TƯ VẤN TÂM LÝ CĂN BẢN
LỜI GIỚI THIỆU
Tôi rất vui lòng viết lời giới thiệu cho cuốn sách TƯ VẤN TÂM LÝ
CĂN BẢN của Nguyễn Thơ Sinh. Tôi với Sinh quen nhau trên mạng
điện tử: biết tôi ở trong Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam (ở
dưới gọi là Hội), Sinh gởi email cho tôi; tôi nhận thấy anh quan tâm
đến Tâm lý học và Giáo dục học nước nhà và chúng tơi đã có nhiều
cuộc trao đổi với nhau. Như vậy là cuộc làm quen có chủ đích, chứ
khơng phải ngẫu nhiên: hai người đều có lòng nhiệt tâm với nền
khoa học này của nước nhà. Cuối năm 2005 đầu năm 2006, Hội có
cuộc Hội thảo về Tư vấn tâm lý tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh. Tơi
báo tin này và mời Sinh về tham dự, anh nhận lời với cả một báo cáo
Khoa học dài đến hơn 20 trang giấy khổ A4.
… Sau đó tơi bảo anh: Nếu đúng là vấn đề anh quan tâm, và
nếu có điều kiện, anh nên viết một cuốn sách về tư vấn tâm lý. Kết
quả đến quá nhanh, hôm nay mới giữa tháng 8 năm 2006, tức là
trong có vài tháng, cuốn sách đã viết xong, dày tới gần 300 trang.
Theo tôi, đây là một cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Việt về tư vấn
tâm lý. Tất nhiên, mới là đề cập đến những vấn đề cơ bản. Nhưng
cũng có thể nói ngay rằng chữ “cơ bản” ở đây không phải chỉ là các
vấn đề lý luận cơ bản mà phần lớn lại là các (hay một số) vấn đề
thực hành cơ bản - đúng là cái chúng ta đang cần, cần biết cả lý
thuyết cơ bản nhưng rất cần biết những điều chỉ dẫn tiến hành công
việc tư vấn, từ mở đầu đến kết thúc một cuộc (có thể nhiều buổi) tư
vấn tâm lý.
Thật vậy, các bạn thấy tác giả đã trình bày sự vận dụng một
loạt học thuyết (lý thuyết) tâm lý vào công việc tư vấn tâm lý: từ học
thuyết Freud rồi Anna Freud (con gái của Freud); thuyết tâm lý học
phân cách của Adler, Roger, thuyết hiện sinh của May và Frankl
trong tâm lý học; tiếp theo là tâm lý học hành vi, tâm lý học hình
thái, thuyết nhận thức trị liệu, thuyết hệ thống gia đình của Bower,
v.v. Phần nhiều các lí thuyết này đã được giới thiệu ở ta, nhưng đều ở
tâm lý học đại cương, lịch sử tâm lý học, nhập mơn tâm lý học. Cịn
ở đây mỗi thuyết chỉ trình bày rất tóm tắt, có khi chỉ trong vài dịng,
phần lớn dành nói về lý thuyết này tiến hành công việc tư vấn tâm lý
như thế nào? Cuốn sách này thật sự có ý nghĩa rất thiết thực cho
những nhà tư vấn tâm lý, và cả các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu
tâm lý xem cũng rất bổ ích.
Ý nghĩa thiết thực của cuốn sách cịn được thể hiện rất rõ trong
tất cả các loại hình tư vấn tâm lý được đề cập ở trong sách, như tư
vấn tâm lý về sức khỏe tâm thần, các dạng bệnh lý, trong đó có
Stress khác: các vấn đề này ngày càng đi vào công nghiệp và hiện
đại càng nảy sinh nhiều; tư vấn hôn nhân mà hiện nay đang chiếm
tỷ trọng hàng đầu trong các cuộc tư vấn tâm lý ở ta; tư vấn gia đình
cũng là một phạm vi ngày càng bức xúc hơn; tư vấn nghề nghiệp, tư
vấn học đường… là những lĩnh vực rất cần quan tâm và phải mau
chóng tăng cường. Các bạn cịn thấy có cả tư vấn tâm lý cho người
bị ma tuý nên làm những gì. Đúng là những cái chúng ta đang cần.
Trong tất cả các loại hình tư vấn tâm lí được đề cập trong cuốn
sách này đều nêu rất cụ thể các công việc mà người tư vấn phải làm.
Tơi đặc biệt thích thú với các mục giới thiệu kỹ năng tư vấn như:
− Kỹ năng thuyết phục,
− Kỹ năng đồng cảm,
− Kỹ năng chia sẻ,
− Kỹ năng kịp thời,
− Kỹ năng hài hước,
− Kỹ năng hợp đồng, v.v…
Mặt khác, cuốn sách nói trong tư vấn tâm lý có 3 yếu tố quan
trọng là: (1) tính chuyên nghiệp, (2) sức thu hút thấp dẫn, (3) được
hỏi tên. Cơng việc gì đề cập trong sách đều đưa ra quy trình, từ làm
một bản hợp đồng như thế nào? cách giải quyết khó khăn, chẳng
hạn như thấy người hỏi lưỡng lự khi nghe tư vấn, cho đến việc đào
tạo, tự đào tạo… đều nêu rõ quy trình: một, hai, ba bốn… phải làm
gì, rõ ràng, rành mạch. Tất nhiên, từ chỗ đọc đến chỗ hiểu, tiếp thu
và vận dụng… nhất là vào từng trường hợp cụ thể, còn nhiều chuyện
phức tạp đòi hỏi người tư vấn phải rất linh hoạt, uyển chuyển, sáng
tạo… cho đến việc chấm dứt cuộc tư vấn cũng vậy, cuốn sách cũng
bày cách làm rất cụ thể, rất chi tiết.
Đọc cuốn sách này, chúng ta cịn có dịp làm quen với một số
thông tin về tư vấn tâm lý ở Mỹ, tuy còn sơ sài nhưng cũng thấy
được chủ trương thúc đẩy công tác này là phù hợp với yêu cầu đào
tạo cán bộ tư vấn tâm lý ngày càng cao, chúng ta cịn thiếu q
nhiều, có lẽ tính đến nay từ mọi nguồn số cán bộ này ở ta chỉ đếm
được hàng chục (ở Mỹ đã lên đến hàng vạn và còn phân ngành Tư
vấn tâm lý chuyên sâu), như trong sách cho hay. Đặc biệt, sách này
còn cung cấp cho ta một vốn thuật ngữ Anh − Việt với khoảng 300 từ,
với khoảng cách rất cần cho những ai tư vấn tâm lý.
Tóm lại, đây là một cuốn sách đọc rất dễ hiểu, cụ thể, nhiều
điều có thể đem áp dụng vào cơng việc rất thiết thực bổ ích.
