Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Lich su ngay 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.82 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Kính thưa: - </b><i><b>Quý vị đại biểu</b></i>


<i><b> - Thưa Thầy Nguyễn Ngọc Mỹ Bí thư chi bộ hiệu trửởng nhà </b></i>
<i><b>trường </b></i>


<i><b> - Thưa các thầy cô giáo cùng các em học sinh thân mến.</b></i>
<i><b>Hôm nay chúng ta có mặt ở đây trong buổi lễ trọng thể kỷ niệm năm thứ </b></i>
<i><b>28 ngày nhà giáo VN, Lời đầu tiên cho phép tôi gửi tới tất cả các thầy cô giáo, </b></i>
<i><b>các cán bộ viên chức đang làm công tác GD những lời chào mừng thân thiết và </b></i>
<i><b>lời chúc tốt đẹp nhất.</b></i>


<b>Ở</b>

<b> bất kỳ thời đại nào, nghề nhà giáo vẫn không so bì được với nghệ sỹ </b>
<b>về sự nổi tiếng, với doanh nhân về sự giàu có, với nhiều nghề khác về sự đủ </b>
<b>đầy. Nhưng, cũng ít ai giàu có hơn những người thầy về tình cảm.</b>


<b>Trước đây, làm thầy có nghĩa là làm bạn với bảng đen, phấn trắng. Ngày nay, </b>
<b>hình ảnh người giáo viên đã gắn với những phương tiện giảng dạy hiện đại. Có </b>
<b>thể ở đâu đó, những câu chuyện khơng hay về thầy cơ gây những dư luận </b>
<b>không hay. Nhưng, người Việt Nam vẫn luôn truyền thống tôn sư trọng đạo từ </b>
<b>ngàn xưa.</b>


<b>Thật hạnh phúc cho những người thầy khi có thêm một ngày Tết của riêng </b>
<b>mình, để tràn ngập trong hoa và những lời chúc mừng.</b>


<b>Thật vinh dự cho những người thầy khi được nhìn các lứa học sinh của mình </b>
<b>khơn lớn </b>


<b>trưởng thành, bay đi khắp các phương trời.</b>


<b>Thật xúc động khi có những người thầy lớn, khi nằm xuống được các thế hệ học</b>
<b>trị nghiêng mình trước trí tuệ và nhân cách.</b>



<b>Mọi dịng sơng lại đổ về với biển. 20/11 là dịp tỏ bày những tình cảm đẹp nhất </b>
<b>tới thầy cô.</b>


<b>Tôn sư trọng đạo là một truyền thống lâu đời quý báu của dân tộc ta. </b>
<b>Truyền thống đó từ xa xưa đã được nhân dân ta lưu truyền trong những câu tục</b>
<b>ngữ, ca dao mà mọi người đều thấy quen thuộc: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, </b>
<b>“Không thầy đố mày làm nên”, “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ </b>
<b>thì yêu kÝnh thầy”. Lịch sử giáo dục của dân tộc ta cũng sẽ cịn ghi mãi cơng lao </b>
<b>những người thầy tiêu biểu, được nhân dân mãi mãi tôn vinh, gương sáng còn </b>
<b>lan tỏa đến ngày nay như thầy Đỗ Năng Tế (thầy dạy cả văn lẫn võ cho hai chị </b>
<b>em Trưng Trắc và Trưng Nhị), thầy Chu Văn An, thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy </b>
<b>Nguyễn Đình Chiểu. Những người thầy đó đã để lại những tấm gương sáng về </b>
<b>đạo làm thầy, không màng danh lợi, khơng chuộng hư vinh, hết lịng đào tạo </b>
<b>bao thế hệ học trò, con em nhân dân phò đời giúp nước, làm rạng rỡ những </b>
<b>trang sử vẻ vang của dân tộc.</b>


<b>Truyền thống tơn sư trọng đạo cịn được thể hiện ở một phong tục đẹp của </b>
<b>nhân dân ta. Hằng năm, cứ mỗi độ Tết đến Xuân về, ông bà, cha mẹ lại không </b>
<b>quên nhắc nhở con cháu đi chúc Tết “mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng</b>
<b>ba tết thầy”. Trong khơng khí “vui như Tết”, mọi người vẫn không quên dành </b>
<b>cho những người thầy sự quan tâm đầy tình nghĩa.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 - 11 bắt đầu được tổ chức từ bao giờ?</b>


<b>Tháng 7 - 1946 tại Paris (thủ đơ Cộng hịa Pháp), một tổ chức các nhà giáo tiến</b>
<b>bộ trên thế giới được thành lập lấy tên là “Liên hiệp Quốc tế các Cơng đồn </b>
<b>Giáo dục” (Federation International Syndicale des Enseignats, viết tắt là FISE)</b>
<b>Ba năm sau, vào năm 1949, tại Vasava (thủ đô Ba Lan), tổ chức FISE họp hội </b>
<b>nghị thông qua một bản Hiến chương gồm 15 chương với nội dung chủ yếu là </b>


