Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Đặc điểm các thể loại báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 32 trang )

ĐẶC ĐIỂM CÁC THỂ LOẠI BÁO CHÍ


I. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHĨM THỂ LOẠI THUẦN TÚY THƠNG TIN
1. Tin
Khái niệm: Tin tức là thể loại báo chí cơ bản, ngắn gọn nhất, cơ đúc nhất, nhanh
chóng nhất, kịp thời nhất, được thể hiện bằng chữ, bằng lời, bằng hình ảnh để phản
ánh những sự kiện mới xảy ra, đang xảy ra, sắp xảy ra có tầm quan trọng đối với
xã hội, nhằm thúc đẩy và cải tạo xã hội.
Đặc điểm:
So với tất cả các thể loại khác, tin là thể loại phổ biến nhất, năng động nhất và thể
hiện rõ nhất sự nhạy bén, tính xác thực của báo chí trong việc phản ánh sự kiện
mới. Nói cách khác thể loại tin có nhiệm vụ thơng tin, thông báo kịp thời nhất về
những sự việc, sự kiện thời sự mới nhất, dưới một hình thức đơn giản nhất, ngắn
gọn nhất.
Nói đến tin là nói đến sự kiện. Sự kiện là đối tượng nhận thức, đối tượng phản ánh
của thể loại tin đồng thời là nội dung của tin.
Tuy nhiên tin khơng phải là sự kiện, nó chỉ là một cách phản ánh về sự kiện đó.
Mối liên hệ giữa chúng là cái này có khả năng và nhiệm vụ phản ánh cái kia.


Khơng phải chỉ có tin mới được phản ánh sự kiện, mà bất cứ thể loại báo chí nào
cũng có liên quan chặt chẽ đến sự kiện hoặc bắt đầu từ sự kiện. Không phải mọi sự
kiện đều trở thành đối tượng phản ánh của tin. Tin chỉ quan tâm đến các sự kiện
thời sự cấp bách, đó là những sự kiện mới xảy ra, đang xảy ra, sắp xảy ra hoặc mới
phát hiện được...
Sự kiện thời sự cấp bách thường tập trung phản ánh thời điểm bắt đầu và kết thúc
của một quá trình vận động phát triển của những sự kiện có quy mơ lớn hơn.
Sự khác biệt về phương diện thể loại của tin với các thể loại báo chí khác là ở chổ:
nó có cách thức riêng trong việc phản ánh những sự kiện thời sự. Chính điều đó đã
tạo ra những điểm khác biệt về nội dung và hình thức của thể loại.


Tin bám sát những sự kiện mới một cách nhạy bén và phản ánh sự kiện ở những
thời điểm tiêu biểu, đỉnh cao như sự mở đầu, kết thúc hoặc ở những thời điểm mà
sự kiện bộc lộ thêm những tính chất mới.
Tin không phản ánh sự kiện một cách đầy đủ theo tiến trình, diễn biến mà chỉ
thơng báo về sự kiện một cách kịp thời ở những thời điểm tiêu biểu – nơi sự kiện
bộc lộ bản chất của nó rõ nhất, tin phản ánh sự kiện giống như những “lát cắt”.
Tin trả lời những câu hỏi cơ bản một cách đặc biệt ngắn gọn. Trước hết nó tập
trung vào năm câu hỏi đầu tiên là: What (cái gì?), Who (ai?), When (khi nào?),


Why (tại sao?), Where (ở đâu?) và How (thư thế nào?), ngồi ra cịn có thêm
Which ( với ai?)
Tóm lại, tin tức là phải nhanh chóng, kịp thời, ngắn gọn, cô đọng và phản ánh cái
mới.
2. Ghi nhanh
Khái niệm: “Ghi nhanh là một thể kí báo chí nhạy bén trong việc phản ánh những
sự kiện nỗi bật vừa xuất hiện, thơng qua vai trị của nhân vật trần thuật nhằm cung
cấp ngay lập tức cho công chúng một phác thảo đa diện về cái thời điểm ban đầu
sinh động nhất của sự kiện với những chi tiết tiêu biểu nhất, gây ấn tượng nhất và
sự chứng kiến trực tiếp của các nhân chứng.”
Đặc điểm:
Đối tượng phản ánh của ghi nhanh là những sự kiện quan trọng, vì vậy ghi nhanh
cần sắc sảo, nhanh nhạy, phản ánh ngay lập tức. Đó là những điều vượt ra ngồi
cái thơng thường, tươi mới và hấp dẫn, cái đã và đang sẽ xảy ra. Bằng việc dựng
lên một phác thảo đa diện về cái thời điểm ban đầu sinh động nhất của sự kiện đó,
ghi nhanh có thể thỏa mãn được nhu cầu hiểu biết sự kiện ngay từ giây phút đầu
tiên của công chúng, với những thơng tin ban đầu cịn ngun vẹn hơi thở nóng


