Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Câu hỏi ôn tập môn xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.91 KB, 26 trang )

Câu hỏi ôn tập môn xã hội học
Câu 1: Ý nghĩa và vai trò của xã hội trong quản lý ?
XHH là một khoa học nghiên cứu các sự kiện XH, hiện tượng XH quá trình XH, cơ cấu XH, thể
chế XH trong sự vận động và diễn biến phức tạp và các sự kiện hiện tượng đó nằm trong một chỉnh thể
thống nhất. (XHH là còn là một môn KH nghiên cứu sự hình thành và phát triển vận hành các
nhóm, các tổ chức, các cộng đồng XH, là KH nghiên cứu về các mối quan hệ XH với tính cách là cơ sở
tác động qua lại giữa các cá nhân và các nhóm, các cộng đồng XH, và là KH về quy luật hành động
của quần chúng. XHH ra đời đầu tiên ở các nước Châu Âu, sau đó phát triển ra các khu
vực khác như Bắc Mỹ, Châu Á. Môn khoa học này có công lao đóng góp của nhiều
nhà XHH, nhưng tiêu biểu nhất là A.Côngtơ, H.Spencer, Duychkhem, M.Vêbơ và C.Mac.
XHH ra đời từ những điều kiện, tiền đề về KT-CT và lý luận KH
Điều kiện về KT: đó chính là sự ra đời và phát triển khách quan của CNTB, cuộc CM công
nghiệp bùng nổ, đơ thị hóa và CM thương mại dưới sự tác động của CNH đã làm hình thành nên
các khu CN, khu đô thị, thành phố lớn, tác động đến nông thoân, làm cho 1 số lượng dân cư
khá lớn từ nơng thơn chuyển đến các khu vực đang hình thành đô thị. Những biến đổi trên đã tác
động mạnh mẽ dẫn đến sự thay đổi toàn bộ đời sống XH, lay chuyển tận gốc trật tự KT cũ đã tồn tại và
phát triển hàng trăm năm trước đó, hình thái KT-XH kiểu phong kiến bị sụp đỗ, từ đó, kéo theo sự biến
đổi trong đời sống XH, hệ thống giá trị, văn hoá của XH hiện đại thay thế hệ thống giá trị, văn hố của
XH nơng nghiệp truyền thống, các mối quan hệ XH đa dạng và trở nên phức tạp hơn. Nhiều vấn đề XH
phát sinh cũng được giải quyết. Điều kiện như thế đòi hỏi về mặt nhận thức KH phải có 1 ngành KH
thích hợp ra đời để giải quyết các vấn đề mới phát sinh đó chính là XHH.
Điều kiện CT, đó chính là những biến động chính trị lớn ở Pháp, Anh, Đức, Ý,… góp phần làm
thay đổi thể chế CT, trật tự XH Châu Âu, mà điển hình là cuộc CM TS Pháp năm 1789, đánh dấu cho
thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến thay bằng NNTS. Trong thời kỳ này mâu thuẫn về lợi ích giữa các
tầng lớp XH, nhất là GCTS và GCCN VS đã lên đến đỉnh cao, làm bùng nổ cuộc CMVS đầu tiên Công xã Pari năm 1871. Những biến động trên đã tác động to lớn đến các nhà XHH cũng như nhiều
nhà tư tưởng khác đã quan tâm nghiên cứu để tìm cách lý giải phù hợp nhất.
Điều kiện tiền đề về lý luận KH của XHH chính là những thành tựu của KHTN và KHXH, những
phát minh mới, các quy luật tự nhiên được phát hiện ra, giúp các nhà XHH thấy được những mơ hình
về cách xây dựng lý thuyết, các nghiên cứu quá trình, hiện tượng XH 1 cách KH. Trong KH, XH xuất
hiện những nhân tố XH mới lý giải XH ra đời phương pháp luận nghiên cứu KH thế giới có thể hiểu và
giải thích được bằng các khái niệm, phạm trù và phương pháp nghiên cứu KH, đó là nhân tố cho sự ra


đời và phát triển XHH.
Xác định đối tượng nghiên cứu của XHH là gì thì hiện nay vẫn còn là vấn đề đang tiếp tục tranh
luận, bởi vì có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu veà XH, nhưng tổng hợp các quan điểm
thì XHH nghiên cứu về lónh vực xã hội thông qua nghiên cứu những quá trình, những vấn
đề XH, các sự kiện, hiện tượng XH, thể chế XH (ví dụ như: Công nghiệp hoá, đô thị hoá), các
xung đột, đổ vỡ XH, VH XH; tất cả những quan hệ XH, những hành vi XH cũng như cách
thức, hình thức tổ chức của con người trong quá trình tồn tại và phát triển; quy luật hình
thành biến đổi và phát triển của XH; thực trạng của XH; nghiên cứu hệ thống XH, cơ cấu XH (ở tầm vĩ
mô); nghiên cứu hành vi con người (ở tầm vi mơ). Từ đó, XHH có nhiều chuyên ngành nghiên
cứu khác nhau về XH (như XHH về hôn nhân và gia đình, XHH về tội phaïm, …).
Xuất phát từ mối quan hệ và sự tác động qua lại của XHH với thực tiễn XH, XHH có 3 chức
năng cơ bản sau:
- Chức năng nhận thức : XHH cung cấp tri thức KH về bản chất hiện thực XH và con người .
XHH cung cấp một hệ thống các khái niệm phạm trù, lý luận và phương pháp nghiên cứu, trên cơ sở
đó XHH giúp người nghiên cứu có thể phát hiện ra các qui luật tính quy luật, cơ chế nảy sinh, sự vận
động và phát triển của các q trình XH. XHH Mácxít địi hỏi nhận thức XHH phải vạch ra được cơ
cấu thực của các quá trình hiện tượng của thế giới vật chất, từ đó giúp cho con người nhận thức đúng
(phải-trái, đúng sai)và góp phần cải tạo đời sống của mình.
1


- Chức năng thực tiễn: Xuất phát từ mối quan hệ giữa XHH và thực tiễn XH, từ mối quan hệ
giữa sự quan sát trực tiếp với các logic về thực tại XH… , chức năng nay cung cấp thông tin cho những
hoạt động thực tiễn của con người và XH . XHH cung cấp các sự kiện cho việc quản lý các quá trình
XH . Qua điều tra thực tiễn và kiểm nghiệm thực tiễn, XHH giúp cho sụ điều chỉnh các q trình XH,
giúp cho sự dự đốn và dự báo về các quá trình phát triển của XH .
- Chức năng tư tưởng: XHH tham gia vào quá trình giáo dục tư tưởng, quá trình đấu tranh tư
tưởng để đảm bảo tính khách quan, tính KH . Đặc biệt là XHH Mác xít đã thể hiện chức năng này ở
điểm trang bị thế giới quan KH của CNMLN, tư tưởng HCM để nâng cao lý tưởng XHCN, bồi dưỡng
tinh thần yêu nước, giáo dục ý thức về vai trị, trách nhiệm của cơng dân đối với sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ tổ quốc. Tính tư tưởng, tính Đảng, tính triết học của XHH Mác-Lênin đã có vai trò
quan trọng trong việc định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn cho nghiên cứu XHH.
XHH có 5 phương pháp nghiên cứu cơ bản:
Thứ nhất, cụ thể hoá phương pháp triết học XH trong việc nghiên cứu XH 1 cách toàn diện như
1 hệ thống XH.
Thứ hai, XHH địi hỏi phải nghiên cứu XH dưới góc độ cơ cấu, sự hình thành, phát triển chức
năng và làm rõ vị trí tương tác của nó, vì vậy cần vận dụng phương pháp cơ cấu và chức năng.
Thứ ba, xây dựng khung lý thuyết tối thiểu ban đầu để khảo sát thực tại XH, nhà XHH xác định
đối tượng nghiên cứu của mình dựa trên các ý tưởng, các giả thuyết và phải xây dựng lý thuyết làm
cơng cụ trí tuệ, giúp người nghiên cứu hiểu được thực tại nào đó, giải thích 1 số sự kiện nhất định.
Thứ tư, phải xây dựng nhiều phương pháp như phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn,
phương pháp trưng cầu ý kiến, phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp thống kê… để thu thập
thông tin và xử lý thông tin. ( đây chính là phương pháp nghiên cứu riêng của XHH)
Thứ năm, XHH có thể sử dụng các phương pháp khác như phương pháp đối chiếu, so sánh,
phương pháp phân tích mối liên hệ giữa các biến số, phương pháp phân tích nhân quả, phương pháp
thực nghiệm và đồng thời phải biết cách sử dụng cả những phương pháp của những ngành KH khác để
nghiên cứu vấn đề 1 cách khách quan, KH.
Như vậy, XHH vận dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể để giải quyết
nhửng vấn đề cơ bản sau: Đó là xđ được vấn đề nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu;
xây dựng mô hình, khung lý thuyết; xđ phương pháp nghiên cứu; tiến hành nghiên cứu
điều tra thực tế; đánh giá, kết luận về vấn đề đã nghiên cứu.

* Ý nghĩa (vai trò) việc nghiên cứu nội dung này trong điều kiện nước ta hiện nay?
Ở VN, nhìn chung bộ mơn XHH cịn tương đối mới mẻ, các nghiên cứu về XHH chưa gập được
sự quan tâm của XH. Mặt khác, chất lượng của các cơng trình nghiên cứu này cũng là 1 vấn đề đáng
quan tâm, 1 số nhà nghiên cứu mãi chạy theo các dự án để tăng thu nhập mà ít quan tâm tới chất lượng
nghiên cứu. Đây cũng là thực trạng chung của các nghiên cứu ở VN. Sản phẩm nghiên cứu xong để cất
vào tủ, ít được áp dụng trong thực tiễn.
Về tình hình phát triển KT-XH, sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới đất nước có sự thay đổi cơ
bản và toàn diện KT tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH – HĐH, phát triển KT thị trường định

hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhiều KCN lớn được tập trung
hình thành và ngày càng phát triển, q trình đơ thị hố đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, các luồng
di dân từ nơng thơn ra thành thị để tìm việc làm diễn ra với mức độ lớn, thương mại trong nước và
quốc tế ngày càng mở rộng về quy mô và trình độ. Cơ cấu XH VN cũng có nhiều thay đổi, kể cả cấu
trúc, quan hệ gia đình và cả những chuẩn mực giá trị đạo đức XH.
Tuy nhiên đất nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển kinh tế còn lạc hậu so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, XH, xây dựng hệ thống CT, còn nhiều yếu kém.
Chưa thực hiện tốt việc kết hợp tăng trưởng KT với tiến bộ và công bằng XH. Môi trường ở nhiều nơi
bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Khoảng cách chênh lệch về thu
nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng giãn ra. Nhu cầu về việc làm
chưa được đáp ứng tốt, có nhiều vấn đề mới nảy sinh nhất là trên lĩnh vực XH. Việc xây dựng nếp sống
2


VH chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ
nạn XH và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ.
Từ thực trạng về tình hình KT-XH hiện nay của nước ta, việc nghiên cứu XHH là hết sức quan
trọng.
Thứ nhất, XHH nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc các mặt của đời sống XH, nghiên cứu sâu mối
quan hệ giữa con người trong sự tương tác với mơi trường XH, mối quan hệ giữa các nhóm, các giai
tầng trong cơ cấu XH, sự tương tác giữa hệ thống XH này với hệ thống XH khác, từ đó giúp cho các
nhà quản lý trên các lónh vực có những tri thức mới, nắm bắt được tình hình thực tiễn, lịch
sử, nắm bắt được thực trạng XH của từng giai đoạn, những yêu cầu của XH. Trên cơ sở
đó, xây dựng tất cả các chương trình hành động, đưa ra những kiến nghị xác đáng và các giải
pháp nhằm tác động vào XH theo chiều hướng tích cực, hiệu quả, khoa học hơn chống tư duy ý chí,
chủ quan, áp đặt gay nguy hại cho công việc chung.
Thứ hai, bằng các phương pháp đặc thù của XHH như việc thu nhập, phân tích các chứng cứ và
số liệu, XHH có khả năng đưa ra những dự báo XH, phát hiện ra những mối quan hệ giữa các hiện
tượng và q trình XH, từ đó có thể thấy được thực trạng của vấn đề diễn ra trong tiến trình XH cần
được xử lý và đề xuất ra các kiến nghị, giải pháp về mặt XH. Trên cơ sở đó, các nhà quản lý, các nhà

hoạch định và thực thi chính sách có cơ sở KH để đề ra các quyết định quản lý.
Cụ thể, ở nước ta hiện nay, trong công cuộc xây dựng CNXH, có nhiều vấn đề mới
phát sinh, nhất là trên lónh vực XH. Việc nghiên cứu XH giúp cho các nàh lãnh đạo
nắm bắt được những đặc điểm lịch sử trong từng giai đoạn, trên cơ sở đó xây dựng các
chính sách XH đúng đắn., phù hợp cho đất nước phát triển, hoặc trong sản xuất kinh
doanh, trong quản lý các đơn vị cũng cần phải có nhiều thông tin cần thiết để có phương
án, kế hoạch tốt.
Thứ ba, qua chức năng tư tưởng, XHH giúp cho cán bộ hình thành phong cách làm việc KH,
phong cách làm việc lãnh đạo đúng đắn, giúp chúng ta hiểu hơn về quần chúng nhân dân lao động, về
tâm tư nguyện vọng, để có những chính sách vận động thuyết phục, sử dụng tốt nguồn nhân lực con
người trong q trình cơng tác để XH phát triển đi lên đúng quy luật khách quan.
Trong giai đoạn đến khi nước ta phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, nhiệm vụ XHH ngày càng quan trọng, các nhà XHH cần phải năng nổ và thâm
nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống XH để thực hiện chức năng thực tiễn của mình, đồng thời
góp phần xây dựng hồn chỉnh lý luận của XHH./.

3


Câu 2. Nội dung cơ cấu xã hội, ý nghĩa rút ra trong quản lý xã hội.
Lịch sử phát triển của lồi người đều phải trải quan 5 hình thái KT-XH, mỗi một hình thái kinh tế
xã hội đều có một cơ cấu xã hội phù hợp sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội đó. Xã hội ln biến
đổi, phát triển và điều đó kéo theo sự vận động thay đổi của cơ cấu xã hội. Nắm vững cơ cấu xã hội với
các quy luật sinh ra của các phần tử trong cơ cấu xã hội và các mối quan hệ giữa chúng xét trong
không gian, thời gian quyết định... để có những dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội trong tương
lai, điều chỉnh xu hướng đó sao cho hợp lý, tối ưu nhằm thúc đẩy xã hội ổn định và phát triển là vấn
đề rất có ý nghĩa trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn của nhà quản lý.
CCXH là 1 khái niệm cơ bản và then chốt của XHH. Cơ cấu XH là một hệ thống nhiều chiều,
nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về CCXH nhưng nhìn chung các nhà
XHH đều có điểm thống nhất khi đề cập đến CCXH đều đề cập đến thành phần XH và mối liên hệ XH.

