ÔN TẬP LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Câu 1 : Trình bày quan điểm nhân sinh quan trong Triết học Phật Giáo
Ấn Độ cổ đại.
* Sơ lược tiểu sử :
_ Phật Giáo là trào lưu tôn giáo, xuất hiện khoảng TK6 TCN ở miền Bắc Ấn
Độ. Phật Giáo phản ánh sự phản đối đạo Balamon, sự phân chia đẳng cấp
khắc nghiệt, đòi tự do tư tưởng, lý giải sự khổ đau của con người, và đi tìm
con đường để giải thoát con người khỏi khổ đau. _ Phật Giáo được xây dựng
trên cơ sở đời sống của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakyamauni – tức là bậc hiền
giả dòng Sakya ) Phật (Bụt) có nghóa là đấng giác ngộ người khác. _ Lịch sử
của đạo Phật được ghi chép trong kinh Jakata ( được viết sau khi Phật đã mất
100 năm ), thêm nữa, tôn giáo khi xây dựng tôn giáo của mình thường thêm
thắt các chi tiết để làm tăng chất linh thiêng. Tuy nhiên, giới nghiên cứu
đều thống nhất ở các điểm sau :
+ Phật là người có thật, con của vương hầu sống cạnh dãy núi Malayia, bố là
Suildhodina, và mẹ là Maga. Tương truyền đức Phật khi sinh ra nói được
ngay, 1 tay chỉ lên trời, 1 tay chỉ xuống đất, mẹ đức Phật mất, sống với dì
ghẻ ( cũng là dì ruột ).
+ Theo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; Phật sinh 624 TCN, theo tài liệu của
Trung Quốc trong tác phẩm Tỳ Bà Sa Luận cho rằng Phật sinh 486386 TCN.
+ Phật đi tu vì : ngay từ nhỏ là người từ bi yêu thương nhân loại. Năm 19t,
vua bắt Phật lấy vợ, vì sợ Phật bỏ nhà nên mỗi lần Phật đi chơi đều cho đi
theo và 4 lần Phật đi chơi đều gặp cảnh khổ. Năm 29t, Phật từ bỏ tất cả (
vợ, con, cung điện ) để đi tu. Lúc đầu tu ở dòng Sankhya ( lấy roi quật vào
người ) 6 năm nhưng không giác ngộ nên Phật đã bỏ xuống núi đổi cách tu.
Phật ngồi gốc cây bồ đề 48 ngày và khi nhận 1 bát sữa từ tay cô gái chăn
bò, có 1 luồng sáng từ trời chiếu xuống nên giác ngộ.
+ Sau đó Phật trở về dòng Sankhya giác ngộ cho các bạn cùng tu, rồi truyền
đạo khắp nơi, gặp mùa mưa thì lưu lại, mùa khô thì tiếp tục truyền đạo.
+Năm 80t, đức Phật mất ở Korilaga, sau khi mất xác Phật được thiêu và lấy
tro để thờ ở chùa Xá Lợi ( nơi thờ của Phật ). _ Lý thuyết Phật Giáo mở ra 1
vấn đề rất mới về nhân sinh : Phật chủ trương không tán thành đẳng cấp.
Sau khi đức Phật mất. Ca Diếp đã triệu tập Kết tập 1 gọi là vương sáng. Học
trò của Phật ngồi nhớ lại lời Phật dạy rồi biên soạn Kinh Tạng & Luật Tạng.
Kết tập 2 được triệu tập sau khi đức Phật mất 100 năm, xuất hiện mâu thuẫn
: 1 số đông đòi sửa lại Kinh Tang & Luật Tạng, 1 số khác trung thành nên
chia thành 2 phái. Kết tập 3 được họp 245 TCN ở Pata Lipatra dưới sự bảo
trợ của vua kabusa : biên soạn hoàn chỉnh về 3 kinh : luân, sư, tạng . Kết tập
4 họp TK2 dưới sự chủ toạ của nhà tư kế hữu, chủ trương phổ biến & truyền
bá tư tưởng ra bên ngoài.
TK5 sau CN, người hung nô xâm lược & hủy diệt Phật Giáo -> Phật
Giáo suy tàn ở Ấn Độ ( nhưng vẫn là tôn giáo lớn ) . TK8 vua Hexa khôi
phục Phật Giáo. Sau đó, người Hồi Giáo xâm lược Ấn Độ -> Phật Giáo suy
tàn & TK12 biến mất hoàn toàn ở Ấn Độ.
TK18 -> đầu TK19, người Châu Âu khuyến khích Phật Giáo ở Ấn Độ >
Phật Giáo được khôi phục. Mặc dù có sự khôi phục, nhưng Phật Giáo không
còn là tôn giáo lớn ở Ấn. Dù vậy Ấn chính là quê hương của Phật Giáo.
Hiện nay Phật Giáo thế giới có 1 trào lưu : Đại Thừa ( nhờ đến người khác
nhất là những người thành chính quả ), Tiểu Thừa ( sự nỗ lực cố gắng của
chính bản thân mình ). Tiểu Thừa, cấp cao nhất là La Hán, Đại Thừa là Bồ
Tát. Tư tưởng Phật Giáo lúc đầu truyền khẩu sau mới viết thành văn bản.
* Quan điểm nhân sinh quan
Nhân sinh quan là quan niệm về con người, đời người, cuộc sống. Toàn bộ
nhân sinh quan của Phật Giáo được thể hiện trong Tứ Diệu Đế ( 4 nguyên lý
thiêng liêng & thần diệu của đạo Phật ) . _ Khổ đế : trong cổ đại đề cập đến
bản chất của nhân sinh quan : cuộc đời có ý nghóa như thế nào & mang
bản chất gì? Theo quan niệm Phật Giáo : đời là bể khổ ( nước mắt của chúng
sinh đọng lại đầy hơn 4 bể ) . Theo Phật gồm có các nỗi khổ :
+ Nhị khổ : bên trong & bên ngoài .
+ Tam khổ : cái khổ quá khứ, hiện tại & tương lai .
+ Tứ khổ : sinh lão bệnh tử .
+ Bát khổ .
+ Oán tăng hội .
+ Thụ biệt ly : đang yêu mà phải xa nhau -> khoå .
+ Sở cầu bất đắc khổ : cái ta mong muốn ( công danh , địa vị , phú quý ,
tình duyên mà không đạt được -> khổ ) .
+ Ngũ thủ uẩn khổ : khổ vì thân xác . Thống kê lại , đời người có 110 nỗi
khổ . Đời là bể khổ do :
+ Gắn với chế độ thống trị và đẳng cấp khắc nghiệt ở .
+ Vòng đới quá ngắn ngủi .
+ Nhân đế ( tập đế ) : Phật giải thích nguyên nhân của nỗi khổ là do
nguyên nhân nhận thức , nguyên nhân tinh thần . Cụ thể là do Thập nhị
nhân duyên & nghiệp báo luân hồi gây ra .
+ Thập nhị nhân duyên :
.
•
Vô minh : không sáng suốt , không nhận thức sự vật , hiện tượng
.
.
•
Duyên hành : Hành động của ý thức , dao động của tâm &
khuynh hướng , manh nha của nghiệp .
.
•
Duyên thức : là tâm thức của con người , từ chỗ trong sáng cân
bằng là minh -> ô nhiễm mất cân bằng là vô minh .
.
•
Duyên danh sắc : là sự hội nhập của các ý thức tinh thần & vật
chất . Danh là tinh thần , sắc là vật chất . Cơ thể cấu tạo bởi ngũ uẩn : sắc (
vc ) , thụ ( cảm giác ) , tưởng , hành , thức là tinh thần .
.
•
Duyên lục nhập : là quá trình tiếp xúc thế giới khách quan ( lục
căn tiếp xúc lục trần )
.
•
Duyên xúc : là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn , lục trần và
thức .
.
•
Duyên thụ : thụ là cảm giác , do tiếp xúc mà nảy sinh cái cảm
giác yêu , ghét , vui , buồn .
.
•
Duyên ái : ái tức là yêu thích ( ám chỉ sự nảy sinh dục vọng ) .
.
•
Duyên thủ : đã yêu thích thì muốn giữ lấy chiếm lấy .
.