bỏng của sự kiện. Ghi nhanh là một trong những thể loại có khả năng đáp ứng u

cầu thơng tin thời sự một cách nhạy bén nhất, cơ động nhất.
Ngoài khả năng thông tin xác thực, tác phẩm ghi nhanh cịn có ít nhiều khả năng
thơng tin lý lẽ và thông tin thẩm mỹ. Tuy nhiên do phải thông tin nhanh nên những
chi tiết mà ghi nhanh đem đến cho cơng chúng thường chỉ dừng lại ở diện mạo bên
ngồi. Ghi nhanh khơng thể trình bày sự kiện một cách đầy đủ, tường tận về sự
kiện như thể loại tường thuật, cũng khơng có đủ điều kiện để đi sâu cắt nghĩa
nguyên nhân, lý giải diễn biến để rút ra những kết luận như phóng sự mà chỉ giới
thiệu tồn diện thông qua những chi tiết nỗi bật nhất, điển hình nhất đem đến cho
cơng chúng một phác thảo, tạo ra cái nhìn ban đầu tương đối bao quát, sinh động
về sự kiện vừa mới xảy ra.
Ghi nhanh khi phản ánh sự kiện thường thông qua cái tôi trần thuật, một nhân
chứng khách quan. Cái tôi của tác giả phải hết sức năng động, hoạt bát xông xáo
và đầy sáng tạo. Tác giả vừa là người trực tiếp chứng kiến, đồng thời còn phải là
người trực tiếp tham gia sự kiện hoặc hồ nhập vào sự kiện đó. Chỉ có như vậy tác
phẩm mới tạo ra được khả năng thuyết phục công chúng về những điều mà tác giả
tin tưởng và bảo vệ. Để có thể có được một phác thảo của sự thật, tác giả viết ghi
nhanh ngoài việc sử dụng những chi tiết có khả năng khái quát cịn tái hiện lại
những cuộc phỏng vấn chớp nhống của mình đối với các nhân chứng được lựa


chọn từ những đối tượng khác nhau, có góc nhìn khác nhau sẽ tạo ra cho tác phẩm
một phác thảo đa diện về sự kiện và điều đó làm cho tác phẩm càng thêm sinh
động, mang tính khách quan hơn.
Tất nhiên, tác giả phải là người thẩm định cuối cùng trước sự thật và như vậy, cái
tôi trần thuật phải nhập cuộc, phải tham gia trực tiếp vào sự kiện để chọn lọc chi
tiết nào tiêu biểu nhất, phản ánh đúng bản chất của sự thật. Tác giả ghi nhanh phải
là người có khả năng khám phá, phát hiện và sáng tạo trong khi thực hiện bài viết
của mình. Như vậy, xét về khía cạnh hình thức kết cấu của tác phẩm ghi nhanh, cái
tôi trần thuật là nhân tố có vai trị quyết định trong việc liên kết các dữ kiện. Sự
"chặt chẽ, sắc sảo" của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào vai trị của cái tơi đó.

Điều quan trọng nhất là ở chỗ: tác giả có chọn được một sự kiện tiêu biểu mang
nhiều ý nghĩa hay khơng và trình bày những chi tiết, dữ kiện của sự kiện ấy như
thế nào để cơng chúng có được một phác thảo về cái thời điểm ban đầu sinh động
nhất của sự kiện đó...
Kết cấu của ghi nhanh co giãn, linh hoạt mang tính bút pháp và nhiều thể loại vừa
sinh động sắc sảo lại mang tính văn học. Ghi nhanh sử dụng bút pháp tổng hợp,
bao gồm tả, thuật kết hợp với những cuộc phỏng vấn gắn xoáy vào những chi tiết
nỗi bật của sự kiện.


Ngồi ra, tác giả cịn có thể sử dụng kết hợp nhiều thủ pháp khác như liên tưởng,
hồi tưởng, trình bày số liệu hoặc viện dẫn chứng những chi tiết khác để góp phần
làm sáng tỏ sự kiện.
Tác phẩm ghi nhanh thường tuân theo một kết cấu đặc trưng gồm ba phần chính:
Nêu sự kiện trung tâm (thời điểm, hồn cảnh, tính chất, ý nghĩa và có thể là cả
những câu hỏi hoặc vấn đề đặt ra...)
Minh hoạ, soi sáng sự kiện từ những góc độ khác nhau (thơng qua các chi tiết tiêu
biểu, điển hình, phản ánh đúng bản chất của sự kiện. Trong đó đặc biệt chú ý đến
những cuộc phỏng vấn ngắn đối với các nhân chứng trực tiếp liên quan đến sự
kiện).
Tóm lược những nét chính, khẳng định hoặc nhấn mạnh ý nghĩa những vấn đề mà
sự kiện đã đặt ra.
Ba phần nêu trên tạo thành một mơ hình kết hợp giữa diễn dịch và quy nạp. Tuy
nhiên, tuỳ theo tính chất, tầm quan trọng của mỗi sự kiện và sự thẩm định của tác
giả trước sự kiện đó mà mỗi phần trong kết cấu nói trên có thể được co ngắn hay
nhấn mạnh để làm nổi bật chủ đề bài viết.