Theo Robinson, một nhà XHH người Mỹ cho rằng CCXH là mơ hình của các quan hệ giữa các thành
phần cơ bản trong hệ thống XH. Những thành phần này tạo nên 1 bộ khung cho tất cả XH loài người,
mặc dù tính chất giữa các thành phần và các quan hệ giữa chúng biến đổi từ XH này đến XH khác. Các
thành tố cơ bản của CCXH là nhóm XH, vị thế XH và vai trò XH, thiết chế XH.
Thứ nhất là nhóm XH: Nhóm XH là một tập hợp người trong đó các cá nhân có mối quan hệ
tương tác với nhau theo 1 kiểu cấu trúc nào đó, hay nói cách khác, nhóm XH là tập hợp người có quan
hệ với nhau về vị thế, vai trị, những nhu cầu lợi ích và những định hướng giá trị nhất định. Nghiên cứu
nhóm khơng phải chỉ nghiên cứu số lượng mà còn nghiên cứu mối quan hệ đặc trưng tạo nhóm, có 2
nhóm cơ bản là sơ cấp và nhóm thứ cấp
Thứ 2 là vị thế XH: là chỗ đứng của 1 cá nhân trong không gian XH hay nói cách khác là 1 vị
trí nào đó trong cấu trúc XH. Một cá nhân có thể tồn tại trong các nhóm XH, do đó, có
nhiều vị trí khác nhau tương ứng với vai trò khác nhau. Vị thế XH cũng có thể được hiểu là chỗ
đứng của cá nhân hay nhóm XH trong 1 CCXH nhất định. (có thể hiểu là địa vị XH). Mỗi cá
nhân thường có nhiều vị thế, trong đó, vị thế nghề nghiệp là quan trọng nhất, có vai trò quyết định
đối với việc xác định những đặc điểm nào đó của một cá nhân.
Thứ ba là thiết chế XH: có thể hiểu là 1 tập hợp tương đối bền vững của các giá trị XH, chuẩn
mực XH, nhóm XH và vị thế, vai trị của nó vận động xung quanh nhu cầu cơ bản của XH. Nó được
tạo ra và hoạt động để thoả mản những nhu cầu và thực hiện các chức năng xã hội quan trọng. Thiết
chế xã hội cũng có thể hiểu là một tổ chức hoạt động xã hội, quan hệ xã hội nhất định, đảm bảo tính
bền vững và tính kế thừa các quan hệ xã hội đó. Thiết chế XH có thể phân tích theo quan điểm:
cơ cấu bên trong là tập hợp nhất định những tiêu chuẩn được định hướng theo mục tiêu
về hành vi của những người nhất định trong một hoàn cảnh nhất định; cơ cấu bên
ngoài: là một tổng thể những người, những cơ quan được trang bị những phương tiện vật
chất nhất định và thực hiện những chức năng XH nào đó.
Từ những nội dung trên, ta thấy tinh thần và các quan hệ khác nhau giữa các thành tố cơ bản
trong một hệ thống XH sẽ đưa đến các cơ cấu XH khác nhau, cơ cấu XH khác nhau quyết định chiều
hướng phát triển khác nhau của XH.
Nội dung của cơ cấu XH:
Các phân hệ cơ bản của CCXH: Cơ cấu XH luôn gắn liền với quan hệ XH và là
biểu hiện trực tiếp của quan hệ XH. Mỗi hệ thống XH là một hệ thống đa cơ cấu, do

đó cơ cấu XH có thể cắt theo từng lát cắt khác nhau của cơ cấu tổng thể. Đó là cơ
cấu XH giai cấp, nghề nghiệp, dân số, lãnh thổ, dân tộc. Cơ cấu XH giai cấp được phân
chia tuỳ thuộc vào mỗi chế độ XH, giữ vai trò then chốt, là hạt nhân của cơ cấu XH và
sự biến động của nó tạo nên sự biến động của cơ cấu XH. CCXH nghề nghiệp là một
hệ thống gồm các nhóm, các tầng lớp khác nhau về trình độ, ngành nghề. CCXH dân
số là loại cơ cấu chủ yếu của XH, có thể phân chia XH một cách khách quan theo đặc
trưng: lứa tuổi, giới tính, lãnh thổ….CCXH lãnh thổ gắn liền với cơ cấu kinh tế từng
vùng lãnh thổ, với địa bàn cư trú của dân cư, với điều kiện sống của các cộng đồng
dân tộc và với bản sắc riêng về truyền thống và di sản văn hoá., thường được phân
chia theo các tiêu chí: vùng, miền, khu vực..,.do đó, có CCXH nông thôn và CCXH đô thị.
4


CCXH dân tộc tập trung vào các vấn đề quy mô, tỷ trọng, sự biến đổi cả về số lượng,
chất lượng và mối quan hệ giữa các dân tộc; mối quan hệ tác động qua lại giữa cơ cấu
XH hiện thực với các mặt khác trong đời sống XH.
CCXH vừa có tính ổn định lại vừa có tính năng động. CCXH có trạng thái ổn định tương đối thì
XH mới tồn tại, vận hành và phát triển được. Mặc khác, do đặc tính và nhu cầu nội tại của nó mà cơ
cấu xã hội luôn là sự tương tác và đấu tranh giữa các bộ phận cấu thành nó. Do đó, bản thân cơ cấu
xã hội có trạng thái năng động tự thân vận động, tự thân đổi mới. Nhưng cơ cấu xã hội lại ở trong trạng
thái mất ổn định bởi cơ cấu xã hội chỉ là một bộ phận của một hệ thống xã hội mà cịn chịu sự tác
động của các yếu tố bên ngoài như: yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa đã tạo nên tính năng động của cơ
cấu xã hội, tức là tự đổi mới và phát triển. Khi nó tác động vào cơ cấu xã hội thì nó sẽ nãy sinh ra
những hiện tượng đó là tạo nên những sai lệch trong cơ cấu lợi ích của các nhóm xã hội, đó chính là
hiện tượng phân tầng xã hội và di động xã hội.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cơ cấu XH về mặt quản lý XH
Nghiên cứu CCXH vận dụng với cơng tác quản lý XH có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát
triển của XH nhö sau:
- Thứ nhất nghiên cứu CCXH qua các thành tố cơ bản sẽ giúp cho nhà quản lý nhận diện đúng
đắn thực trạng XH, từ đó đưa ra mơ hình CCXH phù hợp, vận hành một cách hợp lý trên cơ sở thiết

chế nhất định, bởi vì chỉ trên cơ sở mơ hình CCXH tối ưu mới có phương thức quản lý tối ưu.
- Thứ hai, nghiên cứu CCXH giúp cho nhà quản lý thấy được tầm quan trọng của thiết chế dối với
sự ổn định CCXH và trong quản lý XH. Chúng ta thấy rằng yếu tố để duy trì trật tự XH, tạo sự ổn định
làm điều kiện cho XH phát triển chính là thiết chế XH. Bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng sử dụng thiết
chế XH để làm công cụ quản lý XH. Trên cơ sở hiểu sâu sắc về thiết chế, các nhà quản lý tạo điều kiện
cho các thiết chế xã hội cơ bản thực hiện chức năng của mình, để tạo sức mạnh cho hệ thống XH, đồng
thời theo dõi và tìm mọi cách để cải cách thiết chế, đổi mới sao cho nó phù hợp với nhu cầu đổi mới
đang nãy sinh trong XH.
- Thứ ba, nghiên cứu nhóm XH nhằm đưa ra CC nhóm XH như thế nào là hợp lý nhằm có được
nghệ thuật quản lý, xác định được thành phần, cấu trúc nhóm, các giá trị, chuẩn mực của nhóm, từ đó
góp phần đưa ra mơ hình CCXH phù hợp.
- Thứ tư, nghiên cứu vị thế XH và vai trò XH nhằm xác định đúng vị thế của từng cá nhân, từng
nhóm và sắp xếp bố trí các vai trị phù hợp để phát huy được vị thế vai trò, điều kiện cho các cá nhân,
các nhóm trong CCXH ổn định và phát triển được bởi vì CC vị thế, vai trị khơng phù hợp thì khơng
phát triển được, tạo ra nhiều mâu thuẩn XH.
- Thứ năm, nghiên cứu thiết chế XH để thiết lập trật tự và ổn định XH, thiết chế khơng chặt chẽ
thì XH khơng có kỹ cương, XH khơng có thiết chế là xã hội rối loạn. Đồng thời không được coi trọng
hay xem nhẹ bất cứ một thieát chế nào mà phải tạo điều kiện cho các thiết chế thực hiện chức năng
đồng bộ làm tăng thêm sức mạnh cho hệ thống XH. Đây là công cụ để quản lý, điều chỉnh XH theo
đúng chuẩn mực của nó.
- Thứ 6, nghiên cứu CCXH giúp Nhận diện đúng thực trạng, xu hướng của phân tầng xh và
di động XH để có biện pháp tác động hoặc điều chỉnh giúp cho nhà quản lý nắm được trạng thái ổn
định và năng động của XH; các yếu tố tác động đến các phân hệ cơ bản của cơ cấu XH và sự biến động
của từng phân hệ. Trên cơ sở đó, nhà quản lý đưa ra những chủ trương, chính sách hợp lý, kịp thời.
Mặt khác, để xây dựng 1 quốc gia có nền KT phát triển thì 1 cơ cấu KT hòan chỉnh và đồng bộ là kết
quả của việc tạo ra 1 cơ cấu XH hợp lý, 1 cơ cấu XH hợp lý chỉ có thể có được bởi 1 bộ máy quản lý
XH năng động, sáng tạo và trên cơ sở tổ chức tốt quá trình lao động SX.
Tóm lại, khi nghiên cứu CCXH, chúng ta cần nhắm đến mục đích cuối cùng là
tăng cường sự ổn định và phát triển xã hội bằng cách luôn điều chỉnh các phân hệ
của CCXH ở trạng thái cân bằng bởi hệ thống các chính sách xã hội đúng đắn.

Vai trị của người làm cơng tác quản lý lãnh đạo đất nước không thể tách rời việc nghiên cứu
CCXH và các thành tố cơ bản của nó, nhằm có những chủ trương chính sách phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế XH, điều chỉnh XH phát triển theo đúng mục tiêu. Nghiên cứu CCXH giúp ta hiểu
được bức tranh chung, khái quát XH từ đó dễ chọn lựa xây dựng một CCXH tối ưu bảo đảm cho sự ổn
5


định phát triển XH. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có đường lối đúng đắn và đưa ra
CCXH hợp lý, góp phần đưa đất nước ta vững bước trên con đường XD XHCN.
Liên hệ: Người làm công tác quản lý lãnh đạo phải biết vận dụng nhận thức CCXH vào việc quản
lý XH ở địa phương, đặc biệt là vùng nông thôn với phần lớn là nông dân: xu hướng giảm tương đối về
tỷ lệ và tuyệt đối về số lượng nông dân trong CCXH và dân cư nước ta; xu hướng phân nhánh, phân
tầng đa dạng hóa trong cơ cấu giai cấp nơng dân; xu hướng biến đổi trong thiết chế gia đình và XH ở
nông thôn,…. Biến đổi CCXH trong khu vực nâng dân, nơng thơn là 1 tiến trình tất yếu, là kết quả
logic của công cuộc đổi mới CNH-HĐH đất nước. Trong thời gian tới, khi mà công cuộc CNH-HĐH
ngày càng tăng cường, CCKT vĩ mô của đất nước ngày càng dịch chuyển nhanh theo hướng cơng
nghiệp, dịch vụ, thì sự biến đổi CCXH của nơng dân, nơng thơn sẽ cịn nhanh chóng và sâu sắc hơn.
Trong điều kiện ấy, những tác động của q trình đó đối với XH nơng thơn sẽ cịn mạnh mẽ và phức
tạp hơn nữa. Nhìn chung q trình biến đổi CCXH ở nơng thơn là tích cực, là phù hợp với với quy luật
phát triển. Tuy nhiên cũng khơng tránh khỏi mặt trái của q trình đó. Vấn đề đặt ra là cần phải có một
hệ thống những chính sách đồng bộ, hợp lý và kịp thời để phát huy hết được những ảnh hưởng tích cực
và hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực của những biến đổi CCXH của nông dân trong tiến trình
đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng và phát triển đất nước.
Tóm lại, nghiên cứu CCXH có ý nghĩa rất quan tro5nh về mặt quản lý XH, giữa CCXH và quản
lý XH có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, muốn quản lý tốt thì địi hỏi phải có mơ hình CCXH
hợp lý và ngược lại muốn có mơ hình hợp lý phải thực hiện quản lý XH có hiệu quả thì mới đáp ứng
được yêu cầu đổi mới của XH và nguyện vọng của nhân dân.

6



Câu 3. Nội dung vấn đề sai lệch xã hội, ý nghĩa rút ra trong quản lý xã hội.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển, bất cứ xã hội nào cũng phải có những cơ chế ràng buộc hành
động của các thành viên, các nhóm phải tuân thủ những giá trị, chuẩn mực văn hóa, các qui tắc đã đề
ra. Nhưng xã hội luôn vận động trong những điều kiện điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội không
ngừng biến đổi. Với những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, các thành viên trong xã
hội không phải lúc nào cũng thực hiện được những hành vi đúng theo những giá trị, chuẩn mực văn
hóa, những quy phạm của xã hội, những địi hỏi của nhóm mà họ tham gia. Những hành vi của cá nhân
hay nhóm khơng phải phù hợp với những giá trị, chuẩn mực đang được xã hội thừa nhận gọi là sai lệch
xã hội. Nói cách khác, sai lệch xã hội cịn gọi là lệch chuẩn là hành vi của một cá nhân hay một nhóm
xã hội đi chệch với những chuẩn mực xã hội.
Trên thực tế, khơng có một tổ chức hay một cơ quan nào buộc các thành viên của mình tn thủ
chuẩn mực một cách tuyệt đối, mà nó cáo một khoảng cự ly sai số cho phép đó là “vùng mờ”. Nhưng
vấn đề là phải xác định cự ly cho phép sai số đó là bao nhiêu. Những người làm chính trị và luật pháp
khơng thích vùng mờ, nhưng vùng mờ vẫn tồn tại một cách cần thiết.
Trong thực tiễn cuộc sống, những lệnh chuẩn xã hội thường được mô tả như là những hành vi
chống đối xã hội, nó bao trùm sự phản ứng của những người khác. Những hành vi lệnh lạc cản trở sự
phát triển của người khác, của xã hội mà xã hội không thể chấp nhận, địi hỏi phải trừng phạt những ai
có hành vi đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Những hành vi này thường là vi phạm những chuẩn
mực mà pháp luật qui định, hành vi đó gọi là tội phạm. Xét về qui mô của sự lệch chuẩn thì có lệch
chuẩn cá nhân, lệch chuẩn nhóm. Lệch chuẩn cá nhân, nhóm đều là sự lệch chuẩn về những qui tắc, qui
định của pháp luật, sự sai lệch có thể là vi phạm về KT, chính trị, văn hóa, giáo dục, nghệ
thuật…Những lệch chuẩn này đều bị xử lý bằng pháp luật.
Xét về tính chất tác động của hành vi, có hành vi sai lệch tích cực và hành vi sai lệch tiêu cực.
Lệch chuẩn tích cực là lệch chuẩn là những hành vi không phù hợp với những giá trị, chuẩn mực đang
được xã hội thừa nhận nhưng nó tác động tích cực đến xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Trong thực tế,
những hành động này thường phải trải qua thời gian đấu tranh, xã hội kinh nghiệm dần mới được thừa
nhận. Thí dụ như một số sáng kiến hiện nay xem là sai lệch, về lâu dài có thể là đúng. Sai lệch xã hội
tiêu cực là những hành vi tiến hành theo các giá trị thấp kém, những chuẩn mực, qui tắc lỗi thời, cản
trở sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển văn minh.