•
Duyên hữu : là tiến tới chủ thể chiếm hữu ( cái ta thì phải tồn tại
hữu tức là đã có hành động tạo nghiệp .
.
•
Duyên sinh : đã có tạo nghiệp ( hữu ) tức đã có nghiệp nhân , ắt
có nghiệp quả -> sinh ra ta .
.
•
Duyên lão tử : đã sinh ra thì phải già và chết . Lão Tử là kết quả
cuối cùng của 1 quá trình nhưng đồng thời là nguyên nhân của 1 vòng luân
hồi khác .
Nghiệp : sợi dây tạo tác nối cái này với cái kia .
+ Nghiệp báo luân hồi : con người có tam nghiệp :
.
•
Thân nghiệp : do hành động gây ra .
.
•
Khẩu nghiệp : do lời nói gây ra .
.
• Ý nghiệp : mới chỉ có trong ý nghó .
Vì tam nghiệp cho nên con người rơi vào 6 kiếp : Địa ngục ; Ma
đói ; súc vật ; atula ( nửa người nửa vật ) ; người ; trời .
6 kiếp này luân hồi mãi không dứt , chỉ khi nào thành Phật lên
cõi Phật mới thoát khỏi 6 kiếp .
_ Diệt đế : trong diệ đế Phật khẳng định , nỗi khổ hoàn toàn có thể tiêu diệt
để chấm dứt nghiệp luân hồi . Chỉ ra con đường ta luyện để được lên niết
bàn .
Nghóa của niết bàn :
.+ Viên tịch , rơi vào thế giới của sự tịch diệt .
.+ Tây phương cực lạc .
.+ Nơi thường Lạc Ngã Tịnh : thường ( còn mất ) lạc ( vui vẻ ) ngã ( bản
thân mình ở đó ) tịnh ( trong sạch ) .
.+ Nơi hoàn toàn thủ tịnh để không phải quay lại làm kiếp người hay kiếp
khác chịu khổ .
.+ Phật tại tâm . Niết bàn được hiểu nhiều nghóa nhưng tóm lại niết bàn là
1 trạng thái không còn ý thức và cái vô thức cũng chìm vào chân không , nó
không còn là 1 quá trình , không có 1 nội dung nào . Tất cả chỉ còn lại sự
yên lặng vô biên . _ Đạo đế : đưa ra con đường giải thoát diệt khổ , thực
chất là nhằm tiêu diệt vô minh , gồm bát chánh đạo ( 8 con đường chính ) ,
tam học và lục độ .
.+ Bát chánh đạo :
.
•
Chính kiến : hiểu biết đúng đắn .
.
•
Chính tư duy : suy nghó đúng đắn .
.
•
Chính ngữ : giữ cho lời nói được chân chính .
.
•
Chính nghiệp : nghiệp có tà nghiệp và chính nghiệp . Chính
nghiệp phải giữ cẩn thận .
.
•
Chính mệnh : phải tiết chế dục vọng , phải trì giới ( giữ gìn các
điều răn ) .
.
•
Chính tinh tiến : phải cố gắng nỗ lực trong việc tìm kiếm và
truyền bá chân lý của đạo Phật
.
•
Chính niệm : thường phải nhớ Phật và niệm Phật .
.
•
Chính định : là phải ngồi thiền , tónh lặng , tập trung tư tưởng để
suy
nghó về tứ diệu đế và vô ngã vô thường .
+Tam học : gồm giới , định , và tuệ .
.
•
Giới ( điều răn ) : phải giữ gìn các điều răn gồm : ngũ giới ( bất
sát , bất đạo đức là không trộm cắp , bất vọng ngữ tức là không nói xấu
người khác , bất tà tâm là không quan hệ nam nữ lung tung , bất tữu tức là
không uống rượu ) . Bát giới ( không xem ca nhạc , không nằm soãi tay chân
, không ăn quá ngọ , không lấy vợ lấy chồng , không được tồn trữ tiền bạc ,
không được ăn trộm, ăn cắp , không được nói xấu người khác , không được
giết hại sinh vật nhất là người .
.
•
Định : tức là thiền định tức là phải ngồi tập trung tư tưởng đến
nỗi quên hết mọi việc vật xung quanh .
.
•
Tuệ : là trí tuệ nhà Phật , phải nắm vững các nguyên lý , giáo
pháp nhà Phật .
+ Lục độ : 6 con đường , bến đò đưa lên niết bàn .
.
•
Bố thí : lời nói , việc làm , tiền của .
.
•
Trì giới : giữ điều răn .
.
•
Nhẫn nhục .
.
•
Tinh tiến : cố gắng nỗ lực .
.
•
Thiền định .
.
•
Trí tuệ .
Câu 2 : Trình bày những tư tưởng cơ bản trong TH của Khổng Tử .
* Sơ lược tiểu sử :
Khổng Tử ( 551 – 479 ) TCN : ông xuất thân trong 1 gia đình qúi tộc nhỏ
đang bị sa sút ở nước Lỗ . Tư tưởng của Khổng Tử là đại diện cho tư tưởng
của bộ phận bảo thủ trong giai cấp qúy tộc, thị tộc Chu. Vì vậy, ông muốn
khôi phục lại pháp chế, kỷ cương của nhà Chu và đây là lập trường nhất
quán của ông. Tư tưởng triết học của ông thể hiện ở 2 phương diện cơ bản :
Bản thể luận, Học thuyết về chính trị- xã hội.
* Tư tưởng cơ bản :
_ Bản thể luận : Quan niệm về thế giới của Khổng Tử chịu ảnh hưởng trực
tiếp bởi quan niệm về thế giới của người Trung Quốc cổ đại được trình bày
trong kinh dịch. Theo quan điểm này thì vũ trụ ban đầu là 1 mớ hỗn độn,
trong đó có tồn tại cái lý gọi là thái cực vô hình. Thái cực vô hình này là 1
thể thống nhất của 2 mặt âm và dương. Do sự tương tác âm và dương thì
sinh ra thanh khí, trọng khí : khí nặng bốc lên làm trời, trọng khí lắng xuống
lòng đất. Bởi sự điều hòa âm-dương của trời đất sinh ra vạn vật trong đó có
con người. Theo quan điểm này, trời ở ngôi cao nhất, trời không mang tính
thần thánh mà trời mang tính duy vật. Thần thánh không phải hư vô mà con
người không lý giải được.Bản thể luận của Khổng Tử còn thể hiện trong quan
điểm về “trời”, “qủy thần”. Quan niệm về trời, qủy thần của ông vẫn tồn tại
nhiều mâu thuẫn thể hiện tư tưởng của ông vừa mang tính bảo thủ vừa mang
tính tiến bộ. Cụ thể Khổng Tử cho rằng : “trời” là quy luật, trật tự của vạn vật
và mặt khác ông lại khẳng định có sự tồn tại của thiên mệnh và số phận của
mỗi con người là do thiên mệnh qui định. Mặt khác, ông cũng khẳng định
rằng con người với nỗ lực chủ quan của mình hoàn toàn có thể thay đổi
thiên mệnh. Quan niệm về “qủy thần”, Khổng Tử không nghi ngờ sự tồn tại
của qủy thần và ông lại ít bàn đến quỷ thần. Ông khuyên con người đối xử
với qủy thần bằng cách tôn kính, xa lánh và cảnh giác.
* Học thuyết của Khổng Tử về chính trị – xã hội :
Lý tưởng chính trị của Khổng Tử được biểu hiện tập trung ở trong các học
thuyết nhân, lễ, chính danh.
+ Nhân: bao gồm nhiều nghóa khác nhau song về cơ bản nhân được
hiểu là ái nhân (thương người). Thương người theo Khổng Tử là việc gì không
muốn xảy ra với mình thì đừng đem áp dụng cho người khác. Thương
người còn được hiểu mình muốn thành đạt phải giúp người khác thành
đạt, mình muốn lập thân phải giúp người khác lập thân. Thân còn bao gồm
hàng loạt các đức tính khác nhau : khiêm tốn, dũng cảm, thật thà, trung,
hiếu, học gắn liền với hành, biết yêu người đáng yêu, biết ghét kẻ đáng
ghét. Từ đó suy ra nhân không chỉ là thương người mà thực chất còn là đạo
làm người. Tuy nhiên, học thuyết nhân của Khổng Tử lấy việc yêu thương
người thân là cơ sở. Mặt khác nó bị hạn chế bởi lập trường giai cấp. Khổng
Tử khẳng định chỉ người quân tử mới có đức nhân, còn kẻ tiểu nhân thì
không có đức nhân. Điều kiện để thực hiện đức nhân là phẩm chất thật thà,
chất phát của con người.
