Quy chuẩn đạo đức báo
chí Hàn Quốc (1986)
Nhận thức sâu sắc điều này, các nhà báo Hàn Quốc đã tổ chức
Hiệp hội Biên tập viên báo chí Hàn Quốc gồm những biên tập
viên các tờ báo hàng ngày và các cơ quan báo chí trên tồn quốc
và đã lập nên Quy chuẩn Đạo đức báo chí để sửa đạo đức báo
chí và gìn giữ một cách chắc chắn sự thống nhất khi làm báo.
Các nhà báo đã cam kết sẽ tuân thủ nghiêm ngặt những quy
chuẩn làm báo và đáp ứng kì vọng của nhân dân về báo chí tốt
đẹp. Không chỉ các biên tập biên mà tất cả những ai làm việc có
liên quan đến ngành báo sẽ tuân theo quy chuẩn này.
Vì Quy chuẩn này kêu gọi việc thực thi một cách tự nguyện,
khơng có tổ chức nào cưỡng chế việc thực thi. Tuy nhiên nếu các
tờ báo và nhà báo không trung thành với Quy chuẩn này, chắc
chắn họ sẽ mất sự ủng hộ của cơng chúng, do đó sẽ gây nguy
hại cho sự tồn tại của chính mình.
Tự do. Tự do báo chí, một trong những quyền cơ bản của con
người, phải được bảo vệ để làm thỏa mãn quyền được biết của
con người. Báo chí có quyền tự do hịan tịan được báo cáo và
bình luận. Mặc dù bất cứ sự vi phạm nào đối với mối quan tâm
của công chúng phải chịu sự kiểm sóat theo luật chung, khơng có
luật nào có thể giới hạn hay can thiệp vào tự do báo chí. Dĩ nhiên
tự do báo chí bao gồm quyền tự do phê bình và chống lại bất kì
đạo luật nào như thế.
Trách nhiệm. Báo chí, là một cơng cụ xã hội, có một vị trí đặc
biệt, và các nhà báo địi hỏi một chỗ đứng xã hội độc nhất vơ nhị.
Tuy nhiên, vị trí này chỉ đến khi báo chí cho công chúng một bức
tranh chân thực về các sự việc và công chúng sử dụng bức tranh
làm nền tảng cho những đánh giá của mình. Vì vậy, trách nhiệm
quan trọng nhất của báo chí là phục vụ mối quan tâm của công
chúng một cách trung thành dựa trên nhận thức là cơng chúng
trơng cậy vào báo chí. Trách nhiệm này cũng chính là lí do vì sao
gìn giữ được vị trí đặc biệt trong cơng chúng của báo chí. Báo chí
thể hiện vị trí cụ thể của mình bằng cách luôn luôn kiên cường
trong việc theo đuổi sự công bằng, dũng cảm trong việc chống
đối những việc bất công, và trong việc kề vai và lên tiếng cho
người yếu.
Viết bài và Bình luận. Việc phổ biến thơng tin nhanh và trung
thực rất quan trọng đối với việc viết bài. Vì vậy, những thơng tin
được báo cáo phải được giới hạn cho những cái mà giá trị có thể
được xác minh về nguồn và nội dung. Trong bình luận, Những
niềm tin và ý kiến độc lập của nhà báo nên được bày tỏ một cách
công bằng và dũng cảm; nói cụ thể là nên chống lại bất cứ thiên
kiến nào cố tình bóp méo hay lẩn tránh sự thật. Nhà báo cần
trung thực đối với công chúng bằng cách triệt để và chính xác ở
mức cao nhất trong khi viết bài và bình luận
Tính độc lập. Báo chí nên đứng trên quan điểm rằng tất cả mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật, và khơng nên bị lung lạc vì
bất cứ thiên kiến nào về mặt chính trị, xã hội hay kinh tế. Cùng
lúc đó, báo chí khơng thể được sử dụng một cách riêng tư cho
những vụ lợi cá nhân trái ngược với quyền lợi của cơng chúng
hay vì những mục đích vơ đạo đức hay khơng có giá trị. Các nhà
báo khơng thể rũ bỏ trách nhiệm chỉ bởi vì những nhà báo khác
ra lệnh hay đòi hỏi đối xử đặc biệt.
