Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.38 KB, 7 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 72 (06/2020)
No. 72 (06/2020)
Email: ; Website: />
CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN TRỊNH BỬU HOÀI
Southern people in the short stories of Trịnh Bửu Hồi
Lê Hồi Hận
Trường Phổ thơng Thực hành Sư phạm, Đại học An Giang
TĨM TẮT
Để hồn thiện bức tranh về thế giới con người Nam Bộ, Trịnh Bửu Hoài đã vẽ nên những bức chân
dung quái dị, kệch cỡm, xấu xí, méo mó về nhân cách trước sự biến động của xã hội kinh tế thị trường.
Đó là những con người đầy tham vọng về vật chất và tinh thần, tha hóa và biến chất bởi sức mạnh ghê
gớm của đồng tiền. Bên cạnh đó, trang viết của ơng cũng dành những khoảng lặng để con người có thể
chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời, nhất là cuộc đời của chính mình, với kiểu con người tự nhận thức và
cơ đơn. Tất cả hiện lên một cách sinh động, chân thật để độc giả có thể nhìn nhận một cách đa diện về
con người Nam Bộ thời đương đại.
Từ khóa: con người Nam Bộ, truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài
ABSTRACT
To complete the whole picture of the people in the South, Trinh Buu Hoai painted freaky, ludicrous,
ugly, distorted portraits of personality in the face of the change of market economy society. They are
materially and spiritually ambitious people; corrupted and degenerated by the formidable power of
money. In addition, Trinh Buu Hoai also provides some space to contemplate and reflect on life,
especially their own life, for the type of people with self-awareness and loneliness. It all shows up
vividly and honestly so that readers can see a multifaceted view of the contemporary Southern people.
Keywords: Southern people, short stories of Trịnh Bửu Hoài


đa dạng và phức tạp: từ những người nông
dân lam lũ chân lấm tay bùn, hai sương
một nắng đến những người thuộc tầng lớp
tri thức thành thị là con tin của ma lực
đồng tiền; từ lớp người nghệ sĩ hết thời
bám riết vào ánh đèn sân khấu trong cuộc
sống bươn chải mưu sinh đến tầng lớp tu sĩ
sống với những đức tin cao siêu, xa rời
thực tế. Ở những con người ấy, chúng ta
thấy sự đa dạng về hình hài, rất khác nhau
về tính cách, phong thái, ứng xử. Con
người trong truyện ngắn của ông được nhìn
qua những mối quan hệ chằng chịt của

1. Đặt vấn đề
Macxim Gorki đã từng khẳng định
rằng, văn học là nhân học. Văn học là nghệ
thuật miêu tả, biểu hiện con người. Do vậy,
con người chính là đối tượng chủ yếu của
văn học, mà văn học thì khơng thể thiếu
nhân vật. Bởi đó là hình thức cơ bản để qua
nó, văn học miêu tả thế giới một cách hình
tượng. Vậy nên, suy cho cùng, văn học
chính là chuyện của con người và cuộc đời.
Ý thức rất rõ điều đó nên Trịnh Bửu
Hồi đã xây dựng trong tác phẩm của mình
một thế giới con người vô cùng phong phú,
Email:

118



LÊ HỒI HẬN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

cuộc sống đời thường. Mà ở đó, họ ln
đấu tranh chống lại sự tha hóa, biến chất để
cố gắng gìn giữ bản chất lương thiện vốn
có qua tấm gương phản chiếu ở hệ thống
các nhân vật, các kiểu con người đối lập.
Trong các sáng tác truyện ngắn của
mình, bên cạnh con người mang dấu ấn văn
hóa truyền thống với những nét tính cách
đặc trưng của con người Nam Bộ như
thẳng thắn, bộc trực, nhân hậu, nghĩa
tình.v.v. Trịnh Bửu Hồi cịn khắc họa
những con người gắn với văn hóa đương
đại, để hồn thiện bức tranh về thế giới con
người. Khảo sát truyện ngắn Trịnh Bửu
Hồi, chúng tơi nhận thấy nổi bật hơn hết
là kiểu con người tham vọng, con người
tha hóa và kiểu con người cô đơn.
2. Con người Nam Bộ trong truyện
ngắn Trịnh Bửu Hoài
2.1. Con người tham vọng trong
truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài
Qua truyện ngắn, Trịnh Bửu Hoài đã
xây dựng thành công những chân dung con
người tham vọng. Tham vọng thường