Ngơn ngữ độc đáo, dễ hiểu và có sức biểu cảm cao. Ngơn ngữ của ghi nhanh có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ thông tin thời sự và ngơn ngữ giàu tính chất

văn học.
Tóm lại, Ghi nhanh là một thể Ký báo chí nhạy bén trong việc thơng tin thời sự về
những sự kiện (hồn cảnh, tình huống...) vừa mới nảy sinh. Bằng việc đem đến cho
công chúng một phác thảo ban đầu của sự kiện, nó thoả mãn nhu cầu thông tin
ngay lập tức của công chúng. Tuy nhiên, khả năng thông tin thời sự cũng tạo ra
những giới hạn nhất định đối với thể loại này trong việc phản ánh hiện thực. Nhìn
chung ghi nhanh khơng có khả năng trả lời hết được những câu hỏi mà sự kiện sinh
ra. Là một thể loại xung kích, cũng như tin, ghi nhanh tạo tiền đề cho những thể
loại khác đi sâu vào phản ánh sự kiện.
3. Tường thuật
Khái niệm: “Tường thuật là một trong những thể loại thuộc nhóm các thể loại báo
chí thơng tấn, trong đó nhà báo thuật, tả, bình một cách tường tận, chi tiết sinh
động diễn biến của một sự kiện quan trọng xảy ra bằng cách chứng kiến hoặc tham
gia trực tiếp vào q trình diễn ra sự kiện đó.”
Đặc điểm:


Tính thời sự và trực tiếp: đặc điểm này cho thấy người làm tường thuật phải có mặt
tại nơi xảy ra sự kiện. Điều đó cho phép bài tường thuật như một bản sao tức thời
về sự kiện đó. Bằng thế mạnh của ngôn ngữ, cảm xúc, cảm hứng, quan sát trực tiếp
và kết hợp cả ba phương pháp thuật, tả, bình quá trình diễn biến của sự kiện một
cách chân thực, sinh động và hấp dẫn.
Nếu so sánh với tin là thể loại có khả năng thơng báo, phản ánh sự kiện đơn lẻ trên
diện rộng của đời sống xã hội thì tường thuật có ưu thế hơn trong việc trình bày
một cách tỉ mỉ, chi tiết và sâu sắc diễn biến của sự kiện. Ưu thế này làm cho cơng
chúng có thể hình dung tương đối đầy đủ như thể họ đang có mặt, đang được tân
mắt chứng kiến sự kiện đó.
Tin thỏa mãn cơng chúng bằng những thơng báo mới nhất về sự kiện đó, cịn tường
thuật lại đáp ứng nhu cầu muốn biết sự kiện một cách trực tiếp, nóng hổi và đầy
đủ. Đặc biệt tường thuật trực tiếp của phát thanh truyền hình cơng chúng cịn thấy

được hình ảnh sống động, nghe được âm thanh náo nhiệt của hiện trường, nghe
được lời nói của phóng viên, phát thanh viên và nhân vật. Những yếu tố đó làm
cho cơng chúng hịa nhập, cuốn hút vào diễn biến sự kiện, đảm bảo tiếp nhận sự
kiện một cách đầy đủ và hào hứng. Tính thời sự và trực tiếp là một trong nhưng thế
mạnh của tường thuật so với các thể loại báo chí khác.


Tính tổng hợp: tường thuật là sự kết hợp một cách linh hoạt, chủ động, sáng tạo
yếu tố ngắn ngọn, cơ đúc, súc tích của tin, tư liệu xác thực có hệ thống và lý lẽ chặt
chẽ, hùng hồn của bình luận hay xã luận, yếu tố cảm xúc, hình ảnh, ngơn ngữ của
phóng sự, ký sự hay tiểu phẩm... Tính tổng hợp của tường thuật cịn thể hiện ở sự
hấp dẫn bởi hai yếu tố:
Một là sự chắt lọc, kết tinh những tài liệu thực tế mà người tường thuật thu thập
được; hai là văn phong bút pháp, hình ảnh và cảm xúc của tác giả. Ngoài ra trong
quá trình tường thuật nhà báo có thể cung cấp bức tranh sinh động về sự kiện bằng
cách sử dụng các số liệu, tư liệu, hồi ký và các thông tin khác có liên quan đến sự
kiện để làm nỗi bật ý nghĩa của vấn đề.
Như vậy, tường thuật là sự hội tụ lượng thông tin phong phú, đa dạng về một sự
kiện. Thể loại này mang lại cho công chúng sự liên tưởng và hình dung tồn vẹn về
một sự kiện.
Tính sáng tạo và nghệ thuật: đây là một trong những đặc điểm nỗi bật của tường
thuật. Tính nghệ thuật thể hiện trước hết ở chổ sự kiện được thuật lại một cách sinh
động, xác thực và khách quan với thời gian và khơng gian nhất định.
Tính sáng tạo thể hiện ở chỗ người tường thuật phải trình bày được tư tưởng cốt lõi
của sự kiện đã và đang diễn ra như một bức tranh sinh động. Tường thuật là sự


