
thần trú ngụ. Hồ ao là ruộng của ông bà. Sườn núi đồi là đường đi của các vị thần. Theo quan niệm
của người Raglai, thần linh cũng sản xuất và ăn ở như loài người, họ ăn ở tại thế giới riêng nhưng
các tài sản của họ lại chung với con người.
Núi rừng từ xa xưa đã gắn chặt vào người Raglai trong mọi hoạt động sống của mình, ngay
bản thân họ, một số người chúng tôi phỏng vấn vẫn tự nhận là người của rừng (Ràc dlai). Là người
của rừng núi nên người Raglai ở chổ nào, sản xuất ở đâu cũng đều phải xin phép thần núi, thần rừng,
tuyệt đối không xâm phạm vào đất đai của người khác. Mỗi gia đình, mỗi làng đều có “địa giới riêng”
của mình để canh tác, cư trú. Người nào đi lang thang khơng có nơi ở cố định được xem là người khỉ.
Vì chỉ có kẻ độc ác mới sống lang thang, kẻ đó như con ong khơng có tổ, như con khỉ khơng có bầy.
Núi rừng người Raglai ở nhiều sơng , suối, có nhiều vũng sâu. Nước được người Raglai sử
dụng là nước của những dòng suối hàng năm khơng có lũ qt gây ra sạt lở đất, nước luôn trong vắt.
Trước đây theo quan niệm của họ nước trong vắt của những dịng suối khơng bị sạt lở này có thể
uống ngay, khơng cần đun sơi. Để giữ môi trường trong làng luôn trong sạch và giữ nguồn nước uống
chung cho cả làng, nhà ở người Raglai ln ở xa dịng suối. Nước được dẫn về đến sàn ngoài nhà
sàn, dẫn về đến nền nhà nhờ vào hệ thống mương máng. Mương máng này có thể làm bằng cây lồ ơ,
cây cau hay cây đùng đình (như cây cau, cây dừa nhưng mọc ở trong rừng chứ khơng phải là cây
trồng). Đàn ơng, trai tráng thì được ra sông ra suối tắm rửa. Đàn bà, con trẻ thì dùng nước từ mương
máng để nấu ăn, giặt áo quần…Nước sử dụng xong lại cho chảy theo đường rãnh ra xa nhà và cho
thấm vào đất chứ không được cho chảy vào sông suối. Đây là điều kiêng cử, vì nhang nước (c ia)
sẽ phạt vạ nếu làm ơ uế.
Rừng cây cối cỏ tranh là vợ bé của thần Mặt trời. Đi ngang đám cỏ tranh phải đi nhanh, không
đi bằng chân không, phải mang giày, mang dép. Đi chậm ông mặt trời tưởng chúng ta quan hệ với vợ
bé, ông sẽ cho gai tranh đâm và chân ngay. Vì vậy, khi đi đâu trở về gặp lúc trời xế chiều, người
Raglai thường buộc ba túm cỏ tranh lại vác trên vai và nói: “Ơng trời phải chờ vợ ông với, vợ ông
đang có chữa có mang trong bụng không đi nhanh theo ý của ngài được. Tui đang đi với vợ ông đây,
ông hãy chờ vợ ông với”. Nếu làm như vậy dù đi thêm mấy rựa2, mặt trời có cách một sải tay vẫn về
đến nhà kịp lúc trời tối.