Xét về qui mơ có hành vi sai lệch cá nhân và hành vi sai lệch nhóm.Sai lệch cá nhân là những
hành vi thường xảy ra ở mỗi người trong các quan hệ xã hội với những mức độ khác nhau. Sai lệch của
nhóm là những hành động xã hội của một nhóm đi ngược lại với những chuẩn mực, qui tắc của xã hội
đương thời hoặc trái với vai trị xã hội mà nhóm đó đảm nhiệm. Thí dụ như hành động của một băng
tội phạm (cướp, bn lậu,…).
Xét về động cơ có sai lệch xã hội vô ý và sai lệch xã hội cố ý. Sai lệch vơ ý là do trình độ hiểu
biết hạn chế nên có hành vi sai lệch vơ tình. Sai cố ý là hành vi sai lệch lập đi lặp lại nhiều lần mang
tính hệ thống ảnh hưởng đến người khác, đến quốc gia.
Xét về mức độ có hành vi sai lệch xã hội mức độ thấp và hành vi sai lệch xã hội mức độ cao.
Lệch chuẩn mức độ thấp là sự lệch những qui định của chuẩn mực, sự lệch đó thường mang tính tức
thời, ít lặp lại, ít ảnh hưởng đến xã hội. Còn lệch chuẩn ở mức độ cao là hành vi cố ý, có tính tốn, có
sắp đặt và hành vi lệch đó thường lập đi lập lại nhiều lần. Ngồi ra cịn có lệch chuẩn thông thường và
lệch chuẩn đặc biệt. Lệch chuẩn thông thường là hành vi hoặc ngôn phong của một cá nhân sai lệch
chuẩn với chuẩn mực đúng đạo đức xã hội thường xảy ra nhưng hậu quả không lớn : chửi thề, nói
tục…Con lệch chuẩn đặc biệt đây là những hành vi mà hậu quả của nó gây ảnh hưởng nguy hiểm cho
một cá nhân hoặc một nhóm người, một tổ chức tao ra: mua bán chất ma túy, buôn lậu, tham nhũng…
Những sai lệch chuẩn xã hội ít nhiều gay hậu quả cho xã hội cần phải được điều chỉnh bằng công
cụ luật pháp, bằng giáo dục…
Để lý giải cho sự lệch chuẩn của một cá nhân, một nhóm người hoặc một tổ chức đối với những
chuẩn mực thiết chế xã hội những nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra những nhận định sự sai lệch
xã hội dựa trên một số cơ sở như:
7


Lý thuyết về cơ thể học thì các nhà khoa học cho rằng thể trạng vóc dáng, hình tướng, kích thước
của các bộ phận con người cũng biểu hiện những người dễ có hành vi đặc thù của sự sai lệch xã hội.
Lý thuyết về nhiễm sắc thể, đây là một biểu hiện nội tạng bên trong của con người, người có
nhiễm sắc thể trội thì dễ có hành vi lệch chuẩn.
Lý thuyết dựa trên cơ sở phân tâm học là con người có 3 phần trong nội tại đó là vơ thức, lương
tâm và trí tuệ, nếu người nào có phần vơ thức mạnh, hành vi vơ thức vượt qua được lương tâm và trí

tuệ thì người đó dễ lệch chuẩn.
Lý thuyết dựa cơ sở trên môi trường sinh thái tự nhiên là sự thay đổi về mặt trăng, môi trường
xung quanh hoặc chế độ ăn uống cũng ảnh hưởng đến lệch chuẩn như ăn uống những chất kích thích
làm cho con người dễ phạm tội hơn.
Theo lý thuyết cơ sở xã hội con người có 4 chỉ số như ưu đãi xã hội, tần số giao tiếp cao, cường
độ hoạt động mạnh, có một thời gian nhất định thì dễ rơi vào lệch chuẩn. Trong thực tế con người nào
có chế độ ưu đãi từ vị trí thấp lên vị trí cao khơng do năng lực của người đó, mà giao cho họ một địa vị
quyền lực nắm vật chất thì có khả năng hỏng việc và phạm tội cao.
Lý thuyết gán nhãn, người bị gán nhãn có khi là do hành vi sai lệch do chính bản thân cá nhân đó
thực hiện, cũng có thể do định kiến người khác gán cho. Nhãn có tuổi thọ so với hành vi sai lệch và
đeo đẳng con người suốt cả cuộc đời, ảnh hưởng đến con đường công danh sự nghiệp.
Theo thuyết về mơi trường học, thì mơi trường đơ thị có khả năng phạm tội cao hơn nơng thơn.
Lý do mơi trường đơ thị mang tính ẩn đẩy nhanh cao, không ai biết ai, quan hệ giữa đô thị là cạnh
tranh, quan hệ đức đoạn nên dễ gây ra những bức xúc nhất định và dễ phạm tội nhiều hơn so với môi
trường khác.
Lý thuyết mâu thuẫn và xung đột theo quan điểm Macxit. Các nhà kinh điển Macxit đã khẳng
định rằng nguyên nhân của sai lệch xã hội là do mâu thuẫn giữa các nhóm trong xã hội. Những mâu
thuẫn đó được xuất phát từ quan hệ kinh tế, mà trước hết là quyền lợi kinh tế. Các nhà xã hội học
Macxit đã tiếp nhận các luận điểm trên và khẳng định rằng các hành vi sai lệch xã hội phát sinh, tồn tại
và phát triển đều có nguồn gốc và nguyên nhân vốn có trong nền kinh tế xã hội được chủ thể xã hội
tiếp nhận, phê phán, đánh giá trên cơ sở lập trường giai cấp của mình và thể hiện bằng hành vi cụ thể.
Vì vậy, trước một hành vi sai lệch xã hội phải đánh giá, kiểm soát và xử lý căn cứ vào những mâu
thuẫn đó.
Từ nội dung trên cho thấy sai lệch XH có ý nghĩa hết sức quan trọng. Qua việc nghiên cứu
giúp cho nhà quản lý nước ta thấy được thực trạng sai lệch XH, nhận diện và xác định đúng nguyên
nhân, nguồn gốc, mức độ sai lệch XH, từ đó cái nhìn của nhà quản lý đầy đủ, không phiến diện để lý
giải đúng đắn các hiện tượng sai lệch.
Từ nhận diện đúng sai lệch XH giúp các nhà quản lý đưa ra biện pháp cụ thể, chính sách phù
hợp đối với từng sai lệch XH nhằm điều chỉnh các sai lệch XH. Đồng thời giúp cho việc kiểm sốt XH,
điều chỉnh hồn thiện hệ thống pháp luật XHCN, xây dựng nhà nước do dân, của dân, vì dân.

Trong điều kiện XH hiện nay, sai lệch XH còn tồn tại nhiều nên nhà quản lý phải tăng cường
công tác kiểm sốt XH, trong đó chú ý tăng cường cơng tác kiểm sốt nội tâm, chú ý giáo dục con
người để mỗi cá nhân tự kiểm sốt mình, tự hạn chế sai lệch XH.
Khi sai lệch XH đã xãy ra thì cương quyết xữ lý bằng kiểm sốt chính thức, thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật, từ đó tạo cho pháp luật nghiêm minh, mọi người đều tự giác chấp hành. Qua đó
hạn chế được tối đa những hành vi tệ nạn XH, tiêu cực tham ô, tham nhũng, lãng phí quan liêu,
v.v.v…… khuyến khích các hành vi hợp chuẩn ngăn chặn các hành vi hợp chuẩn nhằm ổn định trật tự
XH, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triễn XH, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh XH cơng
bằng dân chủ văn minh.
Tóm lại, cùng với tiến trình đi lên của sự nghiệp đổi mới nhiều vấn đề mới nãy sinh phong phú
và đa dạng, vấn đề nghiên cứu sai lệch XH cần được chú trọng nhằm góp phần nâng cao ý thức chấp
hành trong quản lý XH của nhà nước. Ngăn chặn và đẩy lùi các hành vi sai lệch tiêu cực là cơng việc
cấp thiết hiện nay của tồn XH, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triễn thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh XH công bằng dân chủ văn minh.
8


Câu 4. Nội dung về dư luận xã hội; chính sách xã hội và ý nghĩa rút ra trong quản lý xã hội.
Bài làm:
Dư luận xã hội là một hiện tượng XH đặc biệt biểu thị sự phán xét, đánh giá và thái độ của nhóm
XH đối với các vấn đề liên quan đến lợi ích của các nhóm trong XH. Dư luận XH được hình thành
thông qua các cuộc trao đổi, thảo luận công khai. Chủ thể của dư luận XH không phải
là cá nhân mà là số đông người, một nhóm hay nhiều nhóm XH, mà lợi ích của họ
có quan hệ với sự kiện đang diễn ra và được thảo luận công khai.
Như vậy những ý kiến chung của cơng chúng trong dư luận xã hội có thể biểu thị 1 cách công
khai hoặc lan truyền 1 cách ngấm ngầm, nhưng dù công khai hay ngấm ngầm dư luận xã hội ln
mang tính “nặc danh” chứ khơng gắn với cá nhân cụ thể. Hay nói cách khác chủ thể của dư luận xã hội
bao giờ cũng là nhóm XH, cộng đồng XH, tịan thể xã hội.
Đối tượng của dư luận Xh là các sự kiện, hiện tượng, quá trình XH đang diễn ra, tác
động đến lợi ích của các nhóm XH, thu hút được sự quan tâm của công chúng. Bất cứ sự

kiện xã hội nào để trở thành đối tượng của dư luận xã hội, chỉ khi nó được xem xét về quan hệ với lợi
ích của các nhóm,gây ra sự quan tâm của cơng chúng. Sự kiện xã hội nào cũng liên quan đến lợi ích
của các nhóm trong xã hội. Nhưng vấn đề là các nhóm có nhận thức được mối quan hệ đó hay khơng.
Qua trao đổi thảo luận cơng khai những nhóm lớn, những nhóm có lợi ích phù hợp với lợi ích chung và
những nhóm biết tổ chức thơng tin, tun truyền, vận động khôn khéo thường tạo được dư luận xã hội
ủng hộ việc bảo vệ lợi ích của họ.
Dư luận xã hội là một hiện tượng tinh thần của xã hội những lại biểu hiện như
một hành vi xã hội. Cho nên quá trình phát triển của dư luận xã hội tuân thủ theo quy
luật “phản xạ xoay vòng”. Thông tin chính là yếu tố tác động, lôi cuốn các nhóm xã
hội vào vòng xoáy của trao đổi, bàn bạc, tranh luận, bày tỏ quan niệm, thái độ đối
với những người xung quanh, tạo thành dư luận xã hội. Những sự kiện trọng đại tác
động lớn đến đời sống xã hội tạo ra nhiều cuộc trao đổi tranh luận sôi nổi tạo thành
những phản ứng xã hội mạnh mẽ.
Dư luận xã hội phụ thuộc vào hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa đang tồn tại ở
mỗi cộng đồng. Vì vậy, cùng một sự kiện xã hội xảy ra ở mỗi cộng đồng xã hội,
mỗi hoàn cảnh lịch sử khác nhau xuất hiện những dư luận khác nhau. Dư luận xã hội
không chỉ biến đổi theo thời gian và không gian và môi trường văn hóa, mà nó còn
biến đổi theo sự phát triển của xã hội và theo sự phát triển của đối tượng.
Tính chất của dư luận xã hội:
1. Tính cơng chúng, cơng khai: chủ thể dư luận là nhóm XH được tiếp cận với sự
kiện, được phổ biến, được sử dụng các phương tiện thông tin để trao đổi tranh luận công
khai. Tất cả các chủ thể của DLXH đều có thể bàn bạc, đánh giá, nhận xét về bất kỳ vấn đề XH nào mà
họ quan tâm. Thông tin về đối tượng XH phải được truyền đi bằng con đường chính thức, cơng khai.
Muốn trở thành chủ thể dư luận, các thành viên XH phải có khả năng và được tham
gia vào các cuộc tranh luận, trao đổi công khai về những vấn đề ma họ quan tâm.truyền
thông đại chúng có vai trò to lớn trong việc cung cấp những thông tin cho quần chúng.
Dư luận xã hội xuất phát từ thực tế khách quan, dư luận xã hội có tính trách
nhiệm xã hội (tức hàm chứa cách giải quyết vấn đề ) còn tin đồn tuy cũng là sự
nhận định, đánh giá và tỏ thái độ của con người đối với các sự kiện XH, củng thể
hiện tâm tư nguyện vọng nhưng là của số ít và còn thiếu thông tin, lại không được thão

luận công khai. Khi tin đồn được cung cấp đầy đủ thông tin được đông đảo quần chúng
tranh luận và tiếp cận một cách công khai thì chuyển thành dư luận Xh. Cũng có thể
hiểu tin đồn chỉ là một tin tức về một sự việc nào đó mang tính bịa đặt hoặc thổi
phồng có tính chất chủ quan ly kỳ hấp dẫn và không có tính trách nhiệm.
2. Tính lợi ích:
Bất kỳ 1 sự kiện xh nào để trở thành đối tượng của DLXH khi và chỉ khi nó liên quan đến lợi ích
các nhóm.
+ Lợi ích vật chất: ảnh hưởng đến kt, sự ổn định cuộc sống của các nhóm xh.
9


