Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.86 KB, 12 trang )

MỘT SỐ THỦ PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG
TÍNH BIỂU CẢM TRONG NGƠN NGỮ BÁO CHÍ
Như chúng ta đều biết, chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí là
thơng tin. Nhưng nếu trong ngơn ngữ báo chí người viết chỉ dùng các từ
ngữ, cách diễn đạt có tính chất khn mẫu để phản ánh các sự việc, hiện
tượng, vấn đề,... thì thơng tin khó tránh khỏi khơ cứng, đơn điệu, thậm chí tẻ
nhạt. Để khắc phục các nhược điểm này, các tác giả đã sử dụng khá nhiều
những thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm khác nhau; và nhờ đó, thông
tin của họ trở nên sinh động, hấp dẫn, dễ đọc và dễ tiếp thu hơn đối với độc
giả. Qua khảo sát sơ bộ, các thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm cho
ngơn ngữ báo chí có thể chia thành một số loại chính như sau:
1. Dùng từ ngữ hội thoại
Từ " hội thoại " ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là nó khơng chỉ bao
hàm các từ thuộc vốn từ vựng của ngơn ngữ văn hố được dùng đặc biệt
trong lời nói miệng, trong sinh hoạt hàng ngày, mà cịn gồm cả một số từ
thơng tục và từ lóng, vì những từ thuộc hai loại sau này cũng chỉ được
chuyên dùng trong khẩu ngữ. Ví dụ:
" Bằng cấp đầy người, anh vẫn chỉ là một nhân viên quèn ". ( Hà Nội mới
chủ nhật, 22 / 11 /1998 );
" Đã qua ngày rằm mà nhiều công sở vẫn còn vắng hoe. Điện thoại réo
mệt nghỉ vẫn khơng có ai trả lời ". ( Nhà báo và Cơng luận, số 10 / 1998 );
" Vịng đấu thứ 17 là vòng đấu " bốc mùi " nhất kể từ đầu giải. Những
quan sát viên khẳng định rằng cách mà Thừa Thiên - Huế " chết " trên sân
Hà Nội cịn " thơ " hơn so với cách mà Công an Hà Nội đã " nằm " trên sân


Tự Do - trận đấu mà BTC giải đã lôi hai đội ra " chém ", và bị dư luận phản
ứng về cách " chém " nửa vời ". ( Lao động, 25 / 5 /2001 );
" Thực tế thì Tú chẳng có xu gỉ nào để góp vốn ". ( An ninh thế giới, 6 / 3
/ 1998 );
" Tôi... vội nháy anh bạn đồng nghiệp uống một hơi hết cốc cà phê đen,


hấp tấp nổ xe máy, dông thẳng ". ( lao động, 4 / 3 /1998 )...
Hiện nay, xu hướng chung trên thế giới là hội thoại hố ngơn ngữ báo chí
để nó đơn giản hơn, gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày. Chính vì thế,
từ ngữ ( và thậm chí cả cú pháp ) của ngơn ngữ hội thoại được dùng để tăng
cường tính biểu cảm trong các bài viết ngày càng phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, hội thoại hố ngơn ngữ báo chí khơng có nghĩa là chúng ta
được phép bê ngun xi ngôn ngữ đời thường với tất cả cái dáng vẻ thơ ráp,
xù xì, gai góc của nó vào trong tác phẩm báo chí. Vì dù thế nào đi chăng
nữa, ngơn ngữ trên trang báo phải là một thứ ngôn ngữ đã được gọt giũa,
được trải qua sự nhào nặn của tác giả và phải đạt tới một sự chuẩn mực nhất
định về văn hố. Vì thế, tình trạng lạm dụng quá mức các từ ngữ thuộc tiếng
lóng hay các từ ngữ thô tục đang diễn ra ở một số nhà báo và ở một số tờ
báo ( nhất là các tờ báo dành cho thiếu niên nhi đồng ) là rất đáng lo ngại,
cần được quan tâm đúng mức và không chậm trễ1.
2. Dùng từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngồi
Những từ ngữ dược vay mượn từ các ngơn ngữ Ấn - Âu có thể được giữ
nguyên dạng hay phiên âm. Ví dụ:
" Hơn một chút... họ sẽ là " Speaker " ( văn hoá, 18 / 1 /1998 );
" Tơi thấy khơng ít người giản dị mang những bộ đồ rát đẹp nhưng quả
thực dó khơng phải là cái đẹp modern hiện đại mà một nét đẹp rất riêng, cái
đẹp của một phong cách giản dị ... " ( Văn hoá- Tết 1999 );