<b>xây dựng nền giáo dục tiến bộ, bảo vệ những quyền lợi vật chất và tinh thần </b>
<b>chính đáng của nghề dạy học, tơn vinh vai trị cao q của nhà giáo.</b>


<b>Ngày 22 - 7 - 1951, Cơng đồn giáo dục Việt Nam được thành lập. Vào thời </b>
<b>điểm đó, tuy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta </b>
<b>đang diễn ra hết sức quyết liệt nhưng Cơng đồn giáo dục Việt Nam đã tìm mọi </b>
<b>cách đặt quan hệ với FISE để tranh thủ các diễn đàn quốc tế tố cáo âm mưu, </b>
<b>thủ đoạn và tội ác của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với nhân dân ta cũng </b>
<b>như đối với giáo viên và học sinh.</b>


<b>Tháng 2 - 1953, tổ chức FISE họp hội nghị tại Viên (thủ đô nước Áo) có mời </b>
<b>Cơng đồn giáo dục Việt Nam tham dự. Đồn đại biểu Cơng đồn giáo dục Việt </b>
<b>Nam do Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Khánh Toàn dẫn đầu đã tham dự hội </b>
<b>nghị. Tại hội nghị này, Cơng đồn giáo dục Việt Nam được kết nạp vào tổ chức </b>
<b>FISE.</b>


<b>Từ ngày 26 đến 30 - 8 - 1957, tại Vacsava (thủ đô Ba Lan), Hội nghị FISE được </b>
<b>tổ chức có đại biểu của 57 nước tham dự, trong đó có đồn đại biểu của Cơng </b>
<b>đồn giáo dục Việt Nam. Hội nghị đã thông qua bản Hiến chương Quốc tế các </b>
<b>nhà giáo và quyết định lấy ngày 20 - 11 hằng năm là ngày “Quốc tế Hiến </b>
<b>chương các Nhà giáo”. Ngày 20 - 11 - 1958, lần đầu tiên ngành giáo dục Nước </b>
<b>Việt Nam Dân chủ Cộng hòa long trọng tổ chức kỉ niệm “Quốc tế Hiến chương </b>
<b>các Nhà giáo” trên toàn miền Bắc từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến</b>
<b>miền núi.</b>


<b>Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mặc dù chiến tranh phá </b>
<b>hoại của giặc Mỹ diễn ra rất ác liệt, ngày 20 – 11 vẫn là ngày hội được tổ chức </b>
<b>rộng rãi trong nhân dân, nhất là trong các thầy, cô giáo, cán bộ ngành giáo dục </b>
<b>và học sinh, sinh viên. </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Ngày 2 - 12 - 1998, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa </b>
<b>Việt Nam khóa X đã thơng qua Luật Giáo dục (1998). Điều 66 luật này quy </b>
<b>định: “Ngày 20 - 11 hằng năm là Ngày Nhà giáo Việt Nam”. </b>


<b>Ngày 14 - 6 - 2005 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa </b>
<b>Việt Nam khóa XI đã thơng qua Luật Giáo dục 2005. Điều 76 luật này quy định: </b>
<b>“Ngày 20 tháng 11 hằng năm là ngày Nhà giáo Việt Nam”.</b>


<b>Những quyết định và điều luật trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện sự </b>
<b>tôn vinh của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với vị trí, vai trò của nhà giáo </b>
<b>trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. </b>


<b>Nắm vững lịch sử Ngày Nhà giáo Việt Nam cũng nhắc nhở mỗi chúng ta khi kỉ </b>
<b>niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 – 11 không nhầm lẫn với “Quốc tế Hiến </b>


<b>chương các Nhà giáo” – một hoạt động đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử với giáo </b>
<b>giới Việt Nam.</b>


<b>Ngồi ra tơi cịn muốn nói vài nét về:</b>


<i><b>Người thầy của muôn đời Thầy Chu Văn An</b></i>



<b>Hơn sáu thế kỉ đã trôi qua, thầy Chu Văn An đã thực sự xa cõi đời này nhưng </b>


<b>thông trên núi Phượng Hồng ngàn năm vẫn xanh và cao khiết như khí tiết của thầy </b>


<b>vậy. Tôi chợt hiểu rằng, người ta chỉ thực sự chết khi khơng để lại trong lịng người đang</b>


<b>sống một điều gì cả. Chu Văn An thì không thế, Thầy đã đi xa nhưng tên tuổi, tài năng, </b>


<b>tâm huyết và phẩm cách của người luôn ngời sáng cùng thời gian.</b>



<b>Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292), mất năm Canh Tuất (1370), tên hiệu là</b>


<b>Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm</b>



<b>(nay là huyện Thanh Trì – Hà Nội).</b>



<b>Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là người cương trực, ln sửa mình</b>


<b>trong sạch, giữ tiết tháo, khơng màng danh lợi, chỉ thích ở nhà đọc sách thánh hiền. Khi</b>


<b>thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), ông không ra làm quan như những người khác mà về quê</b>