+ Lợi ích tinh thần: đụng chạm đến hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá, phong tục tập
quán của xh hoặc của các nhóm xh.
Khi một sự kiện xảy ra, muốn hình thành được dư luận trong XH phải cung cấp thông
tin cùng với việc phân tích mối quan hệ của sự kiện đó với những lợi ích XH trước
quần chúng. Quá trình trao đổi, tranh luận cũng là quá trình giải quyết các mâu thuẩn
lợi ích của các nhóm XH, lợi ích của nhóm và lợi ích chung.
3. Tính lan truyền:
DLXH tuân thủ theo quy luật “phản xạ xoay vịng”. Điểm xuất phát cũa nó là phản ứng
của cá nhân hoặc nhóm này tác động vào cá nhân hoặc các nhóm khác. Cá nhân
hoặc nhóm đó lại tác động vào cá nhân hoặc nhóm tiếp theo. Chính như vậy sẽ dẩn
đến sự tác động trở lại vào cá nhân hoặc nhóm đầu tiên. Vòng phản ứng có được
tiếp diễn hay không tuỳ thuộc kích thích mới, tức là htông tin về sự kiện đang diễn ra.
Thơng tin chính là yếu tố tác động, lơi cuốn các nhóm xh vào vịng xốy của sự trao đổi, bàn bạc, tranh
luận, bày tỏ quan điểm, thái độ đối với người xung quanh tạo thành DLXH.
4. Tính biến đổi:
DLXH khg phải bất biến mà có sự thay đổi. một sự kiện XH xảy ra, dư luận XH được hình
thành không đồng nhất trong không gian và thời gian. Dư luận XH có những biến đổi
như sau:
- biến đổi theo mơi trường văn hóa: mỗi xh có nền vh riêng nên khi 1 sự kiện xh xảy ra ở mỗi nền

vh khác nhau sẽ có sự đáng giá khác nhau (vd: hiện tượng tảo hôn)
- biến đổi theo thời gian: do hệ thống giá trị thay đổi theo sự phát triển của xh.
- biến đổi theo sự phát triển cjủa đối tượng: sự kiện xảy ra, phát triển có sự thay đổi tính chất hoặc
hình thức thể hiện làm cho DLXH thay dổi theo.
Nguyên nhân của sự biến đổi là do dư luận XH phụ thuộc vào hệ thống giá trị,
chuẩn mực, văn hoá đang tồn tại ở mọi công đồng.
Sự hình thành DLXH: 4 bước
- Bước 1: cá nhân tiếp xúc, tiếp nhận thông tin, hình dung được sự xuất hiện và vận
độngcủa sự kiện, thấy được sự ảnh hưởng của nó với lợi ích của bản thân, của
nhóm, của XH, hình thành ý kiến và thái độ ban đầu. Trong bước này, việc tiếp nhận
được những thông tin , khả năng tổng hợp và phân tích của cá nhân có vai trò heat sức
quan trọng.
- Bước 2: ý kiến, thái độ của các nhân dần dần chuyển thành ý kiến, thái độ
của những người xung quanh, của nhóm, qua trao đổi, thảo luận, đánh giá quan hệ của
sự kiện và lợi ích. Trong bước này, việc tiếp xúc trao đổi, bàn bạc một cách dân chủ,
mạnh dạn công khai làm cho ý kiến, thái độ của cá nhân nhanh chóng được phê phán
và tiếp nhận.
- Bước 3: hình thành ý kiến, quan điểm chung trên cơ sở thống nhất những nhận định
cơ bản về sự kiện. Những lợi ích, giá trịchuẩn mực của các nhóm được chia sẻ. Trong
bước này, việc tranh luận công khai và dân chủ giữ vai trò quan trọng.
- Bước 4: thống nhất ý kiến đánh giá chung, hình thành thái độ chung của cộng
đồng cũng như những khuyến nghị, tâm thể sẵn sàng hành động thực tiễn đối với sự
kiện.
Bồn bước trên cho thấy, dư luận XH chỉ được hình thành qua giao tiếp XH; quần
chúng phải tiếp nhận được thông tin, được trao đổi và tranh luận công khai, dân chủ.
Không phải dư luận XH nào được hình thành cũng qua đầy đủ bốn bước trên. Chỉ
đối với những sự kiện XH phức tạp , quần chúng chưa chuẩn bị được thái độ và phản
ứng phù hợp, dư luận XH phải trãi qua thời gian dài để quần chúng nhận thức và phát
hiện mối quan hệ của nó với lợi ích của nhóm, của XH. Đối với những sự kiện Xh
xâm phạm nghiêm trọng đến những lợi ích căn bản đến hệ thống giá trị, chuẩn mực,

đạo đức… thì dư luận Xh hình thành nhanh chóng và rõ nét.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành DLXH:
10


Khác với tri thức khoa học, dư luận Xh bao hàm cả các nhân tố chủ quan,
phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố:
- Quy mơ, cường độ, tính chất của các hiện tượng , sự kiện xh đang xảy ra.:công chúng
thường chỉ bày tỏ sự ủng hộ đối với những sự kiện mang lại lợi ích cho họ và phãn
đối những gì làm thiệt hại lợi ích cũa họ.
- Mức độ dân chủ hóa đời sống xh: dư luận XH hình thành qua trao đổi, thảo luận. Do đó,
cá nhân, nhóm Xh khi được cung cấp thông tin, khi được bày tỏ ý kiến công khai mới
trỡ thành chủ thể dư luận . quần chúng càng được tự do ngôn luận thì dư luận XH sẽ
hình thành nhanh và tích cực, ngược lại, khi không được cung cấp thông tin đầy đủ, không
có tự do ngôn luận, ttâm tư, tình cảm của quần chúng sẽ thể hiện bằng tin đồn hay
bằng hình thức văn học, nghệ thuật lan truyền trong XH.
- Các yếu tố thuộc về tâm trạng XH: tâm trạng Xh là trạng thái tâm lý phổ biến ,
đặc trưng của các nhóm Xh trong một thời kỳ nhất định. Tâm trạng XH thể hiện ở sự
hưng phấn hay ức chế, tích cực hay tiêu cực, laic quan hay bi quan của XH, ảnh hưởng đến
đời sống hoạt động và tinh thần của quần chúng.
- Phong tục tập quán và hệ thống giá trị, chuẩn mực XH hiện hành: Hệ thống giá
trị, chuẩn mực văn hoá đang hiện hành tạo ra những khuôn mẫu trong tư duy, làm cơ sở
cho sự phán xét, đánh giá của dư luận XH.
- Công tác truyền thông, vận động: truyền thông, vận động là phương tiện giao tiếp
XH nhằm thuyết phục đối tượng chấp nhận, chia sẻ và ủng hộ quan điểm, hành động
nào đócủa chủ thể. Đối với quốc gia, chủ thể này là đảng phái, lực lượng chính trị
hay cơ quan chính quyền. Truyền thông đại chúng ngày càng hiện đại, phong phú và hấp
dẫn nên có tầm quan trọng đặc biệt trong việc hình thành dư luận XH.
Chức năng của DLXH:
- Điều hịa quan hệ xh:

Mỗi nhóm, mỗi cộng đồng đều có lợi ích riêng nên khi các nhóm, các cộng đồng tương tác với
nhau tất yếu sẽ có mâu thuẫn nên DLXH điều hịa các nhóm, các cộng đồng bằng lợi ích chung để cho
các nhóm, các cộng đồng khi hành xử phải xuất phát từ lợi ích chung. Hay nói cách khác, XH gồm
nhiều nhóm với các vị thế và lợi ích khác nhau, nên khi 1 sự kiện XH xảy ra thì có ý kiến phán xét và
thái độ khác nhau. DLXH là 1 cơ chế thảo luận, trao đổi liên tục tìm ra các quan điểm chung trong lợi
ích nhìn nhận, đánh giá thực tiễn XH. Qua trao đổi, thảo luận mỗi nhóm sẽ thấy được lợi ích của họ
trong tương quan với lợi ích của nhóm khác của XH. Vì vậy, ý kiến, thái độ dần dần phải xuất phát từ
lợi ích chung.
- Điều chỉnh hành vi của cá nhân và nhóm xh:
Khuyến khích, động viên những hành vi của cá nhân phù hợp với chuẩn mực xh đồng thời lên án
những hành vi khg phù hợp với chuẩn mực xh.cho neân, sự lên án hay ủng hộ của dư luận XH
tác động mạnh mẻ đến hành vi của cá nhân, của nhóm, buộc họ phải điều chỉnh cho
phù hợp với giá trị, chuẩn mực XH. Tuy nhiên, sự đánh giá phán xét của DLXH không phải khi
nào cũng đúng cũng hợp lý và tích cực đối với sự phát triển của xã hội và con người. Trước DLXH, cá
nhân, nhóm sẽ điều chỉnh hành vi như thế nào còn phụ thuộc vào ý chí của họ.
- Giám sát và tư vấn: Trong chế độ XH dân chủ, người dân có nhiều cơ hội tham gia vào kiến
thiết, quản lý nhà nước. Người dân có quyền bầu ra người lãnh đạo, quản lý, đồng thời bằng DLXH, họ
phán xét, đánh giá chủ trương, chính sách và kết quả hoạt động của cá nhân, cơ quan lãnh đạo, quản lý.
+ Giám sát: cơ quan, tổ chức về hoạt động, kết quả hoạt động.
+ Tư vấn: điều tra, khảo sát từ đó có số liệu chính xác tương đối giúp cho nhà quản lý, nhà họach
định chiến lược có nhữngquyết định đúng đắn, giúp cho xh phát triển.
Vai trò của dư luận xã hội
Dư luận xã hội có vai trò rất to lớn trong lịch sử loài người trong xã hội, chưa có
nhà nước Dư luận xã hội có vai trò quản lý xã hội. Dư luận xã hội ủng hộ khuyến
khích những hành vi tốt đẹp, trung thực dũng cảm, tình yêu thương đồng loại và bao giờ
cũng lên án ngăn cản những hành vi sai trái.
11


Khi xã hội phân chia thành giai cấp thì dư luận xã hội thường bị chi phối bởi ý

thức hệ của giai cấp thống trị. Mỗi nhà nước muốn quản lý kiểm soát xã hội phải
được dư luận xã hội tán đồng vì vậy giai cấp thống trị luôn truyền bá tư tưởng thốn
giá trị của giai cấp mình tạo dư luận ủng hộ giai cấp đó.
Đảng, nhà nước ta hết sức coi trọng dư luận xã hội vì mọi hoạt động của Đảng,
nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Qua dư
luận xã hội để nắm bắt được tâm trạng của nhân dân, hiểu được nguyện vọng và lợi
ích của họ để đề ra chủ trương chính sách phù hợp “giữ chặt mối liên hệ với dân
chúng và luôn lắng nghe ý kiến dân chúng đó là nền tảng lực lượng của đoàn thể
và nhờ đó mà đoàn thể thắng lợi”.
Chính sách xã hội:
Chính sách là hình thức tác động qua lại giữa các nhóm, tập đoàn XH, gắn trực
tiếp hoặc gián tiếp với tồ chức, hoạt động của Nhà nước, của các đảng phái, thiết
chế khác nhau của hệ thống chính trị nhằm thực hiện các lợi ích, các mục tiêu, nhiệm
vụ của các nhóm, tập đoàn XH đó.
Chính sách xã hội là sự thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương giải quyết các vấn đề xh,
dựa trên những tư tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất của chế độ chính trịxh, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xh nói chung và của từng nóm xh nói riêng nhằm
tác động trực tiếp vào con người và điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con người với con người,
giữa con người với xh, vì sự cơng bằng xh, phát triển an sinh xh, góp phần ổn định, phát triển và tiến
bộ xh.
Đặc trưng chính sách xã hội:
Sự khác biệt của chính sách xã hội với chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng...bắt
nguồn từ khía cạnh xã hội, tính chất xã hội của nó. Theo đó, mà chính sách xã hội có những đặc trưng
cơ bản sau:
- Một là, chính sách xã hội lấy con người, các nhóm người trong cộng đồng làm đối tượng tác
động để hoàn thiện và phát triển con người; lấy con người làm trung tâm, coi yếu tố con người vừa là
động lực vừa là mục đích của quá trình xây dựng, phát triển XH mới.
- Hai là, chính sách Xh có mục tiêu cọ bản là hiệu quả XH, góp phần ổn định, phát
triển và tiến bộ XH, bảo đảm cho mọi người được sống trong tình nhân ái, bình đẳng và
công bằng. Cho nên, chính sách xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, luôn hướng tới việc
hành thành những giá trị chuẩn mực mới, tiến bộ góp phần đẩy lùi các ác, cái xấu trong xã hội.

- Ba là, chính sách xã hội có tính trách nhiệm xã hội cao (đây là đặc trưng để phân biệt CSXH
với công tác từ thiện). CSXH bao giờ cũng quan tâm đến số phận của những con người cụ thể, quan
tâm đến những cá nhân sống trong những điều kiện thiệt thịi, khó khăn so với mặt bằng chung của xã
hội lúc bấy giờ. CSXH không chỉ tạo điều kiện cho những cá nhân, cộng đồng vượt qua khó khăn, thử
thách mà cịn quan tâm đến việc tạo điều kiện để các đối tượng đó phát huy hết những khả năng vốn có
của mình, vươn lên hoà nhập với xã hội.
- Bốn là, để thực hiện CSXH đúng mục tiêu, đối tượng và có hiệu quả, thơng thường phải có cơ
chế hoạt động, bộ máy nhân sự, chương trình dự án và kinh phí hoạt động riêng của nó.
- Năm là, CSXH có tính kế thừa lịch sử. Một CSXH đi vào lòng người, sát dân là một CS mang
bản sắc, truyền thống đạo đức và nhân văn của dân tộc.
Phân loại chính sách XH:
Tuỳ tiêu chí phân chia mà ta có các loại chính sách khác nhau:
- Xét ở tính phổ biến (gọi là chính sách XH phổ biến) gồm có: CS dân số, CS lao
động và việc làm, CS bảo đảm Xh, CS phòng chống tội phạm và tệ nạn XH.
- xét theo giai cấp, tầng lớp Xh (CS Xh với các giai tầng XH) có CS Xh đối với giai
cấp công nhân, CS XH đối với giai cấp nông dân, CS Xh đối với tầng lớp trí thức và
sinh viên, CS Xh đối với tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân…

12


- xét theo giới đồng bào (CS XH đối với các giới đồng bào) có CS đối với thanh
niên, CS đối vơi phụ nữ và gia đình, CSđối với các dân tộc thiểu số, CS đối với tôn
giáo, CS đối với người định cư ở nước ngoài….
- Theo đối tượng, tính chất và phạm vi có các CS XH được tính đến, được lồng ghép,
được xây dựng, trong khi hoạch định và thực hiện CS kinh tế: CS Xh cơ bản chung cho mọi
đối tượng, cộng đồng…..
Đối tượng của chính sách xã hội
Đối tượng của chính sách xã hội là các tầng lớp nhân dân trong xã hội như: công nhân, nơng dân,
thợ thủ cơng, sinh viên trí thức, nhà doanh nghiệp, trẻ em, người gìa, thành niên, phụ nữ, các dân tộc,