" ... Ơng ta khơng làm cho một tờ báo cụ thể nào mà chỉ hợp tác làm
những chuyên san về đời tư nghệ sỹ, thậm chí cịn bới móc hay lăng xê vơ
tội vạ cho một ai đó với mục đích chỉ là để ... có tiền " ( Tiền Phong, 21 / 5 /
2002 );
" Tôi vốn không thích táo nhưng thấy táo ngon mua vài quả dùng làm
đét xe cho bữa cơm chiều " ( Lao động, Xuân Mậu Dần, 1998 )...
Trong số các từ được vay mượn từ các ngơn ngữ Ấn - Âu, có khá nhiều

từ đã phần nào thích nghi với chuẩn mực của tiếng Việt cho nên được sử
dụng khá rộng rãi. Tuy nhiên, người ta vẫn dẽ dàng nhận thấy cái nguồn
gốc ngoại loại của chúng, chẳng hạn như: apphe, xêmina, makettinh, kiơt...
Cịn các từ Hán - Việt thì được dùng q phổ cập và đã trở thành một bộ
phận không thể thiếu của tiếng Việt. Song, khơng vì thế mà người ta khơng
nhận thấy khả năng tăng cường tính biểu cảm của chúng. Ví dụ:
" Quý hồ tinh bất quý hồ đa " ( Văn hoá, 25 / 2 /1998 );
" Về phía chủ quan, cũng nên thẳng thắn nhìn nhận những yếu kém, bất
cập của ta trong lĩnh vực này ..." ( Tuổi trẻ Thủ đô, số 6 / 1998 )...
Việc sử dụng các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngồi cần có chừng
mực để tránh gây phản cảm cho người đọc, vì sự xuất hiện quá nhiều các từ
khơng thuần Việt trong một văn bản báo chí khơng chỉ làm cho ngơn ngữ
của nó có vẻ khơng trong sáng mà còn tạo ấn tượng rằng người viết muốn "
khoe chữ ". Bên cạnh đó, những từ ngữ được lựa chọn phải có những ưu thế
thật sự nổi trội so với các từ hoặc những cách diễn đạt tương đương trong
tiếng Việt ( Chẳng hạn như diễn đạt khái niệm rõ ràng, đầy đủ, chính xác
hơn; hoặc có vỏ âm thanh nghe gợi cảm hơn ) và đồng thời phải tương đối
quen thuộc đối với công chúng ( tức được dùng thường xuyên trong giao
tiếp ) để không gây cản trở gì đáng kể cho quá trình nhận thức của độc giả.
3. Dùng thuật ngữ


Các thuật ngữ, xét theo tự thân, là những từ trung tính, tức khơng mang
sắc thái biểu cảm. Thế nhưng, khi được kết hợp hài hồ với các từ khn
mẫu, chúng lại có khả năng tăng cường tính biểu cảm rất đáng kể. Ví dụ:
" Với biểu tượng về sức mạnh vơ song, hổ là hình ảnh để nói sự đứng
đầu xuất chúng: chúa sơn lâm. Bằng tư duy, bằng hành động thực tiễn, con
người ln văn hố hố thế giới xung quanh" ( Ngôn ngữ và Đời sống, số 2
/ 1998 );
" Sự thành công của những hạng mục đầu tiên sẽ tạo nên sự hấp dẫn, thu

hút các nhà đầu tư vào liên doanh, liên kết để có thể triển khai dự án " (
Nhân dân hằng tháng, số 5 / 1998 );
" Ít thích lý luận trừu tượng, tự biện, kinh viện, giàu óc thực tế, nắm bắt
nhanh kỹ thuật, gắn lý luận với tình cảm, về gần cái chân chất, bình dị...đó
cũng là nét khu biệt của văn hoá Nam Bộ " ( Thể thao và Văn hoá, Xuân
Mậu Dần / 1998 );
" Đây là một bước ngoặt vì từ trước đến nay đảng LDP cầm quyền vẫn
chủ trương cắt giảm thâm thủng ngân sách bằng mọi giá " ( Hà Nội mới cuối
tuần, 21 / 2 /1998 )...
Hiện nay, do khoa học kỹthuật phát triển mạnh, nhiều lĩnh vực nghiên
cứu mới ra đời, cho nên số lượng thuật ngữ gia tăng nhanh chóng và chúng
xuất hiện với mật độ ngày càng dày trên các báo.
4. Dùng từ ngữ địa phương
Các từ ngữ địa phương luôn mang đậm dấu ấn riêng về lời ăn tiếng nói
của một cộng đồng người gắn liền với một vùng đất, vì thế chúng làm cho
câu văn có sắc thái mới lạ, đôi khi khá giàu sức gợi.
Các từ ngữ địa phương có thể gặp trong ngơn ngữ của tác giả cũng như
trong ngơn ngữ nhân vật. Ví dụ:


"Ước mong sao đến đâu ta cũng gặp những cái chạnh ( xóm, tiếng Nghệ
An - H A.) như ở Liên Trì, bắt gặp những con người từ chạnh ra đi " ( Lao
động, 4 / 4 / 2002 );
" Huế ơi, biết về mô bây chừ? " ( Gia đình, số 5 / 2000 );
" Bà Ngơ Thị Của ( 67 tuổi ) - Hội trưởng Hội Phụ nữ làng cố giấu sự
xấu hổ": " Đúng là có chuyện đó thiệt, cũng là do đời sống mà ra cả. Nói mơ
xa, chỉ nhìn sang mấy làng bên tê núi là đêm nằm tủi thân muốn khóc hết
nước mắt. Nhưng nói gì thì nói, mấy chục năm giải phóng lên, làng Cổ Dù
đã thay đổi nhiều lắm rồi. Trước phần vì đói, phải ăn độn, phần vì uống
nước đục, gái trai, già trẻ làng ni đều bụng phình to như bụng chửa, mặt

bủng, da chì " ( Lao động, 20 / 3 / 2003 );...
Dễ dàng nhận thấy là trong ngôn ngữ nhân vật, từ ngữ địa phương xuất
hiện một cách tự nhiên như là sự phản ánh chân xác lời ăn tiếng nói của họ,
vì thế tính biểu cảm của chúng có vẻ như khơng được cao bằng so với các từ
ngữ địa phương được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi phương diện trong ngôn ngữ
tác giả.
5. Sử dụng chất liệu văn học
Các chất liệu văn học có mặt rộng rãi trong hầu hết các thể loại báo chí,
theo nhiều cách thức khác nhau. Nhưng những cách thức thường gặp nhất là
vay mượn cốt truyện, hình ảnh hay từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn
học2. Ví dụ:
" Trong tiểu thuyết " Đất vỡ hoang " của nhà văn Xơ Viết Sơlơkhơp có
miêu tả một ơng chủ tịch nông trang Nagunôp không chịu được tiếng gáy
của con gà nhà một mụ hàng xóm. Cứ đúng lúc ơng ngủ say thì phải bừng
thức vì con gà nhà nọ cất tiếng gáy. Nó gáy mới oai vệ, mới thách thức, mới
trêu ngươi. Không chịu nổi tiếng con gà, ông chủ tịch mới dùng quyền hành
tìm đến nhà nọ bóp chết con gà.


Với ơng bạn tơi thì lại khác, ơng lại mang con gà nhà mình đến gáy ở
thiên hạ. Thói đời vẫn vậy, con gà tức nhau tiếng gáy tất sinh lắm chuyện,
trước hết là chuyện sĩ diện, sau đến hao tiền tốn của. Ơng bạn tơi là chủ một
cơng ty nhỏ. Người ta tán ông nên đưa hàng đi triển lãm quốc gia, hàng của
ông phải nổi tiếng cả nước. Nổi tiếng trong nhà coi như vứt, như áo gấm đi
đêm..." ( Nông nghiệp Việt Nam, 10 / 4 / 2002 );
" Cảng Sài Gịn: Đâu là gót chân A-sin? ( Tuổi trẻ TP HCM 27 / 5 /2001
);
" Bản quyền âm nhạc: - cuộc chiến của chàng Đôn kihôtê chống lại cối
xay gió ( Gia đình và Xã hội, số 34 / 2002 );
" Ngày 15 / 5 Leverkusen sẽ chơi trận chung kết tranh cúp Đức với