<b>nhà mở trường dạy học. Học trò khắp nơi về xin học rất đơng. Học trị của ông không</b>


<b>chỉ được học chữ thánh hiền mà còn được dạy về đạo đức của bậc trí nhân quân tử. Về</b>


<b>sau, dù ở cương vị nào, họ cũng là những tấm gương về tài năng và đức độ. Trong số đó,</b>


<b>nổi tiếng nhất phải kể đến Phạm Sư Mạnh và Lê Quát, cả hai đều đỗ Thái học sinh và</b>


<b>làm quan đến chức Hành khiển trong triều Trần. Dù quyền cao chức trọng nhưng mỗi</b>


<b>lần tới thăm thầy, họ đều quỳ gối để được thỉnh giáo. Điều đó một mặt cho ta thấy đạo</b>


<b>đức tuyệt vời của học trò chốn cửa Khổng sân Trình nhưng mặt khác khẳng định Chu</b>


<b>Văn An phải là người tài năng và đức độ như thế nào mới được học trị trọng vọng như</b>


<b>vậy. Có huyền thoại kể rằng, ngay cả thần nước cũng tìm tới ơng để học, nhân một năm</b>


<b>trời hạn hán vì vâng lời thầy, người học trò thủy thần ấy đã làm phép gọi mưa giúp dân,</b>


<b>dù biết trước là phải chết. Câu chuyện nửa phần hư thực đó mãi mãi là một giai thoại</b>


<b>không thể kiểm chứng nhưng dù sao nó cũng thể hiện sự đức độ của thầy Chu Văn An</b>


<b>có sức cảm hóa cả trời đất, quỷ thần .</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng</b>
<b>bài xong ơng tụ tập các trị lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người</b>
<b>học trị kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời</b>
<b>thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì</b>
<b>khơng hay, mong thầy chu tồn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực,</b>
<b>ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung</b>
<b>cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm</b>
<b>hơm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An</b>
<b>được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận</b>
<b>cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần.</b>
<b>Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào</b>


<b>cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng</b>
<b>này thành một làng văn học, q hương của Ngơ Thì Sĩ, Ngơ Thì Nhậm, v.v... Trong đền</b>
<b>thờ thần cịn đơi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích</b> <b>này</b>


Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận...
Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô...
(Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải...
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa)...
(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An)...
<b>Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu</b>
<b>có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của</b>
<b>Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.</b>


<b> Danh tiếng của Chu Văn An vọng đến triều đình, vua Trần Minh Tơng mời ơng vào</b>


<b>làm Tư nghiệp (Hiệu trưởng) Quốc tử giám, trực tiếp dạy Thái tử học. Ngồi việc dạy</b>


<b>học, ơng cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn đã tham gia vào</b>


<b>việc triều chính, củng cố triều Trần lúc đó đang đi vào con đường khủng hoảng, suy</b>


<b>thối. </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Hôm nay em tự hào về nhà trờng, ngµy mai trêng tù hµo vỊ em</b>


<b>Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 </b>


Trong những ngày của tháng 11, các thầy, cô giáo ở tất cả các trường học trong cả nước đang sôi
nổi với nhiều phong trào, hoạt động thi đua dạy tốt để chào mừng ngày “lễ hội” của các thầy cô -
những người làm công tác giáo dục.


Ngày 20/11 hàng năm, từ lâu đã trở thành ngày lễ “tôn sư trọng đạo”, tôn vinh những người thầy,
người cô đã và đang đứng trên bục giảng, truyền đạt tri thức và đạo làm người cho bao lớp học trò
nối tiếp nhau.



Lịch sử của ngày 20/11 được bắt đầu từ một Tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ thành lập ở Paris,
Pháp vào tháng 7/1946 lấy tên là F.I.S.E (Fédertion International Syndicale des Enseignants - Liên
hiệp quốc tế các cơng đồn giáo dục). Nǎm 1949 tại hội nghị Vacsxava, Ba Lan, tổ chức FISE đã
xây dựng một bản "Hiến chương các nhà giáo" gồm 15 chương với nội dung chủ yếu là đấu tranh
chống nền giáo dục tư sản, phong kiến, xây dựng nền giáo dục tiến bộ" bảo vệ những quyền lợi vật
chất và tinh thần chính đáng của nghề dạy học và nhà giáo, đề cao trách nhiệm và vị trí của nghề
dạy học và nhà giáo.


Trong những nǎm kháng hiến chống thực dân Pháp xâm lược, Cơng đồn giáo dục Việt Nam đã
quan hệ với tổ chức FISE để tranh thủ các diễn đàn quốc tế tố cáo âm mưu tội ác của bọn đế quốc
xâm lược đối với nhân dân ta cũng như đối với giáo viên và học sinh đồng thời giới thiệu những
thành tích của nền giáo dục cách mạng, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của giáo giới trên tồn thế
giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta.