khiến con người bất chấp tất cả để đạt
được mục đích, kể cả thỏa hiệp với cái
xấu, sẵn sàng làm điều xấu. Vì thế, khi
những ham muốn vơ biên trỗi dậy, con
người lao vào những cuộc kiếm tìm để
thỏa mãn những mong cầu đang ngày một
lớn dần cả về vật chất lẫn tinh thần. Và
đến khi những mong cầu đó trở nên quá
giới hạn, biến thành những tham vọng điên
cuồng, thì cũng chính là lúc họ phải trả giá
bằng những bi kịch của cuộc đời mình.
Đó có thể là loại người tham vọng về
vật chất như út Thắm trong Những khoảng
cách đã từ bỏ cuộc đời làm nông lương
thiện để chuyển sang doanh thương tráo
trở: “Vì đồng tiền, tham vọng vật chất,
mong muốn cuộc sống hưởng thụ, xa hoa,
út Thắm càng có nghị lực để bỏ ngồi tai

những lời khun của hai Quang. Cũng vì
nó mà út Thắm bắt đầu nhiễm theo con
đường mua bán tráo trở của bọn chợ trời đi
bn sa-mít, lén lút vựa vải, vựa thuốc samít” (Trịnh Bửu Hồi, 1987, tr. 80). Bên
cạnh đó, con người cịn thể hiện dã tâm
trong cơng danh sự nghiệp, bất chấp thủ
đoạn như nhân vật Thái trong truyện ngắn
Người thừa kế. Thái là một công chức “cấp
tiến”, trẻ tuổi mà tính tình lại hạ đẳng, tầm
thường. Hắn chẳng những khơng có thực
tài mà cịn là một con người với lối sống

phóng túng, đốt tuổi thanh xn bằng
những cuộc vui vơ bổ, lãng phí tiền bạc,
sức khỏe và cả thời gian vào những trò trác
táng. Một con người ma mãnh như hắn làm
sao có thể an phận với chức phó phịng.
Hắn có tham vọng ngoi lên cao bất kể việc
bản thân bất tài. Để hiện thực hóa dã tâm
ấy, Trần Thơng Thái đã học và lấy bằng
đại học tại chức trong chớp nhoáng – sản
phẩm của việc giáo dục đào tạo theo kiểu
ăn xổi và “chất lượng đào tạo” được đo
lường bằng tiền, bằng quan hệ. Cho nên,
những người như Thái một khi có bùa hộ
mệnh – tấm bằng trong tay thì có thể ngồi
lên vị trí lãnh đạo. Một khi kẻ dốt nát làm
lãnh đạo thì nguy hại cho xã hội biết
nhường nào. Đặc biệt là thói hám danh như
nhân vật Bi trong Tú tài làng Ơ Mơi. Bi
được phản ánh trong tác phẩm là một nhà
kinh doanh “thiên tài”, với bộ não siêu việt
theo lối hám danh, hám lợi, có tham vọng
trở thành người tốt nhất của làng Ơ Môi.
Một danh hiệu vô thưởng vô phạt nhưng
đối với hắn là cả một bầu trời, cái uy danh
của hắn sẽ vang xa khắp các làng Ơ Mơi.
Và người làng Ơ Mơi phải kính trọng, trầm
trồ thán phục, đặc biệt vơ cùng kính nể cái
tài “lừa đảo” của hắn. Nhưng để đổi lấy cái
danh hiệu hão huyền ấy, công ty Hưng
Thịnh đã phải trả giá khi “bị đình chỉ hoạt

119


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 72 (06/2020)