.+ Lễ : được hiểu theo nghóa rộng là thể chế chính trị xã hội, là phong tục
tập quán truyền thống (sinh, tử, tang, hôn). Khổng Tử cho rằng cần phải
dùng lễ để khôi phục đức nhân, mọi người cần phải tuân thủ theo lễ, phải
sống theo lễ. Tuy nhiên cái lễ mà Khổng Tử đề cập đến là lễ của nhà Chu
đứng trên lập trường bảo thủ trong giai cấp qúi tộc, thị tộc Chu. Ông muốn
khôi phục lại cái lễ của nhà Chu, nhưng ông không thấy được sự suy tàn của
lễ nhà Chu là tất yếu lịch sử. Vì vậy ông đưa ra 1 số biện pháp cải lương
nhằm cứu vãn tình thế.
.+ Chính danh : là con đường để đạt đến điều nhân, con đường để ổn định
trật tự xã hội.
.
•
Cơ sở của thuyết chính danh : Khổng Tử cho rằng gốc của con
người là gốc nhân. Nhờ có đức nhân mà dân tốt, nước yên, thiên hạ thái
bình. Tuy nhiên vào thời đại của ông, người ta không còn sống theo đạo con
người nữa, kỷ cương phép nước bị lu mờ, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Để
ổn định trật tự xã hội. Khổng Tử kiên trì theo đường lối nhân trị và chủ nghóa
chính danh định phận.
.
• Nội dung của thuyết chính danh : Theo Khổng Tử mỗi vật có 1 công
dụng nhất định, cái đó gọi là thực. Ứng với mỗi công dụng là 1 tên được gọi
là danh. Đối với con người, danh là tên gọi của chức vụ, địa vị, thứ bậc của
con người trong xã hội. Thực là phận sự của người đó bao gồm cả quyền lợi,
nghóa vụ. Theo Khổng Tử nếu danh và thực phù hợp với nhau thì chính
danh, nếu danh và thực không phù hợp với nhau thì loạn danh. Một xã hội
có chính danh là 1 xã hội ổn định, trật tự, còn 1 xã hội loạn danh là xã hội
mất ổn định. Vì vậy để khôi phục trật tự xã hội thì phải chính danh.
Theo thuyết chính danh, Khổng Tử chia XH thành các mối quan hệ khác
nhau. Mỗi quan hệ XH được gọi là 1 luân. Thời Khổng Tử, tất cả có 5 luân :
vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè. Ông đặc biệt nhấn mạnh quan
hệ vua-tôi, cha-con. _ Đối với quan hệ vua-tôi thì Khổng Tử phản đối duy trì
vua tôi theo huyết thống, chủ trương vua phải dùng người hiền tài, phải rộng
lượng với kẻ cộng sự. Theo Khổng Tử nhà cầm quyền phải đảm bảo 3 điều
sau :
.
• Phải đảm bảo lương thực cho dân no ấm.
.
• Phải có binh lực mạnh để bảo vệ dân.
.
• Phải giữ được lòng tin đối với dân. Đồng thời Khổng Tử cho rằng vua
phải lấy lễ để khiến bề tôi, bề tôi phải lấy đạo trung để thờ vua, coi vua như
cha mẹ của mình. _ Đối với quan hệ cha-con : cha đối với con phải lấy từ ái
làm trọng, còn con đối với cha phải lấy đạo hiếu làm đầu. Hiếu là cốt ở tâm
thành kính, đồng thời con cái phải can ngăn nhẹ nhàng lỗi mà cha mẹ mình
mắc phải.Để thực hiện chính danh Khổng Tử chủ trương lễ, nhạc, thi, thư.
Theo Khổng Tử người ta tạo lập là nhờ lễ hứng khởi là nhờ thi, thành đạt là
nhờ nhạc. Nếu nhạc mà trang nghiêm hoà nhã và có tác dụng nuôi dưỡng
tính tình, cảm hoá lòng người và hướng con người đến chân thiện mỹ. Còn
thi thư giúp con người trình bày tư tưởng của mình và biện luận với người
khác. Tuy nhiên, dùng lễ nhạc thi thư thì phải trên nền tảng của đức nhân.
Nếu 1 người không có đức nhân mà dùng lễ nhạc thi thư thì chỉ là sự sáo
rỗng của hình thức. Câu 11 : Trình bày những điều kiện và tiền đề ra đời
của Triết học M-L.
* Điều kiện kinh tế – xã hội :
Triết học C.M ra đời vào thời kỳ chủ nghóa phong kiến sụp đổ và chủ nghóa
tư bản lớn mạnh ở 1 số nước Châu Âu và Bắc Mỹ. Chủ nghóa tư bản đã tạo
ra nền công nghiệp khó và cùng với nó là giai cấp vô sản cách mạng – giai
cấp hiện thân của nền sản xuất mới, giai cấp trung tâm của thời đại. Sự hình
thành và phát triển các trung tâm công nghiệp lớn đã tạo ra những biến ñoåi
sâu sắc trong phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Là người con của dân
tộc Đức, Mác đã xuất hiện rất đúng lúc. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và
sáng tạo những di sản tư tưởng Triết học của loài người, phân tích đúng thực
tiễn kết hợp với năng lực tư duy của nhà bác học. Các Mác và Anghen xây
dựng nên chủ nghóa duy vật biện chứng và chủ nghóa duy vật lịch sử.
* Tiền đề về lý luận của Mác : kế thừa có chọn lọc và sáng tạo.
Toàn bộ những hạt nhân hợp lý của toàn bộ hệ thống Triết học trước đó,
quan trọng là kế thừa chủ nghóa duy vật của Phoibac và kế thừa phép
biện chứng của Heghen.
Tiền đề về khoa học tự nhiên : Triết học M là sự tổng kết các thành tựu
khoa học tự nhiên thế kỷ 19, trong đó quan trọng nhất :
_ Học thuyết tiến hoá của Dacuyn.
_ Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Ropee pa.
_ Học thuyết tế bào.
Tiền đề về thực tiễn : Triết học Mác nói chung và chủ nghóa Mác nói
riêng là tổng kết phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.
Câu 3 : Trình bày những tư tưởng cơ bản trong TH của Lão Tử.
* Tiểu sử sơ lược:
Sinh vào khoảng TK6 – TK 5 TCN, Lão Tử được coi là ông tổ của đạo gia. LT
sống cùng thời với KT, ông là người làng Nhân, Hương Lệ, nước Sở. Ông là
người họ Lý, tên Nhó Tự Bá Dương. Người đời sau kính trọng ông gọi là đạo
Tam. Ông làm quan giữ sách của nhà Nhu, sống ẩn dật. Tác phẩm của ông
gồm 3 vấn đề : tư tưởng về đạo, tư tưởng về phép biện chứng và tư tưởng
quan niệm vô vị.
* Tư tưởng cơ bản :
_ Tư tưởng về đạo : chiếm 1 vai trò trong học thuyết của LT. Khái niệm đạo
được xuất hiện trước của LT nhưng đến thời của LT đạo được thấu hiểu 1
cách hoàn chỉnh. _ Thể (bản chất) : được thể hiện ở 2 tính chất : tự nhiên
thuần phát và trống không.
.
•
Tính tự nhiên thuần phát của đạo được hiểu như là tính khách
quan vốn có như thế, nó không bị phụ thuộc vào ý chí của con người. Tính
tự nhiên của đạo cũng không được hiểu như tồn tại khách quan của TH
phương Tây vì đạo chứa đựng được cái hòa đồng của tất cả cái tồn tại và
không tồn tại cả cái tuyệt đối và cái tương đối. Đạo là tự nhiên nhưng không
tồn tại có định tính, có hình thái mà là 1 trạng thái vónh cửu, chứa đựng tất
cả, cả thần linh thượng đế cũng từ đạo mà ra.
.
•
Tính trống không : bản chất của đạo là sự im lặng trống không,
sự im lặng trống không này rõ ràng là không có gì ngoài cái trống không.