Người Raglai có tập quán canh tác trên đất rẫy của ơng bà mình để lại. Núi nào thì làng đó
thờ, rẫy nhà nào thì nhà đó canh tác chứ không xâm chiếm qua rẫy nương người ta. Đất rẫy được
chơn cất người chết trong gia đình mình, tuyệt đối không chôn sang đất rẫy người khác. Hoa màu thu
hoạch được, nếu chưa cúng cho nhang thì nhất thiết chưa được ăn. Làm cháy núi cháy rừng là phạm
đến chổ ở các vị thần linh. Đốt rẫy mình làm cháy rẫy nương hoa màu, cháy mồ mả của người khác,
ăn cắp hoa màu rẫy nương người khác .. . là điều tối kị. Người vi phạm sẽ bị cọp bắt, rắn cắn, trời sẽ
khiến xui cho chết bất đắc kì tử (valah vanriac)…
Khi làm rẫy, người Raglai có tục làm đường ranh trước khi đốt rẫy gọi là papahnã. Công việc
này cả làng cùng giúp nhau, lần lượt đổi công hết nhà người này sang nhà người khác. Mùa đốt rẫy
cũng là mùa uống rượu cần. Các nhà có rẫy đốt trong năm gọi là djùq tapa pa papahnã chuh tanãh.
Người Raglai từ xưa đến nay giữ gìn rừng núi rất kỹ lưỡng, họ không dám để ra cháy rừng.
Khi được hỏi ở các khu vực ở Khánh Sơn cũng như ở vùng khác có người Raglai cư trú nhưng khơng
có rừng nữa, những cánh rừng rậm rạp xưa kia nay chỉ tồn lau lách, cỏ tranh… thì các người già 3
Raglai trả lời rằng trước đây có một tộc người khác đến đây ở (?). Họ có tập quán canh tác khác hẳn
với người Raglai. Họ khai thác cả núi để canh tác, làm nương rẫy đến cạn kiệt núi rừng làm cho cây
2

Rựa nhỏ đi rừng vác trên vai, mỗi lần mỏi, trở vai được tính là một rựa.

3

Người già: tuha- không đồng nghĩa với già làng.


khơng mọc, khơng cịn ai đi rãi hạt giống cây trên núi nữa nên mới thành đất trống đồi trọc 4. Những
người này đã phá lâu đài của chúa thần, của nhang, làm sụp đổ núi. Núi rừng là của người Raglai,
nay núi rừng bị tàn phá, lâu đài của thần bị sụp đổ thì người Raglai phải gánh chịu tai ương, bị dịch
bệnh hạn hán hoằng hồnh. Vì người Raglai khơng biết gìn giữ nơi cư trú của thần linh, thú rừng bị
săn bắt, bị giết hại thì kẻ mang tội vẫn là người Raglai(?).
Khi nơi cư trú của người Raglai xuất hiện tộc người khác đến ở, họ ln cảm thấy bất an vì

sợ những người này xâm hại đến núi rừng mà người phải gánh chịu hậu quả lại chính là họ. Đây
cũng chính là điều giải thích (của chúng tơi) hiện tượng bỏ đi dần vào trong rừng, trên rẫy của người
Raglai khi người Việt hay tộc người khác đến chung sống. Về vấn đề này, chúng tôi đã trao đổi với
GS Ngô Đức Thịnh5, giáo sư cho rằng đây là hiện tượng xung đột văn hố giữa các tộc người.
Khi cây rừng ra hoa, đó là lúc người Raglai nhận biết được một năm mới đã bắt đầu. Cùng
với hoa cây rừng là những công việc sản xuất theo chu kỳ trong một năm với nương rẫy, Từ những
cơng việc đó người Raglai đặt tên tháng trong một năm:
Tháng Một: Hoa cây
Tháng Hai: Sấm la=tiếng sấm báo hiệu những cơn mưa đầu mùa (grưm manhĩ)
Tháng Ba: Đốt rẫy
Tháng Tư: Trỉa lúa
Tháng Năm: padai lacơi (lúa con trai=Lá lúa bắt đầu có vịng cườm)
Tháng Sáu: Tìat cumơi (lúa thì con gái=Đẻ nhánh)
Tháng Bảy: Trổ bơng
Tháng Tám: ăn cơm mới
Tháng Chín: Suốt rẫy
Tháng Mười: Kakìq (thu hoạch xong)
Tháng Mười một: Puihmàc (nắng hanh, tháng tết)
Tháng Mười hai: Wup wơr (tháng lãng quên, tháng lễ hội).
Bên cạnh việc rừng cung cấp cho họ cây cối làm nhà ở, trong tri thức dân gian của người
Raglai còn biết tận dụng những loại cây, con trong rừng để chữa bệnh như :
- Chữa đau bụng, ho: Củ (rễ) sa nhân;
-Cầm máu: cây họ sắn dây, cây xương gà;
-Chữa bong gân, đứt gân, các vết thương: cây Jrãu Varavup (đực), jrãu uraq (cái);
-Chữa đau răng: các loại cây có chất liệu cay rilùc, cây ri-ieng, cây dây teh... dùng để nhét
vào chân răng khi nhức;
-Chữa đau bụng: Cây Tô Hạp (Turùp), trầm hương (Gahlơu);
-Tổ ong nhựa xông hơi chữa bệnh đậu mùa;
-Mật ong để rà miệng chữa bệnh cho trẻ em, mật gấu để chữa bệnh đau mắt…
Để tận dụng các loại thức ăn có sẵn trong rừng, kinh nghiệm của người Raglai đã truyền lại