Nhân dịp này tôi nhiệt liệt chúc mừng và bày tỏ lời cảm ơn
Thạc sĩ Nguyễn Thơ Sinh đã có tác phẩm đóng góp xây dựng và phát
triển khoa học Tâm lý nước nhà, nhấn mạnh hướng ứng dụng, thực
hành, phục vụ con người, phục vụ xã hội.
Chúc tác giả có những thành công mới trong nghiên cứu và
hành nghề Tâm lý học. Mong anh tiếp tục hợp tác nhiều hơn với các
bạn đồng nghiệp trong nước. Anh thật xứng đáng với câu “Tôi tự hào
là người Việt Nam” mà anh đã lấy câu đó làm tiêu đề trong máy điện
tử của mình.
Hà Nội 16.8.2006
GS.TSKH PHẠM MINH HẠC
Chủ tịch Hội các khoa học Tâm lý − Giáo dục Việt Nam
PHẦN MỘT
LỊCH SỬ NGÀNH TƯ VẤN VÀ NỀN TẢNG BAN ĐẦU
Chương 1
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ XU HƯỚNG CỦA NGÀNH TƯ VẤN
1. Dẫn nhập
Tư vấn, không giống những ngành phục vụ sức khoẻ tâm thần
khác ở chỗ, tư vấn bao gồm chức năng giúp thân chủ phát triển khả
năng thăng tiến của bản thân và chức năng trị liệu ở mức độ rối loạn
hệ thống tư duy.
Tư vấn viên làm việc với cá nhân, nhóm, gia đình, hoặc những
tổ chức với những nan đề ngắn hạn và những nan đề lâu dài. Công
tác tư vấn nhằm vào mục tiêu giáo dục (education) mang tính năng
phát triển đời sống lành mạnh, ngăn ngừa tệ nạn và điều trị những
rối loạn do thiếu khung tư duy trưởng thành, nên ngành này đã đóng
một vai trị quan trọng tích cực với an tồn và phát triển của xã hội.
Tư vấn trong những bước khởi đầu lịch sử của ngành khơng có
tổ chức bài bản mà thường là những tập hợp rời rạc, thiếu đồng bộ.
Theo thời gian, ngành này khơng ngừng lớn mạnh và tự hồn thiện
thêm. Tuy thế, nhiều người nhầm lẫn tư vấn với những loại hình giúp
đỡ và hướng dẫn khác. Vì thế, tư vấn là một cơng việc đã mang
trong nó nhiều danh xưng và cả những hiểu lầm không nhỏ, thành ra
người trong nghề và cả dư luận xã hội vẫn có vài ngộ nhận lẫn về
chức năng cơng tác nghiệp vụ.
Có chút kiến thức về lịch sử của ngành tư vấn sẽ giúp tư vấn
viên hiểu kỹ hơn về ngành nghề mà họ đảm trách.
2. Định nghĩa ngành Tư vấn
Nói theo truyền thống, tư vấn viên – là người lắng nghe và giúp
đỡ người khác giải quyết một nan đề. Tuy nhiên, nhiều chức năng và
danh xưng đã gây nên những hiểu lầm khi danh từ tư vấn viên được
gắn với những sản phẩm, dịch vụ, dẫn đến những lẫn lộn vẫn thường
nghe thấy như: tư vấn tài chính, tư vấn hôn nhân, tư vấn tiêu dùng,
tư vấn pháp luật, tư vấn du lịch, tư vấn mua sắm…
Tư vấn, tại các nước phát triển, bắt nguồn từ hệ thống hướng
dẫn, (guidance systems) và ngược hẳn với tâm lý liệu pháp
(psychotherapy). Đấy là chuyện cũ. Hôm may, tư vấn gần như có
mặt ở khắp nơi, được sử dụng trong những trung tâm có chức năng
lâm sàng và chức năng giáo dục sức khoẻ cơng cộng, các trung tâm
tư nhân và có sự hỗ trợ của Chính phủ, các hội đồn, các tổ chức
kinh doanh có lãi, các trung tâm tơn giáo, hội từ thiện…
Ngành này không chỉ chú trọng đến quá trình thăng tiến và
phát triển lối sống lành mạnh, mà cịn góp phần trong trị liệu với sức
khoẻ tâm thần. Để hiểu rõ hơn về chức năng tư vấn, thiết nghĩ hiểu
biết về hệ thống hướng dẫn trong nhà trường (guidance) và tâm lý
liệu pháp (psychotherapy) sẽ giúp chúng ta hiểu được về ngành tư
vấn một cách sáng tỏ hơn.
Hướng dẫn giáo dục trong học đường (Guidance): Là một
quá trình giúp đỡ người trẻ chọn ra một giải pháp thích hợp cho một
vấn đề cần được giải quyết bằng cách đề nghị những việc cần làm
rất cụ thể. Tính thiết yếu này đã đi vào hoạt động tư vấn qua ngả
tìm ra quyết định cụ thể cho một vấn đề. Tuy nhiên, cách giúp trong
hướng dẫn rất khác với cách giúp trong tư vấn. Điểm khác biệt căn
bản ở đây: hướng dẫn cho lời khuyên, còn tư vấn chỉ mang tính đề
nghị và gợi ý một giải pháp cho thân chủ.
Nói khác đi, hướng dẫn giúp người khác tìm ra một chọn lựa cụ
thể thích hợp bằng cách người được giúp đỡ sẽ nghe theo đề nghị
của người khuyên. Tư vấn, khác hơn và nhiệm vụ của nó là giúp thân
chủ tạo ra một sự thay đổi bằng chính khả năng của họ.
Hướng dẫn, thường gặp trong môi trường học đường (ở các
nước phương Tây phát triển), khi người trưởng thành làm công tác
hướng dẫn, giúp trẻ em chọn lựa giải pháp như chọn nghề, chọn
môn học. Quan hệ giữa hai bên là một quan hệ không đối xứng. Ở
đây, người có kinh nghiệm sẽ truyền đạt kinh nghiệm cho người
thiếu kinh nghiệm. Rất giống như trường hợp vai trị của cha mẹ,
người lớn trong gia đình hướng dẫn con cái những việc cần phải làm.
Vì thế, hướng dẫn là một hình thái giúp đỡ khơng bao giờ cũ đi,
nó cũng khơng biến mất trong lịch sử phát triển văn minh của con
người. Bất cứ ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng cần đến quá trình chọn
giải pháp cho những nan đề. Vì thế con người vẫn cần đến giúp đỡ.