Nhưng theo LT, sự trống không đó nó lại có 1 nội dung xác định bởi vì nó là
cái đầu tiên sinh ra vạn vật và nó vô cùng vô tận. Bản chất của vũ trụ, của
trái đất là cái khoảng không vónh cửu, nó là cái đầu tiên sinh ra vạn vật. Từ
bản chất đó LT cho rằng đạo là cái vô danh, con người không thể nghe thấy,
nhìn thấy nắm bắt được đạo. LT viết “không tên là gốc trời đất, có tên là mẹ
vạn vật”. Không tên chỉ là mặt thể (bản chất) của đạo. Đây là trạng thái ban
đầu nguyên thuỷ của đạo khi đạo chưa vận động, chưa bộc lộ bản chất. Có
tên là mặt dùng chỉ trạng thái đạo vận động biến đổi để sản sinh ra vạn vật.
Vì đạo tồn tại tự nhiên theo bản tính vốn có của mình và vạn vật sinh ra từ
đạo rồi tồn tại theo qui luật
tự nhiên. LT gọi là đạo vô vị “ Đạo thường không làm nhưng
không gì không làm”. _ Phép biện chứng chất phác trong TH Lão Tử :
Toàn bộ thế giới là 1 cuộc đại chuyển tiếp không ngừng, tức là mọi sự vật
luôn luôn vận động biến đổi phát triển. Trong sự vận động biến đổi đó tất cả
chỉ là tương đối, chỉ là 1 giai đoạn của dòng chuyển hoá vô tận. Sự vận động
của vạn vật không phải là hỗn loạn mà luôn luôn tuân theo qui luật của tạo
hoá, đây là qui luật hết sức nghiêm ngặt, không 1 sự vật nào đứng ngoài qui
luật đó, kể cả thần linh thượng đế. Toàn bộ vũ trụ tuân theo 2 qui luật phổ
biến là : luật quân bình và phản phục.
+ Luật quân bình : là luôn luôn giữ cho sự vận động được thăng bằng không
để cho cái gì thái quát thiên lệch hay bất cập. Theo LT “ khuyết thì đầy,
cong thì ngay, trũng lại đầy, cũ lại mới, ít thì được, nhiều thì mất”.
Chính nhờ luật quân bình vạn vật mới tồn tại theo 1 trình tự nhất định.
Luật quân bình chống lại những gì thái quá trái với qui luật tự nhiên. Để
chống lại những gì thái quá nó lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cương.
+Luật phản phục : có 2 nghóa :
.
•
Vạn vật biến hoá trao đổi cho nhau theo 1 vòng tuần hoàn đều
đặn, kế tiếp theo 1 cách nhịp nhàng bất tận, đây là qui luật bất di bất dịch
của tự nhiên.
.
•
Phản phúc nghóa là trở về với đạo tự nhiên vô vi nghóa là với
chính bản tính tự nhiên của con người, không thái quá, không bất cập. Theo
LT, nếu không trở về với đạo tự nhiên vô vi, chống lại qui luật tự nhiên, cố
tình can thiệp vào tính tự nhiên của tạo hoá thì con người sẽ chuốc lấy bại.
Mọi sự vật biến đổi có nguồn gốc từ trong bản thân sự vật. Mỗi một sự vật là
thể thống nhất của 2 mặt đối lập vừa tương hoà vừa xung khắc, vừa độc lập
vừa liên hệ ràng buộc nhau, bao hàm lẫn nhau và không thể thiếu nhau
được.
LT còn xây dựng 1 loạt các mâu thuẫn trong tất cả các lónh vực tự nhiên, XH
đạo đức, quan hệ ứng xử…giải quyết các mâu thuẫn được ông nâng lên như
1 nghệ thuật sống : động – tónh, nóng – lạnh, thấp – cao, mềm – cứng, hữu
– vô, còn – mất, tốt – xấu, thiện – ác….
_ Tư tưởng của đạo vô vi : vô vi có nghóa là phương pháp sống thiên
nhiên mộc mạc, thuần phác không bị ức chế gượng ép. Đạo vô vi xuất
phát từ quan niệm trên điểm cốt lõi là NT sống của con người trong sự hoà
nhập với tự nhiên và tuân theo bản tính tự nhiên của con người.
Khái niệm vô vi có 3 nghóa :
.+ Vạn vật đầu có bản tính tự nhiên, chúng vận động biến hoá theo lẽ tự
nhiên mà không cần biết đến ý nghóa mục đích của bản thân chúng (vd :
bản tính tự nhiên của cá là bơi lội, của lửa là nóng….). Sống với cái vốn có
TN mộc mạc, thuần phác của mình, không trái với qui luật TN, không được
can thiệp vào quá trình vận hành của sự vật khác, phải chấp nhận và thích
ứng với mọi hoàn cảnh của môi trường. +Vô vi có nghóa là tự do tuyệt đối,
không bị ràng buộc bởi bất kỳ 1 ý tưởng, dục vọng, đam mê và mong muốn
nào.
.+ Vô vi nghóa là phải luôn luôn bảo vệ, giữ gìn bản tính TN của mình,
phải biết ngăn chặn những gì làm tổn hại đến bản tính tự nhiên của vạn vật
mà trước hết là chống lại mọi hành động của con người trong XH. Theo đạo
vô vi có 3 cái phải nắm giữ bảo vệ : từ ái, cần kiệm, không dám đứng trước
thiên hạ. Con người sống phải biết từ ái, cần kiệm, khoan dung, tri
thức….Lão Tử chủ trương bỏ hết những gì trái với đạo TN vô vi, vượt quá bản
tính tự nhiên của con người, LT kêu gọi đưa con người về trạng thái tự nhiên
nguyên thuỷ chất phác. => Tóm lại : tư tưởng về đạo, tư tưởng về phép biện
chứng và tư tưởng về đạo vô vi của LT đã đạt đến 1 trình độ sâu sắc độc đáo,
1 trình độ tư duy lý luận rất cao, đóng góp vào nét đặc sắc của phương
Đông. Tuy còn nhiều điểm hạn chế nhưng chúng ta phải nghiêng mình trước
những gì mà ông đã đưa ra.
Câu 4 : Trình bày những tư tưởng triết học của L.Phoiơbách về tự nhiên
và con người .
* Sơ lược tiểu sử : ( 1804 – 1872 )
9 Luc-vich Phoiơbách sinh ra trong 1 gia đình luật sư nổi tiếng. Gia đình
ông muốn ông trở thành 1 luật sư nhưng khi học đại học Phoiơbách lại
học triết học. Do ông học giỏi nên được giữ lại trường, trở thành phó
giáo sư rồi giáo sư. Phoiơbách đã phát hiện ra những bất hợp lý trong
triết học của Heghen, ông cùng Mac-Anghen tham gia sinh hoạt trong
nhóm “Heghen trẻ”. Sau 1 thời gian, ông bất mãn với hệ thống triết
học, ông bỏ dạy về quê ở ẩn trong 28 năm.
9 Tác phẩm nổi tiếng : “ Phê phán triết học của Heghen ” –xb 1839,
“bản chất đạo Thiên Chúa” và “luận cương sơ bộ của cải cách triết
học” – xb 1842, “ cơ sở triết học của tương lai ” –xb 1843, “bản chất
tôn giáo” –xb 1845.
9 Toàn bộ hệ thống triết học của Phoiơbách được gọi là CNDV nhân bản
vì ông xác định lấy con người làm đối tượng trung tâm của triết học.
Ông xác định nghiên cứu khoa học tự nhiên để phục vụ cho nghiên
cứu con người.
9 Về cuối đời, Phoiơbách đọc triết học của Mác, ông đã bỏ
triết học của mình và theo triết học của Mac. Quan
niệm về giới tự nhiên :
¾ Ông tập trung vào phê phán : bác bỏ học thuyết của Heghen về
giới tự nhiên vì theo Heghen , giới tự nhiên là sản phẩm của ý
niệm tuyệt đối.
¾ Ông đã bảo vệ các quan điểm duy vật của thế giới, ông cho rằng
thế giới chúng ta đang sống là thế giới vật chất, tồn tại khách
quan và không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của duy vật, còn ý
thức chỉ là sản phẩm của bộ óc (sản phẩm tự nhiên ) và con
người là 1 bộ phận của giới tự nhiên.