Danh dự và tự do. Báo chí nên tơn trọng danh dự của những
người khác và không được xâm phạm quyền cá nhân hay những
tình cảm do tị mị hay do có mục đích xấu. Song song với u
cầu địi tự do của báo chí, báo chí nên có lịng hào hiệp công
nhận tự do những người khác muốn.
Nhân phẩm. Báo chí cần có nhân phẩm tốt và lịng tự ái cao bởi
vì vị trí trước cơng cộng của nó. Đặc biệt, những hành vi thiếu tế
nhị, hay bất cứ những hành động nào dẫn tới sự thiếu tế nhị
không thể được chấp nhận.
Những hướng dẫn cho việc làm phóng viên
[1] Diễn giải các điều khoản của mục 3 và 4, Chương “Danh dự
và Quyền tự do của Người khác”, Hướng dẫn cho việc thực thi
Quy chuẩn Đạo đức Báo chí (13 tháng 10, 1961):
1. Những người vi phạm bị bắt quả tang sẽ bị loại ra khỏi “nguyên
tắc mà trong trường hợp viết bài về những trường hợp tội phạm,
người bị kết tội sẽ không bị đối xử như là có tội cho đến khi bị kết
án”, “Hướng dẫn cho Việc thực thi Quy chuẩn Đạo đức Báo chí”
2. Thuật ngữ “vị thành niên” được đề cập ở Điều 4, Chương
“Danh dự và Tự do của người khác” trong Hướng dẫn cho Việc
thực thi Quy chuẩn Đạo đức Báo chí, có nghĩa là những người
dưới 20 tuổi.
3. Trong điều khoản mà tên và hình ảnh của nghi phạm vị thành
niên, người bị kết tội và phụ nữ bị tấn cơng tình dục khơng được
tiết lộ. Trong Điều 4, Chương “Danh dự và Tự do của người
khác” trong Hướng dẫn cho Việc thực thi Quy chuẩn Đạo đức
Báo chí, khơng được tiết lộ địa chỉ nhà trong phạm vi Seoul và
các thành phố khác, hay tên làng ở các tỉnh khác, được phép tiết
lộ.
4. Khi đưa địa chỉ nhà, không con số, “việc đang làm” và “lệnh
cấm” ở Seoul và các thành phố khác, hay “lệnh cấm” làng và con
số trong những khu vực tỉnh được phép tiết lộ.
[2] Nói về những phụ nữ bị tấn cơng tình dục, Ủy ban đưa ra qui
định rằng “khi đưa ra địa chỉ, không được tiết con số, “việc làm”
và “lệnh cấm” ở Seoul và những thành phố khác, hay con số và
“lệnh cấm” làng ở các khu vực tỉnh.” Một lần nữa vào mùng 2
tháng 10, 1978, Ủy ban ra lệnh rằng cho dù không đưa địa chỉ
một cách trực tiếp, bất cứ thông tin nào giúp suy ra địa chỉ của
nạn nhân, như trong trường hợp thủ phạm có thể được nhận diện
bằng lời nhận xét, “hắn ta tấn công một phụ nữ cùng làng,” hay
địa điểm văn phòng của nạn nhân bị tiết lộ, hay tên của người
thân bị nhận ra cũng phải được kiểm soát chặt chẽ.
[3] Diễn giải các điều khoản của mục 1 và 2, Chương “Danh dự
và Quyền tự do của Người khác”, Hướng dẫn cho việc thực thi
Quy chuẩn Đạo đức Báo chí (15 tháng 2, 1965):
1. Khơng danh dự cá nhân nào bị bơi nhọ nếu khơng vì mối quan
tâm của cơng chúng.
2. Thậm chí trong trường hợp vì mối quan tâm của công chúng,
không được sử dụng ngôn ngữ thấp kém hay tấn cơng cá nhân
khơng thích đáng. Điều này cũng đúng đối với các cá nhân, nhân
viên, văn phòng hay tổ chức cộng đồng, với những người hoặc
nhóm khơng thuộc pháp lý.
[4] Viết bài về Tự tử (8 tháng 1, 1967)
Xem xét về ảnh hưởng những bài viết về tự tự đối với xã hội, Ủy
ban đưa ra những quy định sau làm tiêu chuẩn cho những bài
viết như thế:
1. Tên và số lượng liều thuốc gây chết người được sử dụng trong
vụ tự tử không được tiết lộ. Tuy nhiên, những điều như thế có thể
được viết trong những tai nạn có liên quan đến tội ác hay có một
tầm quan trọng đặc biệt về mặt xã hội.