động để điều tra vì Ban giám đốc có dấu
hiệu lừa đảo… Cơng ty Hưng Thịnh do Bi
làm giám đốc” (Trịnh Bửu Hoài, 2004,
tr.51).
Tham vọng của con người khơng chỉ
dừng lại ở đó. Truyện ngắn Trịnh Bửu
Hồi cịn mang đến cho người đọc cảm
nhận sự vơ hạn trong tham vọng của con
người. Đó là tham vọng bất tử hóa cái đẹp
sinh học – vẻ đẹp ngoại hình của con
người: “Nhung có bộ ngực rất đẹp, tao đã
hứa gìn giữ cho nàng… Tao muốn giữ bàn
tay nàng cho đẹp” (Trịnh Bửu Hoài, 1996,
tr.76 – 77). Con người cịn hướng đến cái
cao siêu, thốt tục với tham vọng vĩnh viễn
hóa thế giới tinh thần để tận hưởng cái
hạnh phúc tinh thần bất diệt. Nơi đó, con
người có thể sống bằng tinh anh, tinh hoa,
thốt khỏi cái vịng ln hồi tuần hồn của
sinh-lão-bệnh-tử với quan niệm: “Cuộc đời
là bể khổ, làm sao mình vui sướng được.
Mẹ ưu phiền là vì chúng sanh trầm luân
trong bể khổ, chứ tâm mẹ rất an” (Trịnh

Bửu Hoài, 1987, tr.14).
Những con người tham vọng trong
truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài mê mải chạy
theo những giá trị hư ảo, thường bị cuốn
theo những guồng quay của thời kim tiền.
Nhiều khi chính họ lại trở thành nạn nhân
mà cuộc đời họ gây ra và chuốc nhận.
Đứng trên phương diện con người cá nhân,
họ luôn phải trả giá cho những tham vọng
của mình. Bi kịch cuộc đời họ chính là bài
học cho những ai quá điên cuồng kiếm tìm
và chạy theo quyền lợi ảo vọng mà bất
chấp tất cả. Nhà văn dường như cũng muốn
đối thoại với người đọc rằng, khát vọng là
điều đáng trân trọng nhưng quá tham vọng
mà bất chấp thủ đoạn thì sẽ phải trả giá đắt.
Bởi danh và lợi không mang lại hạnh phúc
đích thực cho con người. Ở bất kì thời đại
nào thì lương tri và đạo đức mới là điều

đáng được suy tôn; những thứ đi ngược lại
lương tri và đạo đức đó, dù có nhân danh
bất cứ quyền lực nào cũng sẽ bị diệt vong.
2.2. Con người tha hóa trong truyện
ngắn Trịnh Bửu Hồi
Trên con đường kiếm tìm và phản ánh
hiện thực, các tác phẩm đương đại thường
ghi đậm dấu ấn về khủng hoảng niềm tin
của con người trong bối cảnh đổ vỡ các
thang bậc giá trị, sự hỗn loạn của trật tự

thường hằng. Những tình huống bi hài,
nghịch dị trở nên phổ biến. Cái đẹp, cái
thiện dần vắng bóng, thay vào đó là cái
xấu, cái ác, cái thơ kệch.v.v. Cán cân
thăng bằng giữa các cực xấu – tốt, thiên
thần – ác quỷ bị phá vỡ trong xã hội hậu
công nghiệp, dẫn đến sự “rối bời” không
chỉ trong đời sống vật chất mà còn kéo
theo cả niềm tin, lẽ sống, lý tưởng. Khơng
phải là sự phó mặc, nhưng có lẽ Trịnh
Bửu Hồi cũng như khơng ít nhà văn
đương đại khác đều tin rằng cuộc sống
vốn không thể khác một khi đồng tiền, địa
vị, sự xấu xa, độc ác vẫn đang hiện hữu và
bành trướng, làm tha hóa con người, đưa
họ xa rời những giá trị đạo đức tốt đẹp,
khiến cuộc sống bị cuốn vào vịng xốy
của luật mạnh được yếu thua.
Sự tha hóa của con người trong truyện
ngắn Trịnh Bửu Hồi có những biểu hiện
khác biệt. Có khi đó là sự thờ ơ, lạnh lùng,
vô cảm, bất tri, mất nhân tính của con
người trong truyện ngắn Chim xa cành.
Tác phẩm đã vạch trần bản chất lịng lang
dạ sói của một người con đại bất hiếu
mang tên David Huỳnh. Điểm cách biệt
giữa thằng Út hiếu thảo, trách nhiệm trong
gia đình nghèo khó, bần hàn với David
Huỳnh giàu có, bất nhân bên trời Tây là hai
chữ “đồng tiền”. Có thể khẳng định, hai

chữ ấy đã khiến David Huỳnh có thể an
lịng mà rũ bỏ trách nhiệm, bổn phận của
120