cho con cháu nhận biết các loại hoa quả nào có thể ăn được, loại rau nào mọc trong rừng có thể làm
thức ăn hàng ngày, củ loại cây gì có thể giúp họ qua cơn đói trong mùa giáp hạt… Sau mỗi mùa mưa
các loại nấm mọc trong rừng có nhiều cây dầu (thơng, pơmu) màu trắng sữa thì hái chứ màu đỏ tuyệt
đối khơng đụng vào; nấm mọc ở rừng cây le, cây lồ ơ nếu có màu tím là độc, nấm màu vàng ăn rất
ngon và bổ; các loại nấm mọc trên đất tổ con mối hầu hết đều ăn được; nấm mọc trên các thân cây
mục có thân mềm, dịn thì hái, nấm cứng thì đừng…

4

Khi hỏi là dân tộc nào thì họ khơng nói rõ mà chỉ khẳng định khơng phải là người Raglai. Điều này chúng tôi chỉ ghi nhận và sẽ tiếp tục tìm
hiểu là ai.
5

Tháng 5/2005 tại Khánh Sơn, trong chuyến khảo sát trữ lượng Akhàt Jucar Raglai của Viện Nghiên cứu VHDG (Nay là Viện Nghiên cứu
VHVN)


Vào một ngơi nhà của người Raglai, có thể khẳng định tồn bộ các đồ dùng của họ đều có
nguồn gốc từ rừng, hoặc qua các cuộc trao đổi từ lâm thổ sản6.
Người Raglai chăn nuôi các loại gia súc: heo, trâu , bò, dê; các loại gia cầm: gà, vịt… đều thả
rong vào rừng chứ không làm chuồng trại. Trong akhàt Jucar Raglai đã kể về sự việc chuẩn bị cho
một đám cưới7. Người chủ làng phân công bọn thanh niên trai gái trong làng gái măng, hái rau rừng
để về nấu các món ăn truyền thống:
“-Hãy đi lấy canh rau mang về cho non thôi đấy,
Này đây hãy đi lấy măng rừng hái về chỉ lấy búp tre non thôi,
Hãy bắt con heo to cỡ bước nhảy qua, bắt con heo to cỡ chừng năm người khiêng mới vừa
chừng này là được.8
Với con trâu có sừng khoảng một chẻ tre là được, cái sừng dài tới cổ trâu này đây 9.
Có như vậy mới cho đút miệng ăn cho đủ hàng em người ta,
Như thế mới đủ cho việc đút miệng ăn hàng người chị,