diễn tả, thuật lại qua lăng kính của người tường thuật để truyền đạt một ý tưởng
nào đó theo mục đích nhất định. Tính sáng tạo ở đây khơng phải là sự bịa đặt, suy
diễn tô hồng hay hư cấu mà là sự phát hiện, chắt lọc lựa chọn chi tiết, số liệu, hiện

tượng, hình ảnh, nhân vật trong diễn biến sự kiện để truyền đạt cho công chúng.
Sáng tạo trong báo chí là sáng tạo theo tư duy thực chứng, khách quan, trên cơ sở
sự thật của đời sống.
Sự kiện diễn biến theo tiến trình: tường thuật bám sát quá trình diễn biến của sự
kiện theo tiến trình phát sinh, phát triển và kết thúc để phản ánh, thuật, tả và bình
theo ý đồ của người tường thuật hay cơ quan báo chí. Trong một số trường hợp đặc
biệt, do sự kiện có quá nhiều chi tiết, tác giả bài tường thuật có thể sắp xếp lại, lựa
chọn hoặc loại bớt một số chi tiết không cần thiết của sự kiện sao cho lơgic, hợp lý
để cơng chúng hình dung về sự kiện hơn. Tuy nhiên thao tác này phải đảm bảo tính
chân thực của sự kiện và duy trì được trình tự chính của sự kiện.
Tóm lại, tường thuật là phản ánh những sự kiện quan trọng, đặc sắc có ý nghĩa thời
sự được nhiều người quan tâm đón đọc. Bày tỏ quan điểm của mình nhằm định
hướng thông tin, tư tưởng và hướng dẫn dư luận xã hội. Sự kiện nỗi bật trong đời
sống kinh tế, chính trị xã hội, liên quan mật thiết đến đời sống dân cư. Thông qua
sự việc thông tin tường tận theo diễn biến sự kiện, đảm bảo đúng trật tự như sự
kiện diễn ra. Tuyệt đối không được thêm bớt một số tình tiết nào. Bám sát làm rõ


những biến cố chính xảy ra, những nhân vật chính của sự kiện, làm rõ môi trường,
quan sát theo dõi từ đầu cho đến kết thúc sự kiện.
4. Phóng sự
Khái niệm: “Phóng sự là một thể tài báo chí, phản ánh những vấn đề có tính thời
sự, có ý nghĩa chính trị xã hội được bạn đọc quan tâm. Phóng sự có thể viết bằng
các bút pháp mang tính văn học. Trong phóng sự có nhân vật và cái tơi trần thuật.
Phóng sự giúp bạn đọc hiểu sâu hơn, rõ hơn sự việc và chia sẽ được với tác giả
những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm.”
Đặc điểm:
Cũng như các thể loại báo chí khác, phóng sự có mục đích cung cấp cho cơng
chúng những tri thức phong phú, đầy đủ, chính xác để họ có thể nhận thức, đánh
giá đúng người và việc mà họ đang quan tâm theo dõi. Ngồi việc thơng tin thời sự

về người thật việc thật trong một quá trình phát sinh phát triển, phóng sự cịn cố
gắng thẩm định hiện thực và trả lời những câu hỏi mà hiện thực đặt ra. Ví
dụ: phóng sự “ Tơi kéo xe” của Tam Lang đã phản ánh cuộc đời cực nhọc của
người phu kéo xe…Những phóng sự xã hội đề cập đến những vấn đề như: Tham
nhũng, bn lậu, ma túy…trong báo chí hiện đại qua các phóng sự của Xuân Ba,
Huỳnh Dũng Nhân, Đỗ Dỗn Hồng…”


Tính đặc trưng trong việc phản ánh sự thực của phóng sự ở chỗ tác giả phải là
người tận mắt chứng kiến sự việc hoặc tự mình tìm hiểu vấn đề thông qua những
nhân chứng đáng tin cậy. Không chỉ dừng lại trong việc phản ánh một hiện tượng,
một sự kiện đơn lẻ mà phóng sự cịn trình bày một chuỗi các sự kiện. Các sự kiện,
sự việc được đặt ra trong tiến trình lịch sử, quá trình phát sinh phát triển khiến
người đọc dễ dàng theo dõi và nắm bắt được vấn đề.
Viết phóng sự phải có nhân vật.
Phóng sự là một thể tài của báo chí nhưng lại gần gủi với văn học, thường viết về
những vấn đề của xã hội và viết về những con người trong một hồn cảnh điển
hình. Trong một chuẩn mực nào đó, những nhân vật này đều có số phận, hồn cảnh
riêng. Một bài phóng sự khơng có nhân vật thì chưa phải là phóng sự, khơng thể để
tác giả nói mà hãy để cho nhân vật được nói. Bạn đọc muốn biết số phận của nhân
vật từ câu chuyện và hình ảnh của chính họ.
Vai trị của cái tơi trần thuật trong phóng sự.
Trong phóng sự, cái tơi trần thuật đóng vai trị rất quan trọng. Đó là cái tơi vừa
lơgíc, lý trí, giàu lý lẽ và trong chừng mực nào đó cịn sử dụng sức mạnh của cảm
xúc thẩm mỹ.