LÊ HỒI HẬN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

một người con khi chứng kiến mẹ mình
lâm trọng bệnh và nguy kịch: “David
Huỳnh bỗng khựng lại bên cánh cửa có gắn
tấm bảng cảnh báo lây nhiễm và nói
“nơ”… Anh mở cặp lấy một cọc tiền đưa
cho bà và quay về Mỹ” (Trịnh Bửu Hồi,
2004, tr. 92 – 93). Vì hai chữ ấy mà David
Huỳnh sẵn sàng bán rẻ lương tri, bán nốt
“phần người” cịn sót lại trong hắn để hiện
ngun hình “phần con” khơng hơn, khơng
kém. Âu đó là sự tha hóa ghê gớm của
đồng tiền và chính nó đã lăn tròn và cuốn
phăng mọi chuẩn mực đạo đức xã hội, làm
cho con người dần đánh mất lương tri,
lương năng, khơng cịn chỗ dựa cho sự an
n về mặt tinh thần; làm cho con người
trở nên xơ vữa, mất hết nhân tính, hủy hoại
tình người. Sự ảnh hưởng tiêu cực của
đồng tiền cịn vươn cái “vịi bạch tuột” của
mình ra để hút máu con người với tình
trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham

nhũng trong Buồn ngủ và khát nước. Thì
ra, trong mỗi con người đều có một “kẻ
khác” xấu xa ẩn náu, chờ thời cơ ngoi lên,
khống chế mọi ý nghĩ, mọi hành vi, làm
lệch lạc, xói mịn nhân cách.
Và cũng có khi đó là sự sa đọa về thể
xác, sự hủy hoại về tinh thần khi chứng
kiến bi kịch của một gia đình chỉ trong một
đêm qua truyện ngắn Trong một đêm. Tác
phẩm này là một sự vỡ mộng về cái đạo lý,
về các chuẩn mực đạo đức trông đằng xa
rất kiên cố, vững chắc nhưng lại gần thì lại
là mảnh vỡ vơ cùng mong manh – mong
manh như tính cách con người, chỉ trong
một đêm có thể dẫn con người đến địa
ngục. Đó là bi kịch đau thương nhuốm màu
dục vọng, nhục dục, xác thịt tầm thường
trong một gia đình mà bấy lâu nay được
che đậy rất kỹ, rất kín bằng sự đạo mạo,
mực thước của con người. Chỉ trong một
đêm dường như cả gia đình bị lật mặt, cái

mặt nạ đầm ấm, hạnh phúc đời thường bị
rơi xuống một cách tàn nhẫn: “Giống như
Thiện đã ngủ say trong khơng khí đầm ấm,
hạnh phúc của gia đình bấy lâu nay mà
khơng hay bên cạnh mình cịn có người đi
đêm” (Trịnh Bửu Hồi, 2004, tr. 39).
Có thể khẳng định, mỗi truyện ngắn
của Trịnh Bửu Hoài là những nỗi hoang

mang, ngắc ngoải, đánh mất phương
hướng, bản ngã của con người khi đứng
trước xã hội lộn xộn, xô bồ, nhếch nhác,
kệch cỡm, nhố nhăng. Các tác phẩm của
ông đã phanh phui, mổ xẻ những cái xấu,
cái ác cũng như quá trình tha hóa, biến
dạng của rất nhiều những số phận cá nhân,
thơng qua đó phản ánh bi kịch tha hóa của
xã hội. Từ phương thức khắc chạm hệ
thống hình tượng nhân vật tha hóa trong
truyện ngắn Trịnh Bửu Hồi, có thể nói,
trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống,
sự vong thân, vong bản của con người thời
kim tiền là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với
người nghệ sĩ này. Qua đó, nhà văn một
mặt chỉ ra sự tha hóa, biến chất của con
người, một mặt kêu gọi con người hãy cứu
lấy lương tri và bảo toàn nhân cách. Đây là
“liều vắc-xin” hữu hiệu để đặc trị bệnh chai
sạn của tâm hồn con người trong sự phát
triển, đổi thay chóng mặt của đời sống
đương đại, đồng thời cũng đặt ra những
câu hỏi lớn về ý nghĩa thật sự của tồn tại,
của thang bậc giá trị xã hội, nhân sinh.
2.3. Con người cơ đơn trong truyện
ngắn Trịnh Bửu Hồi
Kiểu người cơ đơn cũng được Trịnh
Bửu Hoài quan tâm, thể nghiệm. Khảo sát
truyện ngắn của ông, chúng tôi nhận thấy
phần lớn những nhân vật nữ trong sáng tác