Ăn này đây cho đủ khắp hết nhau,
Ăn này đây cho đủ khắp cả mọi người…”
(Akhàt Jucar Raglai: AWƠI NÃI TILƠR)
Cây cau non, cây đa nhỏ trên rừng cịn là hình ảnh của các chàng trai cô gái Raglai trong các
câu dân ca khi họ đối đáp, tìm hiểu nhau khi mới gặp gỡ buổi đầu
“ Ơ… Cây cau, hỡi cây cau,
Ơi… Hỡi cây cau, cây cau ơi!
Hãy nói lời thơm như trầm hương!
(Điệu Rutu: Lý Hái cau rừng)
Hay trong làn điệu Alơu:
“…Tụi tui là cây đa còn nhỏ,
Tụi tui là cây sung , Cây sung nhỏ nhắn .
Là cái khay trầu nhỏ ,
Để chuẩn bị cho các cuộc lễ quanh năm, người Raglai đã có một loại thức uống truyền thống
như hầu hết các tộc người Tây Nguyên: Rượu cần. Rượu cần được làm bằng các loại khoai mì, bắp,
sắn, bobo (cao lương) trong trên nương trên rẫy trộn với men danruq dawai lấy trong rừng, ngày nay
họ sử dụng các loại men rượu bán ở chợ cho tiện và nhanh. Tuy vậy, trong những cuộc lễ lớn gia
đình họ vẫn thường làm rượu cần từ men này, người Raglai thường nhắc nhau trong pacap10:
“Chưq char lagar drơi ngãq chapaq voh tupơi
Mũ danruq dawai tacai pateh tacai hureq lacuah ugha catơr amreq...”
(Núi nguyên xứ sở của ta có đủ đồ làm men rượu,
Bằng cây thuốc daruq dawai củ gừng bo bo ớt...)
Trong các Akhàt Jucar Raglai cũng nhắc đến loại men này:
“… Awơi Via Valìq nói:
-Rượu cần này người ta chẻ măng làm chua của măng tre ngà đó thơi.
6

Lâm sản ở đây là các loại cây trái, củ để ăn và làm thuốc. Thú rừng và cây gỗ rừng người Raglai không bao giờ làm vật trao đổi.

7


Hầu hết các Akhàt Jucar Raglai chúng tơi sưu tầm được đều có mơ tả đám cưới của nhân vật chính. Chưa thấy sử thi nào khơng có.

8

Con heo to giết chết đặt nằm rồi người lớn muốn bước qua phải nhảy thì được. Nói con heo to bằng bị. Có nghĩa con heo phải to như con
bị. Do người Raglai khơng có hệ thống đo lường bằng kilôgam, tạ, tấn nên phải ước lượng bằng cách gang tay, bước chân hoặc lấy vật khác
để miêu tả cho vật muốn nói.
9
Do con trâu to quá nên người ta tính chiều dài từ cổ tới đầu trâu bằng đốt tre lớn. con trâu có chiều dài như vậy bằng một lóng tre là trâu đã
đủ lớn.
10
Thành ngữ, tục ngữ ca dao= Pacap


Nào có khác lịng nhau đâu,
Này đây men làm bằng củ danruq chứ có khác gì.
Cũng là củ danrưq11, Này dùng củ thuốc Jawai có khác gì nhau
(Akhàt Jucar AWƠI NÃI TILƠR)
Rừng núi bạt ngàn nhưng đối với người Raglai ở Khánh Hịa đều đã có chủ để giữ gìn, để
canh tác. Mặc dù khơng hề có một văn bản chữ viết nào quy định nhưng khi thành lập một palơi
người Raglai ở Khánh Hòa lấy 3 ngọn núi trong địa bàn của palơi “phân cơng” cho 3 dịng họ chính
phụ trách: Họ Mấu/Máu (Chamaliaq), dịng họ Bo Bo (Catơr) và Cao/Cau (Pinang). Mỗi dòng họ thực
hiện việc cúng lễ rừng/núi hàng năm. Việc cúng núi diễn ra bắt đầu vào tháng Grưm manhĩ (sấm la),
tức là lúc phát dọn chuẩn bị gieo trồng vụ mới hay còn gọi là mùa rìu mùa rựa. Trong dịng họ đóng
góp lễ vật cau trầu, gà, rượu cần để cúng núi của mình. Cứ 3 năm lại cúng lớn một lần, và chu kỳ 7
năm lại cúng lớn nhất. Lễ vật trong các kỳ cúng lớn này là heo, bò. Sau khi cúng núi xong họ tiếp tục
cúng đất (vhum tanãh). Lễ vật cúng núi như thế nào thì cúng đất đai như vậy. Trường hợp nếu trong
dịng họ có người vi phạm luật tục cần phải cúng tạ núi rừng thì dịng họ nào về núi đó. Đây là điều
bắt buộc nếu không tai họa sẽ liên quan đến vận mệnh cả làng. Riêng đối với họ Tro, họ Mơn… do