Schaltre 04 trước khi gặp Real Madrid trong trận tranh cúp C1. Không biết
câu lạc bộ này thi đấu ra sao. Cầu chúc cho ước mơ ban đầu của học không
trở thành " miếng da lừa " ( Tiền phong, 12 / 5 /2002 );
" Buồn vui cũng một hội này chùa Hương "; " Lời vui có một khúc này " (
Hà Nội mới cuối tuần, 21 / 2 /1998 );
" Nghề chơi cũng lắm công phu " ( Đầu tư, 9/ 3 /1998 );
" Điều lệ bảo hiểm có những quy định theo kiểu " sống chết mặc bay " (
Gia đình và Xã hội , số 68 / 2001 );
...Với đội bóng Liverpool : Khơng có nơi nào đẹp như Rơma " ( Thể thao
và văn hố, 20 / 2 /2001 )...
6. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn... cùng các biến thể của
chúng
Các phương tiện ngôn ngữ này thường có ý nghĩa rõ ràng, dễ hiểu, lại xuất
hiện với tần số cao trong hoạt động giao tiếp thường ngày ( nhất là thành
ngữ, tục ngữ )3, cho nên việc sử dụng chúng rất thuận lợi đối với cả người
viết lẫn người đọc.Ví dụ:


" Giận cá chém thớt " ( Lao động, 14 /5 /2001 );
" Nhất cận thị, nhị cận giang " ( Nhân dân hằng tháng, tháng 5 / 1998 );
"Cái nết đánh chết không chừa " ( Thanh niên, 15 / 3 /1998 );
" Làm vua chơi lan, làm quan chơi trà " ( Tuổi trẻ TP HCM, 22 / 1 / 2001
);
" Đầu xuôi, đuôi chưa lọt " ( Nhà báo và Công luận, số 10 /1998 );
" Tên cướp Nguyễn Văn Thi đã từng hai lần vào tù vì tội " cưỡng đoạt tài
sản cơng dân " nay vừa ra tù được vài tháng, mặc dù có sức khoẻ nhưng vẫn
không chịu lao động kiếm sống một cách lương thiện mà vẫn mắc chứng "
ngựa quen đường cũ " ( Tiền phong, 21 / 5 /2001 );
" Xung quanh vấn đề nhà đất này, cả cán bộ nhà nước và nhân dân đều
kêu khổ, kêu cực vì cịn những kẻ cơ hội " đục nước béo cò ", lợi dụng các

kẽ hở mà làm ăn bất chính " ( Tuổi trẻ TP HCM, 20 / 1 /2002 );
" Thế đấy, mua danh ba vạn nhưng bán danh chỉ cần năm bảy năm tổ chức
lễ hội khơng ra gì " ( Thể thao và Văn hoá, số 18 / 2001 );
" Hãy nói cho tơi biết, bạn u như thế nào, tơi sẽ nói bạn là người ra sao " (
Thế giới trẻ, số 34 /1997 );
" Có một danh nhân đã nói, đại ý rằng: " Hạnh phúc là một thứ nước hoa
mà khi ban phát cho người khác vẫn con vương lại vài giọt " ( Thanh niên,
16 / 10 / 2000 );...
Khảo sát cho thấy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ đang là thủ pháp tăng
cường giá trị biểu cảm được ưa dùng nhất hiện nay trên nhiều tờ báo.
5. Chơi chữ
Các trường hợp chơi chữ gặp khơng nhiều trong các tác phẩm báo chí. Vì
so với các thủ pháp tạo giá trị biểu cảm khác, việc chơi chữ khó khăn hơn,
địi hỏi người viết nhiều phải có sự tìm tịi, khám phá cơng phu hơn. Ví dụ:
" Pháp Mỹ hợp tác hay hợp tát ? ( Nhân dân, số 73 / 1972 );


" Ẩn hoạ văn hoá " ( Hà Nội mới, Tết Nhâm Ngọ, 2002 );
" Gặp nhau đuối ... dần " ( Đầu tư, 12 / 1 /2002 );
" Nhiều người ngại đấu tranh vì họ biết rằng hậu quả họ sẽ phải gánh
chịu là " tránh đâu "... " ( Lao động, 15 / 3 /1998 );
" ... Cậu phải chịu ít nhất một lần tiếng chửi thề vì cán phải chân đứa đi
bên cạnh khi dừng đèn đỏ để đến cái lớp Anh văn đàm thoại; nhưng " thoại
hoài mà vẫn cứ bị loại " ( Áo trắng, số 7 / 2000 )...
Thực tế khảo sát cho thấy, trong báo chí cách mạng Việt Nam, người
chơi chữ thường xuyên, hiệu quả và tạo nên hẳn một phong cách riêng, là
Chủ tịch Hồ Chí Minh.4 Cịn ở các tác giả khác, việc chơi chữ thường được
dùng rất hạn chế, mang nặng tính ngẫu hứng.
6. Dùng dấu câu
Các dấu câu cũng là những phương tiện đắc dụng trong việc tạo nên giá