của Trịnh Bửu Hoài đều rơi vào trạng thái
của sự cô đơn. Con người cô đơn trong
sáng tác của Trịnh Bửu Hồi khơng phải là
“những người phụ nữ tắt lửa lòng”, lạnh
121


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 72 (06/2020)

lùng, thờ ơ, vô cảm trước đàn ông. Càng
không phải là những người phụ nữ khơng
cịn cảm xúc u đương. Ngược lại, họ đều
là những người phụ nữ mẫn cảm, khát khao
tình yêu.
Với những con người này, nhu cầu về
tình cảm cũng như quan niệm về hạnh phúc
không hề giản đơn. Cô đơn đôi lúc chỉ là
trạng thái tạm thời trong q trình họ
khơng ngừng tìm kiếm tình u và hạnh
phúc đích thực của đời mình. Vì thế, các
chân dung con người cơ đơn trong sáng tác
của Trịnh Bửu Hoài thường xoay quanh
vấn đề tình u và hạnh phúc gia đình. Có
khi họ một mình phải chống chọi với cuộc
đời đầy rẫy những cạm bẫy xấu xa, đê hèn.
Trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng
ấy, con người vùng vẫy một cách đau đớn,
tuyệt vọng. Họ bế tắc, khơng tìm được lối

thốt trong cơng cuộc mưu sinh. Tất cả
những điều ấy luôn hiện hữu ở cuộc đời
đầy sóng gió, đầy bi kich của Sương –
người phụ nữ bị lừa tình, lừa tiền trong tác
phẩm Vụ án vườn Tao Ngộ: “Sương bước
ra đường, cơ khóc khơng thành tiếng, lầm
lũi đi như trốn chạy. Tùng ơi, anh lừa gạt
em rồi. Như vậy, anh giết chết cuộc đời em
rồi. Sương vị đầu bức tóc rồi ơm mặt khóc
nức nở. Sao nghịch cảnh phũ phàng lại cứ
đến với mình” (Trịnh Bửu Hồi, 2003, tr.
27). Cũng có lúc, họ cơ đơn ngay chính
trong căn phịng hoa chúc khi hơn nhân
khơng xuất phát từ tình u. Đó là sự chai
sạn “tạm thời” về tình cảm, về cảm xúc, về
lửa lịng của Ni trong truyện ngắn Căn
phòng hoa chúc cũ. Ni là người sống nội
tâm, trầm mặc, dịu dàng, ánh mắt, nụ cười
tươi như cánh hoa hồng buổi sáng. Ni có
cuộc tình vơ cùng lãng mạn, đẹp tựa cổ tích
với Hồng. Trái tim Ni như vỡ vụn, như
thổn thức, đập liên hồi từ khi gặp Hoàng –
một chàng trai giản dị, khiêm tốn lại lịch

lãm, hào hoa. Thế nhưng tình yêu của Ni
say đắm rồi hờ hững, nồng nàn rồi lạnh
lùng khi Hồng xuất cảnh theo gia đình và
bỏ lại Ni với cánh thư thưa dần rồi vắng
bặt. Và “tơi khơng tìm được giọt nước mắt
nào trên khóe mắt Ni, tất cả đã chảy ngược