các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, những bậc lão thành cách mạng, thương binh, liệt
sĩ, những bà mẹ Việt Nam anh hùng... đó là những nhóm, những thành viên rơi vào tình cảnh của vấn
đề xã hội như bị tai nạn, thất nghiệp, nghèo đói, bất bình đẳng về kinh tế,chính trị, chịu nhiều bất cơng,
thiệt thịi, rủi ro...
Nhiệm vụ của chính sách xã hội :
Để đạt tới sự cơng bằng an tồn, tạo điều kiện phát triển con người một cách toàn diện, chính
sách xã hội thực hiện 5 nhiệm vụ cơ bản như sau:
Một là, tái tạo tiềm năng nhân lực của đất nước (đây là vốn quý nhất của đất nước, của XH) thơng
qua các chính sách về dân số, gia đình, bảo vệ sức khoẻ, bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ ngơi giải trí,
khắc phục các tệ nạn xã hội, bảo đảm an tồn xã hội…
Hai là, góp phần vào việc xây dựng nền tảng vững chắc xã hội với các chính sách về nhà ở, bảo
vệ mơi trường sinh thái, sự phát triển văn hóa, giáo dục khoa học, nghệ thuật... bảo đảm phát triển bền
vững của xã hội.
Ba là, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho các tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đào tạo lại và đào tạo mới người lao động để tiếp thu kỹ thuật, công
nghệ hiện đại và không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Bốn là, tạo đều kiện cho xã hội ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ những sản phẩm vật
chất, tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất nước
và những chuẩn mực đạo đức pháp lý của chế độ xã hội mới.
Năm là, tạo lập, hình thành mơ hình lối sống mới theo hướng phát triển toàn diện của cá nhân kết
hợp hài hồ với sự phát triển của cơng đồng trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống đẹp của dân
tộc, đồng thời xây dựng những giá trị mới phù hợp với bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại.
Vai trị của chính sách xã hội trong sự ổn định và phát triển của xã hội
Xuất phát từ những đặc trưng và nhiệm vụ của chính sách xã hội, chúng ta thấy rằng chính sách
xã hội là chính sách đối với con người, nó phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực con người thông qua
việc đề ra biện pháp, các giải pháp làm cho con người, cho nhân dân lao động có điều kiện sống ngày
càng tốt hơn về cả vật chất lẫn tinh thần. Một chính sách xã hội đúng đắn phải phù hợp với lợi ích của
con người, do con người và vì hạnh phúc con người, trên cơ sở lấy con người làm mục tiêu của sự phát
triển, mọi sự phát triển phải xoay quanh con người. Với ý nghĩa đó, chính sách xã hội thật sự là một
nhân tố ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Chính sách xã hội cịn có vai trị quan trọng bởi nó ln hướng tới sự cơng bằng xã hội, do đó tạo
tính tích cực, năng động xã hội, làm cho xã hội phát triển bền vững. Công bằng ở đây là sự cân đối mặt
bằng giữa các chính sách, là giải quyết chính sách xã hội sao cho vấn đề lợi ích giữa các đối tượng có
thể có chênh lệch nhưng xã hội chấp nhận được, ai cống hiến nhiều, hy sinh nhiều thì phải được hưởng
lợi ích nhiều hơn. Nếu khơng có chính sách xã hội phù hợp, giải quyết đúng đắn vấn đề mấu chốt này,
có thể sẽ làm triệt tiêu các động lực xã hội, dẫn tới sự trì trệ và khủng hoảng xã hội. Bài học kinh
nghiệm qua việc áp dụng một chính sách cào bằng chung chung trong thời bao cấp trước đây ở nước ta
dẫn đến tình trạng khủng hỏang kinh tế trầm trọng cho thấy rõ điều đó
Những vấn đề cấp bách của chính sách xã hội hiện nay ở nước ta:
Bước vào thời kỳ đổi mới, chính sách xã hội được Đảng và nhà nước quan tâm thực hiện ngày
càng tốt hơn. Vấn đề xã hội đã được tính đến nhiều hơn trong những phương án phát triển kinh tế xã
13


hội. Chính sách xã hội được nhận thức một cách tồn diện, phong phú trên cả tầm vĩ mơ và vi mô.
Nhân tố con người và sắc thái cá nhân được coi trọng.
Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, có một số vấn đề xã hội nổi lên rất gay gắt và
bức xúc cần phải có chính sách giải quyết, nếu không sẽ dẫn tới những hậu quả xh nghiêm trọng, thậm
chí gây mất ổn định về kinh tế, chính trị và an tồn xh. Những chính sách cần giải quyết như: việc làm,
xố đói giảm nghèo, giáo dục, y tế và văn hóa, dân số kế hoạch hố gia đình, tệ nạn xã hội và tội phạm,
Các chính sách xã hội khác như bảo hiểm xh, ưu đãi xh, cứu trợ xh…
Ý nghĩa của DLXH:
Hiện nay, đất nước ta đang trong q trình cơng nghiệp hố – hiện đại hoá đất nước và hội nhập
quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 sẽ trở thành nước công nghiệp cơ bản và mở cửa giao lưu với các
nước trên thế giới. Hệ thống giá trị chuẩn mực đang biến đổi mạnh mẽ, việc quản lý XH trên các mặt
còn nhiều lúng túng, xã hội đang phát sinh nhiều vấn đề mới. DLXH được xem là một trong những
công cụ, phương tiện hiệu quả để hạn chế, ngăn ngừa và phòng chống những tiêu cực nhằm ổn định
trật tự XH.
Với XH VN ngày càng phát triển, trình độ văn hoá của quần chúng ngày càng được nâng cao,
dân chủ càng mở rộng thì sức mạnh của DLXH ngày càng lớn, nó tác động đến XH như những luật lệ

bất thành văn. Vì vậy, nghiên cứu DLXH có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác quản lý XH:
Nghiên cứu DLXH là 1 trong những hình thức tốt nhất để thu thập thông tin phản ánh tâm tư
nguyện vọng cũng như suy nghĩ và cảm xúc của các tầng lớp XH. Vì vậy, tổ chức nghiên cứu DLXH 1
cách nghiêm túc là phương tiện cần thiết để phát huy quyền làm chủ của nhân dân và mở rộng dân chủ
XH.
Nghiên cứu DLXH giúp ta nắm bắt kịp thời thực trạng tư tưởng của các nhóm XH khác nhau,
cũng như những diễn biến của thực trạng này trong từng thời kỳ. Đây cũng là những nguồn thông tin
vô cùng quý giá giúp ta khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí trong lãnh đạo, quản lý XH. Vì các thơng tin này cịn là những tín hiệu phản hồi từ phía quần chúng
đối với việc thực hiện các nhiệm vụ KT – XH từ đó có cơ sở điều chỉnh, bổ sung các chủ trương chính
sách phù hợp hơn.
Nghiên cứu DLXH 1 mặt góp phần nâng cao ý thức giác ngộ chính trị trong quần chúng, mở rộng
dân chủ XHCN, động viên quần chúng tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý XH. Mặt khác, nó
góp phần làm tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, nhà nước với quần chúng nhân dân, góp phần hồn
thiện cơng tác lãnh đạo quản lý XH trên cơ sở khoa học.
Nghiên cứu DLXH giúp chúng ta có những thơng tin về các mặt hoạt động của các cơ quan nhà
nước và giúp cho nhân dân nhận thức và thực hiện các chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng và
nhà nước và các tổ chức XH để giải quyết các vấn đề còn vướng mắc. Những thông tin này là 1 trong
những căn cứ quan trọng để Đảng và nhà nước kiểm tra công tác của mình để có những chủ trương
quyết định cần thiết phù hợp với thực tế.
Nắm được DLXH, người quản lý có thể tiên đốn được những điểm nóng trong đời sống XH,
chuẩn bị trước các biện pháp can thiệp kịp thời, giải quyết được mâu thuẫn, ngăn chặn được bạo lực,
gây rối.
Tóm lại, cùng với tiến trình đi lên của sự nghiệp đổi mới, nhiều vấn đề mới nảy sinh phong phú
và đa dạng, vấn đề nghiên cứu DLXH và việc sử dụng thông tin DLXH cần được chú trọng nhằm góp
phần nâng cao ý thức giác ngộ, ý thức chính trị trong quần chúng tham gia vào việc quản lý nhà nước,
quản lý XH. Đồng thời tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, nhà nước với quần chúng nhân dân góp
phần hồn thiện cơng tác lãnh đạo quản lý XH trên cơ sở khoa học.

14



Câu 1: Phân tích xã hội học (XHH) là 1 khoa học và vai trị của XHH đối với cơng cuộc phát
triển của nước ta hiện nay:
Những biến đổi nhanh chóng và phức tạp của XH Châu Âu vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đã đặt
ra những yêu cầu thực tiễn mới đối với nhận thức XH, từ đó đã thúc đẩy q trình hình thành và phát
triển một bộ môn KH mới – môn XHH vào thế kỷ 19. Thành tựu này có cơng lao đóng góp của nhiều
nhà XHH, nhưng tiêu biểu nhất là: A.Cơngtơ, H.Spencer, Duychkem, M.Vêbơ và C.Mac.
XHH là KH nghiên cứu sự hình thành và phát triển vận hành các nhóm, các tổ chức, các cộng đồng
XH, là KH nghiên cứu về các mối quan hệ XH với tính cách là cơ sở tác động qua lại giữa các cá nhân
và các nhóm, các cộng đồng XH, và là KH về quy luật hành động của quần chúng. XHH ra đời từ
những điều kiện, tiền đề về KT – CT và lý luận KH.
Điều kiện về KT, đó chính là sự ra đời và phát triển khách quan của CNTB, cuộc CM cơng nghiệp
bùng nổ, đơ thị hóa và CM thương mại dưới sự tác động của CNH làm cho 1 số lượng dân cư khá lớn
từ nông thôn chuyển đến thành thị, những biến đổi trên đã tác động mạnh mẽ dẫn đến sự thay đổi toàn
bộ đời sống XH, lay chuyển tận gốc trật tự KT cũ đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm trước đó, hình
thái KT – XH kiểu phong kiến bị sụp đỗ, từ đó, kéo theo sự biến đổi trong đời sống XH, hệ thống giá
trị, văn hoá của XH hiện đại thay thế hệ thống giá trị, văn hố của XH nơng nghiệp truyền thống, các
mối quan hệ XH đa dạng và trở nên phức tạp hơn. Nhiều vấn đề XH phát sinh cũng được giải quyết.
Điều kiện như thế đòi hỏi về mặt nhận thức KH phải có 1 ngành KH thích hợp ra đời để giải quyết các
vấn đề mới phát sinh đó chính là XHH.
Điều kiện CT, đó chính là những biến động CT lớn ở Pháp, Anh, Đức, Ý,… góp phần làm thay đổi
thể chế CT, trật tự XH Châu Âu, mà điển hình 1 cuộc CM TS Pháp năm 1789, đánh dấu cho thời kỳ
tan rã của chế độ phong kiến thay bằng NNTS. Trong thời kỳ này mâu thuẫn về lợi ích giữa các tầng
lớp XH, nhất là GCTS và GCCN VS đã lên đến đỉnh cao, làm bùng nổi cuộc CMVS đầu tiên. Công xã
Pari năm 1871, những biến động trên đã tác động to lớn đến các nhà XHH cũng như nhiều nhà tư
tưởng khác đã quan tâm nghiên cứu để tìm cách lý giải phù hợp nhất.
Tiền đề lý luận KH của XHH chính là những thành tựu của KHTN và KHXH, những phát minh
mới, các quy luật tự nhiên được phát hiện ra, giúp các nhà XHH, các nhà XHH thấy được những mơ
hình về cách xây dựng lý thuyết, các nghiên cứu quá trình, hiện tượng XH 1 cách KH. Trong KH, XH

xuất hiện những nhân tố XH mới lý giải XH ra đời phương pháp luận nghiên cứu KH thế giới có thể
hiểu và giải thích được bằng các khái niệm, phạm trù và phương pháp nghiên cứu KH. Từ đó là nhân
tố cho sự ra đời và phát triển XHH.
Xác định đối tượng nghiên cứu của XHH là gì thì hiện nay vẫn còn là vấn đề đang tiếp tục tranh
luận, bởi vì có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu vào XH, nhưng tổng hợp các quan điểm.
Ơxipơp đưa ra định nghĩa XHH là KH về các quy luật, tính quy luật XH chung và dân chủ của sự phát
triển, về sự vận hành của các hệ thống XH xác định về mặt lịch sử về các cơ chế tác động và các hình
thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, các nhóm XH, các giai cấp và các
dt.
Xuất phát từ mối quan hệ và sự tác động qua lại của XHH với thực tiễn XH, XHH có 3 chức năng
cơ bản sau:
Chức năng nhận thức: XHH trang bị cho người nghiên cứu môn học những tri thức khoa học về bản
chất của hiện thực, XH và con người, nó cung cấp 1 hệ thống các khái niệm, phạm trù, lý luận và
phương pháp nghiên cứu, trên cơ sở đó, XHH giúp người nghiên cứu có thể phát hiện ra các quy luật,
tính quy luật, cở chế nảy sinh, sự vận động và phát triển của các quá trình XH.
Chức năng thực tiễn: XHH không phải nghiên cứu XH để biết cho vui mà thực sự nó góp phần hết
sức quan trọng vào việc cải biến hiện thực. Nó cung cấp những thông tin cho các hoạt động thực tiễn
của con người và XH, cung cấp các điều kiện cho việc quản lý các quá trình XH, giúp cho sự điều
chỉnh các q trình XH dự đốn và dự báo về các quá trình phát triển của XH.
Chức năng tư tưởng: XHH tham gia vào quá trình giáo dục tư tưởng, q trình đấu tranh tư tưởng
để đảm bảo tính khách quan, tính KH.
Về phương pháp nghiên cứu XHH có 5 phương pháp cơ bản:
15


Thứ nhất, cụ thể hoá phương pháp triết học, XH trong việc nghiên cứu XH 1 cách toàn diện như 1
hệ thống XH.
Thứ hai, XHH đòi hỏi phải nghiên cứu XH dưới góc độ cơ cấu, sự hình thành, phát triển chức năng
và làm rõ vị trí tương tác của nó, vì vậy cần vận dụng phương pháp cơ cấu và chức năng.
Thứ ba, xây dựng khung lý thuyết tối thiểu ban đầu để khảo sát thực tại XH, nhà XHH xác định đối

tượng nghiên cứu của mình dựa trên các ý tưởng, các giả thuyết và phải xây dựng lý thuyết làm cơng
cụ trí tuệ, giúp người nghiên cứu hiểu được thực tại nào đó, giải thích 1 số sự kiện nhất định.
Thứ tư, phải xây dựng nhiều phương pháp như phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn,
phương pháp trưng cầu ý kiến, phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp thống kê… để thu thập
thông tin và xử lý thơng tin vì nhà XHH khơng thể sử dụng biện pháp thí nghiệm như trong lĩnh vực tự
nhiên hay kỹ thuật.
Thứ năm, XHH có thể sử dụng các phương pháp khác như phương pháp đối chiếu, so sánh, phương
pháp phân tích mối liên hệ giữa các biến số, phương pháp phân tích nhân quả, phương pháp thực
nghiệm và đồng thời phải biết cách sử dụng cả những phương pháp của những ngành KH khác để
nghiên cứu vấn đề 1 cách khách quan, KH.
Ở VN chúng ta, nhìn chung bộ mơn XHH cịn tương đối mới mẻ, các nghiên cứu về XHH chưa gập
được sự quan tâm của XH. Mặt khác, chất lượng của các cơng trình nghiên cứu này cũng là 1 vấn đề
đáng quan tâm, 1 số nhà nghiên cứu mãi chạy theo các dự án để tăng thu nhập mà ít quan tâm tới chất
lượng nghiên cứu. Đây cũng là thực trạng chung của các nghiên cứu ở VN. Sản phẩm nghiên cứu xong
để cất vào tủ, ít được áp dụng trong thực tiễn.
Về tình hình phát triển KT - XH, sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới đất nước có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện KT tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH – HĐH, phát triển KT thị trường định hướng
XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhiều KCN lớn được tập trung hình
thành và ngày càng phát triển, q trình đơ thị hố đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, các luồng di
dân từ nơng thơn ra thành thị để tìm việc làm diễn ra với mức độ lớn, thương mại trong nước và quốc
tế ngày càng mở rộng về quy mô và trình độ. Cơ cấu XH VN cũng có nhiều thay đổi, kể cả cấu trúc,
quan hệ gia đình và cả những chuẩn mực giá trị đạo đức XH.
Tuy nhiên đất nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển kinh tế còn lạc hậu so với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, XH, xây dựng hệ thống CT, còn nhiều yếu kém. Chưa
thực hiện tốt việc kết hợp tăng trưởng KT với tiến bộ và công bằng XH. Môi trường ở nhiều nơi bị ô
nhiễm nặng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập,
mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng giãn ra. Nhu cầu về việc làm chưa
được đáp ứng tốt. Có nhiều vấn đề mới nảy sinh nhất là trên lĩnh vực XH. Việc xây dựng nếp sống VH
chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn
XH và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ.