Mùa xuân năm 1953, Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Khánh Toàn làm
trưởng đoàn đã tham dự Hội nghị quan trọng kết nạp Cơng đồn Giáo dục của một số nước vào tổ
chức FISE tại Viên (Thủ đô nước Áo), trong đó có Cơng đồn Giáo dục Việt Nam. Như vậy, chỉ một
thời gian ngắn sau khi thành lập (22/7/1951), Cơng đồn giáo dục Việt Nam được


kết nạp là một thành viên của FISE


Từ 26 đến 30/8/1957 tại thủ đơ Vacxava, có 57 nước tham dự hội nghị FISE. Trong đó có Cơng
đồn giáo dục Việt Nam. Đoàn Việt Nam đã quyết định lấy ngày 20/11/1958 làm ngày "Quốc tế hiến
chương các nhà giáo". Ngày này, lần đầu tiên được tổ chức trên toàn miền Bắc nước ta vào năm
1958. Những nǎm sau đó, ngày này cũng được tổ chức tại các vùng giải phóng ở miền Nam. Hàng
nǎm vào dịp kỷ niệm 20-11, cơ quan tiểu ban giáo dục thường xuất bản, phát hành một số tập san
đặc biệt để cổ vũ tinh thần đấu tranh của giáo giới trong vùng tạm chiếm, động viên tinh thần chịu
đựng gian khổ của anh chị em, giáo viên kháng chiến.



Sau ngày đất nước được thống nhất, giáo giới Việt Nam đoàn kết nhất trí xây dựng nền giáo dục
theo đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ý nghĩa của Quốc tế
hiến chương các nhà giáo đã hoàn thành sứ mạng lịch sử với giáo giới Việt Nam. Và ngày 20/11 đã
trở thành ngày truyền thống với mọi nội dung của giáo giới Việt Nam và nhân Việt Nam.


Ngày 20/11 hàng năm đã trở thành dịp đặc biệt để những cơ cậu học trị thể hiện tình cảm với
những người đã ln tận tình truyền đạt kiến thức, dìu dắt mình lớn lên. Đó là thời gian để suy
ngẫm, để nhớ về những kỉ niệm với thầy cơ đáng kính, là những hình ảnh thân thương, khơng thể
nào qn...Sẽ mãi theo chúng ta trên bước đường đời.


<b>Chào mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

như bị lạc lõng nơi đây... 2 con mắt như nhịe hơn, có lẽ vì bụi đường, cũng có thể là do
con gì bay vào mắt hay là nhớ về một nơi nào nào đó xa xăm trong ký ức - nơi có ba mẹ
, nơi có tuổi học trị nghịch ngợm và những người thầy, người bạn thân thương trong lớp
học và lớp nội trú..


20-11 nữa lại đến, khơng cịn trước mắt là con đường đến lớp ngày xưa, khơng cịn
những tiếng giản bài thân thương quen thuộc,những lời khuyên và hướng dẫn từng bước
đy bắt đầu vào cuộc sống, và cũng khơng cịn nữa những vụ me,kẹo,bánh tráng... giấu
ở hộc bàn... Khơng cịn nữa...Ước gì:


Ước gì hiện tại chỉ là mơ
để con được trở về chốn ấy
Giữa bạn bè nối vòng tay thân ái
Được vui-buồn-Hờn-Giận hồn nhiên


...


Con nhớ mãi buổi học đầu tiên


Lời thầy dạy:" Văn học là nhân học"
và chẳng ai học xong bài học làm người
Chúng con nhìn nhau khúc khích tiếng cười


Chuyền cho nhau gói me dầm cuối lớp
...


Nhưng hiện tai vẫn là hiện tại, ước thì ước có thế thơi. Nhưng hãy để cho con nói lên
những đièu chân thành nhất từ sâu thăm trái tim của con gởi đến thầy cô- những người
lái đị thầm lặng


<i>Gởi tới thấy Thắng(thúy-trực),Sinh(lý),Cơ Điền(chủ nhiệm),Tú(văn),Cơ Thịnh(av)...</i>
Người thầy cũng như một người cha


Người đã cho con những tri thức,tình thương..
Và dẫn dắt cho con từng bước đy vào cuộc sống


Những tri thức ngày hơm nay con có được
Những công ơn thầy đã dạy dỗ cho con


Con sẽ ghi mãi mãi trong lòng
Người thầy mến yêu của con!


<b>Nếu sắc đẹp là tội ác. </b>
<b>Em xứng đáng bị tử hình!!!</b>


Chu Văn An - Người Thầy của mn đời



Thứ hai, 10 Tháng 11 2008 00:00 Quản trị viên
Nguoi Thay Cua Muon Doi



Chuyện kể rằng, bà Lê Thị Chiêm - mẹ của Chu Văn An người làng Văn
Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội,
vào những ngày nơng nhàn, từ sáng sớm bà đã đi chợ, cái thúng úp trên
vai, trong thúng chỉ có cái đấu mang theo. Vốn liếng chẳng có, bà đến chỗ
người có gạo nhà đem bán để mua chịu và đem ra góc chợ chờ người
khác đến bán kiếm chút lãi nhỏ...