¾ Khi đứng ra bảo vệ các quan điểm duy vật thì Phoiơbách đã phát
triển 1 số luận điểm có thể của duy vật và đã khắc phục được
những hạn chế của CNDV trước đó :
.+ Cho rằng trong tự nhiên có nhiều chất và lượng khác nhau và cảm giác
của chúng ta hoàn toàn có thể nhận thức được.
. + Phoiơbách chứng minh con người là chủ thể đồng thời là bộ phận của
giới tự nhiên, còn ý thức con người chỉ là 1 thuộc tính của bộ óc con người.
.+ Phoiơbách chứng minh rằng không gian và thời gian tồn tại khách quan,
gắn liền với vật chất và thừa nhận tính khách quan của quy luật tự nhiên,
quy luật tự nhiên tự vận động đến 1 điều kiện nào đó thì sinh ra vật chất hữu
cơ của con người.
* Quan niệm về con người :
¾ Phoiơbách đặt con người là trung tâm trong hệ thống triết
học của mình.
¾ Phê phán Heghen chỉ chú ý đến mặt ý thức, mặt tư duy của
con người mà không chú ý đến mặt tự nhiên, mặt thể xác của
con người và theo ông chính mặt thể xác của con người cùng
với toàn bộ thuộc tính của nó tạo thành bản chất của con
người.
¾ Phoiơbách quan niệm nhiệm vụ của triết học là phải đem lại
cho con người quan niệm mới chính bản thân mình đồng thời
tạo cho con người 1 đời sống hạnh phúc. Phoiơbách còn quan
niệm con người là 1 bộ phận của tự nhiên, con người là 1 sinh
vật có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có dục vọng, có mơ
ước. Theo Phoiơbách, bản chất của con người chính là tình yêu.
Trong các loại tình cảm thì tình yêu nam nữ là đỉnh cao của bản
chất con người, từ đó Phoiơbách đưa khẩu hiệu : “con người hãy
ôm hôn nhau đi thì XH sẽ hết mọi điều đau khổ”. Từ đó
Phoiơbách sùng bái tình yêu và tôn thờ tình yêu như 1 thứ tôn
giáo.
+ Tiêu biểu : quan tâm con người ( chủ yếu quan tâm về mặt tự
nhiên, mặt sinh hoïc ).
+ Hạn chế : Phoiơbách đã tuyệt đối hoá tình yêu, coi tình yêu là bản chất
của con người mà không chú ý đến mặt XH và không thấy được điều kiện
chính trị XH mà con người sống. Phoiơbách phê phán con người trong triết
học của Heghen là trừu tượng trong khi quan điểm của ông về con người
cũng trừu tượng.
Câu 5 : Phân Tích Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Vật Chất Và Thức , Vai
Trò Của Tri Thức Khoa Học Đối Với Sự Nghiệp Đổi Mới Của Nền Kinh Tế
Nước Ta Hiện Nay ?
Phân Tích Mối Quan Hệ Biên Chứng Giữa Vật Chất Và Thức
Xuất phát từ việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghóa duy vật
biện chứng khẳng định: vật chất là tính thứ nhất quyết định ý thức, ý thức là
tính thứ hai phụ thuộc vào vật chất và con người có khả năng nhận thức
được thế giới khách quan. Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trong thực tiển xã hội được thể hiện thông qua mối quan hệ biện chứng giữa
nhân tố vật chất (khách quan) và nhân tố tinh thần (chủ quan). Trong mối
quan hệ đó thì vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với nhân tố
tinh thần, nhưng ngược lại nhân tố tinh thần tác động một cách tích cực đối
với nhân tố vật chất Nhân tố vật chất là những điều kiện, hoạt động vật chất
của xã hội và các qui luật khách quan vốn có của nó. Xuất phát từ khái niệm
vật chất của triết học là thực tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của
con người và khi tác động vào giác quan con người thì sinh ra cảm giác.
Điều này đòi hỏi con người thừa nhận tồn tại khách quan của mọi đối tượng
vật chất trong hoạt động tinh thần của mình. Nhưng trong hoạt động thực
tiễn, thực tại khách quan không phải là thế giới vật chất nói chung, mà là
hiện thực khách quan thể hiện trong hoạt động thực tiễn bằng các nhân tố
vật chất (nhân tố khách quan). Nhân tố tinh thần là toàn bộ hoạt động tinh
thần của con người như: tình cảm, ý chí và tư tưởng của con người, là quá
trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người. Vai trò
quyết định của nhân tố vật chất đối với nhân tố tinh thần Xuất phát từ quan
điểm cho rằng vật chất có trước quyết định ý thức, cho nên nhân tố vật chất
cũng là cái có trước, cái quyết định còn nhân tố tinh thần là cái có sau, cái
phụ thuộc vào nhân tố vật chất. Toàn bộ hoạt động tinh thần của con người
(dù thể hiện dưới các hình thức khác nhau ) đều là sự phản ánh hiện thực
khách quan và bị qui định bởi hoạt động vật chất của con người. Có nghóa là
thực tiển là nguồn gốc, động lực và là tiêu chuẩn của nhận thức.
Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức cá nhân
hay ý thức xã hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước....
cũng phải dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới có thể làm cho khả
năng khách quan trở thành hiện thực Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con
người không thể thực hiện được sự biến đổi nào trong hiện thực, nếu nó
không thông qua các nhân tố vật chất, bởi “chỉ có lực lượng vật chất đánh
bại bởi một lực lượng vật chất mà thôi” Vai trò của nhân tố tinh thần (chủ
quan) Xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào
vật chất và con người có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan.
Cho nên, vai trò của nhân tố tinh thần có ý nghóa quan trọng trong hoạt động
thực tiễn xã hội. Sự phản ánh của ý thức về hiện thực khách quan, không
phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà nó có tính tích cực, năng động
và sáng tạo. Cho nên, kết quả của sự phản ánh đúng về hiện thực bao giờ
cũng có ý nghóa định hướng chung cho hoạt động thực tiễn và ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan trong bộ não con người và được cải tiến ở trong đó. Cho
nên nó có tính độc lập tương đối. Vai trò của ý thức thể hiện ở tính năng
động và sáng tạo của nó được thể hiện ngay từ khi con người xác định đối
tượng mục tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc lựa chọn cách thức,
phương pháp thực hiện mục tiêu đã đề ra. Có nghóa là nó định hướng cho
con người biết phân tích, lựa chọn những khả năng thực tế của việc vận
dụng những qui luật khách quan trong hoạt động thực tiễn. Sức mạnh của ý
thức (nhưng nó cũng do hoàn cảnh khách quan qui định) tùy thuộc vào mức
độ xâm nhập của nó vào hoạt động của quần chúng và một khi lý luận khoa
học xâm phạm vào hoạt động của quần chúng thì nó trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con
người có thể giữ vai trò quyết định đến kết quả của hoạt động thực tiển. Có
nghóa là, nhân tố chủ quan với sự nhận thức đúng đắn và ý chí của con
người có thể phát huy được năng lực tối đa của các nhân tố vật chất và nhân
tố tinh thần trong những điều kiện khách quan nhất định. Nhưng xét quá
trình lâu dài thì nhân tố vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với
nhân tố tinh thần
* Ý nghóa phương pháp luận
Vật chất và các qui luật khách quan vốn có của nó đều tồn tại khách quan
độc lập với ý thức của con người nhưng lại quyết định với ý thức của con
người. Cho nên, trong hoạt động thực tiển xã hội của con người phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, chứ không xuất phát từ ý muốn chủ quan của
con người. Nhưng mặt khác cũng phải thấy tính độc lập tương đối và tính
tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn Khắc
phục tính tiêu cực, thụ động và ỷ lại trông chờ vào điều kiện khách quan
Chống lại quan điểm duy tâm siêu hình về vấn đề này Vận dụng vào quá
trình học tập và công tác của bản thân
Vai trò của nhận thức có một vị trí đặc biệt trong quá trình thúc đẩy xã hội
phát triển hay kìm hãm sự phát triển của xã hội không được chủ quan duy ý
chí mà phải phản ánh đúng quy luật:
* Vật chất: -Hoàn cảnh địa lý -Điều kiện dân số -Phương thức sản xuất -Lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất -Khoa học công nghệ -Tri thức xã hội
-Nhân tố con người *Ý thức: -Tư tưởng -Triết học -Chính trị -Đạo đức -Tập
quán -Tâm lý -Truyền thống
Vai Trò Của Tri Thức Khoa Học Đối Với Sự Nghiệp Đổi Mới Của Kinh Tế
Nước Ta Hiện Nay
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là một bước
nhảy vọt trong lực lượng sản xuất. Thực chất của cuộc cách mạng đó là ở
chỗ nó mở ra kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hóa với việc phát triển
ứng dụng điều khiển học và vô tuyến điện tử. Khoa học là điểm xuất phát
cho những biến đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuất, tạo ra những ngành mới
như chế tạo ra vật liệu mới, khai thác nguồn năng lượng mới…. Đặc điểm
chung đòi hỏi thay đổi mối quan hệ giữa khoa học và thực tiễn, mà trong đó
tri thức khoa học được vật chất hóa kết tinh vào mọi yếu tố của lực lượng sản
xuất. Cho nên, ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghó ở nước ta hiện nay, đườnglối
đúng đắn của đảng và nhà nước ta có khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hòa
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, giải quyết kịp thời
những mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân, tạo những điều kiện thuận lợi để
mỗi cá nhân có điều kiện phát triển toàn diện. Bên cạnh đó, việc xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đi
đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghóa luôn đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghóa vụ của mọi công
dân, chống đặc quyền đặc lợi: phát huy yếu tố con người là mục đích cao
nhất trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội là một yêu cầu trong việc
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở nước ta hiện nay.
Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức, sự hình thành và phát triển của ý
thức có liên quan mật thiết đến quá trình con người nhận thức về thế giới,
tích lũy những tri thức, sự hiểu biết nói chung. Tri thức là kết quả của quá
trình phản ánh thế giới khách quan và có tính chất lịch sử xã hội. Tri thức
bao gồm có tri thức cảm tính và tri thức lý tính (hoặc tri thức kinh nghiệm và
tri thức lý luận). Như vậy, xét về nguồn gốc tri thức là một hiện tượng mang
tính xã hội. Chúng ta biết rằng khoa học là hệ thống các tri thức của con
người về thế giới. Tri thức khoa học khác biệt với tri thức thông thường và tri
thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm được hình thành một cách trực tiếp
thông qua những điều kiện sống thường ngày, mang tính hiện tượng, tính
bên ngoài, tính riêng biệt và cụ thể, còn tri thức khoa học đem lại hiểu biết
cái bản chất, cái qui luật của hiện thực khách quan. Xét về vai trò và tác
dụng, tri thức khoa học bao gồm khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng.
Khoa học cơ bản vạch ra những nguyên tắc, qui tắc, phương pháp cụ thể để
ứng dụng trực tiếp vào hoạt động cải tiến tự nhiên và xã hội. Vai trò của tri
thức khoa học ngày càng quan trọng và đóng vai trò chủ đạo trong việc định
hướng nền kinh tế, một nền kinh tế đang chuyển mình đi lên: *Trong sự
chuyên môn hóa, tự động hóa ngày càng cao, tri thức khoa học được kết tinh
trong mọi nhân tố của lực lượng sản xuất-trong đối tượng lao động - kỹ thuật
– quá trình công nghệ và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của
sản xuất; người lao động không còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ
thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng tri thức khoa học để điều khiển và
kiểm tra quá trình sản xuất, hoàn thiện lực việc quản lý kinh tế… *Khoa học
ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thành đối tượng lao động,
thành máy móc thiết bị và phương pháp công nghệ mới, thành các hình
thức tổ chức sản xuất mới, cho nên tri thức khoa học là không thể thiếu được
trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta hiện nay. Chúng ta bước vào
xây dựng XHCN với một xuất phát điểm về kinh tế nhất là lực lượng sản
xuất do đó chúng ta phải tập trung sức lực toàm dân để phát triển lực lượng
sản xuất trước hết là đầu tư cho chiến lược con người (nhất là người lao
động) mặt khác từng bước cải tiến thay đổi công cụ sản xuất nghèo nàn lạc
hậu nếu có điều kiện thì thay thế bằng công nghệ mới hiện đại. Do đó tri
thức khoa học thực sự đóng một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới nền kinh tế nước ta hiện nay.
Câu 6: Tại Sao Khi Xem Xét Đánh Giá 1 Sự Vật Hiện Tượng Hay Con Người
Nào Đó , Chúng Ta Phải Có Quan Điểm Lịch Sử ,Cụ Thể, Toàn Diện Và
Phát Triển ?
Cơ sở lý luận của những quan điểm: toàn diện, lịch sử và cụ thể. Đó là nội
dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Như chúng ta đã biết đối lập phép
biện chứng, quan điểm siêu hình coi sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng
trong thế giới là những cái tách rời nhau, giữa chúng không có sự liên hệ tác
động qua lại, không có sự chuyển hóa lẫn nhau và nếu có chỉ là sự liên hệ
có tính ngẫu nhiên, gián tiếp.... Phương pháp siêu hình được phổ biến rộng
rãi trước hết trong khoa học tự nhiên và sau đó trong triết học và nổi bật hơn
cả là ở thế kỷ 17 – 18 . Đối với khoa học tự nhiên thời kỳ này do phương
pháp sưu tầm tài liệu, cho nên việc tách rời các bộ phận riêng của sự vật có
ý nghóa đối với nghiên cứu khoa học. Nhưng sẽ sai lầm khi phương pháp này
thể hiện ở trong triết học, vì nó không có khả năng nhận thức cái chung, cái
bản chất và qui luật của hiện thực khách quan. Trên cơ sở kế thừa và phát
triển những tư tưởng biện chứng trong lịch sử và đồng thời khái quát những
thành tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ
XIX. Mác đã nêu lên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nội dung nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến cho rằng, trong sự tồn tại của các sự vật và hiện
tượng của thế giới không phải là sự tồn tại tách rời và cô lập lẫn nhau, mà
chúng là một thể thống nhất. Trong thể thống nhất đó nó có những mối liên
hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc và phụ thuộc, qui định lẫn nhau,
chuyển hóa cho nhau... Xét về mặt hình thức mối liên hệ phổ biến của các
sự vật và hiện tượng thể hiện mang tính đa dạng và phong phú như: *Mối
liên hệ bên trong bản chất các sự vật và hiện tượng, là mối liên hệ giữa các
thuộc tính, các yếu tố bên trong (mâu thuẫn bên trong) qui định sự tồn tại,
vận động và phát triển của các sự vật. *Mối liên hệ bên ngoài của các sự vật
và hiện tượng. *Mối liên hệ về không gian, thời gian; mối liên hệ bản chất
và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả; nội dung và hình thức... Dù thể hiện
dưới hình thức nào thì mối liên hệ đều mang tính phổ biến, tính khách quan
và tính qui luật.
Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghóa đối với hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người:
*Về nguyên tắc phải thừa nhận tính khách quan, tính qui luật của mối liên
hệ phổ biến ở trong hiện thực. *Vì phải có quan điểm toàn diện, quan điểm
này đòi hỏi chúng ta phải phân tích về sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ
với sự vật khác. Đồng thời phải nghiên cứu tất cả những mặt, những yếu tố,
những mối liên hệ vốn có của nó. Qua đó để xác định được mối liên hệ bên
trong, bản chất...để từ đó có thể nắm bắt được bản chất, qui luật của sự vật
và hiện tượng (nên lấy ví dụ minh họa thêm thì càng tốt). Ví dụ: khi nhận
xét một người nào đó không thể chỉ nhìn bề ngoài của người đó mà đưa ra
nhận xét, phải xét đến những yếu tố khác như bản chất tính tình, họ đối xử
với mình có thật lòng hay không, những mối liên hệ của người đó với những
người xung quanh như với người thân hay với những người bạn của người đó
có tốt hay không. Vì phải có quan điểm cụ thể, bởi vì trong quá trình tồn tại
vận động và phát triển của bản thân các sự vật và hiện tượng là một quá
trình có tính giai đoạn. Cho nên khi phân tích tính toàn diện về các mối liên
hệ của sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ cụ thể, với những điều kiện lịch
sử cụ thể của các mối quan hệ đó (nên lấy ví dụ minh họa thêm thì càng
tốt). *Sự phát triển bao hàm sự vận động, sự xuất hiện cái mới theo chiều
hướng đi lên. Nhưng không phải bất kỳ sự vận động nào cũng bao hàm sự
phát triển. Cho nên, sự phát triển và đổi mới là hiện tượng diễn ra không
ngừng ở trong tự nhiên, xã hội và tư duy mà nguồn gốc của nó là sự đấu
tranh của các mặt đối lập trong bản thân các sự vật và hiện tượng. Khái
niệm phát triển thì không khái quát mọi sự vận động nói chung. Nó chỉ khái
quát những vận động đi lên, sự xuất hiện cái mới theo một chiều hướng
chung là từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp, từ cái chưa hoàn thiện đến
cái hoàn thiện. *Muốn nắm bắt được bản chất của sự vật và hiện tượng, nắm
bắt được khuynh hướng vận động của chúng thì phải có quan điểm phát
triển. *Về mặt nguyên tắc phải thừa nhận tính khách quan, qui luật và phát
triển là khuynh hướng của sự vận động của các sự vật và hiện tượng.