2. Những phương pháp tự tử độc ác khơng được mơ tả. Vì cụm
từ “tự tử tập thể” có thể là một ngữ khơng chính xác trong trường
hợp vụ này bao gồm trẻ em và những thành viên trong gia đình
khác khơng mong muốn chết, ngữ chính xác sẽ được sử dụng
tùy thuộc vào từng vụ. Những vụ này không được phép viết theo
cách phục vụ thị hiếu của người đọc, hay được làm cho đẹp hơn
lên.
[5] Lưu ý đối với những bài viết về chất kích thích. (18 tháng 4,
1979)
Vì việc tiết lộ tên những chất kích thích ví dụ như Sekonal và keo
dính trong việc viết về các trường hợp của thanh thiếu niên sử
dụng chất kích thích có thể gây ảnh hưởng cho những thanh
thiếu niên ngây thơ và khiến chúng phạm phải cùng lỗi lầm đó,
một hướng dẫn đã được phát ra về việc không được công khai
tên của những thuốc hay chất như thế.
[6] Bài viết về bắt cóc (30 tháng 8, 1967)
1. Các bài viết về bắt cóc nên viết nhấn mạnh sự trở về an toàn
của các nạn nhân bị bắt cóc. Những bài viết như thế về mặt
nguyên tắc sẽ được giữ lại không đăng trong khi các nạn nhân
vẫn cịn bị bắt cóc. Tuy nhiên, bài viết có thể được thực hiện
trong trường hợp được xem là cần thiết cho việc giải cứu nạn
nhân.
2. Tồn cảnh bức tranh của vụ bắt cóc có thể được làm rõ một
khi vụ việc đã đi đến một giải pháp.
[7] Các bài viết về nghi phạm (6 tháng 9, 1967)
1. Ngoại trừ những trường hợp bị bắt quả tang hoặc những
trường hợp mà đã có bằng chứng nổi bật, địa chỉ, tên, hình ảnh
và nghề nghiệp của nghi phạm sẽ không bị tiết lộ.
2. Không được viết những bài khiến cho người đọc nghĩ rằng
nghi phạm là có tội mà khơng có bằng chứng rõ ràng.
3. Khơng được đưa hình ảnh về cảnh tàn bạo của một vụ điều tra
hiện trường một vụ phạm tội.
[8] Bài viết về sự Bảo vệ Những nhân viên đã Đầu hàng và
Những người Cung cấp Thông tin về những người Cộng sản (14
tháng 2, 1968)
1. Trong các bài viết về những điệp viên do thám và những
người cộng sản, tên giả sẽ được sử dụng và hình ảnh, chỗ làm
việc, và địa chỉ sẽ không được công khai. Tuy nhiên các địa chỉ
về thành phố, quận, hay phường có thể được tiết lộ.
2. Điều trên cũng được áp dụng với những điệp viên do thám
và những người cộng sản đầu hàng. Tuy nhiên, nếu quan chức
chính phủ thơng báo chính thức hay nếu có nhu cầu thông báo
người dân, những thông tin này sẽ được công khai.
[9] Bài viết không ghi rõ nguồn (26 tháng 7, 1964)
Những điều sau đây vi phạm các điều khoản của Mục 4, Chương
“Nhân phẩm,” Hướng dẫn về việc Thực thi Quy chuẩn Đạo đức
Báo chí:
1. Sử dụng những bài báo được phân bổ sau khi thay tên ở dịng
đầu tiên hay cuối cùng bằng tên của chính phóng viên.
2. Sử dụng toàn bộ bài bài báo được phân bổ mà không ghi rõ
nguồn
3. Sử dụng bài báo được phân bổ sau khi thay đổi (đạo văn)
phần mở đầu.
4. Sử dụng một phần đạo văn của những bài báo trên mạng trong
bài báo của chính mình.
[10] Những báo cho trẻ em hay những mục chuyên về trẻ em và
những quảng cáo về thuốc đối với những căn bệnh qua đường
tình dục. (1 tháng 6, 1966)
Trên những tờ báo nơi những quảng cáo về thuốc hay bệnh lây
qua đường tình dục, không được sử dụng mục của trẻ em