khơng có núi riêng trong palơi thì căn cứ mối quan hệ đối với dịng họ nào trong palơi thì cúng ở núi
dịng họ mình liên quan.
Trong văn hố sùng bái với rừng núi, người Raglai không bao giờ lên đỉnh núi mà họ chỉ ở và
canh tác giữa lưng chừng núi. Rừng được phân loại theo để mọi người trong palơi biết mà thực hiện
theo adãt panuãiq (luật tục), bao gồm:
Rừng núi trên đỉnh là rừng thiêng, rừng cấm tuyệt đối: Cuang Pu Via;
Rừng núi Sanõh là rừng của riêng từng gia đình;
Rừng thần độc (Vhịq Salah)
Rừng để chơn những người chết vì dịch bệnh12 (Dlai huang adhang adhaq, dlai luiq);
Rừng /núi để canh tác: Duh Puq chưq.
Trong thành ngữ, tục ngữ (pacap) của người Raglai có nhiều câu nói về việc phân loại rừng
để truyền lại cho người sau nhớ mà ứng dụng:
-Dlai jalưc catưc bùr (Rừng ngàn rậm rạp)
-Dlai tuha inã mum (Rừng già lắm bồ hóng)
-Chưq jiơc padai dlai jiơc gilo (Núi sanh lúa rừng sanh bắp)
Người Raglai luôn dạy bảo con cháu không bao giờ phá rừng làm rẫy, nếu phá rừng là vi
phạm điều cấm kị. Luật tục Raglai đã quy định:
“…Không được làm nhà ở, Không được phát nương làm rẫy bừa bãi.
Người xưa tin rằng:
Đỉnh núi, đỉnh đồi, rừng đầu nguồn, rừng còn nguyên
Là nơi trú ngụ của thần linh
Chặt phát rừng là xúc phạm đến thần linh
Sẽ bị các thần gây ra sạt núi, lũ lụt…”
[Phan Đăng Nhật (cb) 2003:754]
Luật tục của người Raglai cũng đã quy định để đối phó với sự tức giận của nhang thần rừng
núi, để cầu mong sự yên bình, con người phải:
“…Hãy têm trầu cau
Hãy cầu xin với Thần Rừng, Thần Núi
11
12


Danuruq: Một loại củ rừng dùng để làm men cất rượu thuộc họ nghệ , gừng.

Người Raglai chơn người chết trong khu vực rẫy của mình chứ khơng có nghĩa trang riêng. Nghĩa trang chỉ dành cho những người vơ thừa
nhận, chết vì dịch.


Xin cho chim, cho heo, cho gà
Xin cho lúa nhiều, nhiều bắp
Xin cho mọi sự đầy đủ
Chiêng đánh, vòng đeo, nhiều ơn nhiều lộc…”
Cho đến nay một bộ phận người Việt vẫn cho rằng những dân tộc Tây Nguyên chặt phá rừng
làm nương rẫy là bản năng của họ. Điều này hồn tịan trái ngược với truyền thống của người Raglai
nói riêng và hầu hết những dân tộc ở Tây Nguyên. Văn hoá tận dụng của rừng, người Raglai cho
rằng:
“…Rừng là mái nhà thiên nhiên
Rừng che chở ta, bảo vệ ta
Khơng có rừng lấy đâu ra măng, ra nấm.
Khơng có rừng lấy đâu ra dây để buộc, tre để đan…”
Và họ luôn xác định:
“…Cây to đầu núi, đỉnh đồi, đầu nguồn là chiếc đập ngăn nước
Không được chặt cây đa lâu năm, dây leo cuốn, cây sung thần
Không được làm rẫy làm nhà
Đầu núi chân làng, núi to bãi hoang…”
Để đối phó với sự bạc màu của đất đai canh tác, rẫy nương của người Raglai đều chia làm 3
loại:
Rẫy đang canh tác: Apu jahnãh
Rẫy bỏ đã 3 năm (còn thu hoạch chuối, đu đu, mít…):Apu Casor
Rẫy bỏ 10 năm (rẫy lâu lâu): Apu panroh
Khi rẫy bắt đầu bạc màu họ quay trở lại rẫy 10 năm để phát dọn và để dưỡng lại độ màu của