Tan chợ, đầu đội thúng, tay cắp bó bã mía thu ở chợ về làm đồ đun. Bà Chiêm tuy không biết chữ,
nhưng như con ong mật làm tổ xây đời, bà đã lo toan cho Chu Văn An học hành thành đạt, đậu Thái
học sinh. Tiếng đồn khắp vùng, ông là người tài cao đạo trọng, nhiều người đã biện lễ (trầu, cau,
chè) tìm đến xin thầy cho con mình được thọ giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thầy Chu Văn An mở trường Huỳnh Cung ở một làng quê giáp với làng mẹ sinh sống. Trường của
thầy có Hội đồng mơn do thầy chọn trong các môn sinh. Và Hội đồng tôn suy tôn trưởng tràng là
người giỏi giang và phẩm chất tốt. Do uyên bác, thầy Chu Văn An đủ sức dạy môn sinh học liền 10
năm để nộp quyển dự các kỳ thi hương, thi hội, thi đình, tức tú tài, cử nhân, tiến sĩ. Các môn sinh
của thầy, sử sách còn ghi lại: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đỗ Thái học sinh đời vua Trần Anh Tông đã
làm quan trọng triều đến chức Hành Khiển (Tể tướng).


Tiếng thơm của thầy Chu Văn An bay xa, lan tỏa đến cung đình, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (đời
vua Trần Minh Tơng) đã tìm đến trường Huỳnh Cung để trị chuyện như tìm được người bạn tri kỷ và
ướm lời mai mốt nhà vua sẽ ra chiếu chỉ vời ơng vào triều dạy học. Thực lịng, Chu Văn An không
muốn thay áo đổi giầy (cởi áo the mặc áo dụng xanh, bỏ đôi giầy cỏ xỏ đôi hia hài), mà mừng là,
tuy triều Trần đã bắt đầu suy vi nhưng vẫn cịn Hồng thượng thấy được việc học là trọng để duy trì
xã tắc, nên muốn góp cơng vun đắp. Vì ơng nghĩ, đất nước thanh bình và thịnh trị điều cơ bản phải
có minh qn. Là minh qn thì vị vua ấy phải học, tức là phải học đạo đức, học văn hóa để trị quốc
và bình thiên hạ.


Vào triều, Trần Minh Tơng hai lần đến gặp, trị chuyện, thăm dị tài cao đức trọng của thầy Chu Văn


An. Hoàng thượng nói: Trẫm nghĩ khơng sai khi tuyển khanh vào để cùng với các đại quan chèo lái
quốc gia. Nhưng trước mắt, việc của khanh là dạy Thái tử và giữ chức Tư nghiệp.


Minh Tông ủy thác cho thầy Chu dạy Trần Vượng. Qua quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An
biết được những rắc rối trong việc lập Trần Vượng làm Thái tử, sau lên ngôi vua là Trần Hiến Tông,
lúc 10 tuổi.


Thầy Chu dạy Trần Vượng từ khi chưa được phong Thái tử. Đây là cậu hồng tử chăm học, thơng
minh nên thầy gắng cơng dạy bảo, rèn dũa. Khi nhiếp chính Thái thượng Hồng Minh Tơng thấy lời
lẽ của Hiến Tơng rắn rỏi, nên đánh giá cao công lao dạy dỗ của thầy Chu Văn An.


Mới ngồi 20 tuổi, Hiến Tơng đã theo tiên tổ về nơi chín suối. Sau Hiến Tơng là Dụ Tơng. Ơng vua
này cũng được Chu Văn An dạy dỗ.


Sống trong hoàng cung và được làm bạn với quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An hiểu rõ tình
thế nguy ngập, suy vong của triều đại Hiển Tơng, Dụ Tơng. Và, nhìn lên từ đời Anh Tông, Minh Tông
thấy trong triều đã nảy sinh những cận thần hèn kém, chuyên nghĩ cách làm thỏa mãn những thị
hiếu của vua, còn những người thẳng thắng can ngăn thì bị cách chức. Anh Tơng cách chức Phạm
Mai, Minh Tông cách chức Nguyễn Trung Ngạn...


Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Chu Văn An kém vui, một hôm dù đã khuya, ông vẫn đến thăm
thầy Chu và bày tỏ tâm can. Thấy có kẻ theo dõi, quan Tư đồ vội vã ra về. Còn lại một mình, Chu
Văn An ngồi viết ''thất trảm sớ''. Ông cân nhắc từng chữ, từng tên người và sự việc, ý tứ chặt chẽ,
tâm huyết sôi nổi, bày tỏ và hy vọng. Viết xong, ông đem đến để phịng riêng của Dụ Tơng - nơi ơng
đặc cách đến dạy vua. Xong việc, ông thay quần đổi áo... và rời khỏi cung điện. Về thăm mẹ được ít
ngày, nghĩ đến “Thất trảm sớ'' và sợ liên lụy cho mẹ, ơng quyết định về sống ẩn dật ở Chí Linh, giao
việc chăm sóc ni dưỡng mẹ cho một mơn sinh mà ơng có cơng ni dạy và được dân làng mời về
dạy ở trường Huỳnh Cung. Dù thay tên là Tiều Ẩn (người kiếm củi ẩn dật) chỉ ít lâu sau, khắp vùng
đồn đại tên tuổi thầy Chu Văn An. Người nọ mách người kia dắt con đến nhờ thầy dạy bảo. Vì vậy,
ơng lại mở trường dạy học. Những ngày thư nhàn, ông ngao du sơn thủy bầu bạn với non xanh nước