*Quan điểm phát triển với yêu cầu khi phân tích một sự vật, hiện tượng phải
đặt nó trong sự vận động, phải phát hiện được xu hướng biến đổi, chuyển
hóa của chúng. *Quan điểm phát triển còn đòi hỏi chúng ta phải có quan
điểm đúng về cái mới, cái mới phù hợp với qui luật, cái mới là tiêu chuẩn
của sự phát triển (nên lấy ví dụ minh họa thêm thì càng tốt).
Câu 7 : Dựa Trên Những Cơ Sở Lý Luận Nào Mà Đảng Ta Lại Chủ Trương
Xây Dựng Quan Hệ Sản Xuất Dựa Trên Chế Độ Đa Dạng Hóa Hình Thức Sở
Hữu Với 1 Nền Kinh Tế Hàng Hóa Nhiều Thành Phần Và 1 Chế Độ Phân
Phối Lao Động ?
Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghóa bỏ qua phương thức sản xuất
tư bản chủ nghóa với ý nghóa bỏ qua chế độ chính trị của chủ nghóa tư bản.
Nhưng trong điều kiện chủ trương một kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhằm phát huy mọi tiềm
năng các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây
dựng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghóa, từng bước xã hội hóa chủ nghóa. Trong
đó kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữa vai trò chủ đạo có ý nghóa quyết
định đối với sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay.... Nước ta trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghóa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghóa, không có nghóa là xóa bỏ các quan hệ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, mà chỉ phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Hiện
nay trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghóa. Cho nên việc duy trì và phát triển hình thức sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất là một yêu cầu khách quan mang tính qui luật. Bởi vì,
trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghóa, thì sở hữu tư
nhân như một bộ phận tự nhiên của quá trình kinh tế nhiều thành phần
cũng có ý nghóa thúc đẩy phát triển sản xuất nâng cao đời sống của nhân
dân. Mặt khác, duy trì và phát triển kinh tế tư nhân (dưới mọi hình thức), thì
đồng thời với nó là thu hút nguồn lực về vốn, về lao động, về quá trình
chuyển giao công nghệ mới....Nhưng nó đều thông qua sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghóa. Nhà nước xã hội chủ nghóa sẽ giữa vai trò quyết định
và điều tiết chung đối với các hình thức sở hữu này phải phục vụ cho lợi ích
của nhân dân. *Trong cơ cấu kinh tế xã hội chủ nghóa hiện nay ở nước ta,
thì hình thức sở hữu công cộng ngày càng được hoàn thiện và phát triển.
Trong đó nền kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữa vai trò chủ đạo, quyết
định đối với nền kinh tế hiện nay. Cho nên, xét về loại hình quan hệ sản
xuất cơ bản hiện nay ở nước ta bao gồm quan hệ sản xuất xã hội chủ nghóa
dựa trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất cũ
dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nhưng nó thống nhất
và mang tính mâu thuẫn trong một cơ cấu kinh tế thống nhất – kinh tế thị
trường có định hướng xã hội chủ nghóa và dưới sự quản lý của nhà nước xã
hội chủ nghóa. *Trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghóa ở nước ta hiện
nay, đườnglối đúng đắn của đảng và nhà nước ta có khả năng bảo đảm sự
kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, giải
quyết kịp thời những mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân, tạo những điều kiện
thuận lợi để mỗi cá nhân có điều kiện phát triển toàn diện. Bên cạnh đó,
việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường đi đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghóa luôn đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghóa vụ
của mọi công dân, chống đặc quyền đặc lợi: phát huy yếu tố con người là
mục đích cao nhất trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội là một yêu
cầu trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở
nước ta hiện nay. *Kết cấu quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt quan hệ cơ
bản sau: -Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xét vềmặt lịch sử quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản, đó là sở
hữu tư nhân và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất là hình thức sở hữu mà các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
(không phải tất cả) thuộc về các chủ thể xã hội là cá nhân, hay một lực
lượng xã hội nhất định, Điều đó có nghóa là tư liệu sản xuất không thuộc về
chung, của toàn xã hội. Xét về mặt bản chất hình thức sở hữu này là nguồn
gốc của những quan hệ bóc lột, bất bình đẳng xã hội, là quan hệ người bóc
lột người. Còn quan hệ sở hữu xã hội là hình thức tất cả các tư liệu sản xuất
(chủ yếu) của xã hội thuộc về của chung, của toàn xã hội. Xét về mặt bản
chất quan hệ sở hữu này là cơ sở cho quá trình xây dựng quan hệ bình đẳng
và nó có khả năng xóa bỏ quan hệ bóc lột người.... -Quan hệ tổ chức quản lý
sản xuất. Quan hệ này thể hiện sự giống nhau và khác nhau của các chủ thể
xã hội về vai trò, vị trí, về quyền tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ này
hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, Bởi vì,
những chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì họ sẽ
là người nắm vai trò tổ chức và quản lý sản xuất vật chất của xã hội.
-Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ này thể hiện sự khác
nhau và giống nhau của các chủ thể xã hội về mức hưởng thụ đối với sản
phẩm vật chất của xã hội, cũng như quyền phân phối sản phẩm vật chất của
xã hội. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất. Bởi vì, chủ thể xã hội nào nắm giữ tư liệu sản xuất thì đồng thời họ
có mức hưởng thụ nhiều hơn, và là người có quyền quyết định phân phối sản
phẩm vật chất của xã hội. *Trong ba mặt quan hệ của quan hệ sản xuất đều
có sự tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là
quan hệ giữ vai trò quyết định trong quan hệ sản xuất. -Quan hệ phân phối
sản phẩm lao động thể hiện sự khác nhau và giống nhau của các chủ thể xã
hội về mức hưởng thụ đối với sản phẩm vật chất của xã hội. Quan hệ này
hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bởi vì, chủ
thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất thì đồng thời họ là người có mức hưởng
thụ nhiều hơn, và là người có quyền quyết định phân phối sản phẩm vật
chất của xã hội. -Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là một qui luật chung nhất của sự phát triển
xã hội. Sự tác động của qui luật này đã khẳng định tính tất yếu khách quan
của sự phát triển xã hội từ phương thức sản xuất xã hội Nguyên thủy, Chiếm
hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghóa và phương thức Cộng sản chủ
nghóa tương lai
Câu 8: Phân Tích Vai Trò Của Quần Chúng Nhân Dân Trong Lịch Sử Và
Việc Đảng Ta Chủ Trương Cách Mạng Và Sự Nghiệp Của Quần Chúng ?
Vai Trò Của Quần Chúng Nhân Dân Trong Lịch Sử
*Khái niệm quần chúng nhân dân thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử.