Từ thực trạng của bộ môn XHH, tình hình KT – XH hiện nay của nước ta, việc nghiên cứu XHH là
hết sức quan trọng.
Thứ nhất, XHH nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc các mặt của đời sống XH, nghiên cứu sâu mối quan hệ
giữa con người trong sự tương tác với môi trường XH, mối quan hệ giữa các nhóm, các giai tầng trong
cơ cấu XH, sự tương tác giữa hệ thống XH này với hệ thống XH khác, từ đó giúp cho các nhà quản lý
nắm bắt được thực trạng XH, đưa ra những kiến nghị xác đáng và các giải pháp nhằm tác động vào XH
theo chiều hướng tích cực, hiệu quả.
Thứ hai, bằng các phương pháp đặc thù của XHH như việc thu nhập, phân tích các chứng cứ và số
liệu, XHH có khả năng đưa ra những dự báo XH, phát hiện ra những mối quan hệ giữa các hiện tượng
và quá trình XH, từ đó có thể thấy được thực trạng của vấn đề diễn ra trong tiến trình XH cần được xử
lý và đề xuất ra các kiến nghị, giải pháp về mặt XH. Trên cơ sở đó, các nhà quản lý, các nhà hoạch
định và thực thi chính sách có cơ sở KH để đề ra các quyết định quản lý.
Thứ ba, qua chức năng tư tưởng, XHH giúp cho cán bộ hình thành phong cách làm việc KH, phong
cách làm việc lãnh đạo đúng đắn, giúp chúng ta hiểu hơn về quần chúng nhân dân lao động, về tâm tư
nguyện vọng, để có những chính sách vận động thuyết phục, sử dụng tốt nguồn nhân lực con người
trong q trình cơng tác để XH phát triển đi lên đúng quy luật khách quan.
16


Trong giai đoạn đến khi nước ta phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, nhiệm vụ XHH ngày càng quan trọng. XHH cần phải năng nổ và thâm nhập vào tất cả
các lĩnh vực của đời sống XH để thực hiện chức năng thực tiễn của mình. Đồng thời góp phần xây
dựng hoàn chỉnh lý luận của XHH.

17


Câu 2: Phân tích ý nghĩa của việc nghiên cứu các thành phần cơ bản của cơ cấu xã hội (CCXH)
đối với hoạt động lãnh đạo của nhà quản lý
CCXH là 1 khái niệm cơ bản và then chốt của XHH. Đây là 1 khái niệm rộng không chỉ liên quan

đến hành vi XH mà còn là mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố khác nhau trong hệ thống XH.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về CCXH nhưng nhìn chung các nhà XHH đều có điểm thống
nhất khi đề cập đến CCXH đều đề cập đến thành phần XH và mối liên hệ XH. Theo Robinson, một nhà
XHH người Mỹ cho rằng CCXH là mơ hình của các quan hệ giữa các thành phần cơ bản trong hệ
thống XH. Những thành phần này tạo nên 1 bộ khung cho tất cả XH lồi người, mặc dù tính chất giữa
các thành phần và các quan hệ giữa chúng biến đổi từ XH này đến XH khác.
Các thành tố cơ bản của CCXH là nhóm XH, vị thế XH và vai trò XH, thiết chế XH.
Thành tố cơ bản thứ nhất là nhóm XH. Nhóm XH là một tập hợp người trong đó các cá nhân có
mối quan hệ tương tác với nhau theo 1 kiểu cấu trúc nào đó, hay nói cách khác, nhóm XH là tập hợp
người có quan hệ với nhau về vị thế, vai trị, những nhu cầu lợi ích và những định hướng giá trị nhất
định.
Ở góc độ XHH, nghiên cứu nhóm khơng phải chỉ nghiên cứu số lượng mà còn nghiên cứu mối
quan hệ tạo nhóm. Từ đó, người ta chia nhóm XH làm 2 loại: nhóm sơ cấp (nhóm cấp 1) có số lượng
thành viên ít nhưng quan hệ tình cảm mật thiết như nhóm gia đình, bạn bè, đồng nghiệp; nhóm thứ cấp
(nhóm cấp 2) số lượng thành viên đơng nhưng quan hệ tình cảm ít mật thiết như đồn thể, xí nghiệp, cơ
quan.
Ngồi ra, XHH cịn chia ra làm 2 loại nhóm khác: nhóm chính thức được thành lập bằng văn bản, có
ngạch bậc, có quan hệ quyền lực và nhóm khơng chính thức (cịn gọi là nhóm quyền uy) là nhóm tự
liên kết, đó là các loại nhóm mà khi đề cập đến nhóm là đề cập đến vai trị trưởng nhóm. Thực chất làm
cơng tác quản lý là quản lý nhóm. Trưởng của nhóm chính thức nếu khơng có cái chất của người thủ
lĩnh (uy tín) thì chỉ lãnh đạo nhóm bằng mệnh lệnh mà thơi, muốn làm công tác lãnh đạo tốt, người
lãnh đạo phải quản lý được cả nhóm chính thức và khơng chính thức bởi vì trong lịng của 1 nhóm
chính thức sẽ có nhiều nhóm khơng chính thức.
Thành tố cơ bản thứ 2 là vị thế XH và vai trò XH, vị thế XH là chỗ đứng của 1 cá nhân trong không
gian XH hay nói cách khác là 1 vị trí nào đó trong cấu trúc XH. Vị thế XH cũng có thể được hiểu là
chỗ đứng của cá nhân hay nhóm XH trong 1 CCXH nhất định. Mỗi cá nhân thường có nhiều vị thế,
trong đó, vị thế nghề nghiệp là quan trọng nhất.
Vị thế XH có thể chia làm 2 loại: Vị thế tự nhiên là vị thế có được khơng bằng nổ lực công sức; vị
thế đạt được là vị thế có được nhờ nổ lực cơng sức kể cả cơ may và thủ đoạn.
Vai trò XH là nghĩa vụ và quyền lợi của 1 cá nhân hay nhóm XH do vị thế XH quy định.

Thuật ngữ vai trò XH được vay mượn từ 1 cái từ là vai diễn trên sân khấu, người ta ví cuộc đời là 1
sân khấu lớn và mỗi cá nhân đều là diễn viên trên sân khấu của cuộc đời, do đó phải học đóng vai nó
hình thành 1 cơ chế gọi là cơ chế đóng vai. Đóng vai là biến con người nguyên thuỷ thành con người
khác, đồng thời chấp nhận 1 vai trò đối diện trong mối quan hệ tương tác. Trong cuộc đời con người
khơng thể nào đếm được mình đóng bao nhiêu vai, có bao nhiêu mối quan hệ là có bấy nhiêu vai trị
XH. Đóng vai thường diễn ra 1 cách tự phát nhưng vẫn thực hiện được nhờ vào 1 q trình đó là q
trình XHH. Đóng vai nhiều hay ít cịn tuỳ thuộc vào các yếu tố địa bàn, cư trú, nghề nghiệp. Đóng vai
là phải đóng đúng kịch bản, vấn đề mà XHH quan tâm chính là mối quan hệ giữa vị thế XH và vai trị
XH, có mối quan hệ chặt chẽ. Vị thế XH qui định vai trò XH, vị thế như thế nào thì vai trị tương ứng
như thế đó. Vai trị sẽ củng cố vị thế, mất vai trò là mất vị thế, mất uy tín là mất phần thăng hoa của vị
thế.
Thành tố cơ bản thứ ba, thiết chế XH có thể hiểu là 1 tập hợp tương đối bền vững của các giá trị
XH, chuẩn mực XH, nhóm XH và vị thế, vai trị của nó vận động xung quanh nhu cầu cơ bản của XH.
Nó được tạo ra và hoạt động để thoả mản những nhu cầu và thực hiện các chức năng xã hội quan trọng.
Thiết chế xã hội cũng có thể hiểu là một tổ chức hoạt động xã hội, quan hệ xã hội nhất định, đảm bảo
tính bền vững và tính kế thừa các quan hệ xã hội đó.
Các nhà xã hội học phân chia chức năng của thiết chế xã hội thành chức năng công khai và chức
năng tiềm ẩn, chức năng cơ bản và chức năng riêng biệt. Qua nghiên cứu xã hội, cả xã hội sơ khai và
18


xã hội hiện đại, các nhà xã hội học xác định bất kỳ quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải có
5 thiết chế xã hội cơ bản thiết chế gia đình, thiết chế giáo dục, thiết chế kinh tế, thiết chế chính trị, thiết
chế tơn giáo.
Thiết chế XH cịn chức đựng các nét của nó, đó là những đơn vị nhỏ nhất của thiết chế như các biểu
tượng của văn hóa, mã hóa hành vi.
Thiết chế xã hội có các đặc trưng:
- Thiết chế xã hội được xây dựng trên cơ sở chuẩn mực XH, giá trị XH mà những yếu tố này có đặc
điểm là tương đối bền vững, do đó biến đổi rất chậm, trong khi đó thì xã hội ln vận hành, những
thiết chế đã lạc hậu, lõi thời sẽ làm kìm hãm của phát triễn XH.Do đó phải kịp thời cải cách để có thiết

chế phù hợp.
- XH là hệ thơng các thiết chế thì 5 thiết chế cơ bản có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, một thiết chế
thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của các thiết chế khác, đặc biệt là thiết chế kinh tế.
- Các thiết chế có xu hướng trở thành những vấn đề tiêu điểm cho XH, bất kỳ sự đổ vỡ của một thiết
chế nào cũng dẫn đến vấn đề nghiêm trọng cho XH. Chẳng hạn, thiết chế gia đình đổ vỡ thì nạn ly hơn
tăng, thiết chế pháp luật đổ vỡ thì tội phạm tăng, thiết chế chính trị đổ vỡ thì XH rối loạn. Do đó, nhà
quản lý khơng được coi trọng hay xem nhẹ thiết chế nào mà phải tạo 9iều kiện cho các thiết chế vận
hành đồng bộ mới tạo sức mạnh cho hệ thống XH.
Từ những nội dung trên, ta thấy tinh thần và các quan hệ khác nhau giữa các thành tố cơ bản trong
một hệ thống XH sẽ đưa đến các cơ cấu XH khác nhau, cơ cấu XH khác nhau quyết định chiều hướng
phát triển khác nhau của XH. Vì vậy việc nghiên cứu CCXH, các thành tố cơ bản của CCXH rất quan
trọng đối với sự phát triễn của XH.
Thứ nhất nghiên cứu CCXH qua các thành tố cơ bản sẽ giúp cho nhà quản lý nhận diện đúng đắn
thực trạng XH, từ đó đưa ra mơ hình CCXH phù hợp, vận hành một cách hợp lý trên cơ sở thiết chế
nhất định. Bởi vì chỉ trên cơ sở mơ hình CCXH tối ưu mới có phương thức quản lý tối ưu.
Thứ hai, nghiên cứu CCXH giúp cho nhà quản lý thấy được tầm quan trọng của thiết chế dối với sự
ổn định CCXH và trong quản lý XH. Chúng ta thấy rằng yếu tố để duy trì trật tự XH, tạo sự ổn định
làm điều kiện cho XH phát triển chính là thiết chế XH. Bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng sử dụng thiết
chế XH để làm công cụ quản lý XH. . Trên cơ sở hiểu sâu sắc về thiết chế, các nhà quản lý tạo điều
kiện cho các thiết chế xã hội cơ bản thực hiện chức năng của mình, để tạo sức mạnh cho hệ thống XH,
đồng thời theo dõi và tìm mọi cách để cải cách thiết chế, đổi mới sao cho nó phù hợp với nhu cầu đổi
mới đang nãy sinh trong XH.
Thứ ba, nghiên cứu nhóm XH nhằm đưa ra CC nhóm XH như thế nào là hợp lým nhằm có được
nghệ thuật quản lý, xác định được thành phần, cấu trúc nhóm, các giá trị, chuẩn mực của nhóm, từ đó
góp phần đưa ra mơ hình CCXH phù hợp.
Thứ tư, nghiên cứu vị thế XH và vai trò XH nhằm xác định đúng vị thế của từng cá nhân, từng
nhóm và sắp xếp bối trí các vai trị phù hợp để phát huy được vị thế vai trò, điều kiện cho các cá nhân,
các nhóm trong CCXH ổn định và phát triển được bởi vì CC vị thế, vai trị khơng phù hợp vthì không
phát triển được, tạo ra nhiều mâu thuẩn XH.
Thứ năm, nghiên cứu thiết chế XH để thiết lập trật tự và ổn định sự ổn định XH, thiết chế không

chặt chẽ thì XH khơng có kỹ cương, XH khơng có thiết chế là xã hội rối loạn. Đồng thời không được
coi trọng hay xem nhẹ bất cứ một pháp chế nào mà phải tạo điều kiện cho các thiết chế thực hiện chức
năng đồng bộ làm tăng thêm sức mạnh cho hệ thống XH. Đây là công cụ để quản lý, điều chỉnh XH
theo đúng chuẩn mực của nó.
Tóm lại, vai trị của người làm cơng tác quản lý lãnh đạo đất nước không thể tách rời việc nghiên
cứu CCXH và các thành tố cơ bản của nó, nhằm có những chủ trương chính sách phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế XH, điều chỉnh XH phát triển theo đúng mục tiêu. Nghiên cứu CCXH giúp ta
hiểu được bức tranh chung, khái quát XH từ đó dễ chọn lựa xây dựng một CCXH tối ưu bảo đảm cho
sự ổn định phát triển XH. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có đường lối đúng đắn và
đưa ra CCXH hợp lý, góp phần đưa đất nước ta vững bước trên con đường XHCN.

19


Câu 3: Phân tích đặc điểm sai lệch xã hội và những yêu cầu đối với hoạt động kiểm soát xã
hội ở nước ta hiện nay. Liên hệ thực tiễn địa phương.
Hay: Ý nghĩa của việc nghiên cứu sai lệch xã hội và kiểm soát xã hội trong điều kiện nước ta
hiện nay. Liên hệ thực tế địa phương.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển, bất cứ xã hội nào cũng có cơ chế ràng buộc hành động của các
thành viên, các nhóm phải tuân thủ những giá trị, chuẩn mực văn hoá, các quy tắc đã đề ra. Nhưng xã
hội luôn vận động trong những điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội không ngừng biến đổi. Với
những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, các thành viên trong xã hội không phải lúc nào
cũng thực hiện được những hành vi đúng theo những giá trị, chuẩn mực văn hoá, những vi phạm của
xã hội, những địi hỏi của nhóm mà họ đã tham gia. Những hành vi của cá nhân hay nhóm khơng phù
hợp với nhưng giá trị, chuẩn mực đang được xã hội thừa nhận gọi là sai lệch xã hội.
Sai lệch xã hội được phân loại theo những căn cứ khác nhau. Dựa vào số lượng người thực hiện,
hành vi sai lệch được chia làm hai loại: sai lệch cá nhân và sai lệch nhóm. Dựa vào mức độ sai lệch của
hành vi so với chuẩn mực, quy tắc xã hội, người ta chia sai lêch xã hội gồm 2 loại: hành vi sai lệch
mức độ thấp và hành vi sai lệch mức độ cao. Dựa vào tính chất tác động của hành vi đối với XH ta có
thể chia chúng thành 2 loại: hành vi sai lệch tích cực, hành vi sai lệch tiêu cực.