biếc. Gặp lại Trần Nguyên Đán như gặp lại bạn bè tâm đắc keo sơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

lấy lại được kinh đô Thăng Long. Trần Phủ lên ngôi, tức Trần Nghệ Tông, Chu Văn An chống gậy về
triều chúc mừng. Và, sau đó một năm - năm Canh Tuất, ngày 28 tháng 11 (tức năm 1370), ông mất
tại xã Kiệt Đắc, nay là xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thọ 78 tuổi.


Trân trọng tài năng, nhân cách và sự cống hiến của ông, vua Nghệ Tông đã ban tên Thụy là Văn
Trinh và cho người mang lễ vật đến viếng và cho thờ ông ở Văn Miếu. Ở núi Phượng Hồng, Chí
Linh, Hải Dương, nơi ông về sống ẩn và dạy học cũng có đền thờ, ghi 8 chữ: "Chu Văn Linh tiên sinh
ẩn cư xứ".


<b>Giai thoại về nhà giáo Chu Văn An</b>


Chu Văn An (1292 - 1370) người làng Văn Thôn, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì-Hà Nội)
đương thời đã nổi tiếng là một nhà giáo tài đức, có nhiều học trị thành đạt. Đời vua Trần Minh
Tơng, ơng được mời làm Tư nghiệp Quốc tử giám để dạy Thái tử học. Đến đời Trần Dụ Tơng, triều
chính suy vị, bị bọn gian thần lũng đoạn, ông dâng sớ Thất trảm (xin chém 7 kẻ nịnh thần). Vua
không nghe, ông bỏ quan về ở ẩn. Với tài năng, đức độ và tính cương trực, ơng được coi là tấm
gương tiêu biểu cho nhà giáo Việt Nam.


Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc


Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.


(Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả.


Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sơng mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân).


Đó là đơi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An -
nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần.



Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện
Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ơng làm
thành hồng, thì ơng sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).


Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết
tháo, khơng cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà
trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đơng. Trong số mơn đệ
ơng có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về
thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trị cũ khơng
tốt, ơng thẳng thắn quở trách, thậm chí qt mắng khơng cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh
cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ơng như
vậy, khiến cho học trị đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên
trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hơm ấy có tiếng sét và đến sáng
thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trị
làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ.
Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành
đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến
làng này thành một làng văn học, quê hương của Ngơ Thì Sĩ, Ngơ Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ
thần cịn đơi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.


Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.


(Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).
(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).



Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức
mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc
đương thời là rất lớn.


Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học.
Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố
triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thối. Đến đời Dụ Tơng, chính sự
càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được,
bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ
nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn
tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn
hái củi). Sau ơng mất tại đó.


Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập
thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ơng cịn viết một cuốn sách
biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì
Chu Văn An cịn là một nhà đơng y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý
luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn
bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua cịn ban tặng tên thụy cho ơng là Văn
Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã giải
thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự
bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm
biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hịa với bên
trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí
bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy
giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông:
"học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ơng, các ơng
khác khơng thể so sánh được".


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

thường vẫn quen gọi là Trường Bưởi.



Năm 1945, Cách mạng thành công, các nhà giáo và nhân dân Hà Nội đã nhất trí chọn tên nhà giáo
dục mẫu mực Chu Văn An đặt tên cho trường.


<b>Chu Văn An- Người thầy của muôn đời</b>



03 Tháng 9


Cách đây mấy năm, tơi có dịp về dâng hương thầy Chu Văn An. Lúc đứng trước anh


linh của người, tôi đã băn khoăn tự hỏi đâu là sự được mất, hư thực trong cõi đời này? Khơng


có ai trả lời tơi, chỉ có những rặng thơng thăm thẳm xanh trên Phượng Hồng sơn rì rào kể cho


tôi nghe rằng thầy Chu Văn An đã về đây để lánh đục. Hơn sáu thế kỉ đã trôi qua, thầy Chu


Văn An đã thực sự xa cõi đời này nhưng thơng trên núi Phượng Hồng ngàn năm vẫn xanh và


cao khiết như khí tiết của thầy vậy. Tơi chợt hiểu rằng, người ta chỉ thực sự chết khi không để


lại trong lịng người đang sống một điều gì cả. Chu Văn An thì khơng thế, Thầy đã đi xa


nhưng tên tuổi, tài năng, tâm huyết và phẩm cách của người luôn ngời sáng cùng thời gian.



Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292), mất năm Canh Tuất (1370), tên hiệu là Tiều


ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là


huyện Thanh Trì – Hà Nội).



Chu Văn An ngay từ hồi cịn trẻ đã nổi tiếng là người cương trực, ln sửa mình trong


sạch, giữ tiết tháo, khơng màng danh lợi, chỉ thích ở nhà đọc sách thánh hiền. Khi thi đỗ Thái


học sinh (Tiến sĩ), ông không ra làm quan như những người khác mà về quê nhà mở trường


dạy học. Học trị khắp nơi về xin học rất đơng. Học trị của ơng khơng chỉ được học chữ thánh


hiền mà cịn được dạy về đạo đức của bậc trí nhân quân tử. Về sau, dù ở cương vị nào, họ


cũng là những tấm gương về tài năng và đức độ. Trong số đó, nổi tiếng nhất phải kể đến Phạm


Sư Mạnh và Lê Quát, cả hai đều đỗ Thái học sinh và làm quan đến chức Hành khiển trong


triều Trần. Dù quyền cao chức trọng nhưng mỗi lần tới thăm thầy, họ đều quỳ gối để được


thỉnh giáo. Điều đó một mặt cho ta thấy đạo đức tuyệt vời của học trị chốn cửa Khổng sân



Trình nhưng mặt khác khẳng định Chu Văn An phải là người tài năng và đức độ như thế nào


mới được học trò trọng vọng như vậy. Có huyền thoại kể rằng, ngay cả thần nước cũng tìm tới


ơng để học, nhân một năm trời hạn hán vì vâng lời thầy, người học trị thủy thần ấy đã làm


phép gọi mưa giúp dân, dù biết trước là phải chết. Câu chuyện nửa phần hư thực đó mãi mãi là


một giai thoại khơng thể kiểm chứng nhưng dù sao nó cũng thể hiện sự đức độ của thầy Chu


Văn An có sức cảm hóa cả trời đất, quỷ thần .



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Đến thời Trần Dụ Tơng, chính sự ngày càng thối nát, bọn nịnh thần bòn rút của cải, xúi


dục vua làm những điều trái luân thường đạo lí, bọn gian thần nổi lên như ong. Chứng kiến


cảnh người học trị của mình sa đọa như vậy và lo sợ đất nước suy vong, Chu Văn An đã dâng



<i><b>Thất trảm sớ</b></i>

xin chém bảy tên nịnh thần đang thao túng triều đình. (Hiện

<i><b>Thất Trảm sớ</b></i>

bị


thất truyền nên chúng ta không rõ nội dung của nó thế nào, chỉ biết thời Dụ Tơng có những


tên gian thần nổi tiếng như Trâu Canh, Bùi Khoan, Trần Ngô Lang). Thế nhưng vua chỉ xem


qua và im lặng. Có lẽ sự im lặng khủng khiếp đó đã một phần nào đẩy nhà Trần – một triều


đại lừng lẫy chiến cơng trong lịch sử nhanh chóng suy thối mà khơng thể nào cứu vãn được.


Chu Văn An thất vọng, ông treo mũ ở cửa Huyền Vũ rồi từ quan, về ở ẩn tại núi Phượng


Hoàng thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Các bậc


túc nho là vậy, họ luôn hành xử theo triết lý của Nho giáo “Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”


(Được dùng thì làm, khơng được dùng thì dấu mình đi). Sau này, Nguyễn Trãi về với Cơn Sơn


để hịa mình với tiếng thơng reo, tiếng suối chảy róc rách hay Nguyễn Bỉnh Khiêm về bên


Tuyết giang lập am Bạch Vân vui thú cảnh điền viên cũng cùng một tâm thế như vậy. Cuộc


đời đang vẩn đục muốn giữ danh tiết ta phải chọn dòng trong. Hỏi mấy ai bây giờ hành xử


được như họ?



Thế nhưng cũng như Nguyễn Trãi vẫn

<i>một tấc lòng ưu ái cũ, đêm ngày cuồn cuộn</i>


<i>nước triều dâng</i>

, nên dù về ở ẩn ở núi Phượng Hoàng nhưng mỗi lần triều đình có hội, Chu


Văn An vẫn chống gậy về kinh. Đặc biệt, khi vua Trần Nghệ Tông lên ngôi, lúc này Chu Văn


An đã gần 70 tuổi, ông vẫn chống gậy về Thăng Long để bày tỏ tấc lịng của mình với đất


nước, bởi hơn ai hết, Chu Văn An kì vọng vị vua này có thể thay đổi thời cuộc, cứu vãn cơ đồ



nhà Trần. Thế mới biết tấm lòng yêu nước sâu nặng của ơng như ngó sen đã đứt mà tơ cịn


vương vậy. Hình ảnh thầy Chu Văn An tuổi đã già, tóc đã bạc mà vẫn thân hành chống gậy về


kinh đó ln có sức lay động, thức tỉnh chúng ta về ý thức trách nhiệm đối với nhân dân và


đất nước. Theo tôi nghĩ, chúng ta những ai đã chọn

<i>nghiệp trồng người</i>

thì dạy dỗ được một


học sinh nên người cũng là biểu hiện cụ thể thiết thực của lòng yêu nước trong thời đại mới.