Cái tơi – tác giả trong phóng sự vừa là người dẫn chuyện, người trình bày, người lý
giải, người kết nối các dữ kiện mà tác phẩm đề cập tới. Ở một khía cạnh khác, cái
tơi trần thuật cịn góp phần tạo ra giọng điệu của tác phẩm. Xuất phát từ đối tượng

miêu tả nhằm thẩm định đối tượng đó, giọng điệu của phóng sự rất sinh động. Khi
nghiêm túc, lý lẽ, lúc hài hước, châm biếm khi lại tràn đầy cảm xúc.
Thực chất cái tơi tác giả trong phóng sự là sự pha trộn của nhiều cái tôi: cái tôi
nhân chứng, cái tôi trần thuật, cái tôi thẩm định và cái tôi cảm xúc. Những cái tôi
này không tách bạch riêng rẻ mà xen kẻ một cách hài hòa và uyển chuyển, tạo nên
những giá trị cho tác phẩm phóng sự.
Khơng có sự tách bạc rạch rịi nào giữa những cái tơi trong một phóng sự mà chỉ
có sự nổi trội của yếu tố này hay yếu tố khác trong cái tơi đó. Các yếu tố này ln
kết hợp chặt chẽ với nhau. Nhờ sự kết hợp linh hoạt giữa các yếu tố này mà bức
tranh của hiện thực được tái hiện xác thực, sống động, sắc nét, chuyển tải được chủ
đề tư tưởng theo góc độ nhìn nhận và quan điểm của người viết, có chiều sâu nội
tâm và quan điểm của tác giả.
Phóng sự sử dụng bút pháp sinh động, linh hoạt, giàu hình ảnh, gần với văn học.
Phóng sự là thể tài duy nhất có thể trình bày một bức tranh vừa có tính khái qt
vừa chi tiết vừa cụ thể về một hiện thực đa dạng, bề bộn, đồng thời lý giải những


vấn đề đặt ra từ hiện thực ấy một cách thỏa đáng. Trong tác phẩm phóng sự, tác giả
vẫn có thể sử dụng bút pháp vừa là thông tin thời sự vừa thông tin thẩm mỹ để tạo
ra giọng điệu đa thanh.
Phẩm chất văn học trong phóng sự khơng phải là cách tác giả thêm thắt vào trong
tác phẩm mà phẩm chất đó tồn tại ngay trong hiện thực, có biết bao nhiêu là sự
kiện, cuộc đời đầy kịch tính, đầy sống động.
Phóng sự sử dụng bút pháp miêu tả, tường thuật kết hợp với nghị luận.
Miêu tả, tường thuật là những bút pháp được sử dụng ngay từ khi những phóng sự
đầu tiên ra đời. Nó giúp người đọc cảm nhận, hình dung được sự kiện, con người
lồ lộ như đang hiển hiện trước mắt họ. Sự miêu tả dẫn dắt người đọc tới gần sự
kiện hơn. Chính vì vậy mà phóng sự có ưu thế cung cấp thơng tin cho người đọc
một cách chi tiết, đầy đủ nhất.
Phóng sự có tính văn học.

Tính văn học trong phóng sự là cách hành văn. Nhưng còn các thủ pháp văn học
cũng phải biết dùng sao cho đúng. Biết tường thuật khi cần tường thuật, biết miêu
tả khi cần miêu tả. Sử dụng văn học trong phóng sự là sử dụng ngôn ngữ tác giả,
ngôn ngữ nhân vật sao cho linh hoạt, sinh động, giàu hình ảnh.


Như vậy, phóng sự là một thể tài báo chí quan trọng nhất với khả năng thông tin
thời sự về người thật, việc thật một cách sâu sắc trong quá trình diễn biến. Vừa
thơng tin sự kiện, phóng sự cịn có khả năng thơng tin lý lẽ, thơng tin thẩm mỹ.
Chính sự kết hợp giữa các yếu tố đó đã tạo cho phóng sự một khả năng riêng trong
việc phản ánh hiện thực, nó có thể thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và khám phá hiện
thực của công chúng.
5. Điều tra
Khái niệm: Điều tra là một thể loại báo chí nằm trong nhóm các thể loại báo chí
chính luận. Theo từ điển Tiếng Việt, in năm 1992 của Trung tâm từ điển ngơn ngữ
viết: “Điều tra là tìm hiểu, xem xét để biết rõ sự thật”.
Đặc điểm:
Về nội dung: Điều tra làm sáng tỏ những vấn đề đang gây ra nhiều ý kiến, nhiều
cách thể hiện khác nhau để giúp cho độc giả có câu trả lời đúng nhất, cách nhìn xác
thực nhất. Do có nhiệm vụ trả lời nên tác phẩm điều tra phải có cấu trúc chặt chẽ
bằng sự phối hợp của các luận đề – luận cứ – luận điểm.
Về hình thức: Bài điều tra thường có dung lượng lớn, tuỳ thuộc vào tính chất của
nội dung. Có bài chỉ độ 500 – 700 chữ, nhưng cũng có bài phải đăng đến vài kỳ
báo. Nhìn chung dung lượng bài điều tra thường lớn hơn các thể loại khác. Ngôn