Từ lâu là ngành có xuất thân từ hướng dẫn, nên nó chịu ảnh hưởng
từ hướng dẫn rất nhiều. Giống như hướng dẫn không bao giờ cũ đi,
tư vấn trong bối cảnh hôm nay đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của
mọi người cũng không bao giờ trở thành già cỗi.
Tâm lý trị liệu (psychotherapy): Khác với tư vấn thơng
thường, tâm lý trị liệu (cịn gọi là tâm lý liệu pháp) được áp dụng với
những trường hợp nghiêm trọng hơn, liên quan đến những lĩnh vực
nội tâm, xung đột tư duy, trạng thái tâm thần, mà mục đích nhắm
đến là chữa lành hoặc làm giảm nhẹ những rối loạn thiên về thái cực
lâm sàng.
Tâm lý trị liệu tập trung nhiều vào những vấn đề nhức nhối của
quá khứ, những hành vi bệnh lý cần can thiệp bởi những phương
pháp chữa trị như thuốc men, chăm sóc y tế… Sự can thiệp của
chuyên viên như bác sĩ là cần thiết. Kỹ thuật chuyên môn của
chuyên viên tâm lý trị liệu cao, song họ thường không chú trọng
nhiều đến việc tìm hiểu và khám phá cảm xúc, tư duy, và hành vi
của thân chủ - họ thường thiên về những triệu chứng (symptoms)
của thân chủ.
Bác sĩ tâm thần học (psychiatrist) và tâm lý gia lâm sàng
(clinical psychologist) thường là những người có nhiều gắn bó với
tâm lý trị liệu.
Tuy nhiên, nhiều học thuyết trong tư vấn có nguồn gốc từ tâm
lý học, nên ứng dụng của chúng có thể được sử dụng cả trong mơi
tường tư vấn lẫn môi trường tâm lý trị liệu.
Hai tiêu chuẩn đặc trưng giúp phân biệt sự khác nhau giữa tư
vấn và tâm lý trị liệu là:
1. Thời gian kéo dài của quá trình giúp đỡ. Với tâm lý trị liệu,
thời gian kéo dài hơn (20 - 40 cuộc hẹn, xấp xỉ từ 6 tháng đến 2
năm), tập trung vào việc thay đổi lại hệ thống tư duy, vốn dẫn đến
những rối loạn cá tính. Tư vấn cần ít thời gian hơn (8 đến 12 cuộc
hẹn, dưới sáu tháng), tập trung vào q trình xử lý một vấn đề mang
tính tức thời trong sinh hoạt.
2. Địa điểm: tâm lý trị liệu xảy ra trong điều kiện nội trú (ở
bệnh viện có đội ngũ y tá, (bác sĩ chuyên môn), và tư vấn là ở môi
trường ngoại trú.
Tư vấn (counseling): Là một ngành chuyên môn vẫn đang gây
những bàn cãi về một định nghĩa chuẩn của nó. Tuy nhiên vài điểm
sau đây sẽ giúp cho trong quá trình tìm đến một định nghĩa đầy đủ,
dựa theo Gladding (2000).
- Tư vấn là một nghề chuyên nghiệp, đòi hỏi phải có đào tạo
bài bản, có trường lớp.
- Tư vấn tập trung vào trợ giúp về vấn đề sống lành mạnh,
thăng tiến đời sống quan hệ cá nhân, nghề nghiệp, và những quan
tâm thuộc lĩnh vực bệnh lý tinh thần.
- Tư vấn áp dụng với người có khả năng xử lý tốt và cả những
người có vấn đề về rồi loạn tâm thần dạng nhẹ.
- Tư vấn phải dựa trên hệ thống lý thuyết về tư vấn.
- Tư vấn là một quá trình phát triển trên bình diện ngăn ngừa
(prevention) và can thiệp (intervention).
Tư vấn bao gồm nhiều chuyên môn (specialty) khác nhau để
đáp ứng nhu cầu đa dạng của thân chủ.
3. Lịch sử ngành Tư vấn
Dựa vào lịch sử hiện có, ngành Tư vấn ở các nước phát triển là
một ngành tương đối trẻ. Trước những năm 1900, tư vấn chủ yếu là
cho ý kiến, tập trung vào việc cung cấp những phúc lợi nhân đạo căn
bản cho những người kém may mắn trong thời kỳ Cách mạng Công
nghiệp (Industrial Revolution).
Ban đầu, nó được dành riêng cho người trẻ, liên quan đến
những chương trình hướng nghiệp và những bài học đạo đức căn
bản, như làm điều đúng, sống tốt, tránh điều sai, xa lánh điều xấu.
Tư vấn thời gian đầu chủ yếu là cung cấp thông tin và hướng dẫn
giáo dục.
Cần biết, tư vấn và hoạt động của nó là một quá trình (process)
bao gồm những thao tác căn bản cần thiết, vì thế ln có những
thay đổi, tự điều chỉnh, nhằm thích nghi với những yêu cần căn bản
của đời sống xã hội vốn ln có những phát sinh biến chuyển không
ngừng.
Năm 19007, Jesse B. Davis là người đầu tiên thiết lập một cơ sở
hướng dẫn có hệ thống ở tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ. Frank Parson,
người cho xuất bản cuốn Chọn Nghề (1909), một năm sau khi ông
qua đời. Cứ thế, tư vấn từ từ phát triển, trở thành một nghề có mặt
khắp nơi, đóng góp những cơng việc thầm lặng của mình, cống hiến
cho xã hội những hy sinh âm thầm trong công việc giúp đỡ những
con người mệt mỏi và quá tải về mặt đời sống tinh thần.
Riêng ở Việt Nam, chưa có một thơng tin cụ thể nào về điểm
khởi đầu hoạt động chính thức của ngành Tư vấn. Lịch sử phát triển
của ngành Tư vấn ở Việt Nam chưa có một tài liệu nào công bố rõ
ràng về từng bước, từng giai đoạn.
Ngày 18 tháng 2 năm 2006, Hội thảo khoa học quốc gia: Tư
vấn tâm lý - giáo dục lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển đã
được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Đây có thể nói là một hoạt
động tích cực, rất có ý nghĩa đối với những yêu cầu cơ bản, rất bức
xúc của đời sống xã hội hiện nay. Tất cả có hơn 60 bài tham luận
được gửi về đã trình bày rất nhiều ý kiến sôi động, phản ánh được
nhu cầu cấp bách của tư vấn trong bối cảnh bức tranh toàn cảnh.
Dựa vào báo cáo của Hội thảo khoa học quốc gia (2006), tư
vấn tâm lý - giáo dục đã được thực hiện trong nhiều năm gần đây,
trên các địa bàn, đặc biệt là ở các thành phố. (Đinh Phương Duy,
2006). Rồi con số các trung tâm tư vấn cứ lớn dần lên và việc có một
cuộc hội thảo cấp quốc gia như thế có thể nói là một bước nhảy vọt
rất đáng khích lệ.