trị biểu cảm cho ngơn ngữ báo chí. Song ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến dấu
ngoặc kép và dấu chấm lửng ( dấu ba chấm ) như là hai loại dấu câu nổi bật
hơn cả về phương diện này.
Dấu ngoặc kép: Có giá trị biểu cảm cao khi báo hiệu rằng những từ ngữ
nào đó được dùng khơng phải với ý nghĩa hay phong cách thông dụng của
chúng. Nó mang đến cho câu văn sắc thái dí dỏm, hài hước hoặc mỉa mai,
châm biếm. Ví dụ:
" Khán giả đã quá " no " với những gì được thưởng thức và đang tìm một
" món ăn " khác hợp khẩu vị hơn " ( Gia đình và Xã hội, số 100 / 2001 );
" Trong đêm xứ Lạng giá rét, chúng tơi tình cờ gặp tốp 4, 5 cơ gái " tóc
xù mỳ " kiểu Hàn Quốc đứng trước quán Karaoke trên đường Đông Kinh "
phát ngôn " với những lời lẽ, thô tục..." ( Tiền phong, 9 / 1 /2002 );
" ... Tuy vậy, không phải cứ sắm máy rồi muốn bơm lúc nào thì bơm, mà
cịn phải theo sự phân phối của " trưởng dãy " . Bắt đầu vào hè năm nay, ông


Thắng, trưởng khu nhà, đã " lên lịch " phân phối như sau [...]. Cịn một hộ
khơng được bơm nhưng ngày nào cũng được " đặc quyền " dùng xô múc
nước đủ dùng trong ngày. Phân phối như thế hoá ra anh ta lại " bở " nhất.
Cái bể công cộng suốt ngày khô như rắn ráo " ( Nông nghiệp Việt Nam, 19 /
3 /2002 );
" Cũng có nghĩa rằng, dù đã rất cố gắng nhưng một lần nữa, Công an và
Viện Kiểm sát quận Kiến An lại " ôm nhầm " một văn bản không có giá trị
pháp lý ( Lao động, 24 /5 /2001 );
" 61% lưu học sinh Việt Nam " bốc hơi " sau khi tốt nghiệp. Họ đi đâu ?
" ( Thể thao và Văn hoá, số 12 /2001 )...
Dấu chấm lửng: tăng cường đáng kể tính biểu cảm cho ngơn ngữ báo
chí khi nó thực hiện chức năng làm giãn nhịp câu văn, báo hiệu sự bất ngờ
hoặc gợi mở các định hướng suy nghĩ khác nhau cho người đọc. Ví dụ:
" Các nam ca sỹ ngày càng ... đẹp gái " ( Thể thao và Văn hoá, 17 / 6 /

2001);
" Về thành phố mua ... cỏ " ( Lao động, 24 /5 / 2002 );
" Lời hứa cũng ... ô nhiễm " ( Lao động, 21 / 5 / 2001 );
" Tơi đi mua ... vợ " ( Gia đình và Xã hội, số 4 / 2001 );
" Nhưng đến một nơi như Kalona, làng truyền thống ở Iowa, một thành
phố miền Trung nước Mỹ mà còn dùng hàng Trung Quốc thì... " ( Tiền
phong, 15 / 4 / 2002 );
" Tơi rời làng, đứng trên đồi cao nhìn xuống thấy Cam nghĩa và Cam
Chính có thân hình cịng ngoặt như một dấu hỏi lớn. Dấu hỏi gieo vào giữa
trời, đất, vào biết bao nhiêu thân phận ở làng và khóc nghẹn khơng có câu
trả lời... " ( Lao động, 29 / 3 /2001 )...
7. Dùng ẩn dụ


Ẩn dụ trong ngơn ngữ báo chí thường mang tính chất văn cảnh. Nó là
sáng tạo riêng của người viết và in đậm dấu ấn cá nhân. Ví dụ:
" Các tân binh với nỗi lo muôn thuở: trụ hạng " ( nhà báo và Cơng luận,
số 11 /1998 );
" Bóng đá Đức tăng quân trong cuộc chiến vùng vịnh " ( Hà Nội mới chủ
nhật, 22 /2 /1998 );
" Những sáng kiến này có thể giúp Việt Nam loại bỏ những ổ gà trên con
đường trở thành " điểm đến của thiên niên kỷ mới " ( Gia đình và Xã hội, số
37 / 2002 );
'" Ở Trường sa, tình u của một lính đảo lặng sóng là anh em cả phòng
đều vui " ( Tiền phong, 7 / 3/ 2002 );
" Vàng trắng lên ngôi " ( Lao động, 19 / 2 / 2002 )...
Có thể nói, khơng theo đuổi mục đích khám phá và phản ánh thế giới một
cách hình ảnh như trong văn học nghệ thuật, nhà báo sử dụng ẩn dụ như một
phương tiện đối lập với khuôn mẫu, một phương tiện nhằm đánh lạc hướng
sự chú ý của độc giả nhưng lại gây được ấn tượng lớn.