ngữ xác thực, đơn nghĩa, mang tính chính luận. Tác giả xuất hiện là “cái tơi nhân
chứng”
Vai trị của sự kiện trong bài điều tra: Đề cập đúng vấn đề nóng hổi mà mọi người
quan tâm, nêu lên những câu trả lời là mối băn khoăn của nhiều người. Trình bày

phân tích các sự kiện mới mẽ và có sức thuyết phục. Là hiện tượng có quy mơ lớn
nỗi bật và tập trung, phân tích gọn gàng cơ đúc phản ánh chính xác hiện tượng.
Điều tra phê bình để cơng khai tội ác, làm bẩn đục đời sống. Thiếu những phân tích
sự kiện cụ thể thì khơng thể có những nội dung cụ thể và không thể thuyết phục
được công chúng.
Tác giả Trần Quang cho rằng: “Điều tra là một thể loại chính luận báo chí phản
ánh tương đối đầy đủ q trình liên kết nhiều sự kiện có quan hệ nhân quả theo
một chủ đề mà trong đó các dữ kiện được sắp xếp một cách lơgíc nhằm làm rõ sự
thật của vấn đề mà công chúng đang quan tâm” .
Đối với đặc trưng của điều tra, tác giả khẳng định tính chất nóng hổi và bức xúc
của đề tài trong bài điều tra và đồng tình với tác giả Đức Dũng khi nêu ra đặc
trưng:
Tính hệ thống và tính lơgíc trong lập luận và trình bày chứng cứ.
Phương pháp thể hiện đặc thù của thể loại điều tra là phân tích sự kiện.


Cấu trúc bài điều tra gồm: Tựa đề và phần giới thiệu, phần mở đầu, phần giải quyết
vấn đề, và kết luận.
Tóm lại, điều tra là thể loại báo chí có nhiệm vụ trả lời những câu hỏi mà cuộc
sống đang đặt ra thông qua một hệ thống các bằng chứng, các luận cứ kết hợp ít
nhiều với lý lẽ. Chính hệ thống các bằng chứng là yếu quyết định tạo ra sự tin cậy
của công chúng đối với tác phẩm điều tra. Bằng chứng trong bài điều tra hết sức đa
dạng. Đó có thể là các con số, chi tiết, dữ kiện, văn bản, chứng từ, những quan sát
trực tiếp, băng ghi âm, ảnh chụp… Tuy nhiên, điều quan trọng là tác giả bài điều
tra phải có nhiệm vụ chỉ ra được bản chất của các bằng chứng đó thơng qua một
cách trình bày lơgíc nhất và với một văn phong có phần đơn giản cả về ngơn từ,
bút pháp và giọng điệu.
6. Phỏng vấn
Khái niệm: Thuật ngữ phỏng vấn là một khái niệm rộng có thể hiểu dưới nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên có thể hiểu “ Phỏng vấn báo chí là một trong những

thể loại thuộc nhóm các thể loại báo chí thơng tấn, trong đó trình bày cuộc nói
chuyện giữa nhà báo với một hoặc một nhóm người về vấn đề mà xã hội quan tâm,
có ý nghĩa chính trị - xã hội nhất định được đăng phát trên các phương tiện thông
tin đại chúng”


Đặc điểm:
Phỏng vấn với tư cách là thể loại báo chí độc lập, mặc dù có liên quan mật thiết với
các thể loại báo chí khác, nhưng phỏng vấn có những nét riêng, có cách thức tổ
chức tác phẩm riêng, cách thể hiện riêng, khó lẫn với các thể loại khác. Phỏng vấn
có những đặc trưng cơ bản sau:
Phỏng vấn là một cuộc hỏi- đáp giữa người này với người khác bằng cách trực tiếp
hoặc gián tiếp về một số vấn đề, sự kiện nào đó mà xã hội quan tâm. Có thể nói
một trong những điểm khó nhất khi làm phỏng vấn là đặt câu hỏi.
Về mặt lý thuyết, có thể phỏng vấn (hỏi chuyện bất cứ người nào mà nhà báo cần,
song trên thực tế để có bài phỏng vấn thành cơng nhà báo thường chọn những
người “có thẩm quyền”, “có tiếng tăm”, “có địa vị xã hội” để hỏi nhằm khai thác
thông tin cung cấp cho công chúng. Do vậy, thông tin trong bài phỏng vấn các đối
tượng đó thường có độ tin cậy, sức thuyết phục, trách nhiệm và cả giá trị pháp lý
cao.
Thông tin trong bài phỏng vấn để cung cấp cho công chúng không phải do nhà báo
cung cấp mà do đối tác (người được phỏng vấn) cung cấp. Nhà báo đóng vai trị
gợi mở, dẫn dắt mối trung gian giữa tòa soạn- người được phỏng vấn với công


chúng. Điều đó cho thấy trong phỏng vấn nhà báo khơng phải hỏi cho mình và hỏi
cho biết mà là hỏi cho công chúng.
Phỏng vấn không chỉ là phương pháp thu thập thơng tin mà cịn trở thành cuộc
khảo sát tri thức, chính kiến, thái độ, quan điểm, tình cảm... của hai bên (nhà báo
và người được phỏng vấn).