Chu Văn An sống và dạy học ở ngôi nhà nhỏ ở giữa chân núi Phượng Hồng và Kì Lân


cho đến lúc viên tịch. Vua Trần đã cho thờ ông ở Văn Miếu và ban cho tên thụy là Văn Trinh.


Văn là bên ngoài của đức, Trinh là sự chính trực, kiên định của đức. Vua ban tên thụy như vậy


để ngợi ca con người kết hợp được hai mặt của đạo đức bên ngoài thuần nhã, hiền hịa với bên


trong chính trực kiên định ở Chu Văn An.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Giáo giới Việt Nam luôn coi Chu Văn An là người thầy của mn đời. Đó là sự xưng


tụng xứng đáng. Chu Văn An bằng tài nằng, đức độ và tâm huyết của mình đã vượt qua cái


ngưỡng làm thầy giáo giỏi của một đời để thành người thầy giáo giỏi của muôn đời, khơng


phải chỉ vì ơng tài giỏi mà cái chính là ơng đã đào tạo được những người học trị giỏi cho đời.


Qua cuộc đời của Chu Văn An, chúng ta thấy nếu người thầy giáo trở thành tấm gương mẫu


mực sẽ có tác dụng giáo dục hơn vạn cuốn sách đạo đức. Học trò là tấm gương phản chiếu rõ


nét nhất, trung thực nhất về người thầy. Vì vậy, người thầy phải làm gương cho trò về mọi mặt


như tác phong, hành động, cử chỉ, cách ăn mặc, lời ăn tiếng nói, đặc biệt là việc làm.



Sản phẩm của nghề dạy học không phải là những vật dụng cụ thể có thể sờ bằng tay,


day bằng mắt mà là nhân cách, tri thức, đạo đức của một con người. Một người thợ đóng giày


tồi sẽ làm ra những chiếc giày không tốt, khi mua phải và đi vào, chân chúng ta có thể bị đau,


nếu khơng thích chúng ta có thể thay chúng nhưng một thầy giáo tồi sẽ tạo ra những thế hệ


học trị méo mó về nhân cách, lệch lạc về tri thức. Khi đó, dù đau lịng và muốn thay nhưng


chúng ta khơng thể làm như với đôi giày kia. Mọi sự so sánh đều là khập khiễng nhưng tôi


muốn nhấn mạnh rằng, những ai đã chọn nghề dạy học thì hãy yêu nghề và yêu trẻ, luôn


không ngừng trau dồi và rèn luyện về chuyên môn và đạo dức để những thế hệ học trị mà


chúng ta đào tạo ra vừa có tri thức vừa có đạo đức, nhân cách trong sáng. Tơi cũng biết rằng,



hiện tại người thầy giáo cũng như bao nhiêu người làm nghề khác đang chịu sức ép của cuộc


sống cơm áo gạo tiền. Khơng ai có thể nghĩ ra những điều tốt đẹp khi cái dạ dày đang réo inh


ỏi. K.Marx đã nói một chân lí giản dị rằng, trước khi xây những lâu đài, cung điện, điện khí


hóa đất nước con người phải ăn đã. Nhưng tôi lại tin rằng, những ai đã chọn và tâm huyết với


nghề dạy học sẽ tìm thấy niềm vui riêng khi được làm việc trực tiếp với những nhân cách


người. Nghề dạy học khó và thầm lặng biết bao, có lẽ vì thế Bác Hồ mới gọi thầy cụ giỏo là


những anh hùng vô danh chăng? Khi chọn nghề dạy học rồi ai chẳng muốn mình được như


Chu Văn An nhưng Chu Văn An thì trên đời này chỉ có một. Nhưng tơi nghĩ rằng người thầy


giáo nếu biết tạo cho mình một phong cách riêng, một ấn tượng riêng với học trị về tài năng


và phẩm cách thì họ cũng đã là Chu Văn An

<i>theo nghĩa tính từ</i>

trong lịng bao thế hệ học trò.


Tuy vậy, mọi lý thuyết đều xám, còn cây đời vẫn mãi mãi xanh tươi. Điều quan trọng là chúng


ta bằng tài năng và tâm huyết của mình có trồng được

<i>thứ cây đời</i>

ấy hay khơng?



Hơm nay, khi tơi đang viết những dịng chữ này thì thơng trên núi Phượng Hồng vẫn xanh


và đang hát với gió trời những bài ca bất tận về những con người

<i>còn là thể phách thác là tinh</i>


<i>anh </i>

như Chu Văn An. Xin mượn lời câu đối mà người đời mãi mãi truyền tụng để ngợi ca


thầy Chu Văn An thay cho lời kết :



<i>Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc</i>



<i>Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong</i>



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×