vào trong. Nỗi đau của Ni rất mênh mơng
và dữ dội vì có lúc tơi bắt gặp trong đơi
mắt ấy một màu sương khói” (Trịnh Bửu
Hồi, 1996, tr. 62). Dường như, trái tim Ni
đã tắt lửa và từ từ băng giá. Trong lòng Ni
là một khoảng trống mênh mông, vô định.
Và cuộc đời Ni như rơi vào vực thẳm,
khơng lối thốt. Cái trống rỗng trong lịng
Ni khơng cịn biên độ, vượt lên trên cái
giới hạn của không gian khi Ni lấy chồng.
Khốn khổ cho Ni vì đó là ý muốn của gia
đình, vì chữ hiếu nên đành chấp nhận nhắm
mắt đưa chân để bước vào cuộc đời của
một người mà Ni chưa bao giờ quen biết và
chẳng một chút rung động, thương yêu.
Đối với Ni, Tân – chồng Ni, không gợi
chút cảm xúc yêu thương và chỉ như một
pho tượng biết đi trong mắt Ni. Tâm hồn
Ni như hóa đá. Căn phịng hoa chúc – hiện
thân của tình yêu, hạnh phúc, của sự lãng
mạn, cuồng nhiệt và say mê đã trở nên lạnh
lẽo, trống vắng bởi trái tim nguội lạnh của
Ni. Cuộc đời Ni cứ trải dài miên man, vơ
tận, khơng lối thốt.
Cũng có khi, họ cơ đơn tột cùng với
khát vọng sâu kín lấn át lí trí kể cả đạo lí,
lẽ phải, cái nghĩa tào khang vợ chồng
trong Khát vọng điên rồ. Khát vọng điên
rồ là một khát vọng mãnh liệt, cuồng điên,
một khát khao cháy bỏng và đáng thương

của một người vợ, một người phụ nữ chưa
từng được làm mẹ, chưa từng được nghe
một tiếng gọi thiêng liêng của tình mẫu tử.
Chính vì cái khát vọng ấy, Hạnh đã đánh
mất nhân phẩm mình, tính cách mình và có
thể đánh đổ cả cái hạnh phúc gia đình.
122


LÊ HỒI HẬN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

Cuộc đời Hạnh dường như vô nghĩa, rơi
vào đáy sâu của sự tuyệt vọng, cơ đơn cùng
cực trong chính cái khát vọng chân chính
của mình. Và cịn đây, một người phụ nữ người nghệ sĩ tài danh trong truyện ngắn
Tiếng hót trong lồng lại bị đẩy vào vịng
xốy khơng lối thốt của cơm áo gạo tiền.
Từ một tiếng hát có thể cuốn hút con
người vào mây trời mưa gió, xơ hồn người
lạc vào cõi đau thương với danh vọng, tiền
tài đến giọng hát đầy buồn đau, u uất để
mưu sinh trên ánh đèn sân khấu khi nghệ
thuật cải lương đã qua đi thời vàng son.
Người nghệ sĩ ấy sống mòn với những sự
giả tạo trên sân khấu bởi những lớp phấn
son, trang phục lộng lẫy, uy nghi tráng lệ.
Sau bức màn nhung, người nghệ sĩ này bị
cuộc đời ném đi không thương tiếc.

Từ những hình ảnh ấy, độc giả có thể
nhận thấy có nhiều con đường dẫn người
phụ nữ tới cuộc sống lẻ loi, trơ trọi. Đôi
khi là sự xô đẩy của số phận như Ni trong
Căn phòng hoa chúc cũ, đơi khi lại chính
là sự lựa chọn của bản thân họ như người
nghệ sĩ trong Tiếng hót trong lồng, hay
cũng có thể, cơ đơn là cách thức phản
kháng theo một kiểu rất riêng của người
phụ nữ đối với những bất công và ngang
trái ở đời như Sương trong Vụ án vườn Tao
Ngộ. Sau những nếm trải cay đắng trong
tình yêu kết hợp với những bất công thuộc
về số phận, những người phụ này thường
lựa chọn con đường ra đi và sự cơ đơn
chính là cách thức phản kháng theo kiểu
riêng của họ.
3. Kết luận
Có thể nói, truyện ngắn của Trịnh Bửu
Hồi đã phơi thai nên những con người có
phần dị thường với đầy đủ những trò hề về
nhân cách. Trong những bức tranh khiếm
khuyết về nhân cách ấy, hiện lên một cách
ghê tởm những con người đầy tham vọng,