8. Nói dựa, trích dẫn
Ở đây, tác giả chỉ ra nguồn gốc, xuất xứ của những cách diễn đạt gợi cảm
nào đó mà anh ta vay mượn nhằm thơng báo cho độc giả biết rằng: anh ta
chỉ đồng tình với những kiểu nói ấy chứ khơng phải chịu trách nhiệm về chất
lượng của sự gợi cảm trong chúng. Và chính cái thủ pháp nói dựa, trích dẫn
như vậy đã làm cho giọng điệu câu văn bớt đi cái sắc thái chủ quan, trở nên
mềm mại, nhẹ nhàng, và thông tin hàm chứa trong nó cũng có độ xác thực
cao hơn. Ví dụ:
" Giai tầng như tơi, mua cái xe làm phương tiện bươn chải ( nói như ơng
Gorki, về vai trò của văn học dân gian ) là để " cho lao động được nhẹ
nhàng hơn " thì... " ( Lao động, 4/ 3 /1998 );


" Nói theo cách của nhà thơ Evgheni Evtushenko, khơng nên hạ thấp phụ
nữ xuống bằng ... đàn ông! " ( Văn hoá, 8 / 3 /1998 );
" Dân chúng gọi hồ là biển, lâu ngày thành quen nên gọi là Biển Hồ " (
Nhà báo và Công luận, số 13 /1998 );
" Người đàn bà ấy tuy còn chút nhan sắc, nhưng nói theo ngơn ngữ của
giới trẻ, cũng thuộc loại quá " đát " rồi " (Tuổi trẻ Thủ đô, 12 / 3 / 2000 )...
" Tôi đi tìm mua cho con gái một chiếc đàn Organ Yamaha " made in
Japan " chính hiệu, tại một Duty Free Shop ( cửa hàng miễn thuế ) trên phố
" điện tử " ( theo cách gọi của những người Việt ở đây " ( Lao động, 24 / 6
1998 )...

Khi sử dụng bất kỳ thủ pháp nào nhằm tăng cường tính biểu cảm cho
ngơn ngữ báo chí ( mà những cái kể trên chỉ là một số tiêu biểu ), người viết
phải lưu ý tới một loạt các yêu cầu như: đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng
( không phải với thể loại báo chí nào cũng có thể vận dụng chúng; và với các
thể loại có thể vận dụng thì mức độ vận dụng cũng khác nhau )...nhưng có lẽ
yêu cầu đang được đặt ra bức thiết hơn cả là phải thể hiện sự độc lập, sáng

tạo. Chính sự tìm tịi, sáng tạo sẽ sản sinh ra sự mới mẻ vốn là cội nguồn của
sự hấp dẫn.Thực tế cho thấy, nếu người viết chỉ biết lặp lại người khác một
cách máy móc thì các hình thức biểu cảm mà anh ta đưa ra không chỉ mất đi
dấu ấn cá nhân mà cịn mất đi cả tính hiệu quả. Chức năng biểu cảm của
chúng bị vơ hiệu hố và chúng dần dần trở thành khuôn mẫu. Trong thực tế
chúng ta đã gặp khơng ít trường hợp như vậy. Chẳng hạn, từ câu hát " Em ơi
,Hà Nội phố " người ta đã " tái bản " thành tiêu đề của một loạt các bài báo
khác nhau: nào là " Em ơi, Hà Nội ... mũ ", nào là " Em ơi, Hà Nội ... shop ",


rồi thì " Em ơi , Hà ... lội nước ", v . v.; rồi từ tiêu đề truyện ngắn " Có một
đêm như thế " của Nguyễn Thị Minh Thư người ta đã cải biên thành " Có
một tập thể như thế ", " Có một lị võ như thế ", " Có một kiểu đào tạo cán
bộ như thế "...Đối với các trường hợp kiểu này, chỉ có vay mượn lần đầu tiên
là được người đọc hưởng ứng, vì nó độc đáo và mới lạ. Cịn sự lặp lại lần
thứ hai, lần thứ ba...rất dễ gây cảm giác nhàm chán.



×