Một điều đáng chú ý, tư vấn (hay còn gọi là tư vấn tâm lý) là
một ngành phục vụ, đối tượng chủ yếu là con người trong bối cảnh
phát triển của xã hội. Ngành Tư vấn ln có mặt, bám sát với những
thay đổi và phát triển trên mọi bình diện của tất cả những hoạt động
của xã hội.
Đơn cử, theo kết quả nghiên cứu của TS.Trần Thị Giồng, Th.S
Đỗ Văn Bình và 11 đồng nghiệp, ở thành phố Hồ Chí Minh (2003) có
hơn 50 cơ sở tư vấn tâm lý, hoạt động trên các lĩnh vực: Tình u hơn nhân - gia đình, trẻ em và cha mẹ trong gia đình, sức khỏe,
HIV/AIDS, hướng nghiệp, trong đó hơn 60% do cơ quan Nhà nước hay
ban ngành thành lập, phần cịn lại do các hội, tư nhân, tổ chức tơn
giáo… Điều này đã phản ánh được một thực tế: nhu cầu tư vấn là
một nhu cầu rất thực của xã hội Việt Nam ta.
Đây chỉ là một ví dụ lấy từ thực tiền được báo cáo. Cịn chuyện
tư vấn ngồi luồng hoặc tư vấn nghiệp dư luôn tồn tại trong xã hội là
điều tất yếu. Vì tính chun mơn cao của tư vấn, trong lúc điều kiện
đào tạo đội ngũ tư vấn chưa được phát triển ở Việt Nam, tình trạng
tư vấn mạnh ai nấy làm tất nhiên là khó tránh khỏi. Nhưng không
mấy ai nhận thức được rằng, tư vấn nếu làm sai, đôi khi gây hại
nhiều hơn làm lợi, có thể gây ra những tác hại hệ lụy lâu dài.
TS Đinh Phương Duy (2006) đã nêu lên những câu hỏi nóng
bỏng trong hội thảo là:
- Chuyên viên tư vấn và tham vấn có cần được đào tạo bài bản
hay chỉ cần có kinh nghiệm hay một tấm lịng vì người khác?
- Có cần xây dựng một hệ thống lý luận riêng cho tư vấn, tham
vấn tâm lý ở Việt Nam?
Đặc biệt với tổng kết của PGS, TS. Bùi Ngọc Oánh (2006),
những vấn đề được nêu ra đã tạo nên hướng suy nghĩ cho công tác
tư vấn nước nhà:
1. Xây dựng lý luận về công tác tư vấn, khái niệm tư vấn, tham
vấn, tâm lý trị liệu… và sự phối hợp giữa các hình thức trên.
2. Quy trình cơ bản của một ca tư vấn.
3. Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên viên tư vấn.
- Xây dựng các quy định về hoạt động tư vấn.
- Xây dựng các quy chế, quy định về việc thành lập các trung
tâm tư vấn.
- Biên soạn các tài liệu, giáo trình, tài liệu về tư vấn.
- Nghiên cứu việc quảng bá tuyên truyền cho hoạt động tư vấn.
- Nghiên cứu việc định hướng, dự báo kế hoạch phát triển hoạt
động tư vấn trong tương lai, đặc biệt là tư vấn học đường.
Cho đến nay, ở Việt Nam hiện vẫn chưa có hệ thống đào tạo và
có bằng cấp (mang tính đồng bộ) và cấp giấp phép trong lĩnh vực
hoạt động tư vấn. Điều này cũng dễ hiểu, nhất là khi so sánh với các
nước âu Mỹ. Điển hình như ở Hoa Kỳ, mãi đến những năm giữa thập
ký 70 họ mới có hệ thống đào tạo có bằng cấp hoạt động của tiểu
bang.
Virginia là tiểu bang đầu tiên (1976) bắt buộc phải có giấy
phép hành nghề tư vấn. Đến năm 1981, ở Hoa Kỳ mới chính thức có
một hệ thống tiêu chuẩn đào tạo chuyên viên tư vấn có bài bản.
Điều này cho phép chúng ta lạc quan khi nhận định rằng ở Việt Nam,
vấn đề tổ chức và sắp xếp để tư vấn trở thành một ngành chuyên
nghiệp chỉ là vấn đề nhanh hay chậm của thời gian.
4. Những thử thách và xu hướng hiện thời của ngành Tư
vấn
Tư vấn là ngành không ngừng phát triển và tự điều chỉnh để
phù hợp với yêu cầu của xã hội. Hơn lúc nào hết, xã hội đang đối
diện với những thay đổi lớn lao, như tiến trình tồn cầu hóa, bùng nổ
các dịch vụ tư nhân, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đóng góp và
ảnh hưởng của kỹ nghệ thơng tin, đời sống cơng nghiệp hóa, và cả
những vấn đề đạo đức và nhân sinh quan nóng bỏng khác của xã
hội, vốn khó phán đốn trước, chẳng hạn như đơ thị hóa, dân số, sức
khỏe, lương bổng, và những nhu cầu khác ngày càng cao của xã
hội…
Theo GS, TS. Phạm Minh Hạc, Chủ tịch Hội Khoa học Tâm lý
giáo dục Việt Nam: “Giáo dục là phạm trù đi liền với lịch sử tồn tại và
phát triển của loài người, tâm lý nói riêng, tinh thần nói chung là tiêu
chí đặc trưng của từng con người và tồn nhân loại. Ngày nay, nhất
là mấy thập kỷ cuối thế kỷ trước giáo dục và tâm lí con người được
coi là hạ tầng xã hội - hai yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần tạo
nên sự tiến bộ xã hội”.
Như thế, đội ngũ tư vấn viên có thể nói đã nhìn ra được vai trị
của mình trong cơng cuộc xây dựng đất nước và xã hội. Nhất là khi
GS, TS Phạm Minh Hạc vạch ra: "Tư vấn tâm lý - giáo dục ở nước ta
có sứ mệnh vẻ vang là động viên mọi người và toàn xã hội, tạo nên
một vốn xã hội - vốn người tốt cùng nhau đoàn kết, bảo đảm an sinh
xã hội, ổn định xã hội, góp phần tiếp tục đổi mới đất nước, tạo dựng
nên một đất nước độc lập, phồn vinh, mọi người được hưởng các
quyền của con người, của mọi công dân."