bất chấp thủ đoạn xấu xa, bỉ ổi, vô liêm sỉ
cùng những con người tha hóa, biến chất
trên mọi phương diện. Nhưng bên cạnh đó,
Trịnh Bửu Hồi cịn dành hẳn một “khơng
gian” để bộc lộ sự cảm thương sâu sắc của

mình đối với những thân phận phụ nữ cô
đơn, bé nhỏ, gặp nhiều bất hạnh, thăng
trầm, sóng gió trong cuộc đời.
Qua kết quả khảo sát về các kiểu con
người trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hồi,
chúng ta thấy có sự dịch chuyển từ những
kiểu con người gắn với những giá trị văn
hóa truyền thống đến những con người tha
hóa, biến chất. Có lẽ, cái căn nguyên, gốc
rễ, cội nguồn của sự thay đổi, dịch chuyển
ấy là do sự tác động của nền kinh tế thị
trường, của xu hướng tồn cầu hóa và đặc
biệt là q trình đơ thị hóa nơng thơn Nam
Bộ đã làm thay đổi hệ hình giá trị và quan
niệm đạo đức. Trong bối cảnh đó, con
người bị cuốn vào vịng xoáy bất tận của
thiện – ác, hiện đại – truyền thống; vật chất
– tinh thần.v.v.
Nhìn tổng thể, các kiểu con người này
cũng nằm trong dịng chảy của văn xi
sau thời kỳ đổi mới. Cảm hứng thế sự hóa
đã dần chiếm lĩnh và thay thế cho cảm
hứng lãng mạn và sử thi của giai đoạn văn
học trước đó. Văn học sau 1986 đến nay
khơng cịn xây dựng nhân vật theo kiểu
đơn tuyến, chú trọng vào cái bên ngồi, mà
có xu hướng khắc họa con người với chiều
sâu nội tâm bên trong, với những chiều
kích đa dạng, phức tạp, qua đó khái quát
nên bức tranh đa tuyến về tính cách. Lẽ cố

nhiên, các dạng thức con người nêu trên
cũng xuất hiện nhiều trong truyện ngắn
Nam Bộ nói riêng và truyện ngắn Việt
Nam nói chung. Điều đó cho thấy sự gặp
gỡ, giao thoa về mặt tư tưởng của Trịnh
Bửu Hồi với các ngịi bút đương đại về
vấn đề mang tính phổ quát, cấp thiết của
123


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 72 (06/2020)

kiểu dạng con người trong truyện ngắn
Trịnh Bửu Hoài tất yếu phải được đặt trong
hệ thống của nó. Đây là một gợi mở thú vị
cho những nghiên cứu tiếp theo chuyên sâu
và hệ thống hơn về thi pháp trong truyện
ngắn Trịnh Bửu Hoài.

nhân sinh.
Suy cho cùng, nhân vật là một trong
những khía cạnh tiêu biểu của thế giới
nghệ thuật. Nó khơng thể tách rời các
thành tố khác như cốt truyện, cảm hứng,
ngôn ngữ, kết cấu.v.v. Do vậy, tìm hiểu các
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trần Mạnh Hùng. (2011). Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ

1975 đến nay. Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
Lê Thị Hường. (1994). Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hơm nay. Tạp chí
Văn học, Số 2.
Trịnh Bửu Hồi. (1987). Con chim tắm cát. NXB Văn nghệ Châu Đốc.
Trịnh Bửu Hoài. (1996). Cái đẹp của ảo tưởng. NXB Đồng Nai.
Trịnh Bửu Hoài. (2003). Vụ án Vườn Tao Ngộ. NXB Văn nghệ Châu Đốc.
Trịnh Bửu Hoài. (2004). Chim xa cành. NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Kha. (2007). Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 –
2000. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Tôn Phương Lan. (2001). Một vài suy nghĩ về con người trong văn xi thời kì đổi mới.
Tạp chí Văn học, số 9.
Nguyễn Kim Nương. (2005). Truyện ngắn An giang 1975 – 2000, Những thành tựu chủ
yếu. NXB Văn nghệ An Giang.
Ngày nhận bài: 12/5/2020

Biên tập xong: 15/6/2020

124

Duyệt đăng: 20/6/2020



×