Hành vi sai lệch XH chịu tác dộng của nhiều yếu tố. Các nhà khoa học bằng các phương pháp tiếp
cận khác nhau, đưa ra những lý thuyết giải thích nguồn gốc sai lệch khác nhau. Ta có thể chia các lý
thuyết đó làm 2 nhóm: nhóm giải thích bằng nguồn gốc tâm sinh lý và nhóm giải thích bằng nguồn gốc
xã hội. Nhóm giải thích bằng nguồn gốc tâm sinh lý gồm các lý thuyết cơ thể học, lý thuyế nhiễm sắc
thể, giải thích hành vi sai lệch bằng tâm lý. Nhóm giải thích bằng nguồn gốc XH có lý thuyết về nền
văn hóa phụ, lý thuyết dán nhãn, lý thuyết điều tiết.
Đối với nước ta là nước nơng nghiệp lạc hậu, trình độ sản xuất còn thấp kém, chịu ảnh hưởng nặng
nề do hậu quả chiến tranh, cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, từng bước hoà nhập với
kinh tế thế giới và thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hệ thống giá trị chuẩn mực xã hội đang
biến đổi mạnh mẽ, cái mới xuất hiện song song với cái cũ đang tồn tại, một số truyền thống giá trị
chuẩn mực tốt đẹp của dân tộc có nguy cơ bị mai một, việc quản lý XH trên các mặt cịn nhiều lúng
túng do đó trong XH xuất hiện nhiều sai lệch cả tích cực và tiêu cực.
Một số vấn đề nổi cộm hiện nay ở nước ta là tệ nạn XH và tệ nạn tham nhũng, buôn lậu. Tệ nạn XH
bức xúc hiện nay là nạn ma túy và mại dâm gây nhiều tác hại cho mọi mặt đời sống XH. Cịn tệ nạn
tham nhũng và bn lậu thường xun xảy ra, với quy mơ tính chất, hậu quả ngày càng nghiêm trọng,
nó ln liên quan đến cán bộ, công chức làm cản bước tiến của XH, tổn hại của uy tín của Đảng và
Nhà nước ta.
Để khắc phục sai lệch XH, cần nhận diện và xác định đúng nguyên nhân, nguồn gốc sai lệch XH,
đưa ra giải pháp thích hợp để hạn chế, khắc phục sai lệch XH.
Nếu sai lệch XH có tính tích cực, nó phản ánh một cách suy nghĩ và hành động đi trước thời đại,
thúc đẩy việc hình thành giá trị chuẩn mực mới thì nhà quản lý phải biết điều chỉnh những chính sách
và tạo mơi trường, điều kiện cho sai lệch tích cực ấy nhân rộng trong cộng đồng. Nếu sai lệch XH là
tiêu cức tha hóa, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng nhà quản lý phải phân biệt đó là hành vi của
nhóm hay chỉ đơn lẻ là cá nhân. Nếu đó chỉ là sự phản kháng của một cá nhân do tâm lý dồn nén, chịu
đựng quá lâu những bất cơng hoặc là do trình độ nhận thức kém thì biện pháp giáo dục, thuyết phục và
cảm thơng có thể quan trọng hơn là biện pháp trừng trị. Nếu sai lệch của nhóm, của số đơng ngun
nhân chính là do tình trạng quản lý lỏng lẽo thì giải pháp xử lý phải cân nhắc giữa lợi ích cộng đồng
với lợi ích của bản thân những người vi phạm để giải quyết triệt để, chấn chỉnh lại các hoạt động quản
lý chặt chẽ hơn, kiên quyết hơn.
Nếu sai lệch xã hội xuất phát từ đói nghèo, thất nghiệp, từ sự sa sút các giá trị chuẩn mực XH thì

biện pháp phòng ngừa là phải sử dụng những biện pháp tổng hợp, giải quyết tận gốc nguyên nhân XH
của sai lệch XH như: xóa đói giãm nghèo đi đơi với việc nâng cao trình độ dân trí, xây dựng lối sống
có văn hóa, ngăn chặn ảnh hưởng có tiêu cực của kinh tế thị trường và giao lưu quốc tế. Xác định và
củng cố các giá trị chuẩn mực XH. Nhưng nếu hành vi sai lệch XH là của một nhóm có tổ chức và mức
độ sai lệch là lớn thì phải sữ dụng nghiêm khắc cơng cụ luật pháp để trừng trị răn đe.
20


Từ tình hình điều kiện nước ta ở trên, việc nghiên cứu sai lệch XH trong giai đoạn hiện nay có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Qua việc nghiên cứu giúp cho nhà quản lý nước ta thấy được thực trạng sai
lệch XH, nhận diện và xác định đúng nguyên nhân, nguồn gốc, mức độ sai lệch XH, từ đó cái nhìn của
nhà quản lý đầy đủ, khơng phiến diện để lý giải đúng đắn các hiện tượng sai lệch.
Từ nhận diện đúng sai lệch XH giúp các nhà quản lý đưa ra biện pháp cụ thể, chính sách phù hợp
đối với từng sai lệch XH nhằm điều chỉnh các sai lệch XH. Đồng thời giúp cho việc kiểm soát XH,
điều chỉnh hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN, xây dựng nhà nước do dân, của dân, vì dân.
Bên cạnh đó, để ngăn chặn điều chỉnh kịp thời các sai lệch XH, phải có biện pháp kiểm sốt XH.
Kiểm sốt XH là tất cả các hoạt động nhằm điều chỉnh các hành vi sai lệch, khuyến khích các hành vi
hợp chuẩn, làm cho XH ổn định, phát triển. Bản chất của kiểm sốt XH là q trình là cho hành vi và
quan hệ của các thành viên XH đúng mực, hợp chuẩn diễn ra thuận lợi, đồng thời ngăn chặn được các
sai lệch XH.
Tùy theo cách tiệp cận khác nhau ta có những cách phân loại kiểm sốt XH khác nhau. Căn cứ vào
phương thức thực hiện, ta có kiểm sốt nội tâm và kiểm sốt bên ngồi. Căn cứ vào hình thức tổ chức,
ta có kiểm sốt chính thức và kiểm sốt khơng chính thức. Kiểm sốt nội tâm là cách thức kiểm sốt
thơng qua việc giúp cho cá nhân lĩnh hội và thực hiện các chuẩn mực quy tắc một cách tự giác, họ tự
xác định cái đúng cái sai, cái không được làm, cái nên làm để lựa chọn hành vi ứng xữ phù hợp. Cịn
kiểm sốt từ bên ngồi là XH dùng các cơng cụ quản lý và các thiết chế để duy trì trật tự XH. Đây là
việc sử dụng các tác động như xữ phạt, bắt giam, tẩy chay, xa lánh,…..
Kiểm sốt chính thức là hình thức kiểm sốt XH do những cơ quan chủ yếu được nhà nước lập ra,
nhằm bảo vệ pháp luật như cảnh sát, toàn án, trại giam, viện kiểm sốt,….. kiểm sốt khơng chính thức
là kiểm sốt của các nhóm nhỏ và nhóm khơng chính thức bắng cách xem xét, đánh giá mọi hành vi

của các thành viên theo cả các chuẩn mực thành văn và các chuẩn mực không thành văn; các hành vi
sai lệch bị mọi người lên án, bị tẩy chay tố giác, vv.v.v.v.
Trong điều kiện XH hiện nay, sai lệch XH còn tồn tại nhiều nên nhà quản lý phải tăng cường cơng
tác kiểm sốt XH, trong đó chú ý tăng cường cơng tác kiểm soát nội tâm, chú ý giáo dục con người để
mỗi cá nhân tự kiểm sốt mình, tự hạn chế sai lệch XH.
Khi sai lệch XH đã xãy ra thì cương quyết xữ lý bằng kiểm sốt chính thức, thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật, từ đó tạo cho pháp luật nghiêm minh, mọi người đều tự giác chấp hành. Qua đó
hạn chế được tối đa những hành vi tệ nạn XH, tiêu cực tham ô, tham nhũng, lãng phí quan liêu,
v.v.v…… khuyến khích các hành vi hợp chuẩn ngăn chặn các hành vi hợp chuẩn nhằm ổn định trật tự
XH, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triễn XH, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh XH cơng
bằng dân chủ văn minh.
Tóm lại, cùng với tiến trình đi lên của sự nghiệp đổi mới nhiều vấn đề mới nãy sinh phong phú và
đa dạng, vấn đề nghiên cứu sai lệch XH và kiểm soát XH cần được chú trọng nhằm góp phần nâng cao
ý thức chấp hành trong quản lý XH của nhà nước. Ngăn chặn và đẩy lùi các hành vi sai lệch tiêu cực
là cơng việc cấp thiết hiện nay của tồn XH, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triễn thực hiện mục
tiêu dân giàu nước mạnh XH công bằng dân chủ văn minh.

21


Câu 4 A: Ý nghĩa của việc nghiên cứu dư luận xã hội (DLXH) trong điều kiện nước ta hiện nay:
Sức mạnh của DLXH từ lâu đã đóng một vai trị quan trọng trong đời sống con người. Rất ít người
phủ nhận sự tác động của dư luận đến việc điều chỉnh hành vi của các cá nhân, nhóm người trong XH
về vai trò của dư luận cũng đặc biệt quan trọng đối với các nhà lãnh đạo quản lý trong việc hoạch định
những chiến lược, đường lối, chủ trương và đưa ra các quyết định quản lý nhằm đạt được những mục
đích đã đề ra. Vậy DLXH là gì?
DLXH là một hiện tượng XH đặc biệt biểu thị sự phán xét, đánh giá và thái độ của các nhóm XH
đối với các vấn đề liên quan đến lợi ích của các nhóm trong XH. DLXH được hình thành thơng qua các
cuộc trao đổi, thảo luận công khai. Đối tượng của dư luận là các hiện tượng, sự kiện, quá trình XH
đang diễn ra, tác động đến lợi ích của các nhóm XH, thu hút được sự quan tâm của công chúng.

DLXH khác với tin đồn bởi tác động của cả 2 hoàn toàn khác nhau. Tin đồn là hiện tượng truyền thông
tin từ cá nhân này sang cá nhân mang nặng chính kiến, yếu tố chủ quan của cá nhân, bao hàm cả sự phóng
đại vì vậy nó có thể ban đầu xuất phát từ sự thật nhưng do lan truyền tính bịa đặt khá cao làm sai lệch so
với thông tin ban đầu. Tin đồn thường lan truyền thơng tin khơng chính thức và khơng có trách nhiệm XH.
Còn DLXH là biểu thị ý kiến, sự đánh giá và thái độ của tập thể, của số đông nhiều người, mang tính khách
quan và được truyền đi một cách cơng khai, chính thức trên các phương tiện truyền thơng đại chúng và có
tính trách nhiệm XH cao bởi nó hàm chứa gợi ý cả cách giải quyết vấn đề.
DLXH có 4 tính chất cơ bản: tính cơng chúng, cơng khai; tính lợi ích; tính lan truyền và tính biến đổi.
Tính cơng chúng, cơng khai được thể hiện thơng qua chủ thể của DLXH. Chủ thể tiếp cận thông tin
về đối tượng, sử dụng phương tiện truyền thông để trao đổi, bàn bạc với nhau để nhiều người cùng
biết, đó là tính cơng khai của DLXH. Xét theo góc độ đối tượng, các thông tin về đối tượng phải được
phổ biến, cơng bố qua con đường chính thức.
Tính lợi ích đối với DLXH ln gắn chặt với lợi ích của nhóm, các tổ chức trong XH, gồm các lợi
ích về vật chất và lợi ích về tinh thần. Lợi ích về vật chất tức là sự kiện hiện tượng nào đó xảy ra đụng
đến lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế thì người ta quan tâm đến (cho vd). Cịn lợi ích về tinh thần tức là sự
kiện hiện tượng nào xảy ra ảnh hưởng đến lợi ích tinh thần thì người ta quan tâm (cho vd).
Tính lan truyền của DLXH là lan truyền từ cá nhân này truyền đến cá nhân khác, từ nhóm này
truyền đến nhóm khác, lan truyền rộng rãi trong cơng chúng và có ảnh hưởng đến XH, tính lan truyền
càng nhanh thì DLXH càng lớn.
Tính biến đổi, DLXH ln ln biến đổi theo khơng gian và thời gian vì khơng gian khác nhau dẫn
đến mơi trường văn hố khác nhau, các giá trị chuẩn mực khác nhau. Đồng thời, thời gian khác nhau
cũng dẫn đến giá trị chuẩn mực thay đổi theo sự phát triển của XH dẫn đến thay đổi cách nhìn nhận,
đánh giá công chúng.
Khác với tri thức khoa học, DLXH bao hàm các nhân tố chủ quan, phức tạp và chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khác nhau. Có thể chia các yếu tố đó ra thành 5 nhóm cơ bản, quy mơ, cường độ và tính
chất của các sự kiện hiện tượng, mức độ dân chủ hoá đời sống XH, các yếu tố thuộc về tâm trạng XH,
phong tục tập quán, hệ thống giá trị chuẩn mực xã hội hiện hành, cơng tác truyền thơng, vận động.
DLXH có vai trị to lớn trong quản lý XH và trong suốt quá trình phát triển của lịch sử XH lồi
người, DLXH ủng hộ, khuyến khích những hành vi tốt đẹp, trung thực dũng cảm, tình yêu thương
đồng loại và bao giờ cũng lên án ngăn cản những hành vi sai trái. Khi XH phân chia giai cấp thì DLXH

thường bị chi phối bởi ý thức hệ của giai cấp thống trị. Mỗi nhà nước muốn quản lý kiểm soát XH phải
được DLXH tán đồng vì vậy giai cấp thống trị ln truyền bá tư tưởng thống trị giá trị của giai cấp
mình tạo dư luận ủng hộ giai cấp đó.
Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng DLXH vì mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước đều xuất
phát từ lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Qua DLXH để nắm bắt được tâm trạng của
nhân dân, hiểu được nguyện vọng và lợi ích của họ để đề ra chủ trương, chính sách phù hợp, Bác nói:
“Giữ chặt mối liên hệ với nhân dân và ln lắng nghe ý kiến nhân dân đó là nền tảng lực lượng của
đồn thể và nhờ đó mà đồn thể thắng lợi”.
Vai trò của DLXH tiềm ẩn một sức mạnh to lớn thể hiện qua các chức năng: chức năng điều hoà
QHXH, chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, nhóm, chức năng giám sát tư vấn.
22