5. Kết luận
Với trách nhiệm của một tư vấn viên; chúng ta, những con
người góp phần sức lực khiêm tốn của mình nhưng rất có ý nghĩa với
xã hội. Chỉ khi tìm được ý nghĩa cao cả của công việc hàng ngày mà
mình đang tìm, tư vấn vấn mới có thể bám trụ được với nghề thầm
lặng đầy khó khăn này. Hy vọng mỗi chúng ta sẽ làm tốt, làm đúng,
để xã hội càng ngày càng thêm tin tưởng nhiều hơn vào đóng góp và
tinh thần phục vụ của chúng ta - qua chất lượng huy chương vàng
của nghiệp vụ tư vấn với xã hội.
Xã hội ln ln có những vấn đề đặc trưng mn thuở. Con
người là một sinh thể có liên đới mật thiết trong bức tranh tổng thể
quan hệ trong xã hội. Khơng ai sống một mình được. Hành vi của
một người ln có ảnh hưởng đến người khác. Tất nhiên hành vi tiêu
cực sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực. Hành vi là kết quả của tư duy và cảm
xúc.
Tư vấn viên là người giúp đỡ thân chủ tìm ra chìa khóa trong
ứng xử lành mạnh, tìm đến những hành vi lành mạnh nhất. Chúng ta
được mời gọi vào tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, trong
nghiệp vụ tư vấn của mình, ở một thời điểm đất nước đang đối diện
với những thay đổi rất lớn trong bức tranh tồn cảnh của xã hội tồn
cầu.
Chương 2
MƠ HÌNH CỦA MỘT TƯ VẤN VIÊN LÀM VlỆC CÓ HIỆU QUẢ
Dẫn nhập
Trong tư vấn, yếu tố thành công và chất lượng của quá trình trợ
giúp nằm ở nơi bản thân tư vấn viên là việc rất lớn. Nói khác đi,
khơng có một tư vấn viên làm việc có hiệu quả, có trách nhiệm, dịch
vụ tư vấn sẽ chẳng đem lại bất cứ một tiến bộ khả quan nào.
Không chỉ hạn chế tác dụng hữu ích của tư vấn, một tư vấn
viên yếu nghiệp vụ có thể sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng, về
lâu dài cho thân chủ. Vì thế với người muốn bước vào nghề tư vấn
cần suy nghĩ xem nghề này có thật sự là chọn lựa đúng đắn cho
mình? Riêng với những tư vấn viên đã bước vào nghề, việc duy trì để
giữ mình mãi là một tư vấn viên có hiệu quả là một trong những sứ
mệnh địi hỏi của nghề.
Để trở thành một tư vấn viên tốt, thiết nghĩ mình phải rõ ràng
với bản thân của mình. Theo TS. Trần Thị Giồng (2006): “Chúng ta
không thể cho những gì mình khơng có”. Cũng thế, tư vấn viên
khơng thể giúp cho thân chủ một cách có hiệu quả nếu họ không
chuẩn bị và được đào tạo cẩn thận.
1. Nhân cách và vốn sống của một tư vấn viên
Tư vấn là một nghề địi hỏi phải thành tâm và có tấm lịng cao
cả. Nó thu hút những tâm hồn biết quan tâm, tâm tình cởi mở, thân
thiện và nhạy cảm với nhu cầu giúp đỡ con người. (Myrick, 1997).
Tuy nhiên động cơ và duyên may đến với nghề này của nhiều tư vấn
viên đang hành nghề trong xã hội rất khác nhau. Những ai muốn
gắn bó cuộc đời mình với cơng tác tư vấn phải tự hỏi nếu họ có đủ tố
chất và đam mê; đủ vững mạnh để đối diện với thử thách rất thực tế
của nghề này.
Tóm lại, để trở thành một tư vấn viên tốt, những yêu cầu sau
đây thường được nhắc đến, theo Gladding (2000):
- Nhân cách và vốn sống.
- Giáo dục căn bản của tư vấn viên.
- Học thuyết áp dụng và kiến thức về hệ thống tư duy được sử
dụng trong công tác tư vấn.
- Khả năng tham gia vào những hoạt động liên quan đến công
tác tư vấn (như tham gia hội thảo, diễn đàn, là ủng hộ viên đắc lực
cho ngành, tham gia đào tạo thế hệ tư vấn viên mới, và không
ngừng tiếp tục bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ) - không ngừng tiếp
tục học hỏi.
Theo Carkhuff (1969) tư vấn viên và q trình tư vấn có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến một cá nhân, vì thế nếu tư vấn khơng hiệu quả,
tất sẽ có ảnh hưởng tai hại lâu dài đến thân chủ.
Gladding (2000) đã nói đến nhân cách của một tư vấn viên.
Theo ông, chúng ta nên nhắm đến những tiêu chí căn bản từ một tư
vấn viên: (1) Trưởng thành (2) Biết thông cảm (3) Cởi mở (4) Thành
thực (5) Điềm đạm, khơng dễ nổi nóng.
Tất nhiên khơng phải ai cũng có những đức tính này. Vì thế tư
vấn khơng phải là nghề giành cho tất cả mọi người.
2. Những động cơ tiêu cực lôi kéo người ta vào nghề Tư
vấn
Nhiều người muốn trở thành tư vấn viên với động cơ không
lành mạnh. Họ không hẳn là người xấu, tuy nhiên quyết định đi vào
nghề của họ có ảnh hưởng tiêu cực đến thân chủ và xã hội. Witmer
và Young (1996) nêu ra những động cơ tiêu cực hoặc sai lệch của
một tư vấn viên đã mắc phải trong quá trình muốn trở thành một tư
vấn viên:
- Có vấn đề trục trặc về mặt tình cảm. Khi họ có những khúc
mắc tình cảm chưa được giải quyết từ thời thơ ấu hay trong quá khứ.
- Họ cô đơn và sống thiếu liên đới với xã hội. Họ khơng có bạn
bè và thường mượn q trình tư vấn như một thay thế cho nhu cầu
có bạn bè.
- Tham vọng có quyền lực. Họ là người khơng thành cơng trong
cuộc sống (khơng nhất thiết phải chỉ có nhiều tiền mới là có thành
cơng), vì thế họ mong được kiểm sốt người khác.
- Có nhu cầu tình u. Họ là những người quá yêu bản thân, có
thái độ tự hào thái quá, tin tưởng rằng mọi khó khăn đều có thể giải
quyết được bằng tình u và do chính khả năng của họ. Đây là hội
chứng muốn mình là anh hùng cứu vớt được cả thế giới.
- Họ có thái độ vùng vằng, muốn chống đối cuộc đời một cách
gián tiếp. Họ là người có vấn đề về quan hệ cá nhân nào đó, giải
quyết khơng thoả đáng, nay muốn đem ra để áp đặt lên thân chủ
trong quá trình tư vấn.
- Tìm đến sự an nhàn. Họ nghĩ rằng nghề tư vấn là nghề chỉ
ngồi văn phòng nói chuyện và đếm tiền.