Bởi nó gắn liền với những hình thái kinh tế-xã hội và điều kiện lịch sử nhất
định. Nhưng dù thay đổi và phát triển như thế nào thì nội dung khái niệm
quần chúng nhân dân luôn được xác định bởi những nội dung sau đây:
-Quần chúng nhân dân trước hết là những người lao động. Đó là những lực
lượng lao động xã hội trực tiếp tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. -Quần
chúng nhân dân, được thể hiện là những bộ phận dân cư có khuynh hướng
luôn chống lại những giai cấp thống trị áp bức bóc lột mà lợi ích căn bản
của những giai cấp ấy đối kháng với lợi ích đông đảo của nhân dân lao
động. -Quần chúng nhân dân còn bao gồm các giai cấp và các tầng lớp xã
hội có ý nghóa thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Như vậy, nội dung khái
niệm quần chúng nhân dân là rất rộng bao gồm nhiều lực lượng xã hội và
hoạt động của họ trong nhiều lónh vực khác nhau. Nhưng hiểu theo nghóa
chung nhất là những lực lượng có ý nghóa quyết định đi với sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Quần chúng nhân dân là những lực lượng xã hội có ý
nghóa quyết định đối với sự phát triển của xã hội, được thể hiện trong hoạt
động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội và trong lónh vực tinh thần
của xã hội. *Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vó nhân, lãnh tụ đối
với sự phát triển của lịch sử, là sự khẳng định quần chúng nhân dân bao giờ
cũng là người sáng tạo chân chính ra lịch sử còn vó nhân, lãnh tụ chỉ có ý
nghóa quan trọng. Nhưng ở trong những điều kiện lịch sử nhất định vó nhân,
lãnh tụ có thể giữa vai trò “quyết định” đối với sự phát triển của lịch sử với ý
nghóa là người tạo ra những bước ngoặt vó đại của sự phát triển lịch sử,
Nhưng xét cho cùng về lâu dài quần chúng nhân dân vẫn là người quyết
định đối sự phát triển của lịch sử *Vai trò của quần chúng nhân dân bao giờ
cũng là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. *Xuất phát từ nguyên lý cơ bản
của chủ nghóa duy vật lịch sử khẳng định rằng quần chúng nhân dân là
người sáng tạo chân chính ra lịch sử, được thể hiện với ba nội dung sau: -Vai
trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động sản xuất vật chất của xã hội.
Xuất phát từ nguyên lý cơ bản của chủ nghóa duy vật lịch sử cho rằng sản
xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội trong đó hoạt
động của quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp tạo ra mọi của cải vật
chất cho xã hội. Hoạt động tạo ra của cải vật chất cho xã hội của quần
chúng nhân dân đồng thời cũng có ý nghóa quyết định cho việc tạo ra những
giá trị tinh thần của xã hội. Đó là quá trình hình thành phong tục tập quán,
truyền thống và nền văn hóa dân tộc....đồng thời hoạt động của quần chúng
nhân dân còn là đối tượng phục vụ của hoạt động văn hóa và tinh thần nói
chung của xã hội. -Vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động đấu
tranh xã hội với tính cách họ là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình
kinh tế, chính trị và xã hội. Trong lónh vực này vai trò của quần chúng là lực
lượng cơ bản của cuộc cách mạng xã hội, bởi vì Lênin đã từng khẳng định
rằng sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Mặt khác, trong
hoạt động đấu tranh xã hội vai trò của quần chúng nhân dân còn được thể
hiện đối với quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc và cộng
đồng dân tộc. -Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa
là mục đích cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Điều này có ý nghóa là lợi
ích chung của toàn bộ xã hội luôn là lợi ích chung của quần chúng nhân
dân. Cho nên, lịch sử phát triển của xã hội và tiến bộ xã hội là việc nâng
cao đời sống của quần chúng nhân dân, khẳng định vai trò của quần chúng
nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử.
Phân Tích Việc Đảng Chủ Trương Cách Mạng Và Sự Nghiệp Của Quần
Chúng
*Một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghóa duy vật lịch sử khẵng
định rằng quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử,
được thể hiện với ba nội dung sau đây: -Vai trò của quần chúng nhân dân
trong hoạt động sản xuất vật chất của xã hội. Xuất phát những nguyên lý cơ
bản của chủ nghóa duy vật lịch sử cho rằng sản xuất vật chất là cơ sở cho sự
tồn tại và phát triển của xã hội và trong đó hoạt động của quần chúng nhân
dân là lực lượng trực tiếp tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động
tạo ra của cải vật chất cho xã hội của quần chúng nhân dân đồng thời cũng
có ý nghóa quyết định cho việc tạo ra nhng giá trị tinh thần của xã hội. Đó là
quá trình hình thành phong tục tập quán, truyền thống và nền văn hóa dân
tộc....đồng thời hoạt động của quần chúng nhân dân còn là đối tượng phục
vụ của hoạt động văn hóa và tinh thần nói chung của xã hội. -Vai trò của
quần chúng nhân dân trong hoạt động đấu tranh xã hội với tính cách họ là
chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, chính trị và xã hội.
Trong lónh vực này vai trò của quần chúng là lực lượng cơ bản của các cuộc
cách mạng xã hội, bởi vì Lênin khẳng định rằng sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng. Mặt khác, trong hoạt động đấu tranh xã hội vai trò
quần chúng nhân dân còn được thể hiện đối với quá trình hình thành và
phát triển của các dân tộc và cộng đồng dân tộc. -Lợi ích của quần chúng
nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là mục đích cuối cùng của sự nghiệp
cách mạng. Điều này có nghóa là lợi ích chung của toàn bộ xã hội luôn là lợi
ích chung của quần chúng nhân dân. Cho nên, lịch sử phát triển của xã hội
và tiến bộ xã hội là việc nâng cao đời sống của quần chúng nhân dân,
khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính
ra lịch sử. *Nội dung khái niệm quần chúng nhân dân là rất rộng bao gồm
nhiều lực lượng xã hội và hoạt động của họ trong nhiều lónh vực khác nhau.
Nhưng hiểu thao nghóa chung nhất là những lực lượng có ý nghóa quyết định
đi với sự tồn tại và phát triển xã hội. *Quần chúng nhân dân là những lực
lượng xã hội có ý nghóa quyết định đối với sự phát triển của xã hội, được thể
hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội và trong lónh
vực tinh thần của xã hội. -Nghiên cứu lịch sử đấu tranh xã hội, những nhà
kinh điển của chủ nghóa Mác-Lênin cho rằng: bạo lực là điều kiện tiên
quyết, tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội. Một trong những điều kiện
khách quan cho một cuộc cách mạng nổ ra và thành công đó là tính tích cực
của quần chúng nhân dân được nâng cao...thấy phải tiến hành cách mạng
và sẳn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng đó.Việc Đảng chủ trương
cách mạng gắn liền với quần chúng nhân dân là một chủ trương đúng đắn
mang đậm tính dân tộc Ỉ động lực cho công cuộc cách mạng thành công.
Câu 9: Vai Trò Và Kết Cấu Của Thức Xã Hội Và Việc Đảng Ta Chủ Trương
Lấy Chủ Nghóa Mác-Lênin Làm Kim Chỉ Nan Mọi Hoạt Động Cách Mạng
Miền Nam ?
Vai Trò Và Kết Cấu Của Thức Xã Hội
*Khái niệm ý thức xã hội: -Toàn bộ đời sống xã hội được chia thành hai lónh
vực lớn: lónh vực vật chất và lónh vực tinh thần, đó là tồn tại xã hội và ý thức
xã hội. Cho nên ý thức xã hội có vai trò là lónh vực tinh thần của đời sống xã
hội. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển khác nhau, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư
tưởng lý luận, hoặc tồn tại thông qua các hình thái ý thức xã hội cụ thể khác
nhau như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức... Như vậy, ý
thức xã hội trước hết là lónh vực tinh thần của xã hội. Ý thức xã hội chỉ là sự
phản ánh tồn tại xã hội, nó là cái có sau, cái phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Về mặt kết cấu ý thức thể hiện dưới nhiều cấp độ phản ánh khác nhau đối
với tồn tại xã hội
*Kết cấu của ý thức xã hội
*Ý thức xã hội bao gồm nhiều cấp độ khác nhau: ý thức sinh hoạt đời thường
và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng *Ý thức sinh hoạt đời thường
và ý thức lý luận: -Sự phân chia ý thức xã hội thành ý thức sinh hoạt đời
thường và ý thức lý luận đó là sự đối lập giữa một bên là nhân sinh quan
trong thực tiển cuộc sống chưa được hệ thống hóa, với bên kia là tập họp xã