Thông qua cuộc gặp gỡ, trao đổi, nói chuyện khi phỏng vấn mà hình thành xây
dựng mối quan hệ. Có thể nói phỏng vấn là một trong những phương thức tốt nhất
để làm truyền thông giữa người với người trong xã hội. Những đặc trưng trên cho
thấy phỏng vấn có ưu thế nhất định. Vì vậy, nó được sử dụng phổ biến và rộng rãi
trên các loại hình báo chí.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHĨM THỂ LOẠI CHÍNH LUẬN NGHỆ THUẬT
1. 1. Ký sự
Khái niệm: “Ký sự là một thể của ký thiên về tự sự, thường ghi chép các sự kiện,
hay kể lại một câu chuyện khi nó mới xảy ra. Ký sự có cốt truyện hồn chỉnh hoặc
tương đối hồn chỉnh, cũng là loại thể có yếu tố trữ tình và chính luận, nhưng
khuynh hướng của tác giả được tốt ra từ tình thế và hành động. Yếu tố phi cốt
truyện của những loại ký này không nhiều. Ghi chép khá hoàn chỉnh một sự kiện,
một phong trào, một giai đoạn. Tác phẩm ký sự cũng cấu tạo theo phương thức kết


cấu thông thường của một tác phẩm nghệ thuật: mở đầu và phát triển sự kiện, sự
biến phát triển đến cao độ - hoặc căng thẳng nhất - và kết thúc. Ký sự là bức tranh
tồn cảnh trong đó sự việc và con người đan chéo, những gương mặt của nhân vật
không thật rõ nét.”
Đặc điểm:
Tác giả: Trong ký sự, tác giả khơng dừng lại ở kể mà cịn suy ngẫm về sự kiện, sự
việc.
Chi tiết: Trong ký sự, chi tiết hướng tới việc trở thành hình tượng có sức tác động
vào độc giả. Việc chi tiết có trở thành hình tượng hay khơng cịn phụ thuộc vào khả
năng tìm tòi, lựa chọn và sử dụng chi tiết trong tác phẩm, nhưng việc tạo ra khả
năng này của chi tiết trong ký sự đã làm cho tầm quan trọng của ký sự tăng lên.
Bố cục: Trong ký sự, bố cục tuân theo dòng suy nghĩ, sự liên tưởng và cảm xúc của
tác giả.
Trọng tâm: Trong ký sự, các nhân vật với đời sống tinh thần ở dạng điển hình khác
nhau là trọng tâm.

Thông tin: Trong ký sự, thông tin tới việc làm tốt ra từ sự kiện, sự việc đó các mối
liên quan với sự kiện khác, hoặc một chủ đề khác mang tính nhân văn sâu sắc.


Ngơn ngữ: Trong phóng sự, thường sử dụng ngơn ngữ tường thuật cộng với sự
phân tích để làm rõ sự kiện. Ký sự vẫn mang trong nó ngơn ngữ tường thuật, phân
tích nhưng trong ký sự cịn sử dụng ngơn ngữ hình tượng, ẩn dụ hướng tới phản
ánh nội tâm nhân vật.
Trong ký sự chúng ta có thể nói đến Ký chân dung, Ký chính luận.
Ký chân dung là một thể ký báo chí mà đối tượng phản ánh là những con người
thật, tiêu biểu cho một vấn đề hoặc một khía cạnh nào đó mang tính thời sự, gắn
với những hành động việc làm cụ thể trong những tình huống hồn cảnh điển hình
với bút pháp đặc tả và thái độ thẩm định dứt khoát của tác giả. Đây là thể loại báo
chí viết về con người, lấy con người chứ không phải sự kiện là đối tượng phản ánh,
có nhiệm vụ viết về con người. Vì vậy tác phẩm ký chân dung là sự việc, sự kiện
xếp ở hàng thứ hai. Con người và sự việc là hai thành phần chủ yếu làm nên nội
dung của tác phẩm ký chân dung. Trong tác phẩm ký chân dung con người và sự
việc là thành phần không thể thiếu được bổ sung cho nhau (khái niệm chân dung
bao hàm cả chân dung tốt và chân dung xấu).
Ký chính luận là một thể ký báo chí có khả năng thơng tin lý lẽ một cách sinh động
thông qua việc nêu lên những sự việc, sự kiện, hiện tượng, hồn cảnh... có ý nghĩa,
mới nảy sinh trong đời sống, đồng thời thẩm định sự thật đó theo một quan điểm
nhất định để rút ra những vấn đề, những kết luận cần thiết nhằm điều chỉnh hành vi