Chức năng điều hồ QHXH: XH gồm nhiều nhóm với các vị thế và lợi ích khác nhau, nên khi 1 sự
kiện XH xảy ra thì có ý kiến phán xét và thái độ khác nhau. DLXH là 1 cơ chế thảo luận, trao đổi liên
tục tìm ra các quan điểm chung trong lợi ích nhìn nhận, đánh giá thực tiễn XH. Qua trao đổi, thảo luận
mỗi nhóm sẽ thấy được lợi ích của họ trong tương quan với lợi ích của nhóm khác của XH. Vì vậy, ý
kiến, thái độ dần dần phải xuất phát từ lợi ích chung.
Chức năng điều chỉnh hành vi cá nhân và nhóm: Sự lên án hay ủng hộ của DLXH tác động mạnh mẽ
đến hành vi của cá nhân, nhóm, buộc họ phải điều chỉnh cho phù hợp với giá trị, chuẩn mực XH. Tuy
nhiên, sự đánh giá phán xét của DLXH không phải khi nào cũng đúng cũng hợp lý và tích cực đối với
sự phát triển của xã hội và con người. Trước DLXH, cá nhân, nhóm sẽ điều chỉnh hành vi như thế nào
cịn phụ thuộc vào ý chí của họ.
Chức năng giám sát và tư vấn: Trong chế độ XH dân chủ, người dân có nhiều cơ hội tham gia vào kiến
thiết, quản lý nhà nước. Người dân có quyền bầu ra người lãnh đạo, quản lý, đồng thời bằng DLXH, họ
phán xét, đánh giá chủ trương, chính sách và kết quả hoạt động của cá nhân, cơ quan lãnh đạo, quản lý.
Hiện nay, đất nước ta đang trong q trình cơng nghiệp hố – hiện đại hố đất nước và hội nhập quốc tế,
phấn đấu đến năm 2020 sẽ trở thành nước công nghiệp cơ bản và mở cửa giao lưu với các nước trên thế giới.
Hệ thống giá trị chuẩn mực đang biến đổi mạnh mẽ, việc quản lý XH trên các mặt còn nhiều lúng túng, xã
hội đang phát sinh nhiều vấn đề mới. DLXH được xem là một trong những công cụ, phương tiện hiệu quả để

hạn chế, ngăn ngừa và phòng chống những tiêu cực nhằm ổn định trật tự XH.
Với XH VN ngày càng phát triển, trình độ văn hố của quần chúng ngày càng được nâng cao, dân
chủ càng mở rộng thì sức mạnh của DLXH ngày càng lớn, nó tác động đến XH như những luật lệ bất
thành văn. Vì vậy, nghiên cứu DLXH có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác quản lý XH, đối với
việc đề ra và triển khai các chủ trương nhiệm vụ cụ thể trong từng thời điểm nhất định. Bởi vì trong
hoạt động quản lý XH đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết sâu sắc thực tiễn XH, hiểu biết nhu cầu và lợi ích
của quần chúng trong sản xuất cũng như trong đời sống. Nghiên cứu DLXH là 1 trong những hình thức
tốt nhất để thu thập thông tin phản ánh tâm tư nguyện vọng cũng như suy nghĩ và cảm xúc của các tầng
lớp XH. Vì vậy, tổ chức nghiên cứu DLXH 1 cách nghiêm túc là phương tiện cần thiết để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân và mở rộng dân chủ XH.
Nghiên cứu DLXH giúp ta nắm bắt kịp thời thực trạng tư tưởng của các nhóm XH khác nhau, cũng
như những diễn biến của thực trạng này trong từng thời kỳ. Đây cũng là những nguồn thông tin vô
cùng quý giá giúp ta khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí
trong lãnh đạo, quản lý XH. Vì các thơng tin này cịn là những tín hiệu phản hồi từ phía quần chúng
đối với việc thực hiện các nhiệm vụ KT – XH từ đó có cơ sở điều chỉnh, bổ sung các chủ trương chính
sách phù hợp hơn.
Nghiên cứu DLXH 1 mặt góp phần nâng cao ý thức giác ngộ chính trị trong quần chúng, mở rộng
dân chủ XHCN, động viên quần chúng tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý XH. Mặt khác, nó
góp phần làm tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, nhà nước với quần chúng nhân dân, góp phần hồn
thiện cơng tác lãnh đạo quản lý XH trên cơ sở khoa học.
Nghiên cứu DLXH giúp chúng ta có những thơng tin về các mặt hoạt động của các cơ quan nhà
nước và giúp cho nhân dân nhận thức và thực hiện các chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng và
nhà nước và các tổ chức XH để giải quyết các vấn đề cịn vướng mắc. Những thơng tin này là 1 trong
những căn cứ quan trọng để Đảng và nhà nước kiểm tra cơng tác của mình để có những chủ trương
quyết định cần thiết phù hợp với thực tế.
Nắm được DLXH, người quản lý có thể tiên đốn được những điểm nóng trong đời sống XH, chuẩn bị
trước các biện pháp can thiệp kịp thời, giải quyết được mâu thuẫn, ngăn chặn được bạo lực, gây rối.
Tóm lại, cùng với tiến trình đi lên của sự nghiệp đổi mới, nhiều vấn đề mới nảy sinh phong phú và đa
dạng, vấn đề nghiên cứu DLXH và việc sử dụng thông tin DLXH cần được chú trọng nhằm góp phần nâng
cao ý thức giác ngộ, ý thức chính trị trong quần chúng tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý XH.

Đồng thời tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, nhà nước với quần chúng nhân dân góp phần hồn thiện
cơng tác lãnh đạo quản lý XH trên cơ sở khoa học.

23


Câu 4 B: Phân tích vai trị của chính sách XH và những yêu cầu đối với hoạt động hoạch
định và thực hiện chính sách XH ở nước ta trong thời kỳ hiện nay.
Hay: Phân tích vai trị của chính sách xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay và quan điểm
của Đảng và Nhà nước về vấn đề này.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta thực hiện chính sách xã hội đúng đằn là động lực to
lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Những năm qua,
song song với vấn đề đẩy nhanh phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cũng hết sức quan tâm đến chính
sách XH và nhờ có những quan điểm đúng đắn, hợp lý trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách
XH mà đất nước ta đã đạt được những thành tựu lớn về phát triễn kinh tế lẫn nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện ngày càng mạnh cho việc phát triển nhân cách, phẩm chất, năng lực,
trí tuệ và thể chất cho con người Việt Nam. Những kết quả mà chính sách XH mang lại đồng thời cũng
phản ánh tính ưu việt của chế độ ta, góp phần không nhỏ vào việc giữ vững, cũng cố và phát triển XH.
Chính sách XH là sự thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối chủ trương giải quyết các vấn đề XH, dựa trên
những tư tưởng, quan điểm chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất chế độ chính trị XH, phản ánh lợi ích và
trách nhiệm cộng đồng XH nói chung và từng nhónm XH nói riêng nhằm tác động trực tiếp vào con người
và điều chỉnh các mối liên hệ lợi ích giữa con người với con người, con người với XH vì sự cơng bằng XH,
an sinh XH góp hần ổn định, phát triển và tiến bộ XH.
Để đạt tới sự cơng bằng an tồn, tạo điều kiện phát triển con người một cách toàn diện, chính sách XH
thực hiện 5 nhiệm vụ cơ bản:
Một là, tái tạo tiềm năng nhân lực củqa đất nước thông qua các chính sách về dân số, giai đình, bảo vệ
sức khỏe, bảo hộ lao động, tổ chức nghĩ ngơi, giải trí, khắc phục các tệ nạn XH bảo đảm an tồn XH.
Hai là, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nền tảng vững chắc của XH với các chính sách về
nhà ở, bảo vệ mơi trường sinh thái, sự phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học nghệ thuật,.v.v.v.v
Ba là, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho các tầng lớp nhân

dân, đặc biệt là thanh niên đào tạo lại và đào tạo mới người lao động để tiếp thu kỹ thuật, công nghệ hiện
đại và không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Bốn là, tạo điều kiện cho XH ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ sản phẩm vật chất, tinh thần
một cách đúng đắn, tiết kiệm phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất nước và những chuẩn
mực đạo đức, pháp lý của chế độ XH mới.
Năm là, tạo lập, hình thành mơ hình lối sống mới theo hướng phát triển tồn diện của cá nhân kết hợp
hài hịa với sự phát triển của cộng đồng trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
đồng thời xây dựng những giá trị mới phù hợp với bản sắc dân tộc và yê cầu của thời đại.
Trong công tác thực tế của cơ quan phải chú ý đến các mối quan hệ cơ bản của chính sách XH và chính
sách kinh tế. Xác định quan hệ hợp lý giữa chúng mà ở đó sự kết hợp là tối ưu nhất có tác động tích cực
thúc đẩy sự phát trễn và tiến bộ XH. Sự kết hợp đó dựa trên ngun tắc thứ nhất chính sách kinh tế phải
tìm được động lực trên XH và đảm bảo ổn định XH; ngược lại, chính sách XH phải thúc đẩy kinh tế phát
triễn và phù hợp với điều kiện kinh tế cho phép. Thứ hai là mối quan hệ giữa mục tiêu, đối tượng của chính
sách XH và khả năng giải quyết của nền kinh tế trong một thời gian hất định. Chẳng hạn, chính sách trợ
cấp thất nghiệp là một chính sách XH lớn, có mục tiêu nhân đạo nhưng thực hiện nó ở mức nào là tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế của đất nước vào thời điểm hiện hành. Thứ ba, là quan hệ cân đối theo mặt
bằng của các chính sách XH. Cơ sở lý luận của quan hệ cân đối là quan điểm về cơng bằng XH. Mọi chính
sách XH phải được điều chỉnh theo nguyên tắc công bằng để tạo ra sự hài hòa trong mối quan hệ XH.
Trước hết là quan hệ lợi ích để khơng tạo ra sự chênh lệch quá đáng hoặc bình quân chủ nghĩa, vượt quá
giới hạn cho phép, gây ra những điểm nóng mất ổn định của XH. Thứ tư, là quan hệ cân đối trong chính
Sách XH liên quan đến hình thành cơ cấu XH, phù hợp định hướng mục tiêu phát triển XH. Chính sách
XH phải xuất phát từ cơ cấu XH, tác động vào cơ cấu XH để duy trì Hay làm biến đổi nó theo hướng đạt
được một cơ cấu XH tối ưu, bảo đảm sự phát triễn XH trong sự ổn định. Thứ năm là quan hệ cân đối trong
lồng ghép các chính sách XH nhằm tập trung các nguồn lực và giải quyết các đồng bộ các mục tiêu trong
hệ thống chính sách XH. Trong cùng một thời điểm, một địa bàn nhất định phải lồng ghép giữa cac chính
sách để giải quyết đồng bộ các mục tiêu. Thứ sáu là quan hệ cân đối giữa mục tiêu, nội dung, hành vi,
phạm vi, quy mơ của chính sách XH với khả năng tổ chức tiếp nhận, triễn khai thực hiện chính sách XH.
24



Một chính sách XH ra đời nếu khơng có cơ chế vận hành riêng sẽ không đến được mục tiêu, đối tượng và
hiệu quả. Tức là chính sách và đối tượng bao giờ cũng phài qua khâu tổ chức thực hiện.
Đối với nước ta hiện nay đang tiến hành công cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm biến
một nước chậm phát triển thành một quốc gia phát triển, nhân tố con người được xem là nguồn lực quan
trọng nhất. Phát triển con người vừa là động lực của sự phát triển kinh tế XH, vừa là điều kiện thực hiện
cơng nghiệp hóa, đồng thời cũng là mục tiêu của sự phát triển kinh tế XH, của công nghiệp hóa. Để phát
triển con người tồn diện, một trong những công cụ, biện pháp mà nhà nước áp dụng là thực hiện hàng loạt
các chính sách XH.
Thật vậy, chúng ta có thể thấy rằng chính sách XH là chính sách với con người, phát huy mọi tiềm năng,
nguồn lực con người trong việc ổn định và phát triển XH, ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của XH.
Nhiệm vụ của chính sách XH là căn cứ trên các yếu tố kinh tế, xã hội để đề ra và thực thi biện pháp, các
giải pháp làm cho con người, cho nhân dân lao động có điểu kiện sống ngày càng tốt hơn về cả vật chất lẫn
tinh thần, qua đó khơi dậy tính tích cực của mỗi con người. Với ý nghĩa đó, chính sách XH thật sự là một
nhân tố ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển của XH.
Chính sách XH cịn quan trọng bởi ảnh hưởng của nó đến mọi mặt của hoạt động đời sống xã hội, là
cơng cụ để khắc phục những phân hóa, mâu thuẩn và khác biệt xã hội, để điều tiết các quan hệ XH nhằm
phát huy khả năng của toàn XH vào những mục tiiêu chung. Khi xã hội vấn đề xã hội nãy sinh, tức là cơ
cấu XH của xã hội đó khơng cịn phù hợp thì cần phải điều chỉnh vào các phân hệ của cơ cấu XH bằng
cách dùng các chính sách XH tác động vào, nhằm cho XH được cơng bằng, tạo mơi trường tíxch cực cho
XH phát triễn và từ đó hướng tới hình thành cơ cấu XH mới phù hợp, tối ưu, bải đảm cho XH tồn tại và
phat triền trong sự ổn định.
Chính sách XH cịn có vai trị quan trọng bởi nó ln hướng tới sự cơng bằng XH, do đó tạo tính tích
cực, năng động XH, làm cho XH phát triển bền vững. Nhưng cơng bằng có nghĩa là cào bằng mà là có sự
chênh lệch hợp lý: ai cống hiến nhiều, hy sinh nhiều thì phải hưởng lợi ích nhiều hơn. Vì vật cơng bằng ở
đây là sự cân đối mặt bằng giữa các chính sách, là giải quyết chính sách XH sao cho vấn đề lợi ích giữa các
đối tượng có thể có chênh lệch nhưng XH chấp nhận được. Nếu khơng có chính sách XH phù hợp, giải
quyết đúng đắn vấn đề mấu chốt này có thể làm triệt tiêu các động lực xã hội, dẫn tới sự trì trệ và khủng
hoảng xã hội.
Trong những năm qua, trên cơ sở Chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm các nước, quan điểm của
Đảng ta về chính sách xã hội tập trung vào một số điểm được xác định rõ trong các văn kiện đại hội đảng,

gần đây nhất là Nghị quyết đại hội Đảng X. Đó là sự kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục,… giải
quyết tố các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức độ góp
vốn cùng các nguồn lực khác và thơng qua phúc lợi xã hội, thực hiện các chính sách xã hội trên cơ sở phát
triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, công hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn
cho phát triển kinh tế - xã hội. tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, thực hiện có hiệu quả các chính sách xố đói giảm nghèo.
Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản,
vươn lên thốt đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo. Khắc phục tư tưởng ỷ
lại.
Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ cơng cộng thiết yếu, bình đẳng
cho mọi người về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc sức khoẻ, văn hố – thơng tin, thể dục thể
thao,…
Tóm lại: chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sông con người: điều kiện lao động và sinh
hoạt, giáo dục và văn hố, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, dân tộc,… Coi nhẹ chính sách xã hội là coi
nhẹ con người trong sự nghiệp xây dựng CNXH. CSXH đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to
lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng đẩy
mạnh phát triển kinh tế, đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội, coi đây là một hướng chiến
lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta, chế độ xã hội chủ nghĩa.
25


×