- Tìm danh vọng. Họ tin rằng, làm nghề Tư vấn được xếp vào
một danh mục nghề nghiệp quan trọng, cao quý, lịch sự.
Hiểu sai như thế sẽ hồn tồn thất hại. Đơn giản vì trở thành tư
vấn nên sẽ không đáp ứng được những khát khao của họ như vừa
nêu trên. Trái lại, tác hại của sự thất vọng sẽ trở thành chất độc, phá
huỷ cuộc sống chỉ vì họ có chọn lựa sai lầm. Vì thế, tư vấn cần được
coi như là một tiếng gọi (calling) nhiều hơn là một hứa hẹn vật chất,
địa vị, hay cho những phần thưởng tinh thần, xã hội.
Trước khi quyết định chọn vào nghề Tư vấn, nhiều bạn trẻ đã
băn khoăn nếu như mình có đủ những điều kiện tố chất để vào nghề.
Thật khó xác định cụ thể được điều này. Song, một điều căn bản là
bạn có đặt tiêu chí muốn giúp người khác làm tiêu chí hàng đầu hay
khơng? Nếu bạn chọn nó vì nghề này cũng hay hay, lúc ấy bạn nên
cân nhắc kỹ hơn.
Con người luôn phát triển qua kinh nghiệm sống nên tư duy
thay đổi là lẽ tất nhiên. Không hẳn là nhân cách (personality) của
chúng ta là bất biến. Nhân quan (personal view) và quan niệm về
quan hệ giữa người với người sẽ thay đổi khi chúng ta sống nhiều
hơn. Tuy nhiên, nhân tố bẩm sinh muốn giúp người vẫn là điều đáng
quý nhất.
Nếu hiểu ở một góc cạnh trong tinh thần nhân văn, chúng ta có
thể tin rằng cụ Nguyễn Du đã rất có lý khi nêu lên quan điểm của
ơng: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Truyện Kiều). Nói thế, ta đủ
thấy tầm quan trọng của ý nghĩa nhân văn trong nghề tư vấn.
Dưới đây là những đặc tính cần có của một tư vấn viên hiệu
quả, dựa theo Foster (1996) và Guy (1987):
- Hiếu kỳ (curiosity and inquisitiveness): bộc lộ tinh thần quan
tâm một cách tự nhiên đối với người khác.
- Khả năng biết lắng nghe (ability to listen): biết tập trung theo
dõi một cách sát sao, chú ý đến người khác. Đây là một vốn quý hết
sức cần thiết, vì nó kích thích thân chủ trong việc tham gia tích cực
vào q trình tư vấn. Thân chủ sẽ chán nản khi tư vấn viên khơng có
khả năng lắng nghe tốt.
- Tự nhiên với đối thoại (comfort with conversation): khả năng
tạo sự cởi mở thoải mái, giúp thân chủ tự tin và giảm thiểu căng
thẳng vốn ảnh hưởng đến chất lượng tư vấn.
- Đồng cảm và hiểu biết (empathy and understanding): khả
năng liên hệ mình vào hồn cảnh của người khác, ngay cả chuyện
thân chủ là người khác phái, khác văn hóa, khác biệt về điều kiện
sống, hồn cảnh sống.
- Hiểu biết về tình cảm (emotional insightfulness): khả năng
kiềm chế bản thân, có thể đối diện một cách tự tin với những mức độ
cảm xúc khác nhau từ quá trình tư vấn, trưởng thành vững vàng về
mặt cảm xúc.
- Phản tỉnh táo nội tâm (introspection): khả năng tĩnh tâm để tự
đánh giá bản thân, suy xét nội tâm, từ đó có thể tự phục thiện, hồn
thiện bản thân.
- Khả năng biết quên mình (capacity for self-denial): nghĩ đến
lợi ích của người khác trước, ngay cả trường hợp lợi ích người khác
ảnh hưởng đến lợi ích của bản thân mình.
- Khơng sa ngã trong tình cảm (tolerance of intimacy): khả
năng kiềm chế trong khi tư vấn với thân chủ khác phái, tránh những
cảm xúc thiên về nhục thể thiếu lành mạnh.
- An tâm với năng lực của thân chủ (comfort with power): khả
năng chấp nhận năng lực của thân chủ ở một giới hạn nào đó khi
khơng tiếp cận trực tiếp. Tư vấn viên sẽ không lạm dụng vị trí của
mình để lấn lướt, chỉ thị, hướng dẫn sai lệch.
- Khả năng biết cười (ability to laugh): cần có tính khơi hài
trong những huống trạng éo le của cuộc sống, biết lạc quan và
khơng q gị bó. Ứng dụng tính khơi hài để giảm căng thẳng và
khơi dậy tinh thần lạc quan trong cuộc sống.
Ngoài ra, một tư vấn viên làm việc có hiệu quả cũng cần đến
những khả năng ứng dụng các khám phá khoa học kỹ thuật trong
cơng tác của mình. Họ cần có kiến thức để duy trì cho mình một sự
quân bình về tình cảm. Chính sự cân bằng trong cuộc sống ấy sẽ
giúp họ trở thành tư vấn viên làm việc tốt. Cũng dễ hiểu, một tư vấn
viên khơng có cuộc sống ổn định, anh ta sẽ khơng thể cơng tác tốt
trong q trình tư vấn với thân chủ. Cormiers (1989) đề xuất những
tiêu chuẩn rất cần thiết của một tư vấn viên làm việc có hiệu quả
như sau.
- Năng lực thơng minh (intellecture competence): khả năng và
tinh thần ham học hỏi, lối suy nghĩ nhanh chóng, nhạy bén, sáng
tạo.
- Sức làm việc (energy): khả năng duy trì hoạt động một cách
nhanh nhẹn, tỉnh táo trong suốt các ca tư vấn và với cơ quan mình
cơng tác.
- Khả năng co giãn (flexibility): có thể điều tiết và học hỏi khi
công tác tư vấn yêu cầu.
- Tinh thần động viên (support): khả năng giúp đỡ, động viên
thân chủ trong việc họ tự quyết định và tin tưởng, hy vọng vào cuộc
sống.
- Lịng thiện (goodwill): ln muốn làm việc vì lợi ích của thân
chủ, với tinh thần xây dựng, nhằm giúp thân chủ trong việc duy trì
khả năng độc lập.
- Tinh thần cảnh giác (self-awareness): kiến thức về bản thân,
bao gồm thái độ với cuộc sống, nghề nghiệp, cảm xúc và khả năng
phân biệt là kiểm soát được những nhân tố có ảnh hưởng tiêu cực
trên bản thân.