của cơng chúng. Ký chính luận có đặc điểm thiên về thơng tin lý lẽ. Nó có một
phạm vi đề tài rộng lớn, đa dạng đề cập đến những vấn đề nảy sinh hàng ngày
trong cuộc sống. Đặc điểm thông tin lý lẽ tạo ra sự khác biệt giữa ký chính luận và
các thể báo chí khác. Ký chính luận được nhận diện bởi khả năng thông tin lý lẽ
một cách sinh động, hấp dẫn với sự xuất hiện của cái tôi cùng với kết cấu, bút pháp

linh hoạt...Với nhiệm vụ vừa thông tin sự thật, đồng thời thẩm định sự thật ký
chính luận rút ra những vấn đề, những kết luận có ý nghĩa định hướng dư luận theo
một quan điểm nhất định.
1. 2. Nhật ký phóng viên
Khái niệm: “Nhật ký phóng viên là một thể ký báo chí có hình thức nhật ký, nội
dung phản ánh những con người, sự việc (sự kiện, hồn cảnh, tình huống...) tiêu
biểu mà nhà báo trực tiếp chứng kiến với tư cách là người trong cuộc. Vừa tái hiện
sự thật, tác giả đồng thời bày tỏ những suy nghỉ, cảm xúc và sự thẩm định chủ
quan trước sự thực đó.”
Đặc điểm:
Nhật ký phóng viên trước hết phải là nhật ký của phóng viên, ghi chép về người
thật, việc thật. Tuy nhiên cũng giống như đối với nhật ký văn học, khi đã trở thành
thể loại nó phải là một chỉnh thể. Và có những đặc điểm chung của hệ thống thể


loại báo chí và thể loại ký báo chí, đồng thời cịn có những đặc điểm riêng tạo ra
bản sắc của thể loại.
Nhật ký phóng viên phải tuân thủ đặc điểm bao trùm của hệ thống là thông tin thời
sự. Với tư cách là một thể ký báo chí, nó có nội dung bao gồm thơng tin xác thực,
thơng tin lý lẽ và thông tin thẩm mỹ. Những nội dung thông tin ấy được thể hiện
qua giọng điệu của cái tôi trần thuật và kết cấu co giản linh hoạt, bút pháp sinh
động và gần với văn học.
Nhật ký phóng viên có hình thức giống nhật ký: Đây chỉ là đặc điểm thuộc về hình
thức của tác phẩm nhưng được coi là đặc điểm quan trọng trong việc phân biệt nhật
ký phóng viên với các thể loại khác. Việc ghi chép lại sự thật và thẩm định sự thật
của tác giả đúng như tiến trình có thật của nó, với sự tỉ mỉ, chính xác đến từng chi
tiết tạo ra cho nhật ký phóng viên một hình thức hồn tồn khác biệt so với tất cả
các dạng thông tin phản ánh báo chí khác.
Cái tơi thẩm định có phần riêng tư, chủ quan hơn so với các thể ký báo chí khác:
Khơng giống với cái tơi nhân chứng khách quan trong phóng sự hay ghi nhanh, cái

tơi của nhật ký phóng viên nghiêng về khía cạnh riêng tư, chủ quan mặc dù nó
được bộc lộ trực tiếp quan điểm của tác giả trước sự thật. Cái tôi ở đây phụ thuộc
rất nhiều vào kinh nghiệm, kiến thức và vốn sống của tác giả vì thế nó mang bản


sắc cá nhân rõ nét. Cá nhân tác giả hiện lên một cách sinh động trong tác phẩm
nhật ký phóng viên cùng với những suy nghỉ, cảm xúc nhiều khi hết sức riêng tư có
khả năng khơi gợi sự tị mị thích thú của cơng chúng. Những suy nghỉ của tác giả
càng độc đáo bao nhiêu, sự hấp dẫn càng lớn bấy nhiêu. Tuy nhiên tác giả cũng
không được lạm dụng trong việc trình bày những điều riêng tư hoặc thẩm định
không đúng bản chất và xu hướng phát triển của sự thật thì sẽ gây ra những hiệu
quả khơng tốt.
Nhà báo phải là người trực tiếp chứng kiến toàn bộ những chi tiết của sự thật được
ghi lại trong tác phẩm của mình:Trong nhật ký phóng viên nhà báo phải là người
chứng kiến tất cả những chi tiết có thật được ghi lại trong tác phẩm của mình. Điều
này có ý nghĩa tạo ra độ tin cậy rất cao đối với cơng chúng tiếp nhận thơng tin.
Tóm lại, nhật ký phóng viên là một thể loại thuộc thể loại Ký báo chí. Nhật ký
phóng viên có hình thức nhật ký, tức là sự ghi chép phóng túng trong bút pháp,
chặt chẽ trong việc tuân theo tiến trình của sự kiện ( chính xác đến từng ngày giờ,
đơi khi chính xác đến từng phút) và sự phong phú của nội dung bởi một hệ thống
chi tiết dày đặc.
Những con người, sự việc, chi tiết được ghi trong tác phẩm nhật ký phóng viên
phải được chọn lọc. Sự kiện phải là sự kiện đáp ứng được những yêu cầu của tính
thời sự và tính điển hình. Nhà báo phải là người trực tiếp chứng kiến toàn bộ


×