các rẫy khác chứ không đi phát rẫy trên núi trong rừng. Các đất rẫy này là đất của ông bà để lại chứ
không xâm phạm đến rẫy nương của người khác như luật tục đã quy định:
“…Rẫy cũ của ông bà
Rẫy mới của ông bà
Rẫy cũ của ông bà anh- anh ăn
Rẫy mới của ông bà tui-tui ăn…” [Phan Đăng Nhật (cb) 2003:445].
Một điều chúng tơi đã tìm hiểu được trong q trình khảo sát, điền dã của mình ở các vùng
miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh (Khánh Hoà), Bác Ái (Ninh Thuận) là người Raglai trước đây không
bao giờ chặt cây trong rừng già, rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn nước để làm nhà. Họ sử dụng
chính ngay những cây cối lấy trong rẫy 10 năm (Apu panroh) mang về làm nhà và các vật dụng khác.
Để đối phó với nạn cháy rừng, người Raglai luôn dạy bảo con cháu luôn phải cẩn thận với
việc sử dụng lửa trong rừng. Khi đốt rẫy để canh tác, họ luôn đốt vào lúc đứng gió hay khi gió nhẹ, đốt
xong dập hết lửa mới ra về. Nếu ai vi phạm gây ra cháy rừng sẽ bị phạt theo luật tục:
“…Ông bà tổ tiên người Raglai xưa đã dạy
Cấm không được làm cháy nơi thờ thần Rừng, thần Núi…
…Kẻ đốt lửa làm thần linh bị nóng bị bỏng
Kẻ đó đã xúc phạm tới thần linh
Bởi thế nó đã phạm một lỗi rất nghiêm trọng
Cần phải đưa ra xét xử
Với hình phạt nặng nề để làm gương cho kẻ khác…”


Có thể nói hình ảnh của núi rừng, các cây con sống trong rừng đọng lại rất lớn và chiếm hầu
hết trong pacap của họ về phương thức sản xuất, canh tác; kinh nghiệm thời tiết khi nhìn núi rừng.
Khơng những thế họ cũng đã đưa hình ảnh những bơng hoa trong rừng, đám mây trên đỉnh núi trở
thành hoa văn ở một số đồ dùng như ná, ống tên, cán dao của người đàn ông khi lên rẫy; trên váy, áo
của phụ nữ Raglai trong các ngày lễ hội palơi...
Những điều nói trên trong văn hố của người Raglai là hiển nhiên bởi chính khi tương tác với
mơi trường của rừng núi, người Raglai đã sáng tạo ra văn hố của chính họ, một mơi trường chủ đạo,
gắn bó hàng ngày năm nay với tộc người này như bao tộc người Tây Nguyên khác.

____________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU
1. NGƠ ĐỨC THỊNH 2004:Văn hóa vùng & phân vùng văn hóa ở Việt Nam. –TpHCM: NXB Trẻ, 425 trang.
2. NGƠ ĐỨC THỊNH 2006: Văn hóa – Văn hố tộc người và văn hoá Việt Nam. –H: NXB Khoa học Xã hội,
861 trang.
3. NGUYỄN THẾ SANG 2001: Akhàt Jucar Ra-glai . – H: NXB Văn hóa Dân tộc, 872 trang.
4. NGUYỄN TUẤN TRIẾT 1991: Người Raglai ở Việt Nam. – NXB Khoa học xã hội.
5. PHAN ĐĂNG NHẬT (cb) Tô Đông Hải, Sakaya, Chamaliaq Riya Tỉenq, Trần Vũ 2003: Luật tục Chăm và
Luật tục Ra-glai. – H: NXB VHDT, 844 trang.
6. PHAN NGỌC 2005: Văn hoá Việt Nam và các tiếp cận mới. – H: NXB VHTT, 245 trang.
7. PHAN XUÂN BIÊN (cb), Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên, Nguyễn Văn Hụê 1998: Văn hóa và
xã hội người Ra-glai ở Việt Nam. –HCM: NXB KHXH, 346 trang.
8. TRẦN NGỌC THÊM 1996/2004: Tìm về Bản sắc Văn hóa Việt Nam. – Tp HCM: NXB Tổng hợp (tái bản
lần thứ 4), 690 trang.



×