Tất nhiên tư vấn viên cịn cần có những đức tính khác, tuy nhỏ
bé hơn như trung thành với những tiêu chuẩn cơ bản của phép xử
thế. Song, đế trở thành một tư vấn viên có hiệu quả, bạn cần liên tục
và khơng ngừng hồn thiện bản thân. Can đảm nhìn nhận những
mặt yếu kém để khắc phục. Ý thức được những giới hạn của bản
thân cũng là một đặc trưng quan trọng của một tư vấn viên có trách
nhiệm. Vì khi ta nhận thức được hạn chế, ta sẽ dễ dàng hơn trong
tiến trình tự hồn thiện, gạt bỏ những thiếu sót chủ quan hạn hẹp
của mình.
3. Duy trì để giữ mình là một tư vấn viên làm việc có
hiệu quả
Một tư vấn viên ln có những khó khăn đời thường như tất cả
mọi người trong xã hội. Họ có những trăn trở, đôi khi rất bức xúc và
nan giải. Cuộc sống của họ không hẳn là một cuộc sống bằng phẳng.
Họ cũng vật lộn với những vấn đề gay cấn như: bệnh tật: cuộc sống,
nghề nghiệp, tình cảm, tài chính, gia đình…
Tất nhiên những nan đề này, khơi hài một chút, lại là chất liệu
giúp một tư vấn viên xây dựng khả năng đồng cảm với thân chủ tốt
hơn. Nói khác đi, kinh nghiệm song sẽ giúp họ đồng cảm hơn với
những nan đề trong cuộc đời của những thân chủ. Nói thế, khơng có
nghĩa là kinh nghiệm xử lý của tư vấn viên sẽ áp dụng được cho mọi
cá nhân khác. Nên nhớ, kinh nghiệm của tư vấn viên chỉ mang tính
chia sẻ, tham khảo, hồn tồn khơng phải là cơ sở cho lời khuyên
hay cung cấp giải pháp cho thân chủ.
Một tư vấn viên tốt ln đón nhận những khó khăn trong cuộc
sống như bài học kinh nghiệm. Họ giữ vững lập trường, sống khách
quan và đối diện khó khăn với tinh thần trách nhiệm. Với họ, thất bại
và thành cơng đều có tính giáo dục trong đó. Vì thế họ có thể nhìn
thấy, đồng cảm và giúp thân chủ tìm ra những giá trị tích cực trong
cuộc sống.
Một bạn trẻ muốn trở thành một tư vấn viên, trước hết bạn cần
phải hiểu rõ bạn cần từ bỏ và đón nhận một cách có chọn lọc để giữ
cho bản thân được trong sáng, trung lập.
Với tư vấn viên, thân chủ hồn tồn có lý do riêng của họ về
những hành vi và ứng xử. Tư vấn viên có nhiệm vụ chí rõ ra những
hành vi và ứng xứ của thân chủ sẽ có những ảnh hưởng nào đến
người khác. Như thế, thân chủ sẽ nhìn thấy hành vi và ứng xử của họ
cần được thay đổi để họ biết chấp nhận bản thân họ và tiếp cận với
người khác một cách có hiệu quả hơn.
Để giữ cho mình ln cân bằng, những biện pháp phịng ngừa
xem ra rất cần thiết. Tình trạng q tải thường (overload) là một vấn
đề phổ biến. Tình trạng quá tải có thể hiểu rằng như những mệt mỏi
về cả mặt tinh thần và thể xác. Khi quá tải, tư vấn viên sẽ khơng cịn
tỉnh táo và minh mẫn trong cơng tác nữa. Để tránh tình trạng này, tư
vấn viên cần có những thú vui trong sáng lành mạnh khác ngồi
phạm vi nghề nghiệp của mình. Tìm cho mình những giải trí lành
mạnh. Các tác giả Bay và Pine (1980), Pines và Aronson (1989),
Savicki và Cooley (1982), Watkins (1983) có vài gợi ý dưới đây giúp
tư vấn viên tránh tình trạng quá tải:
- Quan hệ với những cá nhân khác (bạn bè, đồng nghiệp…) có
đời sống lành mạnh.
- Cơng tác và quan hệ với những cơ quan tổ chức có tiêu chí
làm việc tích cực.
- Ln giữ chừng mực tương đối với những học thuyết trong tư
vấn mình áp dụng. Tránh lún ngập quá sâu trong lý thuyết.
- Tận dụng tập thể dục để giảm căng thẳng (chạy bộ, tập yoga,
dưỡng sinh…).
- Cố gắng điều tiết bản thân sao cho phù hợp với môi trường
gây ra căng thẳng, tránh những môi trường gây ra căng thẳng.
- Tự đánh giá bản thân, nhằm tìm nguồn tác nhân gây ra
những căng thẳng, để có biện pháp thích hợp.
- Thường xun đánh giá lại quan điểm nghiệp vụ, vai trò
nghiệp vụ, mong đợi của chính mình, niềm tin và triết lý của mình
trong quá trình theo nghề.
- Tìm đến tư vấn viên khác, nếu có nhu cầu.
- Giữ gìn khoảng cách, khơng nên liên hệ q sâu với nan đề
của thân chủ, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của tư vấn
viên. Tránh đem nan đề của thân chủ về nhà.
- Luôn giữ thái độ lạc quan, yêu mến cuộc sống.
Một tư vấn viên hiệu quả sẽ giữ cho hệ tình cảm của mình được
ổn định, cân bằng, và khách quan. Họ cần cảnh giác và luôn sống
với những mặt mạnh và cả những hạn chế của mình một cách thực
tế. Đó là lời khuyên của Auvenshine và Noffsinger (1984).
4. Đào tạo căn bản cho một tư vấn viên
Ta vẫn thấy nhiều tư vấn viên làm việc có hiệu quả mà khơng
qua đào tạo trường lớp kiến thức về quá trình phát triển của con
người và kiến thức về tư vấn. Để quyết định xem mức độ cần thiết
về đào tạo như thế nào là đủ, thiết nghĩ nên xem đến mức độ quan
hệ giữa hai người trong quá trình tư vấn.
Tạm thời, ba cấp độ của quan hệ trợ giúp gồm: không chuyên bán chuyên nghiệp - chuyên nghiệp. Mỗi cấp độ đòi hỏi một trình độ
đào tạo khác nhau.
Với cấp độ chuyên nghiệp, ca tư vấn thường được hẹn trước,
chủ yếu là tìm giải pháp cho nan đề. Thân chủ trong tư vấn chuyên
nghiệp rõ ràng mong đợi kết quả từ quá trình tư vấn.
Với cấp độ khơng chun, ca tư vấn thường khơng có giờ hẹn
nhất định, quan hệ tư vấn chỉ là quan hệ phụ, thân chủ thường
khơng có mong đợi kết quả cụ thể. Nói chung tư vấn theo kiểu tiện
đâu làm đó.
Cấp độ bán chuyên, các điểm vừa nêu trên nằm ở khoảng giữa.
Không chuyên: ở cấp độ không chuyên, người cung cấp tư
vấn thường là bạn bè, đồng nghiệp, những người không qua đào tạo
căn bản trường lớp, những người thiện nguyện, hoặc những người có
lịng vì người khác. Họ cũng có những kiến thức và kinh nghiệm nhất
định - nhưng thiếu hẳn kinh nghiệm tư vấn và kiến thức tư vấn. Cần
biết có kinh nghiệm sống và khả năng tư vấn là hai lĩnh vực rất khác
nhau.
Bán chuyên nghiệp: Ở cấp độ này, người cung cấp tư vấn có
những kiến thức được huấn luyện về đặc điểm tính năng trong quan
hệ giữa con người. Họ là những người làm việc như cảnh sát, y tá,
thầy cô giáo, nam nữ tu sĩ… Họ thường làm việc như: một bộ phận
liên ngành, không hoạt động riêng biệt, hoặc độc lập như một tư vấn
viên. Họ thường làm việc trong những mơi trường có liên hệ đến dịch
vụ tư vấn, song họ làm việc dưới sự giám sát bởi chuyên viên cao
hơn.
Chuyên nghiệp: Ở cấp này, chuyên viên được đào tạo chuyên
môn về cả hướng dẫn đề phòng và can thiệp trị liệu. Họ là những
người có chun mơn và học vị tùy theo chun ngành. Họ là bác sĩ
tâm thần, tâm lý gia, chuyên viên tâm lý nhân viên cộng đồng, linh
mục, sư ni… Thông thường trong quá trình đào tạo, những chuyên
gia này trải qua thời gian thực tập sinh hoặc có kinh nghiệm thu
thập được trong lĩnh vực chuyên môn của họ.
Những chuyên môn riêng trong tư vấn
Mỗi chuyên ngành trong xã hội đều có riêng những chương
trình đào tạo chun biệt. Tư vấn là một ngành độc lập cũng có
những đào tạo nhằm giúp các tư vấn viên trao đổi, liên lạc, và cộng
tác trên bình diện phục vụ mục đích chung trong ngành. Thường thì
tư vấn viên liên hệ nhiều nhất với bác sĩ tâm lý học, tâm lý gia, và
nhân viên cộng đồng.
Bác sĩ tâm thần học (psychiatrist): Là người có học vị bác sĩ,
họ trải qua đào tạo có thực tập trong bệnh viện tại khoa tâm thần
học. Họ làm việc với những bệnh nhân có vấn đề tâm lý nghiêm
trọng. Họ có quyền ghi toa thuốc và thực hiện những phương pháp
trị liệu trong bệnh viện. Thân chủ của họ được gọi là bệnh nhân. Ở
Hoa Kỳ, họ phải có giấy phép hành nghề của quốc gia và tiểu bang.
Tâm lý gia (psychologist): Hay còn gọi nhà tâm lý, họ tốt
nghiệp với học vị tiến sĩ (Ph.D). Q trình đào tạo với chương trình
thực tập có thể ở nhưng trung tâm trị liệu, trường học, hay những
trung tâm trị liệu ngoại trú. Ở Hoa Kỳ, mỗi tiểu bang có những quy
chê riêng đối với việc cấp giấy phép hành nghề cao tâm lý gia. Trong
quá trình đào tạo, chương trình học chú trọng đến những khối môn
học: khoa học cơ bản, đạo đức nghề nghiệp, nghiên cứu, phương
pháp, thống kê, tâm lý thử nghiệm, sinh học trong hành vi, hành vi
với tư duy – cảm xúc, hành vi từ xã hội, hành vi cá nhân, căn nguyên
bệnh lý, những vấn đề liên quan.
Nhân viên cộng đồng xã hội (social worker): Thường tốt
nghiệp cao học (Master's Degree), hoặc cử nhân (Bachelor). Họ thực
tập chủ yếu ở những trung tâm cộng đồng xã hội. Một số làm việc tại
những trung tâm của ban ngành trực thuộc nhà nước. Phần cịn lại,
họ cơng tác như những tư vấn viên.
Giáo dục bắt buộc trong tư vấn chuyên nghiệp
Để trở thành một tư vấn viên chuyên nghiệp, những sinh viên ở
Hoa Kỳ phải hồn tất chương trình cao học 2 năm với ít nhất 48 tín
chỉ (semester hours). Nhân viên tư vấn sức khỏe tâm thần được yêu
cầu hoàn thành 60 tín chỉ, cũng giống như các tư vấn chun mơn
khác như, tư vấn hơn nhân gia đình, tư vấn cho người nghiện…
Theo ủy ban tiêu chuẩn đào tạo cho tư vấn và giáo dục Hoa Kỳ
(CACREP, 1994), giáo dục đào tạo bắt buộc cho tư vấn viên bao
gồm:
1. Chương trình học cho cao học (master's degreee) tư vấn bắt
buộc gồm 8 khối mơn học:
(1) Tiến trình phát triển của con người.
(2) Căn bản về văn hóa và xã hội.
(3) Quan hệ trong tư vấn.
(4) Tư vấn cho nhóm.
(5) Thúc đẩy lối sống lành mạnh và tư vấn nghề nghiệp.
(6) Đánh giá chất lượng chương trình.
(7) Nghiên cứu và thẩm định chương trình.
(8) Căn bản chuyên nghiệp trong nghề Tư vấn.
2. Thực tập (practicum) trong mơi trường có giám sát trực tiếp
1 giờ trên tuần và 1.5 giờ với giáo sư, tổng cộng 100 giờ.
3. Thực tập sinh (internship) yêu cầu 600 giờ dưới sự giám sát
của chuyên viên, ngay sau khi hoàn tất thực tập 100 giờ
(practicum), như nêu ở trên.
4. Mỗi trường đại học cung cấp đào tạo tư vấn viên cần có ít
nhất 3 giáo sư thường trực tại Ban tư vấn giáo dục khoa Tư vấn.
5. Lý thuyết và hệ thống căn bản áp dụng bởi tư vấn
viên
Học thuyết (theory), theo định nghĩa, là một mơ hình, giải thích
cặn kẽ nghiệp vụ và thao tác của một tư vấn viên trong quá trình
đặt giả thiết về nguồn gốc của một vấn đề và từ đó có giải pháp cho
vấn đề đó. Nói chung học thuyết trong tư vấn sẽ giúp tư vấn viên
liên hệ được nan đề của thân chủ trong bối cảnh đa diện của cuộc
sống.